Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp về công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường trung học phổ thông triệu sơn 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.38 KB, 21 trang )

1. MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. Mở đầu

Trang

1.1. Lí do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận.
2.2. Cơ sở thực tiễn (thực trạng).
2.3. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục đạo đức
học sinh.
2.3.1.Vai trò chung.
2.3.2. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong sự phối kết hợp với các
đoàn thể, giáo viên bộ mơn, phụ huynh học sinh.
2.3.3. Vai trị của GVCN đối với lớp chủ nhiệm.
2.4. Những biểu hiện và nguyên nhân vi phạm đạo đức của HS.
2.4.1. Những biểu hiện vi phạm đạo đức của HS.
2.4.2. Nguyên nhân.
2.5. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học
sinh của giáo viên chủ nhiệm.
2.5.1. Cách tiếp cận, tiếp nhận học sinh của giáo viên chủ nhiệm.
2.5.2 Lựa chọn Ban cán sự lớp.
2.5.3. Lập sơ đồ lớp học.
2.5.4. Quản lý, giáo dục học sinh bằng các sổ bảng biểu.
2.5.5. Phương pháp nêu gương.
2.5.6. Huy động nội lực tập thể.
2.5.7. Tăng cường tổ chức các hoạt động ngoài giờ.


2.5.8. Giáo dục học sinh bằng cái “Tâm” của GVCN.
2.6. Những kết quả ban đầu thực nghiệm đề tài.
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị và đề xuất.

1

Tài liệu tham khảo
Những Sáng kiến kinh nghiệm đã được Hội đông khoa học xếp loại

2
3
4

5

6

7
12
13
14
16
18
20


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.

- Ngày nay, cùng với sự phát triển đi lên của xã hội, của nền kinh tế thị
trường trong xu thế hội nhập thì sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo càng được
chú trọng, đầu tư và vẫn luôn là “quốc sách hàng đầu” của Đảng và Nhà
nước. Nhưng để Giáo dục mãi là quốc sách hàng đầu thì tất yếu phải có
những đột phá, những đổi mới cần thiết. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Đảng ta đã khẳng định “Đổi mới căn bản toàn diện về Giáo dục đào
tạo, thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng Giáo
dục đào tạo, thực hiện đổi mới chương trình nội dung, phương pháp dạy và
học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lí tưởng, giáo dục truyền
thống lịch sử, cách mạng, đạo đức lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực
hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội…” [1]. Đây là định
hướng cơ bản, thiết thực đối với ngành Giáo dục - Đào tạo (GD&ĐT) nói
chung và vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh nói riêng.
- Đại thi hào Nguyền Du đã quan niệm “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ
Tài” và Thân Nhân Trung (danh sĩ – tiến sĩ dưới thời vua Lê Thánh Tơng,
trong “Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại bảo thứ ba”)
cũng đã khẳng định “Hiền tài là ngun khí của quốc gia”[2]. Điều đó cho
thấy, bất kỳ thời đại nào, xã hội nào, hoàn cảnh nào thì cái Đức – cái Tâm con
người cũng luôn được đề cao, coi trọng và được đặt lên hàng đầu. Một con
người có cả Đức lẫn Tài là con người được mọi người ngợi ca, trân trọng,
ngưỡng mộ, yêu mến. Một đất nước có nhiều Hiền – Tài là đất nước thịnh
vượng, phát triển. Và một trường học có nhiều trị ngoan, trị giỏi là một địa
chỉ “đỏ” đáng tin cậy của nhân dân. Vì vậy, song song với việc nâng cao trí
tuệ, trình độ văn hóa chúng ta cần tập trung giáo dục đạo đức cho học sinh,
nhất là học sinh Trung học phổ thông (THPT).
- Một trong những vấn đề đáng lo ngại nhất ở các trường THPT hiện nay là
đạo đức học đường của một bộ phận học sinh đang xuống cấp trầm trọng dẫn
đến tình trạng học sinh bỏ học đi chơi, a dua đua địi, lơi kéo bạn bè tham gia
vào các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật, xúc phạm giáo viên ... và đặc biệt là

nạn bạo lực học đường. Đây là những biểu hiện lệch lạc trong hành vi, nhân
cách đạo đức học sinh. Điển hình gần nhất đó là vụ nữ sinh lớp 9 bị đánh hội
đồng ở trường THCS Phù Ủng huyện Ân Thi – Hưng Yên. Điều này không chỉ
gây hoang mang cho dư luận xã hội mà cịn gióng lên hồi chng cảnh báo về
tình trạng xuống cấp trong lối sống đạo đức và thái độ thờ ơ, vơ cảm của học
sinh hiện nay. Vì vậy, để giáo dục đạo đức học sinh, giúp các em trở thành
một người con người tồn diện, có đủ cả Đức lẫn Tài, thành con người vừa
“hồng” vừa “chuyên” trước khi bước ra ngồi xã hội thì cần phải có sự phối
hợp chặt chẽ của gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó tơi thiết nghĩ “Vai
trị của giáo viên chủ nhiệm” là vô cùng quan trọng.
- Tuy nhiên trong thực tế vẫn cịn đâu đó những quan niệm sai lầm về giáo
viên chủ nhiệm (GVCN), chưa nhận thấy tầm quan trọng của GVCN trong
1


việc quản lý, giáo dục, rèn luyện nhân cách người học. Ở một số giáo viên,
công tác chủ nhiệm lớp vẫn cịn được coi là vừa khó, vừa nặng; vẫn còn tồn
tại chuyện phụ huynh học sinh (PHHS ) xúc phạm, có những biểu hiện thơ
bạo với GVCN con mình; vẫn cịn có những HS coi thường, vơ lễ, thậm chí
đánh lại GVCN của mình. Và cũng cịn những GVCN lớp nóng nảy, thơ bạo
với HS như: cùng một lúc đuổi nhiều HS ra khỏi giờ học, lấy thước hay rút
dép đánh học trò trong lớp hay bắt HS súc miệng bằng nước giặt giẻ lau bảng
như trường hợp cô giáo Nguyễn Thị Minh Hương trường Tiểu học ở Hải
Phòng, đánh nhiều học sinh lớp 2A7 trong giờ kiểm tra ngày 8/5/2019 của cô
Nguyễn Thị Thu Trang ở trường Tiểu Học Qn Toan, Hải Phịng [3]…
khơng chỉ khiến dư luận phẫn nộ mà còn làm mất niềm tin của PHHS vào
giáo viên. Ngược lại cũng có những GVCN quá dễ dàng, buông lỏng quản lý,
xa rời lớp chủ nhiệm, thiếu trách nhiệm với chức năng đã được giao.... để cho
HS tự do vi phạm nội quy nề nếp trường lớp, vi phạm đạo đức người học,
thậm chí bị lơi kéo vào các tệ nạn xã hội…

- Ở trường THPT Triệu Sơn 5, nơi tôi đang trực tiếp giảng dạy và giáo dục
học sinh thì vấn đề đạo đức học sinh được nhà trường và cán bộ giáo viên
quan tâm đặc biệt, vì học sinh của trường đa phần là con em nơng dân, điều
kiện kinh tế khó khăn, các bậc phụ huynh cịn nặng gánh kinh tế gia đình
chưa có nhiều thời gian, điều kiện để quan tâm, sát sao với con em của mình.
Bản thân các em ở tuổi mới lớn, quen sống tự do vì sự bng lỏng, vắng mặt
thường ngày của cha mẹ cộng với sự tác động của mặt trái xã hội (phim ảnh,
quán xá, thói học đòi, a dua...) hấp dẫn các em hơn là sự học. Từ đó dẫn đến
tình trạng học sinh có những biểu hiện lệch lạc trong hành vi đạo đức, lối
sống.
Từ những lí do trên đã thơi thúc tơi quyết định chọn đề tài “Một số biện
pháp về công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho
học sinh ở trường Trung học phổ thông Triệu Sơn 5”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Qua đề tài này, người viết xin nêu lên Vai trò của GVCN lớp, chỉ ra nguyên
nhân dẫn đến HS vi phạm đạo đức người học và đề ra một số biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học THPT.
Từ đó, giúp mọi người có cái nhìn tồn diện về GVCN và nâng cao sứ mệnh
của người GVCN trong các hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh THPT.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Nghiên cứu vai trò của GVCN trong công tác giáo dục đạo đức học sinh.
- Đâu là nguyên nhân dẫn đến HS vi phạm đạo đức người học
- Tư tưởng đạo đức của HS lớp 12A3 (2016 - 2017), 10A7 (2017 - 2018),
11A7 (2018 – 2019).
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận qua tìm hiểu về luật giáo dục, về nhiệm
vụ, quyền hạn của GVCN.
- Phương pháp quan sát, tìm hiểu, điều tra, phân tích, xử lý.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.

2


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận.
- Đạo đức là “hệ thống các quy tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người
tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng,
của xã hội”[4]. Giáo dục đạo đức là quá trình biến các chuẩn mực đạo đức từ
những địi hỏi bên ngồi của xã hội thành những đòi hỏi bên trong của mỗi cá
nhân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục. Nghị quyết
Trung ương 2 khóa VIII nhấn mạnh “Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận
học sinh có tình trạng suy thối về đạo đức, mờ nhạt về lí tưởng, theo lối
sống thực dụng, thiếu hồi bảo lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân
và đất nước. Trong những năm tới cần tăng cường giáo dục tư tưởng đạo
đức, ý thức công dân, lòng yêu nước…”[5]. Và Luật giáo dục 2005 đã xác
định: “ Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp cho học sinh phát triển tồn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình
thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, xây dựng tư cách và
trách nhiệm công dân…” (Điều 27-Luật giáo dục) [6].
- Đạo đức là thước đo nhân cách, phẩm giá con người, là nền tảng để xã hội
phát triển. Giáo dục đạo đức cho học sinh, giúp các em nhận thức được các
chuẩn mực đạo đức của xã hội, rèn luyện kỹ năng hành vi theo các chuẩn mực
đó và hình thành thái độ, ý thức trong học sinh về đạo đức, giúp các em sống
thiện sống có ích, có ước mơ, hồi bảo, như Bác Hồ đã khẳng định “Có tài
mà khơng có đức là người vơ dụng”.
- Ở chương trình các mơn văn hóa Phổ thơng có rất nhiều mơn học hướng
vào giáo dục đạo đức người học như: Ngữ Văn, Giáo dục cơng dân, Lịch sử…
và cũng có nhiều bài viết, đề tài bàn về phương pháp giáo dục đạo đức học
sinh như đề tài: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác giáo viên chủ nhiệm
(của cô Trương Thị Minh Nguyệt –THPT Cao Bá Quát – Gia Lâm – Hà Nội),

Kinh nghiệm giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua tiết sinh hoạt lớp chủ
nhiệm của cô Lê Thị Hạnh, trường THPT Thọ Xuân 5. Tuy nhiên các đề tài
chỉ mới đi vào một khía cạnh nhỏ, một góc nhỏ chưa có cài nhìn bao qt
rộng lớn về phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh.
Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT không phải là ngày một ngày hai,
càng không chỉ một vài ba em mà tất cả các em đều được giáo dục để các em
không chỉ phát triển về trí tuệ, thể chất mà cịn phải nuôi dưỡng phần “hồn”
trong mỗi con người.
2.2. Cơ sở thực tiễn (thực trạng).
2.2.1. Thuận lợi:
- Thuận lợi lớn nhất của công tác giáo dục đạo đức học sinh ở trường
THPT Triệu Sơn 5 là được sự quan tâm, chú trọng của BGH, các đoàn thể và
được GVCN đặt lên hàng đầu. Để có thể làm tốt cơng tác giáo dục đạo đức
HS, nhà trường đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, đấu mối với Công an xã
Đồng Lợi, cơng an huyện Triệu Sơn, xây dựng mơ hình tự quản, thành lập
Ban nề nếp, đặc biệt là bố chí và giao trách nhiệm chủ nhiệm cho những GV
có năng lực trong quản lý, giáo dục HS và tổ chức các hoạt động văn hóa văn
3


nghệ, thể thao, hành trình khám phá tri thức… để các em được học tập, vui
chơi, khám phá và từng bước rèn luyện nhân cách đạo đức.
- Đội ngũ CBGV của nhà trường cịn trẻ, năng nổ, nhiệt tình, sáng tạo,
chuyên tâm trong công việc, bám lớp, bám trường, gần gũi, yêu quý, quan
tâm HS, luôn để ý uốn nắn, giáo dục những biểu hiện vi phạm đạo đức người
học, từng bước giúp các em nhận thức sâu sắc giá trị đạo đức con người,
không để “cái nết đánh chết cái đẹp”.
- Các em đều là con em nông thân, chất chân qn vẫn được ni dưỡng,
gìn giữ. Điều kiện khó khăn về kinh tế lại là thuận lợi giúp các em tránh xa
những cám dỗ, tệ nạn, những ham muốn vật chất nhất thời…

2.2.2. Khó khăn:
- Khó khăn lớn nhất và cũng khó kiểm sốt nhất ảnh hưởng đến việc xuống
cấp về đạo đức và khó giáo dục đạo đức cho HS đối với nhà trường nói chung
và GVCN nói riêng là tình trạng phát triển của mạng xã hội, thế giới ảo, phim
ảnh khơng lành mạnh, mang tính kích động bạo lực, mang tư tưởng, lối sống
bng thả, a dua… rồi các tệ nạn xã hội đang từng bước du nhập vào đời sống
sinh hoạt, thâm nhập vào nếp nghĩ, nếp cảm của HS – dù muốn hay khơng các
em ít nhiều vẫn bị ảnh hưởng.
- Do thời kì kinh tế thị trường, vấn đề vật chất tiền bạc được đặt lên hàng đầu
nhiều phụ huynh mãi “miệt mài” kiếm tiền, không dành thời gian, không quan
tâm đến con em mình mà uỷ thác tất cả lại cho nhà trường, cho GVCN trên
tình thần “trăm sự nhờ thầy, cơ”, thậm chí có PH cịn thương con q đà,
nng chiều, tin tưởng con quá mức nên đã bảo vệ cả cái sai của con em mình
hoặc có phụ huynh (PH) tìm cách thối thác trách nhiệm, đỗ lỗi cho hồn
cảnh, thầy cơ, bạn bè….nếu con mình vi phạm.
- Cơng tác giáo dục đạo đức HS còn chưa đồng bộ ở đội ngũ CBGV trong
nhà trường. Nhiều giáo viên bộ mơn cho rằng đó là việc của GVCN, của Ban
nề nếp hoặc mang tư tưởng “sống chết mặc bay”, nhỡ đụng vào vạ lây thì khổ
nên đơi khi thờ ơ, bỏ qua những hành vi vơ lễ, thiếu văn hóa của các em… đó
là cơ hội cho những biểu hiện vi phạm đạo đức HS nảy mầm phát triển.
- Bản thân HS – lứa tuổi muốn khẳng định mình trước đám đơng, muốn thể
hiện “bản lĩnh”, thích chơi trội bằng cách gây gỗ đánh nhau, nhuộm tác xanh đỏ, ăn mặc lố lăng, nói năng vơ lễ, bỏ học, u theo phong trào rồi nghỉ học
giữa chùng hoặc làm mẹ trẻ bất đắc dĩ...
Từ những thực trạng trên, qua đề tài này tơi xin được nêu lên “Vai trị của
GVCN”, chỉ ra “nguyên nhân và những biện pháp nâng cao hiệu quả giáo
dục đạo đức cho học sinh ở trường THPT Triệu Sơn 5”. Hi vọng sẽ góp phần
làm phong phú, đa dạng phương pháp giáo dục đạo đức cho HS THPT mà các
GVCN, nhà trường và cả xã hội đang quan tâm, trăn trở.
2.3. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục đạo đức
học sinh.

2.3.1. Vai trò chung.
- GVCN phải xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu,
nội dung, phương pháp giáo dục nhằm thức đẩy sự tiến bộ của cả lớp, của
từng HS.
4


- Thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch nhà trường và lớp đã xây
dựng.
- Phối hợp chặt chẽ với gia đình HS, nhà trường, đồn thanh niên, ban nề
nếp…để cùng hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện của HS.
- Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình lớp - HS với BGH, với
PHHS.
- Nhận xét, đánh giá, xếp loại HS cuối kỳ, cuối năm đề nghị nhà trường
khen thưởng, kỉ luật.
2.3.2. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong sự phối kết hợp với các đồn
thể, giáo viên bộ mơn, phụ huynh học sinh.
- Giáo dục HS phải đồng bộ trên tinh thần trách nhiệm của cả nhà trường,
gia đình và xã hội. GVCN phải phối kết hợp với GVBM, Ban nề nếp để nắm
bắt tình hình lớp mình, kịp thời phát hiện, khắc phục, ngăn chặn những biểu
hiện vi phạm nội quy trường lớp, vô lễ với GV, … để giáo dục.
- Thường xuyên thông báo việc học tập và rèn luyện của HS theo tuần,
tháng, kỳ để HP nắm được tình hình của con em mình qua hệ thống tin nhắn
vn.edu, qua các kỳ họp phụ huynh. Việc giữ mối liên lạc với gia đình HS sẽ
giúp GVCN nắm bắt được hồn cảnh, tính cách HS và tìm được sự đồng
thuận, thống nhất, tiếng nói chung trong quản lý, giáo dục đạo đức cho HS.
Có như vậy mới tạo được niềm tin ở PH và việc uốn nắn, cảm hóa, chinh
phục được trái tim HS sẽ dễ dàng hơn nhiều.
- GVCN còn phải chịu trách nhiệm trước nhà trường, PH trong việc giáo dục
đạo đức HS để BGH tin tưởng vào việc giao nhiệm vụ của mình, để PH yên

tâm gửi con em họ cho nhà trường, cho GVCN, để HS biết ý thức về trách
nhiệm, bổn phận của một người con, một học trò biết lễ nghĩa, uống nước nhớ
nguồn, biết ước mơ và quyết tâm theo đuổi lí tưởng.
2.3.3. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm đối với lớp chủ nhiệm.
- GVCN là người trực tiếp quản lý, giáo dục đạo đức HS trong thời gian
được phân công làm cơng tác chủ nhiệm (có thể 1 năm, 3 năm).
- Là người lên kế hoạch, tổ chức, giám sát các hoạt động giáo dục của lớp.
- Tìm hiểu, gần gũi, tâm sự để biết được hồn cảnh, tính cách HS, để có
biện pháp giáo dục phù hợp.
- Là cầu nối giữa HS với GVBM để phát hiện ra năng lực, sở trường, điểm
mạnh, điểm yếu để bồi dưỡng, nâng cao chất lượng học lực cho HS và có biện
pháp giáo dục đạo đức phù hợp và đánh giá xếp loại hạnh kiểm học sinh
chính xác, cơng tâm.
Thiết nghĩ với tất cả vai trị, chức năng, nhiệm vụ trên, có thể khẳng định
GVCN là một nhà quản lý có năng lực, trách nhiệm, tình u nghề, u trị
thiêng liêng cao cả, xứng đáng là người thắp sáng nhân cách toàn vẹn của
mọi thế hệ, là “kỹ sư của tâm hồn”.
2.4. Những biểu hiện và nguyên nhân vi phạm đạo đức của học sinh.
2.4.1. Những biểu hiện vi phạm đạo đức học sinh.
- Không tuân thủ các quy định về nội quy, nề nếp trường lớp như: bỏ tiết, đến
lớp không ghi bài, mất trật tự, gây gỗ đánh nhau, vô lễ với giáo viên, khích
bác lơi kéo bạn bè…
5


- Đầu tóc, quần áo khơng đúng quy định: nhuộm tác xanh – đỏ, cạo trắng
từng vệt- nhiều vệt trên đầu; ăn mặc lố lăng, lai căng bắt chước...
- Học khơng có mục đích, thiếu ý chí vươn lên, học vì bố mẹ…
- Một số học sinh phát triển sớm về sinh lý, lại thường tiếp xúc với các loại
phim ảnh khơng lành mạnh dẫn đến có những cảm xúc nam nữ, nảy sinh tình

cảm yêu đương sớm….
2.4.2. Nguyên nhân:
Như đã nêu ra phần thực trạng, tuy nhiên qua nhiều năm làm công tác chủ
nhiệm và giáo dục đạo đức HS, tôi xin được chỉ ra một số nguyên nhân cụ
thể:
- Gia đình thiếu sự quan tâm con cái, quá tin tưởng chiều chuộng hoặc bất
lực trước những hành vi đạo đức của con, bố mẹ không gương mẫu hay bản
thân các em bị một tai nạn khủng hoảng về tâm lý do bố mẹ li hôn hoặc phải
sống trong cảnh bố mẹ bất hòa thường xuyên cãi nhau.
- Ảnh hưởng của xã hội, cám dỗ trước những trò chơi, tệ nạn, bắt chước bạn
bè yêu đương và kết hôn trước tuổi vị thành niên…
- Sự quản lý chưa chặt chẽ, nghiêm túc, thiếu phù hợp của nhà trường, GV và
ngay cách thức phân luồng HS đã dẫn đến 1 lớp có quá nhiều HS cá biệt tạo
cơ hội cho các em a dua, bắt chước nhau khó giáo dục và giáo dục triệt để. Có
những thầy cơ giáo chưa linh hoạt trong các tình huống sư phạm khiến cho
nhiều em khơng tâm phục, thường có biểu hiện chống đối, “bất tuân” đạo đức
càng đi xuống. Để ka
2.5. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh
của giáo viên chủ nhiệm.
2.5.1. Cách tiếp cận, tiếp nhận học sinh của giáo viên chủ nhiệm.
- Ấn tượng ban đầu và cũng là ấn tượng đáng nhớ nhất, khó qn nhất
trong lịng HS cũng như giáo viên chính là khoảnh khắc, giây phút gặp gỡ của
HS và GVCN. Vì vậy thái độ thân thiện, cởi mở của GV vô cùng quan trọng.
Sự thân thiện, gần gũi giúp các em thoải mái, yên tâm và có thiện cảm khi
đến với ngôi trường mới, lớp học mới, thầy cô, bạn bè mới. Vì thế, có những
HS sau một thời gian học tập đã trực tiếp tâm sự “mới đầu vào lớp em rất lo
lắng, ngại ngùng và có chút hơi sợ nhưng khi cô bước vào lớp với cái nhìn
thân thiện, ấp áp các em thấy vững tâm và yên tâm với quyết định của mình”.
- Trong quá trình chủ nhiệm cũng vậy, muốn hiểu HS, đặc biệt là những HS
có tính cách, việc làm, lời nói khác biệt (cá biệt) điều quan trọng hàng đầu là

phải gần gũi, thân thiện, hòa đồng để nắm được tâm lý, biết được nguyên
nhân, hành vi vi phạm đạo đức HS. Nếu mình có cái nhìn cảm thơng, thấu
hiếu HS sẽ dễ dàng cởi mở, tâm sự. Và như vậy bước đầu ta đã thu phục được
trái tim HS, tạo niềm tin để các em từng bước nghe theo mà thay đổi.
- Nhờ sự thân thiện với các em giúp (dù chỉ mới chủ nhiệm được 1 năm –
10A7) sự thân thiết giữa cơ trị cịn hơn cả ruột thịt. Các em nếu có chuyện
buồn thường tìm gặp tơi để tâm sự, trao đổi, để tìm sự cảm thơng, tìm cách
tháo gỡ. Khoảng cánh cơ trị đã dược phá bỏ chỉ cịn lại là tình yêu giữa người
mẹ trách nhiệm với các con..
6


2.5.2 Lựa chọn Ban cán sự lớp.
- Lựa chọn được một Ban cán sự lớp có năng lục quản lý, biết tổ chức và
quán xuyến công việc của lớp cho GVCN là bước đầu góp phần thành cơng
của một GVCN giỏi. Ban cán sự sẽ thay GVCN nhắc nhở, đôn đốc, kiểm tra
việc thực hiện nề nếp của lớp, có năng lực hướng dẫn, khích lệ các bạn trong
lớp thi đua vươn lên trong học tập, rèn luyện.
- Vậy làm thế nào để có thể lựa chọn được một Ban cán sự tốt có năng lực,
trách nhiệm như vậy? Trước hết GV phải tìm hiểu (qua các em HS cùng
trường lớp 9, thầy cô cũ, quan sát thái độ, khả năng của các em trong những
ngày đầu tiên, qua học bạ….) sau đó căn cứ vào sự giới thiệu, tín nhiệm của
tập thể lớp hoặc bình bầu dân chủ trong Đại hội đầu năm của lớp.
- Sau khi có được Ban cán sự, GVCN phải biết dùng, phân công nhiệm vụ
đúng người đúng việc, đúng năng lực cho lớp trưởng, lớp phó, bí thư, phó bí
thư đến các tổ trưởng…
2.5.3. Lập sơ đồ lớp học.
Đây là cách giúp các em bỏ tính tự do thích đâu ngồi đó, làm mất trật tự, kỷ
cương lớp học và dẫn đến tình trạng các em không tuân thủ sự sắp xếp của
GV.

- Trước khi lập sơ đồ lớp học bao giờ tôi cũng tơn trọng HS, cho phép các
em tự tìm nơi ngồi phù hợp, với điều kiện phải thực hiện nghiêm túc qui định
lớp học, không làm ảnh hưởng đến người khác, đến tập thể. Sau vài ngày
quan sát, nếu thấy phù hợp thì để ngun cịn bất ổn tơi mới trực tiếp sắp xếp
sơ đồ lớp học cố định (tuy nhiên có thể thay đổi theo tháng, kỳ nếu thấy chưa
hợp lí).
- Cách sắp xếp chõ ngồi cho HS là HS nhỏ- thấp, HS có biểu hiện cá biệt
ngồi trên xuống, hài hòa cân đối giữa những HS ngoan, học lực khá với các
em hay nói chuyện, vi phạm nội quy và lực học trung bình, yếu để các em có
điều kiện học hỏi, tự mình sửa đổi hoặc được giúp đỡ của bạn bên cạnh trên
tình thần “Gần đèn thì sáng”. Đây cũng là cách để các em tự giác tuân thủ kỉ
luật do bản thân chủ động, trực tiếp lựa chọn.
2.5.4. Giáo dục học sinh bằng các sổ bảng biểu.
- Sổ điểm danh (theo dõi sĩ số) theo buổi học chính khóa và học thêm –
giao cho lớp trưởng điểm danh, quản ký.
- Sổ ghi vi phạm nền nếp từng buổi học để GVCN nắm được tình hình và
kịp thời khắc phục, uốn nắn HS – giao cho bí thư quản lý.
- Sổ sinh hoạt (biên bản) cuối tuần.
- Sổ theo dõi điểm kiểm tra miệng của HS bị điểm kém và đạt điểm cao để
có chính sách phạt – thưởng nhằm khích lệ sự cố gắng của HS.
- Sổ xếp loại hạnh kiểm HS theo tuần, tháng, kỳ đảm bảo sự công bằng
trong đánh giá, xếp loại hạnh kiểm HS giúp các em thoải mái, tâm phục.
- Sổ theo dõi HS gửi xe đạp. Vì HS có gửi xe đạp đầy đủ (đối với những
em đi xe và đăng ký gửi xe đạp trong trường) thì GVCN mới dễ dàng quản lý
HS. Nếu các em hơm đó đi xe mà khơng gửi xe ở trường thì rất dễ dẫn đến
tình trạng các em bỏ tiết, bỏ học đi chơi.
7


Một số mẫu bảng biểu của lớp chủ nhiệm.

1. SỔ THEO DÕI SĨ SỐ LỚP HỌC CHÍNH KHĨA - THÁNG:
Năm học: 20... – 20...
TT

Họ và tên

1 2 3 4 5 6 7 8 9 101112....
3 4 5 6 7 CN 2 3....

Tổng

1

2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
...

Ghi chú: - Cán bộ lớp phải điểm danh hàng buổi (Nếu vắng có phép ghi = P,
nếu vắng không phép ghi = K vào cột thứ ngày tương ứng)
8



2. SỔ THEO DÕI NỀ NẾP CỦA HỌC SINH - LỚP
- Tên học sinh:………………………
- Địa chỉ:…………………………..
- Tên bố:………………………....….
- Tên mẹ:………………………..…
Số điện thoại:……………………...
Số điện thoại:….………………......
Tuần Ngày, tháng Tiết

Nội dung vi phạm

...

9


3. SỔ THEO DÕI XẾP LOẠI HẠNH KIỂM HS THEO TUẦN/ THÁNG:
Năm học: 20... – 20...
TT Họ và tên
Tháng 2
Tháng 3
Tháng 4
Tháng 5 HK CN
1 2 34 5 TH 1 2 3 4 5 TH 1 2 3 4 TH 1 2 3 4 5 TH
1
2
3
4
5

6
7
8
9
10
11
12


4. Trường THPT Triệu Sơn 5

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
10


Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Lớp:
Triệu Sơn, ngày..... tháng...... năm......
BIÊN BẢN SINH HOẠT LỚP
I. Địa điểm, thời gian, thành phần.
1. Địa điểm.
.............................................................................................................................
2. Thời gian.
Từ......giờ..... phút đến ...... giờ......phút ngày......tháng...... năm.........................
3. Thành phần.
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
II. Nội dung.
1. Tình hình học tập, trèn luyện đạo đức của lớp trong tuần.
a. Ưu điểm

.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
b. Nhược điểm
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
c. Giải pháp khắc phục những tồn tại.
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
2. Công việc tuần sau.
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
3. Những nội dung khác.
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
III. Kết luận
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Giáo viên chủ nhiệm

Lớp trưởng

Thư ký
[7]

2.5.5. Phương pháp nêu gương.
11



- Đến các trường học, cấp học phần lớn ta thường bắt gặp khẩu hiệu “Mỗi
thầy cô giáo là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo”. Đây không chỉ là
lời nhắc nhở mà còn là niềm tự hào cho mỗi giáo viên, bởi thiên chức của
chúng ta là mang “ánh sáng” đến cho HS thì hơn ai hết bản thân ta phải là
một nguồn sáng, dù là ánh sáng mặt trời hay chỉ là đốm than hồng thì cũng
không thể thiếu trong mỗi tâm hồn người GV. Muốn có được thứ ánh sáng ấy
đã khó, giữ được nó trong thời buổi kinh thế thị trường này càng khó hơn
nhiều. Chính điều đó bất kể ai, để trở thành một giáo viên đứng vững trong
lòng HS ta đều phải là một tấm gương sáng biết tự hoàn thiện phẩm chất,
nhân cách của mình.
Đặc biệt người GVCN cần phải làm gương, phải có trí tuệ, lương tâm, sống
mẫu mực, tự trọng và biết giữ chữ “tín” trước HS, đồng thời phải là cán cân
cơng lí trong q trình xử lí vi phạm, đánh giá, xếp loại hạnh kiểm hàng tuần,
tháng, kỳ, năm của HS.
Ví dụ: Để giáo dục 1 HS khơng mặc đồng phục, để tóc khơng đúng quy
định…trước hết GV phải thực hiện nghiêm túc đồng phục và đầu tóc gọn
gàng.
Chẳng hạn để giáo dục em Nguyễn Thị Thúy, Nguyễn Thị Linh, Đỗ Thị
Thủy (12A3) nhuộm tóc khơng đúng quy định của trường, tơi chỉ nói cơ cũng
thích nhuộm tóc vì làm đẹp là ước mơ của tất cả mọi người, làm đẹp cho mình
là làm đẹp cho xã hội nhưng phải phù hợp với mơi trường, hồn cảnh. Hơn
nữa người dân Việt Nam ta lúc nào cũng coi trọng mái tóc của người con gái
“hàm răng mái tóc là góc con người”. Đồng thời tơi cũng nghiêm khắc nói
với các em rằng: đã là quy định và một khi chúng ta đã cam kết thì chúng ta
phải thực hiện đúng quy định – đó là chữ tín của con người, người được
người khác tôn trọng là người biết giữ chữ tín. Sau hơm đó các em đã nhuộm
tóc lại và không một lần tái phạm nữa.
- Không chỉ đầu tóc, trang phục mà ngay cả trong lời nói và hành động, bất
kể GV nào đều phải nói năng chuẩn mực trước HS. Người ta thường nói “Lời
nói gió bay” vì thế nhiều GV vơ tư phát ngơn với GV khác trước HS bằng từ

ngữ mày tao, chi tớ; có GV xưng xơ với học trị bằng tao, mày; mắng chửi
bằng những lời lẽ xúc phạm, văng tục trước học sinh thậm chí nhiều lần đánh
HS, …. Theo tơi nghĩ, đã là HS thì dù ngoan hay hư đều cần được giáo dục
bằng những lời hay ý đẹp, bằng những hành động văn hóa bởi hơn ở đâu hết
trường học là cơ quan văn hóa và mỗi thành viên trong đó (dù là HS hay GV)
đều là những con người có văn hóa. Vì vậy, nếu dùng kiểu ngơn ngữ như thế
để giáo dục những HS được coi là cá biệt thì có lẽ sẽ làm hỏng cả q trình
giáo dục.
- Tuy nhiên chỉ GV nỗ lực thì vẫn chưa đủ, HS mới là yếu tố quyết định.
Việc nêu gương khơng chỉ ở thầy cơ mà cịn ngay các em HS bởi “học thầy
không tày học bạn” nhưng cách thức này phải thật tế nhị, khéo léo nếu không
vô hình trung sẽ làm HS tự ái, xấu hổ và mặc cảm.
Ví dụ: Em Nguyễn Văn Long ở lớp 10A7 đầu năm hay đi học muộn, tôi
cũng chỉ hỏi qua vì nghĩ các em chưa quen thời gian biểu ở trường mới nhưng
em vẫn tiếp tục đi học muộn, kể cả học thêm buổi chiều. Tôi hỏi, em bảo nhà
12


có việc bận, xe hỏng. Tơi lấy một em khác trong lớp ở xa trường nhất nhưng
chưa một lần đi muộn hỏi xem em đi học từ mấy giờ, có bao giờ xe hỏng
không? Em trả lời em đi từ 6h15 phút, có hơm xe hỏng em gửi lại nhà nào đó
ven đường rồi xin xe bạn cùng đường đi học. Vậy là, tôi vừa khen em khác
mà cũng chẳng phê bình Long, nhưng cách nêu gương ấy lại có tác dụng ngay
vì từ đó đến hết năm Long khơng một lần đi học muộn nữa.
2.5.6. Huy động nội lực tập thể.
Quá trình giáo dục đạo đức lối sống HS phải có sự kết hợp đồng bộ, nhịp
nhàng, thống nhất giữa GVCN với GVBM và các đoàn thể nhằm huy động và
phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong nhà trường (kể cả bên
ngoài như phụ huynh, công an) để xây dựng môi trường giáo dục thân thiện
phù hợp với sự kỳ vọng của phụ huynh, của tồn xã hội, đồng thời phát huy

được tính chủ động sáng tạo của các em trong học tập và tu dưỡng.
- Để có sự phối kết hợp ăn ý trong giáo dục đạo đức cho HS, GVCN ngồi
việc tìm hiểu, nắm được tâm ý, tính cách, hồn cảnh các em cịn phải thường
xun gặp gỡ, trao đổi với PH tìm biện pháp giáo dục phù hợp với từng đối
tượng HS.
Ví dụ: Trong lớp 12A3 (2017 - 2018), có khoảng 15 em học kém lại hay nói
chuyện riêng trong khi giáo viên giảng bài, không làm bài tập, hay quên sách,
bút, phù hiệu, đi học muộn, hút thuốc lá, dùng điện thoại trong giờ học, nghỉ
học vơ lí do, bỏ tiết…. tơi tìm hiểu thì biết được: em thì vì học yếu, ngại học;
em thì nhà quá nghèo nên ở nhà đi làm vài hơm; em thì buồn vì bố mẹ ly hơn;
em thì mặc cảm vì bố hay bất hịa, cãi nhau; em thì bố mẹ bất lực khơng thể
giáo dục được….. Mỗi một lí do, một hồn cảnh. Vì vậy GVCN phải trao đổi
với GVBM vừa để động viên giúp đỡ, vừa uốn nắn giáo dục theo kiểu “mưa
dầm thấm lâu” lại vừa có những biện pháp mạnh mời PH, yêu cầu HS viết
kiểm điểm cam kết không tái phạm và phụ huynh ký vào (nếu tái phạm sẽ cho
ở lại lớp hoặc kỉ luật đình chỉ học…), các em sẽ tự nhận thấy sai sót, khuyến
điểm mà sửa đổi.
- Trong trường Triệu Sơn 5, thầy Hiệu phó, Đồn thanh niên và Ban nề nếp là
lực lượng mà HS thấy sợ nhất. Chỉ cần thầy bóng thầy Hiệu phó tất cả các em
đều lo chỉnh đốn trang phục gọn gàng, thấy ban nề nếp đi kiểm tra là lập tức
phải đầy đủ phù hiệu, sơ vin, có nhiều em HS nam phải vội trốn ngay vì tóc
q dài mà chưa kịp cắt….Vì thế GVCN ln nhờ bóng các thầy trong các
đoàn thể để kết hợp giáo dục học sinh, giúp các em từng bước biết ý thức
trách nhiệm và thực hiện nghiệm túc nội quy người học, mang tinh thần xung
kích của người ĐVTN, học trị ngoan – giỏi. Điều đó khẳng định rằng chỉ có
sức mạnh tập thể mới tạo nên thành cơng, như Bác Hồ đã nói:
Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng.
2.5.7. Tăng cường tổ chức các hoạt động ngồi giờ.
- Dù biết rằng học tập là công việc hàng đầu của các em khi đến trường,

hơn nữa lại là lứa tuổi mà các em đang tập trung thời gian công sức để trau
dồi tri thức chuẩn bị cho kỳ thi THPTQG. Nhưng bên cạnh việc học tập các
em cần được tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí, TDTT, văn nghệ….để
13


giải tỏa những căng thẳng, áp lực trong học tập nhằm “hồi phục” tinh thần
cho các em, lại giúp các em phát huy năng khiếu, sở trường, tính sáng tạo,
kích thích tính tìm hiểu khám phá của các em và như vậy sẽ phần nào giúp
các em tự nhận thức và hồn thiện chính mình.
- Nhận thấy sự cần thiết, tầm quan trọng của hoạt động ngoài giờ trong giáo
dục đạo đức cho HS, GVCN đã cùng với Đoàn trường THPT Triệu Sơn 5 tổ
chức rất nhiều hoạt động ý nghĩa như: Bóng đá nam chào mừng ngày 26/3,
phong trào tri đua văn nghệ, báo tường mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11,
giáo dục kỹ năng sống cho HS trong các ngày lễ 3/8, 20/10, và đặc biệt là
trong 3 năm liên tục nhà trường đã tổ chức sân chơi trí tuệ hữu ích cho tất cả
các em HS là “Hành trình khám phá tri thức”. Dù mỗi chi đồn – lớp chỉ cử
2 - 3 học sinh đại diện nhưng kiến thức trí tuệ lại được huy động của cả tập
thể. Trước tuần thi 1,2 tuần tôi thường yêu cầu mỗi em trong lớp chuẩn bị 10
câu hỏi trên tất cả các lĩnh vực rồi gửi lại cho Bí thư tập hợp thành các lĩnh
vực cụ thể. Vào 10 phút đầu giờ tơi thường cho Bí thư đứng lên đọc câu hỏi
cho cả lớp cùng suy nghĩ trả lời, vừa luyện cho các em được chọn thi hành
trình vừa là cơ hội để tất cả các em trong lớp bổ sung kiến thức hiểu biết trên
nhiều lĩnh vực.
Có thể khẳng định đây là một sân chơi trí tuệ vơ cùng bổ ích và thú vị,
khơng chỉ giúp các em trực tiếp chơi mà giúp tất cả học sinh toàn trường có
thêm nhiều trải nghiệm về hiểu biết xã hội, kích thích sự tìm tịi và sáng tạo
của các em, hướng các em vào việc học tập và tích lũy vốn hiểu biết, vốn
sống. Vì vậy, so với những buổi chào cờ đơn thuần chỉ đánh giá, tổng kết hoạt
động tuần thì những hơm thi hành trình các em lại rất trật tự và chăm chú theo

dõi. Đây chẳng phải là biện pháp giáp dục đạo đức tích cực nhất hay sao?
2.5.8. Giáo dục học sinh bằng cái “Tâm” của giáo viên chủ nhiệm.
Là một giáo viên chủ nhiệm nhiều năm (từ khi ra trường, trừ thời gian
nghỉ sinh – cịn lại năm nào tơi cũng vinh dự được làm công tác chủ nhiệm),
tôi nhận ra rằng phương pháp giáo dục đạo đức tốt nhất của một người GVCN
tâm huyết chính là lấy cái “Tâm” để thu phục cái “Tính” (tính cách), lấy tấm
lịng để cảm hóa tấm lịng. Vì con đường gần nhất và cũng nhanh nhất để thức
tỉnh tâm hồn của các em chính là tình u của người giáo viên với học trò.
- Một GVCN được HS kính trọng, nể phục ngồi cái Tài cần phải có cái
Tâm. Một nhà hiến triết đã nói “Mục tiêu của giáo dục không phải là dạy
cách kiếm sống hay cung cấp dụng cụ để đạt được sự giàu có mà đó phải là
con đường dẫn lối tâm hồn con người vươn đến cái Chân và thực hành cái
Thiện” (Vi jaya lakshmi Pandit – Những câu nói hay về giáo dục” [8]. Đúng
vậy, hãy lấy cái Tâm để cảm hóa trái tim của học trò, để dẫn lối tâm hồn các
em đến với cái Thiện. Cái Tâm của GVCN là sự tận tụy, niềm say mê nghề,
cái tâm gắn bó, yêu thương, thấu cảm, chia sẻ với HS. Vì cái Tâm là nguồn
góc để hình thành đạo đức nhân cách con người, là sức mạnh nâng đỡ, cứu
vớt con người trước những lầm đường lạc lối và chính cái Tâm của GVCN sẽ
là sức mạnh, động lực để giáo dục tốt đạo đức cho HS.
- Cái Tâm sẽ cho GVCN trách nhiệm với cơng việc, với HS trong lớp để từ
đó tìm hiểu, nắm bắt và thu phục trái tim HS nghe theo mình, rèn luyện, trau
14


dồi đạo đức để là trò ngoan. Cái Tâm sẽ giúp GVCN biết lắng nghe, bình tĩnh,
kiềm chế trong mọi tình huống, từng bước dẫn dắt giáo dục HS, đặc biệt là
những HS cá biệt.
Ví dụ: Em Lê Văn Tiến, Lê Văn Tâm lớp A3 (2014-2017) thường ngủ gật,
không ghi bài trong giờ học, thậm chí nhà rất gần trường nhưng lại hay đi học
muộn.

Tôi đã gần gũi hỏi chuyện, tâm sự hai em đã mở lịng nói thật vì khơng
hiểu bài, khơng thích mơn học đó (vì mơn học đó khơng phục vụ cho thi
THPTQG) và vì ở nhà phải làm nhiều việc (gia đinh em có máy gặt, máy bừa
nơng nghiệp). Lí do đó vừa phải nhắc nhở, chấn chỉnh HS và đưa ra cách khắc
phục: nếu không hiểu bài thì hỏi bạn và nhờ bạn bên cạnh, trực tiếp hỏi thầy
cơ và quan trọng là tự mình cố gắng thì mới được người khác tơn trọng. Đồng
thời tôi phải phối kết hợp với GVBM, nhờ các thầy cơ để ý hướng dẫn giúp
các em khơng cịn chán, sợ mơn học đó. Tơi cũng gọi điện trao đổi trực tiếp
với phụ huynh và nhờ phụ huynh gọi các em dậy sớm hơn để khơng cịn tình
trạng nhà gần đường xa.
- Cái Tâm sẽ giúp GVCN biết quan tâm và u thương HS như người thân
của mình, khơng nhìn những HS sai phạm, cá biệt bằng cái nhìn thiếu thiện
cảm, thiện chí mà phải nhìn các em bằng con mắt tình thương. Ta nên có cái
nhìn bao dung của người mẹ, người cha; cái gần gũi cảm thông của người
anh, người chị và cái thân thiết, thấu hiểu của người bạn.
Ví dụ: Em Lê Văn Bình, Nguyễn Tăng Hồng lớp A3 (20142017), các em
thường xuyên vi phạm nội quy trường lớp như: nghỉ học khơng cần lí do, đến
lớp không ghi bài, nhuộm tác vàng, đỏ, quần áo không phù hợp (áo phơng
khơng cổ, quần bị rách đầu gối, thậm chí là gây gỗ đánh nhau…).
Đầu tiên tơi nhắc nhở, sau phạt trực nhật, vệ sinh phòng học, viết kiểm
điểm, rồi mời phụ huynh nhưng chỉ được vài hôm đâu lại vào đấy. Cuối cùng
tơi dùng “địn tâm lí” gặp riêng từng em một, và nói rõ hơm nay cơ muốn
nghe em tâm sự những gì khúc mắc, bực dọc hay khó chịu …như một người
bạn. Mới đầu em từ chối, lảng tránh, xa lánh sau một hồi thuyết phục Bình đã
nói thật và xin hứa sẽ thay đổi. Và đúng như lời hứa của một người con trai
trách nhiệm, Bình đã thực sự trở thành một HS tuân thủ đúng nội quy trường
lớp khiến các bạn trong lớp phải ngạc nhiên, thầy cơ khen ngợi.
Cịn em Hồng lần thức hai bị thầy hiệu phó bắt gặp kiểu quần bị “mốt tứ
lỗ” thầy trực tiếp gọi điện cho tơi, 10 phút sau tơi có mặt tại trường cùng với
chiếc quần bò đúng size em mặc và yêu cầu em thay ngay. Mới đầu em có vẻ

chống đối và ngại ngần nhưng sau vài câu nói của tơi: nào là đúng màu u
thích khơng, đúng size em hay mặc khơng, thử mặc xem vừa khơng nào?
….Hồng đã bẽn lẻn đi thay và quay ra với ánh mắt như biết lỗi lẫn xúc động.
Sau lần đó em khơng một lần mặc quần áo sai quy định nữa.
Thế đấy,“lạt mềm bao giờ cũng buộc chặt”, dao to búa lớn không phải là
cách xử lý sư phạm, hãy tùy cơ ứng biết nhưng có lẽ cách tốt nhất, mơ phạm
nhất là hãy lấy trái tim để thu phục, cảm hóa những trái tim. Đây là con
đường gần nhất và cũng nhanh nhất, ngắn nhất.
15


- Trong những năm làm công tác chủ nhiệm tôi nhận thấy rằng: người GVCN
nào chăm lo tới lớp của mình và có năng lực tổ chức quản lý lớp thì học sinh
lớp đó bao giờ cũng ngoan và học tốt. Đúng là “mẹ nào con đó, tướng nào
quân ấy”. Một GVCN tốt ngồi năng lưc, tình u HS cịn phải có cái Uy.
Vậy Uy là gì, làm thế nào để có được Uy? Uy ở đây là uy tín, uy quyền của
người giáo viên trước học trị. Uy tín là lịng kính trọng tin u, lịng kính
khục, khâm phục, ngưỡng mộ của học sinh đối với thầy, cơ…Thầy có chữ
“Uy” thì thầy nói, thầy bảo, thầy dạy trị mới vâng theo. Theo tôi cái Uy tạo
nên từ sự nghiêm khắc, công tâm của GV khi đánh giá, giáo dục HS, được
hình thành từ những cái nhỏ nhất, đó là lời nói, việc làm chuẩn mực, tác
phong, trang phục, cách ứng xử ….và sức hấp dẫn trong từng tiết dạy của thầy
cô. Vậy là, nếu chúng ta biết dùng tấm lịng “trang trải đến mn nơi” thì
chúng ta sẽ nhận được những tấm lòng yêu mến “sống trong đời sống cần có
một tấm lịng”. Vì vậy những lớp tơi chủ nhiệm học sinh rất ngoan, ý thức
tuân thủ nội quy nhà trường tốt, khơng có học sinh nào bị liệt vào danh sách
học cá biệt của nhà trường, phong trào học tập sơi nổi, tích cực đi lên và cuối
kỳ, cuối năm, cuối cấp bao giờ lớp cũng được nhà trường khen thưởng về nề
nếp, về học tập. Đây thực sự là niềm vui, niềm hạnh phúc khơng gì so sảnh
của người GVCN – người uốn nắn thành công những cây non đang trên đà

trưởng thành.
- Và cái Tâm của một giáo viên còn được thể hiện ở việc kịp thời nắm bắt
chuyện tình cảm nam – nữ của học sinh. Vấn đề đáng lo ngại nhất của cả gia
đình, nhà trường và xã hội, trong đó nhất là GVCN, đó là tình trạng học sinh
có quan hệ tình cảm nam- nữ, yêu đương sớm, đặc biệt là các nữ sinh. Một là
yêu ngay trong lớp, trong trường; hai là u bên ngồi. Nếu các em thích
nhau, nảy sinh tình cảm nam - nữ trong trường, lớp dù ít nhiều ảnh hưởng đến
học tập nhưng giáo viên vẫn có thể phần nào kiểm sốt được học sinh, vì dù
sao các em vẫn cịn tromg tầm ngắm của mình, vẫn có thể biết sớm để nhắc
nhở, chấn chỉnh. Nhưng điều đáng lo nhất, “nguy nhất” chính là các em u
bên ngồi nhà trường, gia đình khơng biết, giáo viên khơng biết hoặc có biết
cũng khơng thể qn xuyến được, hoặc chuyện đã rồi, bất khả kháng.
Đây là vấn đề mà tôi quan tâm hơn cả trong quá trình chủ nhiệm, giáo dục
học sinh, nhất là những HS nữ, mà lớp tôi chủ nhiệm đa phần lại là nữ. Cùng
là nữ giới, tôi vừa nhắc khéo nhưng cũng rất nghiêm khắc khi nói đến chuyện
tình cảm nam- nữ học sinh. Tơi phân tích thiệt – hơn, đúng – sai, được – mất
và kể chuyện thời cấp ba, sinh viên của tôi, cũng như nói chuyện về “Tứ đức”
của người phụ nữ để qua đó giáo dục kỹ năng sống cho các em. Tơi cũng
thường xun quan sát, dị hỏi học sinh khác nếu thấy có biểu hiện “khác
thường” về tâm trạng ở một nữ sinh nào. Khi biết các em đang thích, đang
u một ai đó dù trong hay ngồi nhà trường tơi thường tìm cách gần gũi, tâm
sự riêng và lí giải cho các em bằng tấm lòng chân thành như một người đi
trước. Vì thế trong những năm tơi làm công chủ nhiệm (2002 đến nay) tôi
chưa để xảy một trường hợp đáng tiếc nào (lê Bà bất đắc dĩ, xin cô nghỉ học
về lấy chồng).
16


Ngồi các biện giáo dục trên thì trong q trình chủ nhiệm tơi cịn kết
hợp giáo dục đạo đức các em học sinh qua thời gian sinh hoạt 10 đầu buổi

học, qua tiết sinh hoạt cuối tuần, qua những bài giảng Ngữ văn trên lớp…..
2.6. Những kết quả ban đầu thực nghiệm đề tài.
Sau một thời gian nghiên cứu và thực nghiệm cụ thể ở hai lớp chủ nhiệm
gần nhất (12A3, 10A7, 11A7), kết quả ban đầu tôi thu được là:
- Học sinh nhanh chóng đi vào nề nếp, nghiêm túc sửa đổi những sai phạm
và thực hiện nghiêm túc các quy định, nội quy trường lớp.
- Các em đều ngoan ngỗn, lễ phép với thầy cơ, biết quan tâm, chia sẽ giúp
đỡ bạn bè trong học tập và những khó khăn trong cuộc sống (như trường hợp
em Nguyễn thị Dung lớp A3, nhà nghèo, bố mẹ khuyết tật, ốm đau liên miên,
lớp đã cùng nhau quyên góp tiền mua cặp, dép, áo cho bạn và xin miễn một số
khoản đóng góp cho bạn…).
- So với ban đầu, kết quả rèn luyện đạo đức của 2 lớp rất tốt. Và một khi nề
nếp đạo đức tốt thì kết quả học tập bao giờ cũng cao.
Lớp


số

12A3

44

10A7

40

11A7

40


Xếp loại hạnh kiểm
Tốt
Khá
Trung
Yếu
bình
37
6
1
0
(84%) (14%)
(0,2%)
36
3
1
0
(90%) (0,75%) (0,25%)
38
2
0
0
(95%)
(5%)

Giỏi
5
(11,4%)
9
(22,5%)
10

(25%)

Xếp loại học lực
Khá
Trung
bình
30
9
(68,1%) (20,5%)
22
9
(55%)
(22,5%)
2
1
(72,5%) (2,5%)

Yếu
Kém
0
0
0

- Lớp A3 năm lớp 12 xếp thứ 3 về nếp – học tập, lớp 10A7 xếp thứ 2, 11A7
xếp thứ Nhất về nề nếp – học tập và cả hai lớp đều được nhà trường xếp loại
Tập thể tiên tiến xuất sắc và khen thưởng. Lớp 12A3 thi THPTQG 2017 và
đậu 100%.
Riêng lớp 10A7 năm học (2017 – 2018), được tất cả các thầy, cô bộ môn
dạy trong lớp đều đánh giá là lớp ngoan nhất khối 10 và cũng là lớp đạt nhiều
thành tích nhất về phong trào học tập (5 HSG cấp tỉnh, 4 giải Ba, 2 giải

khuyến khích, 23 lượt trên 22 em đạt HSG cấp trường); lên lớn 11A7 thành
tích mà các em đạt được càng đáng ngưỡng mộ hơn: 11 HSG cấp Tỉnh và đạt
Nhất – Nhì trong các phong trào văn hóa, văn nghệ TDTT...
- Nhà trường, GVBM , PHHS và ngay cả GVCN cũng nhận thấy rõ vai trò
quan trọng, to lớn của GVCN trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh trong
nhà trường.

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
17


Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT là vấn đề vô cùng quan trọng trong
hệ thống giáo dục đào tạo. Đạo đức là thước đo giá trị nhân cách con người, là
nền tảng để sự nghiệp Giáo dục phát triển, đất nước vững bền, sánh vai với
các cường quốc năm Châu như sinh thời Hồ Chí Minh hằng mong muốn.
Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THPT là vấn đề then chốt để nâng
cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
Qua quá trình thứ nghiệm “Một số biện pháp về công tác chủ nhiệm nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THPT Triệu Sơn
5” tôi rút ra được một số kinh nghiệm cho bản thân như sau:
- GVCN phải có tâm huyết, trách nhiệm với cơng việc và có sự sáng tạo
trong công tác chủ nhiệm, quản lý, giáo dục học sinh.
- Một GVCN có uy tín, được BGH, đồng nghiệp tin tưởng, học sinh tin u
thì giáo viên đó phải có năng lực, nói được làm được; phải chính xác, cơng
tâm trong đánh giá, xếp loại học sinh.
- Phải có cái Tâm - tấm lịng u thương, thấu cảm, tơn trọng học sinh bằng
tất cả sự chân thành của người “sinh nghề tử nghiệp”.
3.2. Kiến nghị, đề xuất.
Đối với ngành giáo dục đào tạo:

- Tiếp tục quan tâm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
người giáo viên để giáo viên yên tâm phấn đấu và cống hiến cho sự nghiệp
giáo dục.
- Tiếp tục nghiêm khắc với những giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo và kỉ
luật nghiêm khắc với những học sinh có biểu hiện xúc phạm, bơi nhọ danh dự
nhà giáo.
- Cần có những định hướng tích cực, thiết thực cho học sinh trong lựa chọn
nghề nghiệp.
Đối với nhà trường, đồng nghiệp.
- Tiếp tục tuyển chọn những giáo viên có kinh nghiệm, tâm huyết, năng lực
làm công tác chủ nhiệm.
- Tiếp tục kỉ luật một cách nghiêm khắc đối với những học sinh vi phạm nội
quy trường lớp, có biểu hiện vơ lễ, xúc phạm giáo viên để làm gương, răn đe
giáo dục học sinh khác.
- Tạo ra nhiều sân chơi bổ ích, thú vị hơn nữa để các em có cơ hội được học
tập, rèn luyện và từng bước tự hoàn thiện nhân cách.
- Đối với những bộ mơn có nội dung giáo dục đạo đức, GVBM cần lồng
ghép những bài học đạo đức cho học sinh qua các tiết dạy học trên lớp.
Đề tài này đã và đang trong thời gian nghiên cứu, thử nghiệm, cịn nhiều
hạn chế và thiếu sót. Tơi rất mong nhận được sự bổ sung, góp ý chân thành
của đồng nghiệp, của Hội đồng khoa học nhà trường, đặc biệt là những thơng
tin phản hồi từ phía học sinh để đề tài này hoàn thiện hơn, khả dụng hơn.
Qua đề tài này, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới BGH nhà trường, tổ nhóm chun mơn, các bạn bè đồng nghiệp và học sinh các khối lớp, nhất là
lớp 12A3 (2016 – 2017) , 10A7 (2017 – 2018), 11A7 (2018 – 2019) đã hưởng
ứng và giúp tơi hồn thiện đề tài này.
18


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ


Thanh Hóa, ngày 23 tháng 5 năm 2019
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Lê Thị Quyên

Tài liệu tham khảo

19


1. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thức XII
2. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10, NXGD Việt Nam 2006
3. Trang thông tin điện tử, Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Hưng Yên
4. Báo điện tử Vietnam. Net.
5. Nghị quyết Trung ương 2 Khóa VIII
6. (Điều 27-Luật giáo,sửa đổi bổ sung 2009
7. Hồ sơ chủ nhiệm của trường THPT Triệu Sơn 5.
8. Báo điện tử Vietnam. Net.
9. Sách Giáo dục công dân lớp10, NXBGD Việt Nam – năm 2014

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SKKN NGÀNH
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA XẾP LOẠI
Họ và tên tác giả: Lê Thị Quyên
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Triệu Sơn 5, Triệu Sơn, Thanh hóa

Cấp đánh giá
Kết quả
xếp loại
đánh giá Năm học
TT
Tên đề tài SKKN
(Ngành GD cấp xếp loại
đánh giá
huyện/tỉnh;
(A, B,
xếp loại
Tỉnh...)
hoặc C)
Một số biện pháp “tạo tâm Hội đồng khoa
thế” trong giờ đọc – hiểu văn học ngành Giáo
bản Văn học dành cho học dục và Đào tạo
B
2010 – 2011
sinh THPT
Thanh Hóa.
1.

Một số biện pháp nhằm hạn
chế các lỗi thường gặp trong
bài làm văn của học sinh
THPT.

Hội đồng khoa
học Ngành Giáo
dục và Đào tạo

Thanh Hóa.

2015– 2016
C

20



×