Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số biện pháp quản lí hoạt động tự học của học sinh trường THCS dân tộc nội trú thạch thành đạt hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.99 MB, 22 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Một số biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh
ở trường THCS Dân tộc nội trú Thạch Thành đạt hiệu quả
1. Mở đầu:
1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong thời đại khoa học công nghệ cao hiện nay, chất lượng giáo dục
hướng tới con người phát triển toàn diện là yêu cầu cấp thiết. Đó là con người
năng động, độc lập, sáng tạo, có lòng ham hiểu biết, có năng lực tự học, biết vận
dụng linh hoạt kiến thức vào thực tiễn cuộc sống. Để có những con người như
vậy phải được bắt đầu từ phương pháp học tập, cách suy nghĩ độc lập từ cấp
THCS, được sự dẫn dắt của thầy cô trong môi trường giáo dục mà học sinh là
trung tâm.
Lê-nin từng nói: "Học, học nữa, học mãi". Câu nói đó luôn có giá trị ở mọi
thời đại, đặc biệt trong xã hội ngày nay đang hướng tới nền kinh tế tri thức, nó
đòi hỏi mọi người phải vận động để theo kịp sự phát triển của xã hội. Chính vì
vậy mà việc tự học có vai trò vô cùng quan trọng. Nhiều vĩ nhân cũng bằng con
đường tự học đã làm nên những thành tựu vĩ đại cho nhân loại.
Như chúng ta đã biết, tự học là một thuộc tính vốn có của con người. Hoạt
động tự học là một hoạt động quan trọng trong quá trình nhận thức của con
người nhằm chiếm lĩnh tri thức của loài người và khám phá ra các quy luật khoa
học, ôn luyện, củng cố, khắc sâu, mở rộng kiến thức cho người học, chính vì vậy
hoạt động tự học phải được định hướng, tổ chức, quản lý có phương pháp đối
với học sinh: “Về cách học phải lấy tự học làm cốt”1. “Phương pháp giáo dục
phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh;
phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự
học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh”2.
Trường THCS Dân tộc nội trú Thạch Thành là loại hình trường chuyên biệt
dành riêng cho con em dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh vùng cao trong huyện
học tập. Học sinh dân tộc thiểu số với những đặc trưng riêng như khả năng nhận


thức và tiếp thu kiến thức còn chậm. Chất lượng đầu vào chưa được như mong
muốn (không thi tuyển, chỉ xét tuyển theo quy định). Hiện tại học sinh ở nội trú
ý thức tự học chưa cao, có tính chất đối phó, chưa xây dựng được nề nếp, chưa
xây dựng được động cơ học tập, có nhiều học sinh lười học. Trong khi đó, việc
tự học, tự đào tạo là hình thức để phát huy nội lực vươn lên trong quá trình cập
nhật kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội
là một đòi hỏi tất yếu trong thời đại “kinh tế tri thức” của chúng ta ngày nay.
Vấn đề đặt ra cần phải hình thành ý thức tự học cho học sinh một cách tự giác và
được quản lý chặt chẽ, đưa vào nề nếp, đầy đủ, mạnh mẽ cho học sinh. Từ đó
học sinh có thể tự giác tự học, có ý thức tự học suốt đời cần phải có các biện
pháp quản lý tự học của học sinh.
1
2

X.Y.Z, 2008, Sửa đổi lối làm việc, tái bản lần thứ 3, Nxb. Trẻ, tr. 68.
Khoản 2, Điều 28, Luật giáo dục 2005.

1


Để nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường, xuất phát tự thực tế công
tác quản lí, tôi lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp quản lý hoạt động tự học của
học sinh trường THCS Dân tộc nội trú Thạch Thành đạt hiệu quả” để nghiên
cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Góp phần làm rõ thực trạng quản lý hoạt động tự học ở trường THCS Dân
tộc nội trú Thạch Thành để đề xuất một số biện pháp tăng cường công tác quản
lý hoạt động tự học đối với học sinh nội trú, nhằm góp phần nâng cao chất lượng
và hiệu quả giáo dục, dạy học của nhà trường.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:

- Công tác quản lí việc tự học của học sinh tại trường THCS Dân tộc nội trú
Thạch Thành.
- Học sinh trường THCS Dân tộc nội trú Thạch Thành trong hai năm học
2016-2017 và 2017-2018.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: nghiên cứu một số vấn đề lí luận về
quản lí giáo dục, về hoạt động dạy học, các văn kiện của Đảng, Luật giáo dục và
các văn bản chỉ đạo của ngành có liên quan đến hoạt động tự học.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: tổng hợp thống kê, phân tích các số
liệu về thực trạng. Điều tra, quan sát, kết luận.
2. Nội dung.
2.1. Cơ sở lí luận.
Phương pháp dạy học tích cực là phương pháp nhằm đề cao vai trò tự giác,
tích cực, độc lập nhận thức của người học dưới vai trò tổ chức, định hướng của
người dạy, hướng tới tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là
tập trung phát huy tính tích cực của người học chứ không chỉ tập trung hoạt
động tích cực của người dạy.
Tự học là quá trình người học tự mình động não suy nghĩ, sử dụng các năng
lực trí tuệ cùng các phẩm chất của mình để lĩnh hội những kinh nghiệm, kiến
thức một cách chủ động, tự giác, linh hoạt nhằm không ngừng nâng cao vốn
hiểu biết và phát triển nhân cách của bản thân. Trên cơ sở đó, kiến thức trở nên
hiểu sâu, nhớ lâu, vận dụng thuần thục và linh hoạt.
Có các hình thức tự học như sau: Tự học theo nhu cầu cá nhân; tự học dưới
sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên; tự học dưới sự hướng dẫn trực tiếp của
giáo viên. Với các yêu tố chi phối khác nhau đến hoạt động tự học như động cơ
học tập của người học, năng lực tự học, khả năng nhận thức, lập kế hoạch tự
học, phương pháp tự học, nhà trường, gia đình, môi trường xã hội..
Trong thời đại công nghệ thông tin và kinh tế tri thức hiện nay, mỗi con
người cần biết định hướng cho bản thân phương pháp học và tự học để nâng cao
hiệu quả học tập và hình thành khả năng tự học, tự sáng tạo trong thực tiễn. Các

nhà giáo dục tiên tiến đã khẳng định: Hoạt động tự học đóng một vai trò to lớn
trong quá trình trau dồi tri thức của người học. Chính việc tự học tạo nên sự
chuyển hóa về nhận thức và nhân cách cho người học. Đối với người học, tự học
chính là quá trình hoàn thiện bản thân. Việc tự học của học sinh trong nhà
trường góp phần quan trong trong việc nâng cao chất lượng toàn diện của nhà
2


trường. Điều đó, đồng nghĩa với việc tự học cũng góp phần thúc đẩy sự phát
triển và tiến bộ của xã hội.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Trường THCS Dân tộc nội trú Thạch Thành thuộc hệ thống trường chuyên
biệt, thực hiện nhiệm vụ quan trọng là chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục học sinh
là con em đồng bào dân tộc, góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho đồng bào
vùng dân tộc thiểu số của địa phương. Trường được chính thức thành lập ngày
11 tháng 11 năm 1999. Trong quá trình xây dựng và phát triển theo đường lối
của Đảng về đổi mới Giáo dục, đặc biệt sau khi có Nghị quyết số 29-NQ/TW
Trung ương 8 khoá XI – Nghị quyết “về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, được sự quan
tâm của Huyện uỷ, UBND, Phòng GD&ĐT, cùng với sự nỗ lực phấn đấu không
ngừng của đội ngũ CBGVNV, nhà trường đã nhiều năm liên tục đạt danh hiệu
tiên tiến xuất sắc cấp huyện, cấp tỉnh. Học sinh nhà trường ngoan ngoãn, hiền
lành, đa phần là chăm chỉ học tập và rèn luyện. Các em được sự ưu đãi đặc biệt
về chế độ của Nhà nước, sinh hoạt, học tập tập trung tại trường, trong tuần,
trong tháng không có sự quản lí trực tiếp của cha mẹ, chỉ nhờ vào sự quản lí của
thầy cô giáo, tổ quản lí học sinh của nhà trường. Ngoài những khó khăn chung
về lứa tuổi, các em còn gặp nhiều khó khăn trong học tập, sinh hoạt.
Trước đây, hoạt động tự học của HS chủ yếu được tổ chức tự quản theo lớp,
có sự quản lí của giáo viên trực. Thời gian tự học tập trung chủ yếu vào các buổi

tối từ thứ 2 đến thứ 6 hằng tuần cho toàn thể học sinh nội trú. Các buổi chiều từ
thứ 4 đến thứ 6 không có thời khóa biểu chính khóa và các tiết trống do giáo
viên đi công tác hoặc nghỉ ốm mà nhà trường chưa kịp bố trí. Các thành viên
trong lớp tự học cá nhân để giải bài tập, học các nội dung tham khảo nâng cao
kiến thức theo mục đích cá nhân, hoặc theo cách trao đổi nhóm nhỏ nhưng rất ít
vì sợ lớp ồn, mất điểm thi đua. Buổi tối, tự học theo yêu cầu môn học trong thời
khóa biểu của ngày hôm sau. Nề nếp tự học do học sinh thống nhất tự quản trên
cơ sở yêu cầu, hướng dẫn của nhà trường. Học sinh cố gắng giải quyết các nội
dung học tập theo yêu cầu của giáo viên bộ môn và tăng cường luyện tập và thảo
luận bài khó.
Ngoài ra, nhà trường còn khuyến khích học sinh tự ôn bài vào sau giờ tự
học tập trung trên lớp và các buổi sáng sớm trước khi lên lớp. Khuyến khích học
sinh giỏi tự giác lập kế hoạch tự học chuyên sâu các nội dung học tập vào các
thời gian khác (ngày nghỉ, giờ nghỉ, thứ bảy, chủ nhật).
Khó khăn, hạn chế:
* Cán bộ quản lý và giáo viên:
- Việc quản lí hoạt động tự học của nhà trường còn một số lúng túng, chưa
thật sự khoa học, chưa đều tay, thiếu sâu sát. Tổ quản lí học sinh (cũng là do
giáo viên trực thực hiện) việc thực hiện quản lí nề nếp tự học chưa có chất lượng
tốt, chưa có nhiều biện pháp thúc đẩy việc tự học của học sinh.
- Giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm lớp, giáo viên trực quản lí tự học:
Nhận thức đúng về vai trò của việc tự học đối với học sinh nhưng hoạt động
chưa thống nhất, chưa đồng đều, chưa phát huy hết năng lực chuyên môn và khả
3


năng quản lí học sinh trường chuyên biệt. Một số giáo viên còn nương nhẹ, thiếu
kiên quyết đối với những trường hợp học sinh có biểu hiện lười học, vi phạm nội
quy trường lớp (thuộc lớp mình chủ nhiệm).
* Về học sinh:

Học sinh dân tộc nội trú ăn, ở tập trung tại trường, nhận thức về tự học và
chấp hành đúng các quy định tự học của từng học sinh chưa thật đầy đủ. Đa số
có nhận thức đúng về yêu cầu của việc tự học nhưng lại không cầu tiến, thiếu nỗ
lực, nên kết quả học tập chưa cao. Việc tự học của học sinh còn mang tính thụ
động, khi có hiệu lệnh thì vào lớp và ra chơi; lên lớp, nghỉ ngơi (có khi nhiều em
chỉ mong có hiệu lệnh là ùa ra khỏi lớp để chạy nhảy, đùa nghịch...). Việc học
bài cũ và chuẩn bị bài mới cho ngày hôm sau lên lớp nhiều khi còn mang tính
chất đối phó, chưa chủ động sáng tạo để tự học nâng cao kiến thức và kỹ năng.
Có nhiều học sinh lúng túng, thiếu bài tập hoặc không thuộc bài cũ vào ngày học
hôm sau nên bị điểm yếu, kém. Nói chung, các em chưa có kế hoạch và phương
pháp tự học tốt.

Học sinh nội trú tự học, tự quản

Học sinh nội trú tự học, tự quản buổi tối

Việc tự học ở các đối tượng học sinh có sự khác nhau. Đối tượng học sinh
yếu, trung bình chỉ học theo hướng dẫn của giáo viên bộ môn và làm bài tập

4


trong sách giáo khoa, nhưng việc làm bài tập còn mang tính chất đối phó; đối
tượng học sinh khá, giỏi có tìm hiểu thêm kiến thức mở rộng nhưng còn hạn chế
cả về số lượng và chất lượng. Từ đó, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng đại trà
và chất lượng học sinh giỏi các cấp hằng năm.
- Hoạt động của Đoàn – Đội – Hội: tổ chức Chi đoàn thanh niên hoạt động
chưa năng động nên tác dụng chưa cao. Hoạt động Đội đã có phần tích cực
nhưng mới chỉ dừng lại ở việc ghi chép, phản ánh, nhắc nhở, đôi khi còn có hiện
tượng bao che lẫn nhau, chưa thuyết phục được tính tự giác của HS.

* Chất lượng đại trà những năm học trước:
Năm học

Giỏi

Khá

Học lực
TB

Yếu

Kém

Tốt

Hạnh kiểm
Khá
TB

Yếu

2015-2016
30
135
64
2
0
201
30

0
0
(231 HS)
2016-2017
30
136
58
2
0
209
17
0
0
(226 HS)
*Chất lượng HSG các môn văn hóa các cấp hằng năm: số giải đạt được:
Năm học
Cấp huyện
Cấp tỉnh
Cấp quốc gia
Ghi chú
2015-2016
31
3
0
(231 HS)
2016-2217
Giải môn khác
32
1
0

(226 HS)
cấp tỉnh: 6 giải.

2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Năm học 2017-2018, trường THCS Dân tộc nội trú Thạch Thành có 222
học sinh với 8 lớp trong đó học sinh ở nội trú 150 em. Trường có 18 giáo viên, 2
nhân viên và 01 cán bộ quản lý. Học sinh của trường đa số là người dân tộc
Mường, Thái, Tày, Nùng, dân tộc Kinh cư trú lâu dài ở vùng có điều kiện kinh tế
xã hội đặc biệt khó khăn... Phần lớn các em ngoan, chăm học nhưng cũng có
một phần học yếu.
Nhà trường còn thiếu cán bộ quản lí so với quy định của trường chuyên
3
biệt . Bản thân là Phó hiệu trưởng phụ trách nhà trường. Không có Hiệu trưởng,
thiếu 1 Phó hiệu trưởng. Đến tháng 4 năm 2018, mới được bổ nhiệm chức danh
Hiệu trưởng, nhưng lại thiếu 2 Phó hiệu trưởng. Bên cạnh đó, nhà trường còn
thiếu nhân viên làm công tác nội vụ quản lí học sinh.
Đội ngũ GV, CBCNV còn trẻ, nhiệt tình nhưng còn thiếu kinh nghiệm đối
với công tác giúp đỡ học sinh trong việc tự học. Tâm lý lứa tuổi, môi trường
sinh hoạt thay đổi,... cũng ảnh hưởng nhiều đến chất lượng học tập của học sinh.
Với những thuận lợi và khó khăn như trên, bản thân tôi đã nỗ lực nghiên
cứu các biện pháp tổ chức quản lí nhà trường như thế nào để có kết quả cao
nhất, trong đó đã áp dụng những biện pháp như sau để quản lí có hiệu quả hoạt
động tự học của học sinh trường THCS dân tộc nội trú:
2.3.1. Giáo dục nhận thức về tự học.
Cuộc sống luôn vận động và phát triển không ngừng. Nó đòi hỏi con người
phải vận động để theo kịp sự phát triển của xã hội. Đối với học sinh, học có thầy
Thông tư 01/2016/TT-BGD&ĐT ngày 15 tháng 1 năm 2016 của Bộ Giáo dục và đào tạo, ban hành
kèm theo Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú.
3


5


cô hướng dẫn để tiếp thu kiến thức cơ bản và nhất là việc tự học để mở rộng,
nâng cao kiến thức có vai trò vô cùng quan trọng.
“Tự học- là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan
sát, so sánh, phân tích, tổng hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công
cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan,
thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó,
ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn
thành thuận lợi...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại,
biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”4.
Tự học là ý thức tự rèn luyện tích cực để thu nhận kiến thức và hình thành
kỹ năng cho bản thân.
Quá trình tự học cũng có phạm vi khá rộng: khi nghe giảng, đọc sách hay
làm bài tập, cần tích cực suy nghĩ, ghi chép, sáng tạo nhằm rút ra những điều
cần thiết, hữu ích cho bản thân. Tự học cũng có nhiều hình thức: có khi là tự
mày mò tìm hiểu theo nhu cầu cá nhân, tự học có sự hướng dẫn gián tiếp của
giáo viên hoặc có sự chỉ bảo, hướng dẫn trực tiếp của thầy cô giáo… Dù ở hình
thức nào thì sự chủ động tiếp nhận tri thức của người học vẫn là quan trọng nhất.
Trước hết, Ban giám hiệu nhà trường phải nhận thức rõ vai trò, ý nghĩa
quan trọng của việc tự học đối với mỗi người nói chung và học sinh dân tộc nội
trú đặc thù nói riêng.
Vào đầu mỗi năm học, khi tổ chức quán triệt nhiệm vụ năm học, bên cạnh
những nhiệm vụ chung của cấp học, của ngành, cán bộ quản lí cần nhấn mạnh
thêm nội dung đặc thù của trường chuyên biệt là quản lí hoạt động tự học của
học sinh tại trường. Đây là nhiệm vụ của giáo viên – chủ thể trực tiếp thực hiện
các nhiệm vụ giáo dục và dạy học. Để tổ chức thực hiện hoạt động tự học cho
học sinh, giáo viên cần được quán triệt sâu sắc, nhận thức đầy đủ, nắm chắc vai
trò và ý nghĩa của hoạt động tự học trong nhà trường. Giáo viên bộ môn, giáo

viên chủ nhiệm cũng cần tận dụng thời gian để tuyên truyền cho học sinh về vai
trò của việc tự học tại trường THCS Dân tộc nội trú một cách khoa học.
Đối với học sinh – chủ thể thực hiện hoạt động tự học, kể cả học sinh đầu
cấp lớp 6, các em cần được tuyên truyền để có những hiểu biết đầy đủ về vai trò,
ý nghĩa của tự học. Thông qua các giờ tự học, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp, phong trào thi đua... các em có được nhận thức đầy đủ và thay đổi tác phong
học tập, hình thành được thói quen học tập tích cực, hiệu quả. Điều này đồng
nghĩa với việc hoạt động tổ chức và quản lí tự học của nhà trường phải được học
sinh thừa nhận. Việc thừa nhận đó không chỉ tồn tại trong nhận thức mà còn
được thể hiện bằng các hoạt động cụ thể trong việc khắc phục những khó khăn
trong học tập, vươn lên để có thành tích học tập tốt hơn. Như vậy, học sinh sẽ có
những nhận thức đúng về việc tự học, có ý thức vươn lên, có thái độ tích cực
trong tự học. Bên cạnh đó còn rèn cho học sinh sự nghiêm túc, trách nhiệm, tính
khiêm tốn, độc lập, tự chủ, kỹ năng tự học phù hợp... trong học tập. Trang bị cho
học sinh những kỹ năng giúp các em hòa đồng trong việc tổ chức tự học của nhà
trường, tự học có phương pháp.
4

Theo Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Cảnh Toàn.

6


Sinh hoạt dưới cờ đầu tuần, phổ biến công tác tự học cho HS DTNT

Đối với cha mẹ học sinh: Ban giám hiệu nhà trường, giáo viên bộ môn, giáo
viên chủ nhiệm lớp cần tuyên truyền để gia đình học sinh có nhận thức đầy đủ,
tích cực về vai trò và ý nghĩa của việc tự học đối với con em mình để thực hiện
đầy đủ vai trò, trách nhiệm trong việc động viên, tạo điều kiện cho con em trong
học tập.

2.3.2. Quản lí việc lập kế hoạch tổ chức hoạt động tự học.
Để tổ chức hoạt động tự học một cách hiệu quả, cần phải có kế hoạch khoa
học, sát thực tế. Việc xây dựng kế hoạch cần được tập trung chỉ đạo xây dựng và
thực hiện từ cán bộ quản lí đến giáo viên và học sinh.
Đối với bất kì ai muốn việc học thật sự có hiệu quả thì mục đích, nhiệm vụ
và kế hoạch học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng. Trong đó kế hoạch phải
được xác định với tính hướng đích cao. Tức là kế hoạch ngắn hạn, dài hơi thậm
chí từng môn, từng phần phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời
điểm từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình.
Vấn đề kế tiếp là phải chọn đúng trọng tâm, cái gì là cốt lõi là quan trọng để ưu
tiên dành thời gian công sức cho nó. Nếu việc học dàn trải thiếu tập trung thì
chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Sau khi đã xác định được trọng tâm, phải sắp
xếp các phần việc một cách hợp lí logic về cả nội dung lẫn thời gian, đặc biệt
cần tập trung hoàn thành dứt điểm từng phần, từng hạng mục theo thứ tự được
thể hiện chi tiết trong kế hoạch. Điều đó sẽ giúp quá trình tiến hành việc học
được trôi chảy thuận lợi.
Để quá trình thực hiện hoạt động tự học đạt được mục tiêu đề ra thì công
tác chỉ đạo hướng dẫn học sinh nội dung và hình thức tự học là rất cần thiết.
Trên cơ sở đó, cán bộ quản lí, giáo viên tổ chức giao nhiệm vụ học tập, tư vấn
cách học tập hiệu quả cho các em, giúp các em phát huy đầy đủ vai trò chủ thể,
tự giác tích cực trong tự học. Xây dựng bầu không khí tự học tích cực ở mỗi lớp
và phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trên cơ sở tôn trọng
nhu cầu chính đáng của người học.
- Ban giám hiệu giao nhiệm vụ cho giáo viên chủ nhiệm kết hợp với giáo
viên bộ môn tổ chức thảo luận và hướng dẫn học sinh lập kế hoạch tự học để
nâng cao tính chủ động của học sinh, phù hợp nhu cầu tự học của các em và nhu
cầu phấn đấu đạt chỉ tiêu của bản thân học sinh.
- Giáo viên chủ nhiệm xây dựng kế hoạch phân loại học sinh, phân công
các nhóm học tập, nhóm tự học tự quản, mỗi nhóm ít nhất có 1 cán sự môn học.
7



Trong nhóm có các đối tượng học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu để các em giúp
đỡ nhau trong học tập. Việc xây dựng kế hoạch tự học phải dựa vào thời khóa
biểu chính khóa, thời khóa biểu bồi dưỡng học sinh giỏi của nhà trường để thực
hiện cho hợp lí.
- Việc xây dựng kế hoạch tự học của học sinh phải cụ thể đối với từng môn,
từng buổi học. Không thể thích môn nào học môn đó một cách tự tiện. Riêng
học sinh giỏi tham gia các đội tuyển, các em có thể có những kế hoạch riêng để
mở mang kiến thức, nhưng phải được giáo viên bộ môn phê duyệt, quản lí.
- Việc tự học của học sinh đại trà cụ thể là học bài cũ, làm bài tập sách giáo
khoa, chuẩn bị bài học cho ngày mai. Đối với học sinh khá, giỏi, các em làm
những bài tập nâng cao, mở rộng theo yêu cầu của giáo viên bộ môn.
- Quản lý nội dung tự học của học sinh: Đây là hoạt động quản lý nhằm tận
dụng thời gian tự học của học sinh bằng những nội dung tự học hướng tới mục
tiêu, yêu cầu đào tạo. Giáo viên giao nhiệm vụ tự học cho học sinh một cách cụ
thể sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá
trình dạy học, đồng thời phát huy được trách nhiệm, nâng cao hiệu quả công tác
của cán bộ quản lý trong nhiệm vụ quản lý hoạt động tự học của học sinh.

Giáo viên trực quản lí giờ tự học của HS nội trú

- Giáo viên phải giao nhiệm vụ tự học cho học sinh một cách hệ thống và
cụ thể:
+ Hướng dẫn đọc sách, tài liệu bắt buộc theo bộ môn.
+ Hướng dẫn đọc sách, tài liệu tham khảo theo môn.
+ Xây dựng hệ thống bài tập bắt buộc theo từng môn.
+ Định hướng nghiên cứu theo chuyên đề.
+ Nâng cao trách nhiệm của đội ngũ ban cán sự quản lý lớp.
Tuy nhiên, người học phải là người tự mình nắm vững nội dung tri thức.

Đây là giai đoạn quyết định và chiếm nhiều thời gian công sức nhất. Khối
lượng kiến thức và các kĩ năng được hình thành nhanh hay chậm, nắm bắt vấn
đề nông hay sâu, rộng hay hẹp, có bền vững không… tùy thuộc vào nội lực của
8


chính bản thân người học trong bước mang tính đột phá này. Nó bao gồm các
hoạt động:
- Việc tiếp cận thông tin: Lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều
nguồn khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định như đọc sách, nghe
giảng, xem truyền hình, tra cứu từ Internet, làm thí nghiệm, quan sát, điều tra…
Trong hoạt động này rất cần có sự tỉnh táo để chọn lọc thông tin một cách thông
minh và linh hoạt. Xã hội hiện đại đang khiến phần lớn học sinh rời xa sách, ròi
xa thư viện và chỉ quan tâm đến các phương tiện nghe nhìn khác như tivi, điện
thoại, internet,... Đơn giản vì nó thỏa mãn trí tò mò, giúp cho tai nghe mắt thấy
tức thời. Đó là chưa kể đến sự nhiễu loạn thông tin mà nếu không vững vàng thì
học sinh sẽ rất dễ sa vào những cạm bẫy thiếu lành mạnh, ảnh hưởng trực tiếp
đến sự phát triển nhân cách, tâm hồn. Trong lúc từ cổ chí kim, muốn làm chủ tri
thức nhân loại thì con đường tốt nhất của mọi người là đọc sách. Đọc sách là
phương pháp tự học rẻ tiền và hiệu quả nhất. Khi làm việc với sách ta phải sử
dụng năng lực tổng hợp toàn diện và có sự xuất hiện của hoạt động của trí não,
một hoạt động tối ưu trong quá trình tự học. Do vậy, rèn luyện thói quen đọc
sách là một công việc không thể tách rời trong yêu cầu tự học. Ngoài việc tiếp
nhận tri thức còn phải biết đối thoại, gợi mở, thắc mắc hay đề xuất những vấn đề
cần lưu ý sau khi đọc sách, hoặc chí ít là học cách viết, lối diễn đạt từ những
cuốn sách hay. Đó là cách đọc sáng tạo. Khác với sự giải trí đơn giản hay cảm
nhận thông thường.
- Việc xử lí thông tin: Việc xử lí thông tin trong quá trình tự học không bao
giờ diễn ra trong vô thức mà cần có sự gia công, xử lí mới có thể sử dụng được.
Quá trình này có thể được tiến hành thông qua việc phân tích, đánh giá, tóm

lược, tổng hợp, so sánh…
- Việc vận dụng tri thức, thông tin: Trong việc vận dụng thông tin tri thức
khoa học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử
lí các tình huống, viết bài thu hoạch, báo cáo… học sinh thường gặp rất nhiều
khó khăn. Có lúc tìm được một khối lượng lớn tư liệu nhưng việc tập hợp phân
loại nội dung để lí giải một vấn đề lại không thực hiện được. Trong trường hợp
này cần khoanh vùng vấn đề trong một giới hạn đừng quá rộng. Chỉ cần tập
trung đào sâu một vấn đề nào đó nhằm phát hiện ra cái mới có giá trị thực tiễn là
đáp ứng yêu cầu. Trong khâu này việc lựa chọn và thay đổi hình thức tư duy để
tìm ra cách thức tối ưu nhất cho đối tượng nghiên cứu cũng rất cần thiết.
- Việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin tri thức theo yêu cầu thông
qua các hình thức: hội thảo, báo cáo khoa học, thảo luận, thuyết trình, tranh
luận… là công việc cuối cùng của quá trình tiếp nhận tri thức. Hoạt động này
giúp người học có thể hình thành và phát triển kĩ năng trình bày (bằng lời nói
hay văn bản) cho người học. Giúp người học chủ động, tự tin trong giao tiếp ứng
xử, phát triển năng lực hợp tác và làm việc nhóm tốt.
2.3.3. Quản lí, kiểm tra, đánh giá hoạt động tự học.
* Công tác quản lí hoạt động tự học:
Để quản lí hoạt động tự học trong nhà trường đạt hiệu quả, cán bộ quản lí
cần nắm vững lí luận và vận dụng các lí luận về các chức năng quản lí giáo dục,
về quản lí nhà trường... vào việc quản lí hoạt động tự học. Mặt khác, phải biết
9


dựa trên các cơ sở khoa học về hoạt động học và tự học, về các yếu tố ảnh
hưởng tới các hình thức tự học... cũng như nhận thức đúng vai trò của người
dạy, các nhà trường và các yếu tố khác (gia đình, môi trường, xã hội...) đến hoạt
động tự học của học sinh.
BGH nhà trường phải thống nhất quan điểm giáo dục toàn diện cho HS
trong đó có vai trò to lớn của việc tự học. Kế hoạch kiểm tra, quản lí hoạt động

tự học phải phù hợp với yêu cầu dạy học và đặc điểm của học sinh dân tộc nội
trú. Cụ thể là:
- Phân công nhiệm vụ chỉ đạo xây dựng kế hoạch kiểm tra hoạt động tự học
của học sinh (Hiệu trưởng hoặc Phó hiệu trưởng thực hiện). Hướng dẫn thực
hiện nhiệm vụ quản lí học sinh tự học cụ thể, chi tiết.

Hướng dẫn nhiệm vụ trực quản lí học sinh tự học của nhà trường

- Phân công rõ nhiệm vụ, trách nhiệm của cán bộ, giáo viên trong công tác
quản lí học sinh tự học.
+ Tổ quản lí học sinh (bao gồm những giáo viên bộ môn thực hiện nhiệm
vụ trực – 2 người/ca tối từ 19 giờ đến 22 giờ, ca ngủ lại đêm từ 22 giờ đến 6 giờ
30’): Phân công rõ nhiệm vụ phải làm là: Điểm trống ra vào lớp, kiểm tra sĩ số,
quản lí chặt chẽ nề nếp tự học, quản lí giờ ngủ nghỉ, học thêm giờ của một số HS
đội tuyển HSG; xử lí và đề xuất xử lí các trường hợp vi phạm, báo cáo các vấn
đề bất thường cho BGH trực. Kết hợp với bảo vệ nhà trường để quản lí nề nếp

10


học sinh. Nhiệm vụ quan trọng là phải kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nội dung
tự học và việc tự học của học sinh.
- Hiệu trưởng phân công trực điều hành và kiểm tra việc thực hiện nhiệm
vụ quản lí học sinh tự học của cán bộ, giáo viên. Lấy ý kiến tham mưu từ thầy
cô giáo. Khảo sát học sinh để điều chỉnh kế hoạch quản lí, kiểm tra tự học của
học sinh. Như vậy, thầy cô trực tối, trực ban vừa có trách nhiệm đôn đốc, vừa
kiểm tra việc tự học của học sinh để giúp các em có kết quả, đồng thời khuyến
khích những học sinh khá giỏi có được thành tích tốt hơn trong học tập. Ghi
chép tình hình vào sổ trực, ghi phiếu báo cáo.


Giờ tự học của HS có giáo viên trực quản lí

Giờ tự học của HS có giáo viên trực quản lí

11


Giờ tự học của HS có giáo viên trực quản lí

- Phân công thời khóa biểu tự học cụ thể cho các lớp. Thời khóa biểu chung
phải được dán tại bảng tin, treo tại từng lớp học để cán bộ, giáo viên trực tiện
theo dõi.

Thời khóa biểu buổi tối, học kì I, năm học 2017-2018

* Công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động tự học:
- Cán bộ quản lý tăng cường kiểm tra hoạt động tự học của học sinh:
+ Kiểm tra việc thực hiện thời gian tự học.
+ Kiểm tra việc xây dựng kế hoạch tự học của học sinh.
12


+ Kiểm tra kết quả thực hiện nhiệm vụ tự học của học sinh.
+ Kiểm tra nề nếp của giáo viên trực hướng dẫn học sinh tự học.
- Giáo viên kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động tự học của học sinh:
+ Nhà trường giao nhiệm vụ cụ thể: giáo viên bộ môn phải là người kiểm
tra đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ tự học đã giao cho học sinh.
+ Có thể ra đề thi, kiểm tra định kì, kiểm tra thường xuyên có liên quan đến
nội dung tự học.
+ Đánh giá kết quả học tập gắn với kết quả rèn luyện, trong đó có xét đến

thái độ, năng lực tự học của học sinh. Trong đó, giáo viên bộ môn thường xuyên
chấm vở tự học, vở bài tập của học sinh để có những đánh giá bằng điểm số, xếp
thứ tự học sinh trong lớp đối với việc hoàn thành bài tập, học bài cũ, chuẩn bị
bài mới và bài tập mở rộng nâng cao, những kiến thức mở mang được của học
sinh giỏi.
+ Giáo viên chủ nhiệm phối hợp với giáo viên bộ môn trong việc đánh giá,
rút kinh nghiệm về chất lượng học sinh từng tháng để có định hướng điều chỉnh
kế hoạch tự học của lớp được phân công phụ trách. Báo cáo kết quả về BGH nhà
trường kịp thời.
+ Phát huy vai trò của Ban cán sự lớp, cán sự môn học, thành viên của đội
cờ đỏ. Các em có thể tự đánh giá được ưu điểm của mình, của lớp mình, lớp
bạn. Đánh giá được hạn chế của mình và của bạn để đề xuất hướng khắc phục
đạt hiệu quả.
+ Ban giám hiệu được phân công nhiệm vụ trực quản lí cũng có vai trò
quan trọng trong việc quản lí giờ tự học của học sinh. Trực giám hiệu vừa kiểm
tra được ca trực của cán bộ, giáo viên, vừa có thể trực tiếp lên lớp kiểm tra giờ
tự học của học sinh.

Ban giám hiệu kiểm tra giờ tự học của học sinh nội trú

2.3.4. Phát triển CSVC, thi đua khen thưởng.
Để đảm bảo thúc đẩy học sinh hăng say học tập, cần tăng cường hơn nữa
một số mặt đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ dạy học, tự học:
- Tăng cường đảm bảo sử dụng tài liệu, trang thiết bị dạy học:
+ Tăng cường trang bị, sử dụng sách giáo khoa.
+ Tăng cường trang bị, sử dụng các loại tài liệu tham khảo.
+ Hiện đại hóa phương tiện dạy học.
- Đảm bảo thời gian cho hoạt động tự học:
13



+ Xây dựng chương trình môn học tăng thời gian tự học.
+ Xếp lịch tăng thời gian cho hoạt động tự học.
+ Hạn chế dùng thời gian tự học vào các hoạt động khác.
- Tăng cường sử dụng phương tiện tin học vào quản lý hoạt động tự học
Hiện nay các chương trình ôn thi, luyện thi, nâng cao kiến thức cho học sinh đều
được đăng tải trên mạng. Việc mở phòng máy vi tính cho học sinh được học tập
trên máy nhằm gây hứng thú và tăng cường sự tìm tòi cho học sinh là vô cùng
cần thiết, đồng thời giáo viên cũng quản lý được học sinh tự học. Việc xây dựng
trang website của trường đăng tải lên mạng và công khai các lịch hoạt động của
nhà trường, các kết quả học tập, rèn luyện của học sinh giúp cho phụ huynh học
sinh và các thầy cô giáo, học sinh chủ động thực hiện và quản lý. Đồng thời qua
từng trang website học sinh có thể trao đổi các chủ đề với các bạn trong huyện,
trong tỉnh, toàn quốc và các thầy cô giáo trong các câu lạc bộ mình yêu thích.
Công việc này cần phải có sự quản lý, giám sát chặt chẽ của giáo viên bộ môn,
nhân viên được phân công nhiệm vụ trực. Nếu sơ xuất lơ là trong thực hiện
nhiệm vụ, học sinh sẽ lợi dụng máy tính có kết nối mạng để lên Facebook nói
chuyện phiếm, chat, chơi điện tử… trên mạng, chỉ tốn thời gian vô ích.
- Tăng cường cải tiến công tác xã hội hóa giáo dục. Các tổ chức xã hội đặc
biệt là lực lượng cha mẹ học sinh có tác dụng rất quan trọng trong việc quản lý
và giám sát việc tự học của học sinh. Ban đại diện cha mẹ học sinh cùng với lực
lượng nhà trường tham gia công tác quản lý học sinh trong các hoạt động sinh
hoạt ngoài giờ lên lớp là rất cần thiết và quan trọng.
- Tư vấn cho học sinh mua sắm, sử dụng các đồ dùng cá nhân và tập thể vào
việc sinh hoạt, tự học.
- Thực hiện tốt công tác thi đua khen thưởng những học sinh có thành tích
tốt để động viên, khuyến khích các em phấn đấu học tốt hơn nữa. GVCN đưa kết
quả tự học của HS vào đánh giá xếp loại thi đua hằng tuần, hằng tháng của cá
nhân học sinh. Ban giám hiệu nhà trường và Liên đội thiếu niên đưa kết quả
công tác tự học của học sinh vào tiêu chí đánh giá xếp loại thi đua hằng tuần,

hằng tháng của lớp để làm căn cứ cuối kì, cuối năm thực hiện nghiêm túc công
tác thi đua khen thưởng.

Khen thưởng những học sinh có thành tích xuất sắc trong năm học

14


Khen thưởng những học sinh có thành tích đạt giải cấp huyện trong năm học

2.3.5. Phối hợp các tổ chức đoàn thể trong nhà trường.
Để tổ chức hoạt động tự học đạt hiệu quả, nhà trường cần huy động các tổ
chức đoàn thể trong nhà trường như Công đoàn, Chi đoàn thanh niên, Liên Đội
thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, Chi hội Chữ thập đỏ, Đội thanh thiếu niên
xung kích, Ban đại diện cha mẹ học sinh và các tổ chức xã hội khác động viên,
cổ vũ thúc đẩy hoạt động tự học.
Vì vậy, cần nêu cao vai trò của các tổ chức đoàn thể, thực hiện nghiêm túc
sự phối hợp giữa nhà trường – gia đình – xã hội trong việc tạo ra các điều kiện
tốt nhất cho hoạt động tự học trong nhà trường.
Ban chấp hành Công đoàn có vai trò động viên thúc đẩy hoạt động tự học
của học sinh bằng cách hỗ trợ thi đua khen thưởng vào các đợt thi đua.
Chi đoàn thanh niên hỗ trợ tích cực cho Liên Đội trong việc tổ chức kiểm
tra, đôn đốc việc tự học của học sinh.
Phát huy vai trò của Tổng phụ trách Đội, của Ban chỉ huy Liên đội, Đội Cờ
đỏ, Đội thanh thiếu niên xung kích trong việc ghi chép, kiểm tra, chấm điểm,
đôn đốc hoạt động tự học của học sinh. Sử dụng kết quả hoạt động của các lớp
để bình xét thi đua trong các đợt thi đua, cuối học kì, cuối năm học.
Giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm, Liên Đội thiếu niên cần căn cứ vào
hướng dẫn của nhà trường để phối hợp thực hiện kiểm tra việc tự học của học
sinh.


15


Hướng dẫn thực hiện sinh hoạt 15 phút đầu giờ

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Qua thời gian áp dụng thực hiện sáng kiến, kết quả thu được như sau:
- Chất lượng đại trà: Số HS: 222 em.
Năm học
2017-2018

Giỏi
41

Khá
127

Học lực
TB
54

Yếu
0

Kém
0

Tốt

207

Hạnh kiểm
Khá
TB
15
0

Yếu
0

- Chất lượng HSG môn văn hóa các cấp:
Năm học

Cấp huyện

Cấp tỉnh

2017-2018

43

4

Ghi chú
Giải môn khác cấp tỉnh: 6
giải.

Như vậy, sau áp dụng sáng kiến trên, chất lượng đại trà và chất lượng học
sinh giỏi của nhà trường tăng lên rõ rệt.

Cụ thể:

16


- Về chất lượng đại trà: Học lực Giỏi, tăng 11 em so với năm học 20152016 và 2016-2017; số học sinh trung bình giảm. Hạnh kiểm tốt, tăng 6 học
sinh.
- Về chất lượng mũi nhọn:
+ HSG các môn văn hóa cấp huyện tăng 12 em với năm học 2015-2016 và
2016-2017;
+ HSG các môn văn hóa cấp tỉnh tăng 1 em với năm học 2015-2016 và tăng
3 em so với năm học 2016-2017; Số giải các môn khác cấp tỉnh bằng năm học
trước.
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
Khi bàn về vai trò của tự học nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã phát biểu:
“Tự học, tự đào tạo là con đường phát triển suốt cuộc đời của mỗi người, trong
điều kiện kinh tế – xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau đó cũng là truyền
thống quý báu của người Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Chất lượng và hiệu quả
giáo dục được nâng cao khi tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi
biến được quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Quy mô của giáo dục
được mở rộng khi có phong trào toàn dân tự học”5.
Ở bất kỳ bậc học hay cấp học nào hoạt động tự học cũng có ý nghĩa rất
quan trọng đối với kết quả học tập, tuy nhiên đối với học sinh trường THCS Dân
tộc nội trú lại càng thiết thực hơn bởi hoạt động tự học của học sinh ở nhà
trường có nét đặc thù so với các trường phổ thông cùng cấp, thể hiện hoạt động
nhận thức của học sinh mang tính chất độc lập, tự lực, tự giác, sáng tạo trong
việc tiếp thu tri thức cũng như việc vận dụng tri thức vào các tình huống cụ thể.
Phương pháp học tập của học sinh cũng có nhiều nét khác, nó mang tính chất tự
học, tự nghiên cứu nhưng điều đó cũng không có nghĩa là thiếu vai trò của người

giáo viên. Do đó có thể nói hoạt động tự học là một khâu của quá trình giáo dục,
là một quá trình gia công, chế biến và tự điều khiển theo đúng mục tiêu giáo dục
qui định.
Nhờ có tự học và chỉ bằng con đường tự học, người học mới có thể nắm
vững tri thức, thông hiểu tri thức, bổ sung và hoàn thiện tri thức cũng như hình
thành những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Điều này đã được K.Đ.Usinxki nói:
“Chỉ có công tác tự học của học sinh mới tạo điều kiện cho việc thông hiểu tri
thức”. Và như vậy hoạt động tự học sẽ góp phần quyết định chất lượng dạy học giáo dục của nhà trường.
Hoạt động tự học của học sinh không chỉ nâng cao năng lực nhận thức, rèn
luyện thói quen, kỹ năng, kỹ xảo vận dụng tri thức của bản thân vào cuộc sống
mà còn giáo dục tình cảm và những phẩm chất đạo đức của bản thân.
5

Trích thư gửi Hội thảo khoa học nghiên cứu phát triển tự học, tự đào tạo ngày 6/1/1998 – Nguyên Tổng bí thư
Đỗ Mười.

17


Học sinh nội trú tự học nghiêm túc cả khi không có GV trực quản lí

Tự học không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân người học mà còn góp phần
to lớn nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục. Nói như vậy không có nghĩa là
hạ thấp vai trò trách nhiệm của người giáo viên mà dưới sự tổ chức, hướng dẫn,
chỉ đạo của người giáo viên, học sinh đã biết cách tự học, chủ động, sáng tạo
chiếm lĩnh kho tàng tri thức của nhân loại.
Như vậy, muốn nâng cao chất lượng học tập của học sinh trong trường học
nói chung, trường THCS Dân tộc nội trú Thạch Thành nói riêng, cần phải quan
tâm đúng mức đến việc bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ nghiệp vụ của
người giáo viên đồng thời phải đặc biệt chú ý đến vị trí trung tâm của học sinh

trong hoạt động tập thể để làm sao khai thác triệt để những tiềm năng vốn có của
các em, phát huy tính tự giác, tích cực sáng tạo, chủ động trong quá trình lĩnh
hội tri thức nhằm góp phần thắng lợi nhiệm vụ mỗi năm học.
Hoạt động tự học là một bộ phận hữu cơ của quá trình học tập và quá trình
dạy học, là quá trình tự giác, độc lập chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ
xảo cho chính người học. Tự học có vai trò rất quan trọng đối với việc phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Tự học là yếu tố cơ bản quyết
định chất lượng học tập của người học nói riêng và chất lượng đào tạo của nhà
trường nói chung.
18


Hoạt động tự học của học sinh trường THCS Dân tộc nội trú Thạch Thành
là quá trình nhận thức tích cực, độc lập ở trình độ tạo dựng phương pháp cho
học sinh và hình thành nhân cách, tác phong của học sinh, dưới sự tổ chức, điều
khiển của giáo viên. Tự học được xem như một hình thức dạy học cơ bản có
quan hệ với các hình thức tổ chức hoạt động khác, có quan hệ chặt chẽ với hoạt
động dạy của giáo viên và công tác quản lý của nhà trường.
Để quản lý hoạt động tự học có hiệu quả thì việc tìm biện pháp tăng cường
quản lý vừa mang tính thực tiễn, vừa mang tính lý luận là một điều cần thiết.
3.2. Kiến nghị.
- Đối với chính quyền và các cấp quản lí:
+ Cần bổ sung đầy đủ CBQL, nhân viên cho nhà trường theo quy định đối
với trường chuyên biệt.
+ Cần ưu tiên hơn nữa trong kinh phí đầu tư xây dựng, mua sắm trang thiết
bị phương tiện dạy học, tài liệu phục vụ hoạt động giảng dạy và học tập trong
nhà trường, như đầu tư thiết bị phòng dạy học công nghệ cao, phòng học tin học,
phòng học ngoại ngữ, phòng học nhạc, phòng học thực hành thí nghiệm để học
sinh có điều kiện tự học và nghiên cứu.
+ Tăng cường biên chế và chế độ chính sách cho những người làm công tác

quản lý học sinh nội trú, công tác quản lý hoạt động tự học của học sinh. Hiện
nay, nhà trường còn thiếu nhân viên quản lí học sinh theo quy định của trường
chuyên biệt.
- Đối với nhà trường: Cần xây dựng quy định về việc tự học sát với tình
hình thực tế của nhà trường để thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, phát huy hết các
tiềm năng của đội ngũ cán bộ giáo viên nhân viên và các điều kiện của đơn vị.
Duy trì nghiêm thời gian tự học và phối hợp chặt chẽ với hoạt động của các tổ
chức Đoàn, Đội để xây dựng bầu không khí học tập tích cực, kích thích lòng
nhiệt tình, ham muốn tự học, tự nghiên cứu của học sinh. Hiệu trưởng và Ban
giám hiệu phải là những người gương mẫu khắc phục khó khăn, thực hiện có
hiệu quả cao nhất các biện pháp quản lí hoạt động tự học mới có thể hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được giao hằng năm.
Trên đây là kinh nghiệm cá nhân làm quản lí ở trường Dân tộc nội trú
Thạch Thành, không thể tránh khỏi những hạn chế, rất mong được đồng nghiệp
và các cấp quản lý chân thành góp ý để công tác quản lý nhà trường nói chung,
công tác quản lý việc tự học của học sinh trường Dân tộc nội trú nói riêng ngày
càng đạt hiệu quả cao hơn.
Xin chân thành cảm ơn.
Thạch Thành, ngày 15 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến của bản thân,
không sao chép của người khác.
Xác nhận của nhà trường
Người thực hiện

Đinh Thị Hường
19


Tài liệu tham khảo
[1]. X.Y.Z, 2008, Sửa đổi lối làm việc, tái bản lần thứ 3, Nxb. Trẻ, tr. 68.

[2]. Luật giáo dục - NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2005
[3]. Nguyễn Cảnh Toàn - Quá trình dạy tự học. NXB Giáo dục. Hà Nội, 1997.
[4]. Thời khóa biểu học kì I, Học kì 2 năm học 2017-2018 của trường THCS
Dân tộc nội trú Thạch Thành.
[5]. Thư gửi Hội thảo khoa học nghiên cứu phát triển tự học, tự đào tạo ngày
6/1/1998 – Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười.

20


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH
XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Đinh Thị Hường
Chức vụ và đơn vị công tác: Hiệu trưởng – trường THCS Dân tộc nội trú
Thạch Thành

TT

1.
2.

3.

4.

5.

6.


7.

Tên đề tài SKKN
Một số kinh nghiệm dạy
phân môn Tập làm văn lớp
6
Một số lưu ý khi dạy văn
bản nghị luận cho học sinh
THCS
Một vài ý kiến về việc dạy
đọc - hiểu văn bản trong
chương trình Ngữ văn
THCS
Một số kingh nghiệm ứng
dụng CNTT trong giảng dạy
môn Ngữ văn 9 THCS
Một vài ý kiến khi dạy bài
kí "Cô Tô" của Nguyễn
Tuân trong chương trình
Ngữ văn 6 THCS.
Một số biện pháp nhằm
tăng cường chỉ đạo thực
hiện công tác giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh ở
trường THCS Dân tộc nội
trú huyện Thạch Thành
Một số biện pháp quản lý,
chỉ đạo công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi lớp 9 ở trường

THCS Dân tộc nội trú
Thạch Thành đạt hiệu quả

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

- Ngành Giáo
dục cấp huyện - Loại B

2001-2002

- Ngành Giáo
dục cấp huyện - Loại B

2004-2005

- Ngành Giáo
dục cấp huyện - Loại A


2008-2008

- Ngành Giáo
dục cấp huyện - Loại B

2009-2010

- Ngành Giáo
dục cấp huyện - Loại B

- 2010-2011

- Ngành Giáo - Loại A
dục cấp huyện

- 2011-2012

- Ngành Giáo - Loại B
dục cấp tỉnh

- 2011-2012

- Ngành Giáo - Loại A
dục cấp huyện
- Ngành Giáo - Loại C
dục cấp tỉnh

- 2014-2015
- 2014-2015


21


MỤC LỤC
TT
1.
1.1.
1.2.
1.3.
1.4.
2.
2.1.
2.2.
2.3.
2.3.1
.
2.3.2.
2.3.3.
2.3.4.
2.3.5.
2.3.6.
3.
3.1.
3.2.

Nội dung
Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lí luận
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Giáo dục nhận thức về tự học
Quản lí việc lập kế hoạch tổ chức hoạt động tự học
Quản lí, kiểm tra, đánh giá hoạt động tự học
Phát triển CSVC, thi đua khen thưởng
Phối hợp các tổ chức đoàn thể trong nhà trường
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Kết luận và kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Danh mục các SKKN đã được hội đồng sáng kiến kinh
nghiệm ngành giáo dục và đào tạo huyện, tỉnh xếp loại từ C
trở lên

Trang
1
1
2
2
3
2
3
5
6

8
10
13
15
16
17
17
19
20
21

22



×