Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số giải pháp tư vấn tâm lý cho học sinh lớp 11e8 trường THPT triệu sơn 3 nhằm nâng cao chất lượng giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.7 MB, 20 trang )

1 . Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Bước sang thế kỷ thứ XXI, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có những bước
đột phá, tạo sự chuyển biến nhanh về mọi mặt trong đời sống của người Việt
Nam. Tuy nhiên, những biến động của nền kinh tế thị trường mở cửa cũng gây
ra không ít tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của nhiều người, đặc biệt là
giới trẻ, mà lực lượng đông nhất chính là học sinh trung học phổ thông.
Trong xã hội ngày nay, những tác động nhiều mặt trong đời sống xã hội,
gia đình và nhà trường luôn tạo nên những sức ép tâm lý không nhỏ đối với các
em học sinh, dẫn đến tình trạng chán học, rối nhiễu tâm lý- trầm cảm, hoặc có
những hành vi lệch chuẩn trong các nhà trường ngày càng gia tăng. Đối với học
sinh THPT, đây là thời kỳ phát triển “bùng nổ” về tâm lý, thể chất, và quan hệ xã
hội,...nên các vấn đề tâm lý – xã hội nảy sinh khá phong phú và phức tạp.
Trong những trường hợp như thế, học sinh rất cần đến sự chia sẻ, sự thông
hiểu từ người thân, gia đình, bạn bè,… Thế nhưng trong cuộc sống, người lớn
chúng ta thường đòi hỏi các em phải có ý thức trách nhiệm, có thái độ hợp lý, có
tính độc lập, nhưng mặt khác lại cũng đòi hỏi các em phải chịu sự sắp đặt của
người lớn. Vì vậy, thay vì cho con những lời khuyên, các bậc cha mẹ lại thường
rót vào tai con cái những câu đại loại như: Con phải …, con người ta … còn con
thì …, hồi đó bố (mẹ) …, … không muốn bị áp đặt, không muốn bị so sánh, và
không muốn nghe bố mẹ kể "chuyện đời xưa", con cái thường che giấu cha mẹ
những điều mà các em đang trăn trở, những vướng mắc của bản thân, …
Lâu dần, vì lý do này hay lý do khác, các em đâm ra đề phòng cha mẹ,
thầy cô, thủ thế với bạn bè. Trong khi đó, trên báo chí, trên các trang mạng xã
hội, lại đầy những thông tin bất lợi đối với các em – những "người lớn - trẻ con"
chưa đủ sức sàng lọc để lựa chọn, giữ lại những điều tốt và loại bỏ cái xấu. Các
chuyên gia giáo dục và tâm lý sư phạm đã chỉ rõ: “Khủng hoảng tâm lý lứa tuổi
và các vấn đề sức khỏe tâm thần trường học là một trong những nguyên nhân
chính gây nên bạo lực học đường và khiến vấn nạn này gia tăng với con số
chóng mặt trong thời gian gần đây …” như vụ đánh bạn học sinh lột đồ quay
clip ở trường THCS phú yên tỉnh Hưng Yên vào tháng 3 năm 2019.


Có thể nói, lứa tuổi từ 15 đến 18 là một trong những giai đoạn khó khăn
trong cuộc đời của mỗi người. Sự trợ giúp kịp thời và đúng đắn từ phía người
lớn là một nhu cầu bức thiết đối với trẻ, đặc biệt là khi các em đã rơi vào sự
khủng hoảng tâm lý. Học sinh cần được giãi bày, cần được tâm sự, cần được
những lời khuyên đúng đắn từ người lớn, mà gần gũi với các em nhất chính là
cha mẹ, thầy cô. Và khi không thể có được điều đó từ gia đình, nhiều em đã xem


thầy cô như một chỗ dựa tinh thần. Cho các em những lời khuyên, định hướng
đúng đắn, cho các em con đường phải đi, giúp các em tìm lại niềm tin, niềm vui
trong cuộc sống,… Đó là những điều mà người thầy cần phải thực hiện được để
đáp ứng nhu cầu được tư vấn tâm lý, một nhu cầu có thực và vô cùng bức thiết
của học sinh trong nhà trường phổ thông. Chính vì lý do trên, tôi đã chọn đề
tài “Một số giải pháp tư vấn tâm lý cho học sinh lớp 11E8- Trường THPT Triệu
Sơn 3 nhằm nâng cao chất lượng giáo dục” làm sáng kiến kinh nghiệm trong
năm học 2018-2019 với mục đích được trao đổi cùng các bạn đồng nghiệp các
phương pháp mà tôi đã và đang áp dụng rất có hiệu quả tại ngôi trường tôi đang
công tác và cũng hy vọng cách làm này sẽ được bổ sung, hoàn thiện và nhân
rộng trong Trường THPT Triệu Sơn 3 nói riêng và các trường THPT trên địa bàn
của tỉnh Thanh Hóa nói chung.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu về những diễn biến tâm lý học sinh THPT qua từng giai đoạn để
có những giải pháp tư vấn, tham vấn tâm lý phù hợp.
Tìm hiểu và nghiên cứu về nội dung, hình thức, nguyên tắc, kỹ thuật tư
vấn tâm lý học đường.
Vận dụng được một số kỹ năng tư vấn cơ bản trong quá trình giải quyết
các vấn đề nảy sinh khi giảng dạy và giáo dục học sinh lớp 11E8.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các giải pháp trong công tác tư vấn
tâm lý cho học sinh, nhằm mục đích chia sẻ, giải tỏa tâm lý cho học sinh lớp

11E8 để nâng cao chất lượng giáo dục.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Tìm đọc, nghiên cứu,
phân tích các tài liệu liên quan. Rút kinh nghiệm trong thực tiễn giáo dục. Từ đó
xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Sử dụng phiếu
điều tra tính cách học sinh lớp chủ nhiệm từ đó nắm bắt rõ tâm lý học sinh để có
những giải pháp phù hợp.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Sử dụng phương pháp thống kê để
xử lý số liệu, so sánh kết quả thu thập trước và sau khi tác động.

2


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1 . Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Trên cơ sở nghiên cứu Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi
mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế.
Căn cứ vào hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục trung học năm học
2018-2019 của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT Thanh Hóa.
Căn cứ vào phương hướng nhiệm vụ năm học 2018-2019 của trường
THPT Triệu Sơn 3.
Giáo viên chủ nhiệm trong công tác tư vấn tâm lý học đường cho học sinh
là đề tài tương đối mới mẻ ở trường THPT và chưa có nhiều tài liệu đề cập đến.
Sau đây là một số nghiên cứu được đăng trên các báo điện tử:
ngày 22/4/2019: Tư vấn, tâm lý trong trường học cần
thực hiện ngay.
/>20/12/2017

Ngày 26/7/2018
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Lớp 11E8 trường THPT Triệu Sơn 3 có 38 học sinh, 18 nam và 20 nữ.
Các em đều có đầu vào thấp nhất khối, năng lực học đuối dẫn đấn các em ngại
học và ham chơi.
Giáo dục học sinh không phải chỉ là dạy cho các em về kiến thức, mà còn
phải giúp các em hình thành nhân cách; không chỉ là dạy chữ mà còn phải dạy
người. Vì lẽ đó mà sự nghiệp giáo dục dược mệnh danh là "trồng người". Việc
trồng người này đòi hỏi phải có sự chung tay góp sức của các lực lượng xã hội,
mà quan trọng nhất là sự phối hợp ăn ý, chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường.
Thế nhưng các bậc cha mẹ đôi khi cũng bế tắc trong việc giáo dục con ở tuổi
thanh thiếu niên. Trong lớp 11E8 khi tôi phối hợp với một số phụ huynh có con
đang gặp vấn đề, tôi thường nhận được câu trả lời: “Trăm sự nhờ Thầy, tôi đi
làm cả ngày không có thời gian để ý đến cháu”, hoặc có một số phụ huynh khi
nghe tôi trao đổi về tình hình của con là về nhà họ đánh và chửi con họ rất thậm
tệ. Cá biệt gặp một số phụ huynh có thái độ bất hợp tác, khóa điện thoại thầy cô
gọi, nếu có bắt máy thì ậm ờ cho qua chuyện…
Với một số học sinh, gia đình không phải là chốn bình yên, không phải là
nơi mà em muốn quay về sau mỗi ngày đi học. Em Hoàng Thị Trang một học
3


sinh rất bướng và nghịch trong lớp đã viết cho tôi lá thư đẫm nước mắt trong đó
có đoạn viết: “Thầy ơi, em chán nản mọi thứ, em sợ về nhà bởi bố mẹ em lại
chửi bới, em sợ cảnh phải đối diện với bố mẹ em trong mỗi bữa cơm vì bố mẹ
em luôn sỉ nhục em bằng những từ ngữ thậm tệ …, em không còn niềm tin vào
bản thân mình, vào cuộc sống phía trước…”. Hay như trong lớp tôi có em Đào
Thị Ngọc Yến vì cha mẹ không có con trai, nên ngay từ nhỏ, đã cho con gái ăn
mặc quần áo của con trai, đối xử như với con trai. Đến trường, em hung hăng,
nghênh ngang thể hiện bản lĩnh "đàn anh" của mình. Khi tôi tìm hiểu kỹ và phối

hợp với gia đình thì được bố mẹ em khẩn khoản: “Thầy cố gắng giúp gia đình
giáo dục cháu, chúng tôi bất lực với cháu”.
Tại trường THPT Triệu sơn 3 hiện nay chưa có một phòng tư vấn tâm lý
học đường riêng. Do vậy, khi học sinh có vấn đề về tâm lý cần tư vấn thì các em
luôn tìm sự trợ giúp từ các thầy cô giáo chủ nhiệm.
Quá trình học tập ở trường THPT đòi hỏi các em phải có tính tích cực và
tính tự lập cao hơn và đến cuối cấp học, các em có thái độ nghiêm túc và có ý
thức hơn nhiều với việc học tập và chuẩn bị cho việc thi vào các trường đại học
và chuyên nghiệp. Do tính phức tạp của hoạt động học tập cũng như những yêu
cầu ngày càng cao của gia đình và xã hội, nhiều học sinh rơi vào trạng thái căng
thẳng, áp lực trong học tập, ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học tập và cuộc
sống.
Do đó, kết quả học tập và rèn luyện của các em sẽ khó được cải thiện nếu
nhà trường chỉ tập trung vào việc phát triển những phương tiện giảng dạy và cơ
sở vật chất, tăng cường quản lý về mặt kỷ luật, mà chưa quan tâm đến nhu cầu
tâm lý của học sinh, tâm tư nguyện vọng của các em. Đồng thời, nếu nhà trường
chỉ quan tâm đến kết quả học tập, thi cử, bố mẹ chỉ biết quan tâm đến điểm số
của con ở môn này hay môn khác thì chưa đủ và khó tránh khỏi những rối nhiễu
tâm lý đang xuất hiện ngày càng nhiều ở học sinh lứa tuổi này. Thực tế, các em
cần được giúp đỡ thêm về các mặt như phương pháp học tập, giải quyết khó
khăn trong các mối quan hệ phức tạp trong quá trình học tập và rèn luyện ở nhà
trường và ngoài xã hội.
2.3. Các giải pháp đã áp dụng để giải quyết vấn đề.
Sau khi tìm hiểu kỹ tầm quan trọng của công tác tư vấn tâm lý cho học
sinh tôi đã thực hiện một số giải pháp trong công tác tư vấn tâm lý học đường
cho học sinh lớp 11E8 nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục. Nội dung trong công
tác tư vấn tâm lý học đường cho các em học sinh 11E8, tôi tập trung ở hai nội
dung cơ bản đó là: Tư vấn tâm lý cho những học sinh gặp khó khăn trong học
tập và Tư vấn tâm lý cho những học sinh có vấn đề về cảm xúc và hành vi.
4



2.3.1 Giải pháp 1: Thiêt lập ‘nhật ký lớp chủ nhiệm” và xây dựng mạng
lưới theo dõi cập nhật thông tin.
Đây là giải pháp chung cho cả 2 nội dung tư vấn cơ bản, ngay khi tiếp
nhận lớp tôi thiết lập một sổ tay ghi nhật ký lớp chủ nhiệm. Trong đó dành 38
trang, mỗi trang ghi họ tên đặc điểm tính cách hoàn cảnh gia đình, vắn tắt mối
quan hệ bạn bè (những người bạn thân) của từng học sinh trong lớp. Tôi tạo
những trang nhật ký này bằng những hình ảnh đẹp của các em, và nhờ các em về
nhà ghi rõ thông tin trên trang và tôi đóng lại thành cuốn. Qua cuốn nhật ký lớp
chủ nhiệm tôi có thể nắm được hoàn cảnh kinh tế gia đình, tình hình nhà ở, mối
quan hệ gia đình, xã hội, những ước muốn, sở trường, những khó khăn (nếu có)
… Với những thông tin đầu tiên này, tôi có thể sàng lọc chọn ra những học sinh
có hoàn cảnh đặc biệt, thu thập thêm thông tin về các em thông qua bạn bè, cha
mẹ, giáo viên chủ nhiệm hay thầy, cô giáo cũ của các em. Tuy nhiên, trong cuộc
sống, không có gì là không thể xảy ra. Vì vậy, đối với những học sinh được đánh
giá thật bình thường về hoàn cảnh, về tâm lý, cũng không nên chủ quan cho rằng
không cần phải quan tâm đến các em. Tôi phải thể hiện sự quan tâm của mình
đến với từng học sinh, nhưng cũng phải đặt trọng tâm, trọng điểm ở một số học
sinh cá biệt trong lớp như em Vi Đức Tiến; Lê Đình Dũng; Phạm Đình Lâm; Hà
Thọ Đại; Hà Thọ Hùng; Nguyễn Quang Hải; Nguyễn Thị Nga; Hoàng Thị
Trang; Đào Thị Ngọc Yến…
Bên cạnh đó, tôi đã tự hình thành cho mình một mạng lưới thu thập thông
tin riêng từ các nguồn: Giáo viên bộ môn, cha mẹ, bạn bè của học sinh. Bản thân
là một giáo viên chủ nhiệm, song không phải thời gian nào tôi cũng có mặt trên
lớp và bám sát các em 24/24h. Tôi xây dựng cho mình một mạng lưới gồm 10
em thuộc các tổ, đây là những em năng nổ, được các bạn trong lớp tin tưởng và
yêu quý. Nhóm này là bí mật, chỉ giáo viên chủ nhiệm biết. Nhóm các em học
sinh này sẽ giúp tôi cập nhật những thông tin từ các bạn. Nguồn thông tin mà tôi
thu thập phải giữ bí mật tuyệt đối và từ đó tôi có thể biết những tâm tư, mong

muốn của các em học sinh trong lớp. Bởi việc chia sẻ tâm tư tình cảm của mình
với các bạn dễ hơn việc tâm sự với thầy giáo. Từ đó, tôi sẽ có các giải pháp tư
vấn tâm lý phù hợp và kịp thời.
Với công nghệ 4.0 bùng nổ như hiện nay, mỗi em học sinh trong lớp 11E8
đều có một địa chỉ facebook. Do vậy, bên cạnh “nhật ký yêu thương” bằng giấy,
tôi thành lập một nhóm kín trên Facebook của lớp, có đầy đủ các thành viên
trong lớp. Qua nhóm kín này, tôi ngầm theo dõi các hoạt động cũng như diễn
biến tâm lý của các em trên Facebook, từ đó có những hỗ trợ kịp thời khi các em

5


gặp vấn đề khó khăn. Đồng thời nhóm kín này sẽ ghi lại những khoảnh khắc đẹp
trong đời học sinh của các em.

Hình 1: Nhóm kín của lớp 11E8

Hiệu quả sau khi thực hiện giải pháp 1: 100% các em khi nhận được trang
nhật ký được thầy giáo chủ nhiệm chuẩn bị cho mỗi bạn đều rất hào hứng và
điền đầy đủ thông tin và nội dung theo hướng dẫn. Các em cảm thấy gần gũi khi
được tâm sự với thầy về những ước mơ hoài bão và mong muốn của mình trong
tương lai. Không những thế, tôi có thể kịp thời nắm bắt những khó khăn bất
thường trong học tập và trong cảm xúc, hành vi để lắng nghe, tư vấn và chia sẻ
với các em.
2.3.2. Giải pháp 2: Tạo môi trường gần gũi với học sinh và phụ huynh qua
việc thầy chủ nhiệm và tập thể lớp đi thăm gia đình các thành viên trong
lớp.
Lớp 11E8 là lớp có nhiều học sinh ở các xã miền núi, 100% phụ huynh
đều làm nông nghiệp nên điều kiện kinh tế của gia đình các em còn gặp nhiều
khó khăn. Đầu năm học tôi đã ra chỉ tiêu, mỗi tháng sẽ bố trí thời gian để tôi

cùng các em trong lớp đến thăm gia đình của 5 đến 7 học sinh theo khu vực xã.
Đồng hành cùng các em đến từng gia đình của các thành viên trong lớp
giúp tình cảm thầy trò khăng khít hơn, phụ huynh học sinh thấy thầy giáo chủ
nhiệm quan tâm đến con em mình, bản thân phụ huynh cũng phấn khởi và phối
hợp với giáo viên chủ nhiệm tốt hơn. Qua việc đến thăm từng gia đình học sinh,
được tận mắt nhìn thấy chỗ ăn, chỗ ở, chỗ học tập của các em, giúp tôi hiểu hoàn
cảnh của các em cặn kẽ hơn. Nhiều em học sinh có điều kiện hoàn cảnh gia đình
rất khó khăn như em Nguyễn Thị Nga ở xóm 3 Hợp lý, Triệu Sơn, Thanh hóa;
em Lã Văn Bắc ở xóm 6 Triệu Thành, Triệu sơn, Thanh Hóa; em Nguyễn Thị
Thảo ở xóm 1 Thọ Sơn, Triệu Sơn, Thanh Hóa…., nhưng các em vẫn cố gắng
chăm ngoan và đi học đều. Khi đến thăm gia đình từng học sinh trong lớp, còn
tăng cường mối quan hệ khăng khít giữa phụ huynh học sinh và giáo viên chủ
nhiệm. Các em học sinh chưa chăm ngoan thấy thầy giáo quan tâm cũng tự giác
và thay đổi thái độ học tập và làm việc tốt hơn.
6


Hình 2: Thầy giáo chủ nhiệm và các bạn học sinh thăm gia đình một số học sinh trong lớp

Kết quả sau khi thực hiện giải pháp 2: Sau khi tôi đến thăm các gia đình
học sinh, tôi nhận thấy các em cởi mở hơn gần gũi hơn với thầy giáo. Các em
coi tôi như một người bạn, một người thân của các em để có thể chia sẻ tâm sự
những khó khăn. Đến thăm gia đình học sinh giúp tôi biết chính xác hoàn cảnh
gia đình từng em, tôi sẽ có những phương pháp nắm bắt và tư vấn tâm lý phù
hợp. Bên cạnh đó, tôi liên hệ với nhà trường, hội chữ thập đỏ để có những hỗ trợ
về tài chính động viên các em có hoàn cảnh khó khăn để giúp các em giảm bớt
khó khăn trong quá trình học tập.
2.3.3. Giải pháp 3: Tư vấn tâm lý học đường cho những học sinh gặp khó
khăn trong học tập
a. Giải pháp 3.1: Phân loại nhóm học sinh có năng lực học tập theo từng môn

học để có những tác động tâm lý phù hợp.
Học tập kiến thức là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhà
trường THPT. Trong lớp 11E8 đặc thù là lớp cơ bản, các em có lực học trung
bình và yếu ở các môn khoa học tự nhiên. Tôi dựa vào kết quả tổng kết năm học
lớp 10 để phân loại từng nhóm học sinh bao gồm 4 nhóm:
+ Nhóm học sinh có lực học yếu các môn thuộc ban khoa học tự nhiên.
+ Nhóm học sinh có lực học yếu các môn thuộc ban khoa học xã hội.
+ Nhóm học sinh học yếu môn tiếng anh.
+ Nhóm học sinh học yếu tất cả các môn.
Sau mỗi buổi học, tôi lần lượt quan sát trên sổ đầu bài và sổ điểm xem
điểm kiểm tra của các em ở các môn học. Nhiều giáo viên sẽ quát hoặc la mắng
khi các em bị điểm kém làm ảnh hưởng đến thi đua của lớp, nhưng tôi không
làm như vậy. Một học sinh bị điểm kém môn học nào đó, tôi sẽ tìm hiểu nguyên
nhân vì sao em bị điểm kém để đưa ra giải pháp phù hợp giúp các em học tập tốt
hơn.
Ví dụ 1: Thời gian đầu năm học, ba tuần liên tục em Lê Văn Phúc lớp
11E8 thường xuyên bị điểm 1 và 2 môn Toán, Lý. Qua việc phân nhóm, tôi biết
em Phúc thuộc nhóm các em học sinh có lực học yếu các môn thuộc Ban khoa
7


học tự nhiên. Tôi đã gặp riêng em, nhẹ nhàng trao đổi cởi mở, ban đầu em rụt rè,
sợ hãi không dám nói suy nghĩ của mình. Sau đó khi được thầy khích lệ động
viên, em phúc tâm sự: “ Em không hiểu các phép toán và các công thức sau mỗi
lần thầy dạy, vì thầy dạy toán dạy khá nhanh. Em chưa kịp suy nghĩ thì các bạn
đã hiểu rồi, về nhà em không làm được bài tập. Cứ vậy em cảm thấy chán và
ngại học môn toán.”
Ngay sau đó, tôi gặp riêng tất cả các em học yếu các môn thuộc Ban khoa
học tự nhiên để cùng tìm nguyên nhân. Sau đó tôi nói chuyện với các thầy dạy
môn Toán và các môn Ban khoa học tự nhiên nhờ các thầy cô quan tâm thêm

đến các em trong mỗi tiết học chính khóa và bồi dưỡng. Tôi giao nhiệm vụ cho
các em học tốt hơn môn toán trong lớp như em Quỳnh; em Đức kèm cặp thêm
cho em Phúc và các bạn học yếu môn Toán. Trong các tiết sinh hoạt 10 phút đầu
giờ, Tôi dành thời gian để hỏi han em Phúc và các em học yếu xem các em có
hiểu bài hơn không? Có làm bài tập về nhà chưa? Các bạn Quỳnh và Đức có hỗ
trợ em nhiệt tình không?...Và luôn động viên khích lệ đồng thời nhắc nhở em
tập trung hơn cho việc học tập. Không những thế, tôi mời các phụ huynh có con
học yếu môn Toán đến trường để trao đổi cùng phối hợp trong việc giúp con học
tập ở nhà.
Sau một thời gian, tôi thấy lực học của em Phúc và một số em có sự thay
đổi trong môn Toán, các em dần hiểu vấn đề và không còn ngại học nữa. Từ đó
kết quả học tập đã có nhiều chuyển biến tốt.
Ví dụ 2: Trong lớp có 1 nhóm nam như em Lữ văn Huấn; Nguyễn Văn
Hiếu; Trịnh Đình Nam, Hà Thọ Hùng ; Phạm Văn Tuấn ham chơi điện tử không
chịu khó học tập, nhiều môn không ghi bài, các thầy cô giáo bộ môn phàn nàn
bất lực. Tôi gặp riêng các em trên phòng nền nếp của nhà trường, đề nghị các em
cùng tôi xem video. Tôi sưu tầm 1 số video về ảnh hưởng của game đến học tập;
chứng loạn thần khi ham game… để các em xem đi xem lại. Sau đó để các em tự
rút kinh nghiệm và viết ra giấy cho tôi là các em muốn làm gì?. Bên cạnh đó tôi
kiểm tra nhóm học sinh này thuộc nhóm học sinh yếu tất cả các môn, tôi đề nghị
một số bạn học sinh học tốt môn xã hội như em Lan; em Phương và nhóm các
bạn học tốt các môn khoa học tự nhiên như em Duyên; em Minh hỗ trợ các bạn,
nhắc nhở các bạn ghi bài đầy đủ và chuẩn bị bài ở nhà. Không những thế tôi
luôn bám sát các học sinh này để hỗ trợ động viên kịp thời.
Kết quả sau khi thực hiện giải pháp 3.1: Các bạn học tốt hơn giúp các
bạn học yếu hơn để cả lớp cùng tiến bộ. Lớp 11E8 đầu năm có rất nhiều học
sinh thiếu tự tin trong học tập, nhưng sau một thời gian thực hiện giải pháp nêu
trên thì 100% học sinh đều tự tin tham gia đợt khảo sát kiến thức thi THPT quốc
8



gia do nhà trường tổ chức và kết quả rất đáng khích lệ. Như em Lê Văn Phúc đã
đạt 5.2 điểm môn toán trong kỳ khảo sát, em Lữ Văn Huấn đạt 13.6 điểm/3 môn
Toán, Văn, Anh…
b. Giải pháp 3.2: Tác động tâm lý học sinh thông qua những lời khen ngợi,
khích lệ, động viên.
Ở nhà các em học tập kém, bố mẹ vì quá kỳ vọng vào con mà la mắng.
Nhiều em không dám nói cho bố mẹ biết kết quả học tập của mình. Hoặc nhiều
em bị một con điểm kém là lo lắng sợ hãi. Nếu ở trường, thầy cô giáo cũng chê
bai và phê bình các em nữa sẽ làm cho các em mất tự tin và chán nản trong việc
học tập. Việc giáo viên chủ nhiệm cần làm là luôn cố gắng quan sát để tìm ra
những ưu điểm của các em thông qua những công việc hằng ngày kịp thời khéo
léo ngợi khen và khích lệ các em, tạo niềm vui, sự hứng khởi và động lực để các
em học tập tốt hơn.
Ví dụ 3: Trong nhóm nam ham chơi có em Phạm văn Tuấn, trong 1 tiết
Sinh học do tôi giảng dạy, em xung phong trả lời bài. Tôi liền gọi em lên bảng,
mặc dù câu trả lời chưa thực sự tốt, xong nếu giáo viên khác sẽ cho em ngồi
xuống và nói câu trả lời chưa chính xác, nếu giáo viên làm như vậy, em Tuấn lần
sau sẽ ngại suy nghĩ và không xung phong trả lời bài nữa. Tôi thì khác, sau khi
nghe câu trả lời của em, tôi nhẹ nhàng đi xuống chỗ em ngồi vỗ nhẹ vai em và
nói: “Em đã rất tự tin và trả lời rất tốt, thầy mong em sẽ suy nghĩ thêm chút nữa
để câu trả lời hoàn thiện hơn nhé. Cố gắng phát huy tinh thần xung phong cho
các câu trả lời sau và với các môn học khác nữa nhé. Thầy tin tưởng và chờ đợi
em”. Tôi tiếp tục quan sát và theo dõi em Tuấn, tôi thấy em dần thay đổi, với
những thay đổi dù nhỏ của em tôi kịp thời khích lệ động viên em để em cảm
thấy luôn được quan tâm, và tự tin cố gắng.
Ở giải pháp này, đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải có sự quan sát tinh tế,
ai cũng muốn được ngợi khen, khích lệ. Ngay cả những em học sinh hay vi
phạm nội quy, nếu giáo viên chủ nhiệm chỉ phạt và phạt mà không tìm được ưu
điểm dù nhỏ của các em để khích lệ ngợi khen thì các em sẽ thấy mình vô dụng

và không cần cố gắng nữa.
Kết quả sau khi thực hiện giải pháp 3.2: Không có một học sinh nào yếu
kém, chỉ là chúng ta chưa biết khai thác hết điểm mạnh và khả năng của các em
mà thôi. Trong quá trình giảng dạy và giáo dục, thầy cô để ý quan sát và động
viên khích lệ kịp thời, uốn nắn những sai sót chỉ bảo cho các em chân tình thì
các em sẽ có nhiều chuyển biến đáng khích lệ. Rất nhiều em học sinh trong lớp
11E8 đã tự tin và cố gắng hơn trong học tập.

9


c. Giải Pháp 3.3: Sử dụng “Bản mục tiêu phấn đấu trong năm học” là đòn bẩy
giúp học sinh có động lực trong học tập.
Một trong những lí do khiến học sinh gặp vấn đề khó khăn trong học tập
là các em không có hứng thú trong học tập, các em không xác định được mục
tiêu học tập cho mình và phương pháp học phù hợp. Để có được kết quả học tập
cao, mỗi em học sinh cần tự xây dựng cho mình một kế hoạch học tập và mục
tiêu phấn đấu cụ thể. Qua đó giúp các em hình thành những thói quen tích cực
của bản thân, làm việc có kế hoạch, phân chia thời gian học tập một cách khoa
học và hiệu quả nhất. Mỗi học sinh phải đặt ra cho mình nguyên tắc học tập và
rèn luyện và phải nỗ lực để đạt được mục tiêu đó. Việc chăm chỉ học tập và rèn
luyện cho ngày mai lập nghiệp sẽ giúp các em dành phần lớn thời gian cho mục
tiêu của bản thân hạn chế tối đa thời gian cho các mục đích khác như “ nghiện
game”; “nghiện facebook”. Giáo viên chủ nhiệm phải có định hướng nghề
nghiệp cho học sinh và giúp các em xác định được mục tiêu của bản thân sau khi
học xong.
Để thực hiện giải pháp này ngay từ đầu năm học Giáo viên chủ nhiệm đã
cho học sinh viết bản mục tiêu phấn đấu trong năm học 2018-2019, có chữ ký
xác nhận của phụ huynh sau đó đóng thành tập treo phía sau bàn làm việc của
giáo viên. Bản “mục tiêu phấn đấu trong năm học” không phải viết cho có, mà

tùy theo năng lực của từng đối tượng học sinh các em sẽ đề ra cho mình một
mục tiêu phù hợp mà bản thân có thể thực hiện được. Ví dụ: em Nguyễn Đình
Nam do học lực yếu nên có tâm lí chán học, ham chơi hay bỏ giờ bỏ tiết dẫn đến
kết quả học tập năm lớp 10 bị xếp loại yếu, hạnh kiểm yếu, nên mục tiêu phấn
đấu của em năm lớp 11 là học lực trung bình, hạnh kiểm khá, không bỏ giờ bỏ
tiết, không nghỉ học vô lý do.
Tổng kết học kì I năm học 2018-2019 vẫn còn một số em chưa hoàn
thành được mục tiêu mà bản thân đã đề ra từ đầu năm học đó là các em: Nguyễn
Thị Bích, Nguyễn Quang Hải, Lữ Văn Huấn, Hà Xuân Tuấn Lâm, Lê Thị Nhung,
Nguyễn Văn Thành. Tuy nhiên giáo viên chủ nhiệm luôn theo dõi và không
ngừng động viên khích lệ các em để các em nỗ lực phấn đấu để có kết quả vượt
bậc ở học kì 2. Tôi luôn tin tưởng vào khả năng phấn đấu của các em và tạo điều
kiện tốt nhất để các em hoàn thành mục tiêu đã đề ra. Việc phấn đấu để đạt được
mục tiêu cuối năm sẽ giúp các em chăm chỉ học tập, biết được mục tiêu thật sự
của cuộc đời trong giai đoạn này.

10


Hình 2: Bản mục tiêu phấn đấu năm học 2018 – 2019 của lớp 11E8

Kết quả sau khi thực hiện giải pháp 3.3: Tổng kết học kì II và cả năm
100% học sinh lớp 11E8 đã hoàn thành được mục tiêu phấn đấu về học tập và
rèn luyện có em hoàn thành vượt mức như các em: Ngân Thị Duyên; Đinh Thị
Hương; Lê Thị Như Quỳnh; Trần Thị Huyền Trang; Trịnh Thị Huyền Trang; Lê
Thị Xuân; Đào Thị Ngọc Yến…100% học sinh lớp 11E8 tự tin tham gia kỳ khảo
sát kiến thức thi THPT Quốc gia do nhà trường tổ chức. Nhiều em đạt kết quả
cao như: em Lê Thị Như Quỳnh; Lê Thị Xuân; Lê Thị Phương Thanh; Lê Thị
Hồng Minh…
2.3.3. Giải pháp 4: Tư vấn tâm lý học đường cho những học sinh có vấn đề

về cảm xúc và hành vi.
a. Giải pháp 4.1: Giáo viên chủ nhiệm phải là một người bạn đồng hành, một
người thân vừa là một người thầy để luôn tinh tế, kiên nhẫn, lắng nghe và chia
sẻ.
Với sự chênh lệch về tuổi tác, để học sinh có thể tin tưởng và chia sẻ
những khó khăn của mình thì điều trước tiên bản thân tôi cần thay đổi để phù
hợp và gần gũi với các em hơn. Để các em cảm thấy an toàn, tin tưởng giáo viên
chủ nhiệm tuyệt đối, có như vậy khi gặp vấn đề khó khăn các em sẽ có chỗ dựa
và tìm đến giáo viên chủ nhiệm nhờ tháo gỡ.
Ở giải pháp này, giáo viên chủ nhiệm cần trang bị cho mình kỹ năng quan
sát. Quan sát để phát hiện những thay đổi trong hành vi, những hiện tượng bất
thường trong đời sống học đường, quan sát những biểu hiện của học sinh có
nguy cơ rối nhiễu tâm lý. Đó có thể là những biểu hiện nhỏ: đi trễ, không mang
giày, cáu gắt với bạn, lo lắng, bất an, … hay lớn hơn như nghỉ học không xin
phép, cúp tiết. Và nghiêm trọng hơn, như vi phạm kiểm tra, vô lễ với giáo viên,
… Với những học sinh cá biệt, việc nghỉ học, cúp tiết là chuyện thường ngày,
11


nhưng với những học sinh vốn ngoan ngoãn, chăm chỉ thì một biểu hiện nhỏ
nhất cũng là điều cần lưu ý.
Ví dụ 1: Em Trịnh Thị Huyền là một học sinh ngoan trong lớp. Một học
sinh học khá, chưa một lần đi trễ hay nghỉ học hôm sáng thứ 2 lại đi học trễ. Khi
được hỏi trước lớp về lý do đi trễ, đã im lặng. Tôi liền gọi riêng em Huyền ra hỏi
han, em tâm sự: “Thời gian gần đây cha mẹ hay cãi vã nhau. Tối hôm đó, bố em
về nhà khi đã say rượu, đánh mẹ con em và bắt em nghỉ học, bố lấy dao đâm nát
bánh xe của chiếc xe đạp em vẫn đi học để em không đi học được nữa. Sáng ra,
em phải đi bộ hơn ba cây số để đến trường, vì ở quê sáng sớm chưa có nơi sửa
xe nào mở cửa, em Huyền nấc nghẹn”. Với trường hợp này, nếu Giáo viên chủ
nhiệm cứ cứng nhắc áp dụng kỷ luật mà không cần hỏi han, có thể sẽ gây một

chấn động tâm lý cho học sinh.
Trước những học sinh cần tư vấn, bản thân tôi là giáo viên chủ nhiệm cần
thật nhẹ nhàng, kiên nhẫn, biết lắng nghe và biết thấu hiểu. Khi thầy cô lắng
nghe và thể hiện sự thấu hiểu, các em sẽ dễ dàng bày tỏ những điều đang chất
chứa trong lòng. Tuy nhiên, việc cần làm của giáo viên chủ nhiệm trong công tác
tư vấn không phải là chỉ ra cho các em vấn đề nằm ở đâu và giải quyết vấn đề
thay cho các em, mà là tạo điều kiện để học sinh tự nói ra vấn đề, tự nhìn nhận,
đánh giá vấn đề, tự giải quyết vấn đề, nếu như vấn đề nằm trong khả năng của
các em. Nói cách khác, giáo viên chủ nhiệm với tư cách là người tư vấn, phải
khơi dậy được ở học sinh niềm tin vào bản thân, gạt bỏ những rào cản tâm lý để
các em có thể đối mặt với những vấn đề của mình. Tuy nhiên, khi vấn đề không
chỉ thuộc về cá nhân học sinh, thì giáo viên chủ nhiệm lại phải trợ giúp cho các
em bằng nhiều cách, trong đó có việc tiếp xúc với các đối tượng có liên quan.
Các đối tượng này có thể bao gồm cha mẹ học sinh, thầy cô bộ môn, bạn
bè, … Tư vấn cho học sinh không dễ, tiếp xúc với cha mẹ, thầy cô bộ môn của
các em lại càng khó hơn. Xử lý không khéo, sẽ dễ dẫn đến việc bị hiểu lầm. Vì
thế, giáo viên chủ nhiệm cần khéo léo, bình tĩnh và ôn hòa giúp cho các bậc cha
mẹ hiểu được rằng, mục đích của cuộc gặp gỡ là vì con cái của họ, vì để tạo điều
kiện tốt nhất cho các em học tập. Với giáo viên bộ môn, cũng cần phải rất tế nhị,
vì những trao đổi có liên quan đến học sinh cũng có thể chạm đến lòng tự trọng
của đồng nghiệp, dễ gây sự hiểu lầm không nên có. Lúc đó, không giúp được gì
cho học sinh của mình mà ngược lại, còn khiến mối quan hệ thầy trò của các em
thêm căng thẳng. Ngoài ra, trong quá trình tư vấn, giáo viên chủ nhiệm cần phải
tranh thủ sự hỗ trợ từ nhiều phía: Giáo viên bộ môn, Đoàn thanh niên, Ban Giám
hiệu trường,… nếu thấy cần thiết.

12


Ví dụ 2: Như trường hợp của em Hà Đức Tuấn lớp 11E8 em rất có ý thức

trong học tập và có tư duy tốt nhưng bỗng nhiên hai ngày liên tục em vắng học
không có lý do. Tôi gọi về gia đình thì được biết em bỏ nhà đi mấy hôm nay
không về, nếu em về gia đình sẽ cho em nghỉ học. Tôi nhờ các bạn trong lớp liên
hệ với bạn bè của Tuấn và tìm thấy Tuấn làm phụ bàn trong một quán phở, Tuấn
nói bỏ học đi làm kiếm tiền để không phải phụ thuộc vào bố mẹ. Tôi đã đến tận
quán phở nơi em Tuấn nhận làm phụ bàn, nhìn thấy Tôi em rưng rưng nước mắt.
Hai thầy trò ngồi nói chuyện, em nức nở kể: “Bố mẹ em không biết để vàng ở
đâu, mà bị mất ba chỉ vàng, bố mẹ em đổ cho em lấy trộm và đánh em, ông bà
nội em cũng hùa theo, không một ai tin em, cả nhà chửi bới em thậm tệ, và
không cho em đi học. Em thề với Thầy là em không lấy, giờ em muốn nghỉ học
đi làm kiếm tiền tự nuôi bản thân không phụ thuộc vào bố mẹ em nữa”. Với tình
huống này, trước tiên tôi trấn an và động viên Tuấn, phân tích cho em thấy
những mất mát khi em bỏ học giữa chừng sẽ ảnh hưởng đến tương lai đang rạng
ngời phía trước. Mặt khác tôi đến nhà phụ huynh em Tuấn, tìm hiều kỹ nguyên
nhân và chân thành lắng nghe, phân tích cho phụ huynh thấy rõ mức độ thiệt
hơn nếu để Tuấn nghỉ học, và tôi đưa Tuấn về nhà. Bố mẹ nào cũng thương con,
chúng ta cần bao dung và tạo điều kiện tốt nhất để cho con phát triển. Tiền bạc
mất đi đều có thể kiếm lại được. Sau đó một thời gian tôi được Phụ huynh của
em Tuấn gọi điện cảm ơn vì đã tìm thấy ba chỉ vàng. Trong tình huống này, nếu
tôi không bám sát học sinh và tìm nguyên nhân, giải tỏa cho các em thì hậu quả
sẽ khôn lường.
Ví dụ 3: Hay như tình huống của em Đào Thị Ngọc Yến và em Nguyễn
Hoàng Trang, hai em này có khúc mắc trên Facebook với ba bạn học sinh lớp
10. Sau khi nghe nguồn tin cung cấp từ các bạn trong lớp là năm em này sẽ gặp
và xử lý theo cách “đàn chị”, Tôi đã kịp thời gặp trực tiếp năm em học sinh, lắng
nghe chia sẻ và để các em có thời gian tự bộc bạch suy nghĩ của mình. Sau khi
nghe mỗi em tự nói ra những điều bức xúc trong lòng, các em hiểu nhau hơn và
cùng bắt tay xin lỗi nhau, xóa bỏ hiểu lầm. Tuổi đang suy nghĩ bồng bột và do
tâm lý lứa tuổi các em thường thổi bùng sự việc lên, do đó rất dễ xảy ra xung đột
đánh nhau. Giáo viên chủ nhiệm cần tinh tế quan sát những thay đổi tâm lý và

nhận sự bất thường để kịp thời giải tỏa tránh sự việc đau lòng.
b. Giải pháp 4.2: Thay đổi tâm lý học sinh thông qua việc tổ chức các tiết sinh
hoạt cuối tuần theo chủ đề.
Nếu trong các lớp, tiết sinh hoạt cuối tuần là tiết “khủng khiếp” nhất vì là
tiết để giáo viên chủ nhiệm “xả” những lỗi mà học sinh mắc phải trong một tuần.
Học sinh ngán ngẩm vì cứ nghe đi nghe lại những lời nhắc nhở, ra lệnh của thầy
13


cô giáo chủ nhiệm. Thì lớp tôi lại ngược lại, tiết sinh hoạt cuối tuần là tiết mà
các em hào hứng nhất, bởi tiết sinh hoạt là tiết cả thầy và trò đều được thể hiện
những khả năng của mình theo chủ đề hoạt động.
Ví dụ 4: Trong tuần nếu có những em bỏ giờ đi chơi điện tử. Thì tiết sinh
hoạt cuối tuần tôi tổ chức cho các em xem video, tôi tìm kiếm những video về
các câu chuyện vì ham chơi điện tử có thể gây loạn thần, hoặc bỏ bê học tập
tương lai mờ mịt. Kết hợp đó tôi cho cả lớp nghe các bản nhạc ngợi ca về mẹ
hay như “nhật ký của mẹ” hay bài “mẹ thương con”…Không la mắng, không
nói nhiều, chính những điều các em xem, các em nghe và tự các em cảm nhận đã
thay đổi nhận thức tư duy của các em rất lớn.
Ngoài ra tôi chuẩn bị các trò chơi tập thể, giúp các em rèn luyện kỹ năng,
đồng thời tạo tâm lý thoải mái sau một tuần làm việc vất vả. Qua các hoạt động
tôi luôn quan sát để nhận biết những học sinh có tâm lý bất ổn, không hòa đồng
vui cùng các bạn để tìm hiểu và tư vấn kịp thời.
Bên cạnh đó tôi lựa chọn thêm một số chủ đề như giới tính, sức khỏe sinh
sản vị thành niên, hoặc chủ đề về an toàn giao thông được thể hiện qua các video
hoặc bộ phim mang tính giáo dục để các em cùng xem, sau đó rút ra bài học cho
mình.
Kết quả sau khi thực hiện giải pháp 4: Sau khi thực hiện giải pháp 4, tôi
nhận thấy các em cởi mở hơn, chia sẻ với tôi nhiều điều hơn. Có em chia sẻ
bằng những bức thư tay, hoặc những dòng tin nhắn trên điện thoại…, nhưng

quan trọng hơn hết tôi nhận thấy tâm lý của các em thay đổi, vui tươi thoải mái
hơn, các em được mong muốn đến lớp mỗi ngày, và coi lớp học như một gia
đình. Quan tâm, và yêu thương, gắn kết các thành viên trong tập thể để các em
hiểu nhau và sống chân thành với nhau hơn. Bên cạnh đó, những video giáo dục
kỹ năng sống qua tiết sinh hoạt lớp giúp các em rèn luyện và rút ra cho mình
nhiều bài học quý báu.
2.3.5. Giải Pháp 5: Phối kết hợp với gia đình học sinh để tạo ra những hoạt
động thực tế bổ ích giúp học sinh 11E8 tự tin trong giao tiếp, rèn luyện kỹ
năng sống, nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện.
Muốn cho học sinh giảm bớt những ảnh hưởng tiêu cực của xã hội như
nghiện game, nghiện facebook… làm cho cảm xúc và hành vi có sự sai lệch thì
cần định hướng cho các em đến những hoạt động như thể dục thể thao, đọc sách
báo, văn nghệ… Các gia đình nên có nhiều buổi trao đổi chuyện trò thân mật
với con em mình, cùng nhau làm việc nhà, tổ chức những buổi vui chơi ngoài
trời, dã ngoại, du lịch ngắn (nếu có điều kiện) để giúp các em thân thiện hơn với

14


gia đình mình, tăng cường sự gắn bó giữa các thành viên trong gia đình với
nhau, giúp các em tiếp xúc với môi trường sống lành mạnh.
Để thực hiện giải pháp này tôi đều chuẩn bị các tài liệu để báo cáo với
phụ huynh trong các cuộc họp phụ huynh do nhà trường tổ chức hoặc trong các
cuộc họp đột xuất. Thông qua đó tôi hướng dẫn các phụ huynh các biện pháp để
họ quản lý học sinh trong thời gian các em ở gia đình và các biện pháp để gắn
kết các thành viên trong gia đình lại với nhau. Chính những hoạt động này sẽ
hạn chế đáng kể thời gian các em lêu lổng trên mạng xã hội. Tôi đề nghị 100%
phụ huynh lớp 11E8 sử dụng mạng giáo dục Việt Nam Vn.edu và đăng ký gói
cước với bưu điện để cập nhật thường xuyên kết quả học tập và rèn luyện của
con em mình ở trường. Ngoài ra trong một số trường hợp không liên lạc được

với phụ huynh thì tôi cùng ban cán sự lớp trực tiếp tới gặp gia đình để trao đổi,
tìm hiểu nguyên nhân và động viên học sinh. Có những trường hợp học sinh
mâu thuẫn với bố mẹ nhưng lại tâm sự với giáo viên chủ nhiệm tôi luôn là cầu
nối giữa phụ huynh và các em để các em hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của gia
đình, để những vướng mắc trong gia đình các em được xóa bỏ.
Bên cạnh đó, trên lớp tôi tổ chức cho các em tham gia các hoạt động như
diễn kịch cho hoạt động ngoài giờ lên lớp, thi hoa điểm , điểm 10, tổ chức cắt tỉa
hoa trang trí cho lớp học, dọn dẹp vệ sinh phòng học… các hoạt động tôi đều
trực tiếp tham gia cùng các em để gần gũi và chia sẻ với các em.

Hình 3: Học sinh 11E8 tham gia các hoạt động NGLL, cắt tỉa hoa, dọn vệ sinh lớp…

Kết quả sau khi thực hiện giải pháp 5: Sau khi thực hiện giải pháp này tôi
mở rộng được mối quan hệ với phụ huynh học sinh, tăng cường hơn nữa sự hợp
tác giữa giáo viên, nhà trường và phụ huynh trong việc giáo dục học sinh đặc
biệt là các học sinh cá biệt, hay nghỉ học, chậm tiến bộ. Qua các hoạt động, giúp
các em giảm bớt thời gian sa vào các tệ nạn như nghiện game, facebook…
2.3.7. Giải pháp 6: Phối kết hợp với các giáo viên bộ môn, Đoàn trường,
nhà trường tổ chức các hoạt động bổ ích để rèn luyện kỹ năng cho học sinh.
Việc giáo dục học sinh, nâng cao chất lượng học tập và nề nếp không phải
là việc làm một mình giáo viên chủ nhiệm. Muốn đạt được kết quả cao nhất phải
15


có sự phối kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với các giáo viên bộ môn, Đoàn
trường và nhà trường.
Để thực hiện giải pháp này đầu tiên tôi trao đổi với các giáo viên bộ môn
tuyệt đối không để cho học sinh sử dụng điện thoại trong giờ học. Tất cả những
học sinh sử dụng điện thoại trong giờ học thì các giáo viên bộ môn đều thông tin
lại cho giáo viên chủ nhiệm biết để có biện pháp xử lý theo qui định của nhà

trường. Trong năm học 2018 - 2019 vừa qua tất cả lớp 11E8 có ba trường hợp
học sinh sử dụng điện thoại trong giờ học. Dù các em sử dụng với mục đích gì
đều vi phạm nội quy của trường, lớp. Giáo viên chủ nhiệm yêu cầu các em này
viết bản kiểm điểm hứa không tái phạm có xác nhận của phụ huynh. Vì vậy
trong các giờ học trên trường hầu như học sinh lớp 11E8 không sử dụng điện
thoại di động, chất lượng giờ dạy tăng cao.
Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm còn phối hợp với Đoàn trường, nhà trường
trong các buổi sinh hoạt đầu tuần tuyên truyền cho học sinh cách ứng xử văn
minh, lịch sự, có văn hóa với bạn bè thầy cô và mọi người. Thầy Đỗ Lại - Bí thư
Đoàn trường còn hướng dẫn các em cách tháo gỡ những khúc mắc trong cuộc
sống thay vì sử dụng bạo lực. Giáo viên chủ nhiệm kết hợp với Đoàn trường
tăng cường tổ chức các hoạt động vui chơi lành mạnh giúp tăng cường sự giao
lưu tiếp xúc “thực” giữa các em học sinh, tạo môi trường cho các em được hòa
mình vào những hoạt động sôi nổi, bổ ích sau những giờ học.
Ví dụ: Hội thi văn nghệ nhân dịp 20/11, hội Thi Trang trí phòng học thân
thiện chào mừng 20/11. Hội thi kéo co nhân dịp 26/3; Cuộc thi ngày hội ẩm thực
chào mừng 26/3…

16


Hình 4: Một số hình ảnh, học sinh lớp 11E8 tham gia các hoạt động trang trí phòng học thân
thiện, văn nghệ, TDTT, hội chợ ẩm thực… do đoàn trường tổ chức

Kết quả thực hiện giải pháp 6: Trong tất cả các phong trào thi đua của nhà
trường tôi đều khuyến khích học sinh trong lớp tích cực tham gia, tuy thành tích
từ những cuộc thi của lớp không cao nhưng lợi ích nó mang lại cho các em
không hề nhỏ chính khoảng thời gian “thực” này sẽ giúp các em có sự cân bằng
trong cuộc sống, thay vì sống “ảo” với mạng xã hội Facebook hoặc vùi đầu vào
những trận game không có hồi kết. Các thành viên của lớp 11E8 rất tích cực

trong các hoạt động chung, gắn kết thêm tình cảm bạn bè trong lớp. Ngoài ra
qua các hoạt động này các em còn được giáo dục thêm về kỹ năng sống, kỹ năng
giao tiếp…
2.4. Hiệu quả của sáng kiến với hoạt động giáo dục
Qua việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: “Một số giải pháp tư vấn tâm
lý cho học sinh lớp11E8 - Trường THPT Triệu Sơn 3 nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục” vào công tác chủ nhiệm lớp 11E8 năm học 2018-2019 trường THPT
Triệu Sơn 3 tôi nhận thấy sáng kiến đã mang lại hiệu quả tích cực, khắc phục
được tình trạng học sinh có những vấn đề tâm lý ảnh hưởng đến kết quả học tập
và rèn luyện. Các học sinh trong lớp đều phấn khởi cố gắng hoàn thành mục tiêu
đề ra trong năm học. Kết quả có sự tiến bộ vượt bậc trong năm học 2018-2019
vừa qua.
Về học tập:
Kết quả học tập của học sinh lớp 10E8 năm học 2017-2018.
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
Số lượng
0
6
25
7
0
Tỉ lệ %
0
15.7
65.8
18.5

0
Kết quả học tập của học sinh năm lớp 11E8 năm học 2018-2019.
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
Số lượng
0
13
24
1
0
Tỉ lệ %
0
34.2
63.1
2.7
0
Về nề nếp:
Kết quả xếp loại hạnh kiểm của học sinh lớp 10E8 năm học 2017-2018.
17


Tốt
Khá
Trung bình
Yếu
Số lượng
21

14
3
0
Tỉ lệ %
55.3
36.8
7.9
0
Kết quả xếp loại hạnh kiểm của học sinh lớp 11E8 năm học 2018-2019.
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu
Số lượng
34
4
0
0
Tỉ lệ %
89.4
10.6
0
0
Trong năm học vừa qua đã khắc phục được tình trạng học sinh sử dụng
điện thoại trong giờ học, học sinh đi muộn, đánh nhau... Các em học sinh đều
vui vẻ và gắn kết với nhau hơn. Tập thể lớp như một gia đình thứ 2 của các em.
Trong bảng xếp loại nề nếp của nhà trường mặc dù là lớp có điểm bình quân đầu
vào thấp nhất khối nhưng lớp 11E8 xếp thứ hạng 11/24 (trường có 24 lớp), được
Đoàn trường, các thầy cô giáo bộ môn công nhận là lớp có nề nếp tiến bộ trong
năm học 2018-2019. Trong các hoạt động do đoàn trường và nhà trường tổ chức

lớp 11E8 đã dành giải khuyến khích trong hội thi văn nghệ chào mừng ngày nhà
giáo việt nam 20/11; Giải ba trong hội thi trang trí phòng học thân thiện; Giải
nhì trong hội thi ẩm thực chào mừng ngày 26/3; và giải nhất trong hội thi kéo
co.
Ngoài áp dụng sáng kiến kinh nghiệm trong phạm vi lớp chủ nhiệm 11E8,
tôi còn áp dụng các giải pháp nêu trên trong công tác tư vấn tâm lý học đường
cho học sinh trường THPT Triệu Sơn 3 thông qua một số tiết dạy sinh học của
mình. Với mong muốn có thể giúp các em giải tỏa tâm lý căng thẳng và rèn
luyện kỹ năng sống cho các em.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Trường THPT Triệu Sơn 3 là trường đóng xa trung tâm huyện, phần lớn
học sinh trong trường đều là con em nông dân có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
Phụ huynh học sinh không có điều kiện chăm lo cho con em mình một cách tốt
nhất, hơn nữa rất nhiều phụ huynh đi làm ăn xa không thể thường xuyên quan
tâm đến học tập, tâm tư tình cảm của con em mình. Vì vậy giáo viên chủ nhiệm
không chỉ là thầy cô giáo giảng dạy các em về mặt kiến thức mà là người cha,
người mẹ thứ hai quan tâm, chăm sóc cho các em từ những điều nhỏ nhặt nhất
để kịp thời phản ánh với gia đình, có những biện pháp giáo dục phù hợp giúp
các em hoàn thiện bản thân.
Như vậy có thể kết luận về hiệu quả mang lại sau khi triển khai các giải
pháp đã nêu là: Giảm tối đa những áp lực, những khủng hoảng và những rối
nhiễu tâm lý cho học sinh. Các em có một môi trường học tập và rèn luyện kỹ
năng tốt hơn. Đa số học sinh đều cảm nhận về tình cảm, trí tuệ và sự hỗ trợ tinh
18


thần từ thầy cô giáo và gia đình sẽ tìm thấy nhiều động lực để cố gắng. Bên
cạnh đó, phụ huynh, giáo viên, Ban giám hiệu có thể chứng kiến sự phát triển
và nỗ lực học tập của học sinh, giúp các em đạt được mục tiêu trong tương lai.

3.2. Kiến nghị
Đối với giáo viên, phải không ngừng tự học, tự bồi dưỡng để hiểu biết về
công nghệ thông tin, biết khai thác thông tin trên mạng internet phục vụ cho
công tác của mình. Không ngừng tìm hiểu, ngăn chặn những tác nhân gây hại
đến quá trình học tập của học sinh. Gần gũi với học sinh, hiểu hết những tâm tư,
tình cảm của các em từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp.
Đối với nhà trường, các tổ chức trong nhà trường thường xuyên định
hướng và phối hợp với các chuyên gia tư vấn, chuyên gia tâm lý tổ chức các
buổi trao đổi với học sinh, cung cấp cho các em những kỹ năng sống cần thiết.
Đối với Sở GD&ĐT nên mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng thêm cho các
giáo viên chủ nhiệm trước tình hình xã hội diễn biến tương đối phức tạp như
hiện nay để kịp thời phát hiện được những mối nguy hại ảnh hưởng đến lứa tuổi
học sinh.
Với kết quả của đề tài này, tôi thiết nghĩ những giải pháp mà đề tài đã đưa
ra có thể là những gợi ý tốt để các thầy cô giáo trong và ngoài nhà trường áp
dụng trong việc giáo dục học sinh.
Rất mong được sự góp ý chân thành từ phía các đồng nghiệp để sáng kiến
kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn.
Xác nhận của hiệu trưởng

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm
2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Nguyễn Thanh Hải

19



Tài liệu tham khảo
[1]: />[2]: Kênh truyền hình VTC14.
[3]: />[4]: ra ngày 18/03/2013. Tác giả:
Phạm thị Loan.
[5]:
Tác giả: Đỗ Thị Minh Hằng, Hoàng Thùy Linh.
[6]: ra ngày
27/05/20157.

20



×