Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh giải bài tập vận dụng cao bộ môn giáo dục công dân ở trường THPT nga sơn thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.85 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
I . MỞ ĐẦU……………………………………………………
2
1.1. Lý do chọn đề tài………………………………………
2
1.2. Mục đích nghiên cứu………………………………….
3
1.3. Đối tượng nghiên cứu………………………………….
3
1.4 Phương pháp nghiên cứu………………………………
3
II . NỘI DUNG……………………………………………….
4
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến……………………………
4
2.2. Thực trạng của việc giải bài tập vận dụng cao trong làm
8
bài thi tốt nghiệp THPT Quốc gia môn Giáo dục công dân
2.3. Các giải pháp đã sử dụng...............…………………….
2.4. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm…………………..
III . KẾT LUẬN………………………………………………
3.1.Bài học kinh nghiệm ………………………………….
3.2. Kiến nghị, đề xuất……………………………………..
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………

9
15
17
17


18
20

I. MỞ ĐẦU
1. 1. Lý do chọn đề tài
Xuất phát từ tình hình thực hiện chương trình cải cách giáo dục và đào tạo,
đổi mới giáo dục cơ bản, toàn diện, đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục

1


phổ thông, năm 2017 môn Giáo dục công dân (GDCD) chính thức được đưa vào tổ
hợp Khoa học xã hội để xét tốt nghiệp.
Môn GDCD ở trường Trung học phổ thông (THPT) là một hệ thống kiến
thức liên quan đến nhiều lĩnh vực như triết học, đạo đức học, kinh tế chính trị học,
chủ nghĩa xã hội khoa học, pháp luật, đường lối, quan điểm của Đảng, một số chính
sách quan trọng của Nhà nước Việt Nam. Đây là một môn khoa học khái quát
những thành tựu của các khoa học khác, luôn được bổ sung những tri thức mới về
sự phát triển của đời sống xã hội và bản thân.
Kết cấu chương trình, nội dung của môn gồm có 5 phần, có quan hệ chặt chẽ
với nhau, đồng thời có quan hệ chặt chẽ với chương trình môn GDCD Trung học
cơ sở theo nguyên tắc tích hợp, đồng tâm và phát triển.
Trong chương trình thi tốt nghiệp qua các năm, môn GDCD chủ yếu kiểm tra
hiểu biết cơ bản về bản chất, vai trò và nội dung của pháp luật trong một số lĩnh
vực của đời sống xã hội ( lớp 12) và phần kinh tế (lớp 11).
Những tri thức được kiểm tra trong chương trình thi môn GDCD, đặc biệt là
phần bài tập vận dụng luôn gắn chặt với tình hình thực tế của đời sống xã hội. Đó
chính là thực tế sinh động chứng minh cho lí thuyết khoa học của bộ môn và đó
cũng là quá trình rèn luyện tư duy lí luận cho từng học sinh, từng bước giúp các em
tiếp cận với phương pháp nhận thức, phương pháp nghiên cứu và rèn luyện cho

mình cách suy nghĩ độc lập, sáng tạo trong giải bài tập tình huống.
Để giúp học sinh có thể nắm vững nội dung tri thức và vận dụng làm bài tập
hiệu quả, tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: “Một số kinh nghiệm hướng dẫn học
sinh giải bài tập vận dụng cao bộ môn giáo dục công dân ở trường THPT Nga
Sơn- Thanh Hóa”.
1. 2. Mục đích nghiên cứu.
1.2.1. Mục tiêu chung: Góp phần thực hiện nhiệm vụ giáo dục và nâng cao
chất lượng toàn diện cho học sinh ở trường THPT Nga Sơn.

2


1.2.2. Mục tiêu cụ thể: Nhằm đưa ra các giải pháp cơ bản trong dạy và học
môn GDCD đáp ứng yêu cầu của một bộ phận học sinh thi THPT quốc gia ban
Khoa học xã hội. Thông qua sáng kiến kinh nghiệm giúp học sinh biết cách quan
sát, phân tích tình huống, vận dụng kiến thức đã học để giải bài tập vận dụng cao
mang lại hiệu quả thiết thực nhất.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài này nghiên cứu và tổng kết về cách thức, phương pháp giải bài tập vận
dụng cao môn GDCD trong các thi THPT quốc gia của học sinh trường THPT Nga
Sơn qua các năm học 2016-2017 đến năm học 2018-2019 từ đó rút ra kinh nghiệm
áp dụng cho các năm học sau.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
+ Mục đích: Nghiên cứu, thu thập tài liệu có liên quan đến đề thi THPT quốc
gia.
+ Cách thức tiến hành: Tìm đọc, phân tích các văn bản, văn kiện, chủ trương,
sách báo và các tài liệu, sáng kiến về giải bài tập vận dụng cao môn GDCD ở
trường THPT.
- Phương pháp trò chuyện:

+ Mục đích: Nhằm nghiên cứu thực trạng và thu thập tư liệu, thông tin về
giải bài tập vận dụng cao môn GDCD ở trường THPT Nga Sơn.
+ Cách thức tiến hành: Trò chuyện trực tiếp với giáo viên dạy môn GDCD,
với học sinh từ đó phát hiện và xử lí thông tin, giải quyết vấn đề.
- Phương pháp điều tra.
+ Mục đích: Thu thập ý kiến chủ quan của đối tượng được điều tra về công
tác giải bài tập vận dụng cao môn GDCD ở trường THPT Nga Sơn, từ đó có cơ sở
nhận xét một cách tổng quát về vấn đề cần nghiên cứu.

3


+ Cách tiến hành: Điều tra thăm dò bằng hệ thống câu hỏi mở đối với giáo
viên và học sinh về giải bài tập vận dụng cao môn GDCD ở trường THPT Nga Sơn.
- Phương pháp thống kê:
+ Mục đích: Qua các bảng số liệu thống kê xử lí các tài liệu, số liệu thu thập
được rút ra sự khác nhau trong quá trình thực hiện giải bài tập vận dụng cao môn
GDCD ở trường THPT Nga Sơn.
1.5 Phạm vi nghiên cứu.
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về công tác giải bài tập vận dụng cao môn GDCD
ở trường THPT.
- Nghiên cứu thực trạng công tác giải bài tập vận dụng cao môn GDCD ở
trường THPT Nga Sơn.
- Đề xuất một số biện pháp giải bài tập vận dụng cao môn GDCD ở trường
THPT Nga Sơn.
- Thời gian: 3 năm (Bắt đầu từ năm học 2016 - 2017, kết thúc cuối năm học
2018 - 2019).
II. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong Luật giáo dục Việt Nam sửa đổi năm 2009, tại chương 3 điều 2 đã quy

định như sau: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lí
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách,
phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.” Đây chính là mục tiêu của môn GDCD nhằm hình thành nhân
cách, đạo đức của con người mới sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật.
Nghị quyết số 29/NQ-TW “ Về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” của Hội nghị Trung Ương

4


8 khóa XI được ban hành trong đó chỉ rõ mục tiêu tổng quát nhằm “Tạo chuyển
biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày
càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân.
Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng,
khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống
tốt và làm việc hiệu quả.” Về mục tiêu cụ thể, Nghị quyết nêu “ Đối với giáo dục
phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực
công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học
sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền
thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận
dụng kiến thức vào thực tiễn”.
Như vậy, mục tiêu của dạy học là phải gắn với vận dụng vào thực tiễn, hình
thành các kỹ năng giải quyết các tình huống phát sinh trong cuộc sống trở thành
thói quen, văn hóa ứng xử. Đây cũng chính là mục tiêu của việc vận dụng kiến thức
môn GDCD vào thực tiễn cuộc sống.
Từ năm học 2016-2017, theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong kỳ
thi THPT quốc gia, các thí sinh sẽ phải dự thi 3 môn bắt buộc (Ngoại ngữ, Ngữ

văn, Toán) và tổ hợp môn trong hai tổ hợp môn tự chọn là Khoa học tự nhiên (Lý,
Hóa, Sinh) và Khoa học xã hội (Giáo dục công dân, Sử , Địa) để xét tốt nghiệp.
Đề thi sẽ có 40 câu hỏi trắc nghiệm khách quan, mỗi câu hỏi trắc nghiệm có
4 phương án trả lời, và có duy nhất 1 phương án trả lời đúng, trong đề thi có các
câu hỏi ở các cấp độ cơ bản, phục vụ mục đích xét công nhận tốt nghiệp THPT
(nhận biết: 40%, thông hiểu: 20%) và các câu hỏi phân hóa (vận dụng bậc thấp:
30%, vận dụng bậc cao: 10%) phục vụ mục đích xét tuyển đại học, cao đẳng, đề thi
đáp ứng được yêu cầu đánh giá kết quả học tập, đảm bảo tính phân hóa rõ rệt, tạo
thuận lợi cho học sinh làm bài theo lực học thực tế của mình.

5


Năm học 2016-2017 và 2017-2018, nội dung thi nằm trong chương trình lớp
11 và lớp 12. Tuy nhiên, khác với các năm học trước, năm học 2018-2019, tỉ lệ câu
hỏi trong đề thi đã có thay đổi theo hướng kiến thức chủ yếu ở chướng trình lớp 12
với tỉ lệ câu hỏi lớp 11 là 10% (4 câu) và 90% câu hỏi 12 (36 câu).
Câu hỏi khó tập trung vào các chuyên đề: Thực hiện pháp luật, Quyền bình
đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội, Công dân với các
quyền tự do cơ bản và công dân với các quyền dân chủ.
Chuyên đề Thực hiện pháp luật có số lượng câu hỏi lớn nhất với 12 câu hỏi.
Ở chuyên đề này các câu hỏi được trải đều ở các cấp độ nhận thức, đặc biệt đây là
một trong những chuyên đề có nhiều câu hỏi vận dụng cao.
Các câu hỏi thuộc chuyên đề này gồm hai vấn đề chính là các hình thức thực
hiện pháp luật và các loại vi phạm pháp luật. Học sinh cần nắm chắc kiến thức cơ
bản, các dấu hiệu nhận biết ngoài ra còn phân biệt được các hình thức thực hiện
pháp luật và các loại vi phạm pháp luật.
Chuyên đề Công dân bình đẳng trước pháp luật: Có 2 câu hỏi ứng với 0,5
điểm; Số lượng câu hỏi ở chuyên đề này tăng hơn 1 câu so với đề thi năm 2018;
Các câu hỏi yêu cầu học sinh tái hiện kiến thức công dân bình đẳng về trách nhiệm

pháp lí và các bài tập vận dụng cao chủ yếu yêu cầu học sinh xác định những ai
phải chịu (hoặc không phải chịu) trách nhiệm pháp lí?
Chuyên đề Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống
xã hội: Có 7 câu hỏi ứng với 1,75 điểm. Các câu hỏi được trải đều ở các cấp độ
nhận thức từ nhận biết, thông hiểu đến vận dụng, vận dung cao, trong đó câu hỏi
vận dụng nhiều nhất với 4 câu hỏi. Các dạng câu hỏi vận dụng cao chủ yếu yêu cầu
học sinh trả lời câu hỏi những ai thực hiện đúng (hoặc vi phạm) luật hôn nhân và
gia đình, quyền bình đẳng trong lao động, trong kinh doanh…
Với chuyên đề Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời
sống xã hội với các câu hỏi thuộc các quyền: bình đẳng trong lao động, trong hôn

6


nhân gia đình và trong kinh doanh. Nếu các câu hỏi nhận biết, thông hiểu tập trung
vào nội dung quyền bình đẳng trong lao động thì câu hỏi vận dụng cao chủ yếu
thuộc nội dung quyền bình đẳng trong hôn nhân gia đình và quyền bình đẳng trong
kinh doanh.
Chuyên đề Công dân với các quyền tự do cơ bản: Chuyên đề này có 3 câu hỏi
ứng với 0,75 điểm. Ở những câu hỏi thông hiểu, học sinh chỉ cần nắm được những
nội dung cơ bản, nhớ được những "từ khóa" để phân biệt các quyền với nhau. Các
dạng câu hỏi vận dụng cao chủ yếu yêu cầu học sinh trả lời được câu hỏi : Ai vi
phạm các quyền tự do cơ bản?
Chuyên đề Công dân với các quyền dân chủ cơ bản: Có 6 câu hỏi ứng với 1,5
điểm. Các câu hỏi được trải đều ở cả 4 cấp độ nhận thức, trong đó câu hỏi thuộc
cấp độ thông hiểu chiếm số lượng nhiều nhất là 3 câu. Nội dung các câu hỏi đều
xoay quanh quyền dân chủ cơ bản của công dân như quyền bầu cử, ứng cử, quyền
khiếu nại, tố cáo, quyền tham gia quản lí nhà nước và xã hội.
Chuyên đề Pháp luật với sự phát triển của công dân: Có từ 4 câu hỏi ứng với
1 điểm. Các câu hỏi thuộc chuyên đề này trải đều ở ba mức độ: nhận biết, thông

hiểu và vận dụng.
Chuyên đề Pháp luật với sự phát triển của công dân chủ yếu xoay quanh
quyền phát triển và quyền sáng tạo của công dân.
Chuyên đề Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước: Có 2 câu hỏi
ứng với 0,5 điểm. Các câu hỏi chủ yếu xoay quanh vấn đề nội dung cơ bản của
pháp luật về phát triển các lĩnh vực xã hội và nghĩa vụ của công dân khi tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Công dân với kinh tế: Có 4 câu hỏi ứng với 1 điểm. So với đề thi năm 2018,
số lượng câu hỏi đã giảm đi chỉ còn 4 câu. Những câu hỏi thuộc chuyên đề này nằm
ở mức độ nhận biết không có các câu hỏi thuộc mức độ thông hiểu, vận dụng và
vận dụng cao. Các vấn đề được đề cập nhiều trong đề thi là: các yếu tố cơ bản của

7


quá trình sản xuất; Chức năng của tiền tệ; Quy luật giá trị trong sản xuất và lưu
thông hàng hóa; Cung cầu trong sản xuất và lưu thông hàng hóa. Đây đều là những
vấn đề trọng tâm của chuyên đề.
Số câu hỏi vận dụng thực tế đề thi tham khảo năm 2019 là 15 câu có xu
hướng giảm so với đề thi Trung học phổ thông quốc gia năm 2018 là 20 câu. Trong
số các câu hỏi vận dụng thực tế này có đến 5 câu (từ 115 đến câu 120) có tính phân
loại thí sinh rất cao, đòi hỏi học sinh phải nắm chắc kiến thức lý thuyết, đọc kĩ câu
hỏi và biết cách phân tích tình huống để lựa chọn được đáp án đúng nhất.
Các câu hỏi vận dụng tình huống thực tế đề cập các vấn đề thời sự “nóng”
trong dư luận xã hội thời gian qua như: hoạt động tổ chức đánh bạc, bảo kê, tín
dụng đen, cho vay nặng lãi, sử dụng bằng đại học giả, đe doạ tính mạng,... Điển
hình là câu 115, nội dung câu hỏi đề cập đến vấn đề “sử dụng máy chạy thận nhân
tạo không đảm bảo chất lượng” tạo sự liên tưởng đến vụ việc tương tự xảy ra tạo
bệnh viên Hoà Bình trong những tháng đầu năm 2018.
Như vậy, việc phân tích đề minh họa của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng

chính là cơ sở pháp lí quan trọng để nghiên cứu nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
nhằm áp dụng vào thực tế giảng dạy ôn tập ở trường THPT Nga Sơn.
2.2. Thực trạng của việc giải bài tập vận dụng cao trong làm bài thi tốt
nghiệp THPT quốc gia môn Giáo dục công dân tại trường THPT Nga Sơn.
Trong những năm trước đây, hầu hết học sinh và phụ huynh đầu tư nhiều vào
các “môn chính” như Ngữ văn, Toán, Tiếng Anh... xuất phát từ quan điểm “chỉ học
những môn thi”. Và mặc dù được coi là bộ môn quan trọng góp phần hình thành và
rèn luyện nhân cách con người song thực tế cho thấy môn GDCD bị xem là “môn
phụ” và không được “giáo viên đầu tư dạy, học sinh đầu tư học” như những môn
học khác. Phần lớn học sinh chưa thay đổi kịp thời trong nhận thức do vậy thiếu
kiến thức cơ bản gây khó khăn trong quá trình ôn tập nói chung.

8


Từ năm học 2016-2017, môn học GDCD được đưa vào thi THPT quốc gia,
cùng với các môn Địa lý và Lịch sử tạo thành bộ môn Khoa học xã hội. Ngay từ
đầu năm học, Ban giám hiệu nhà trường đã tiến hành rà soát, kiểm tra cơ sở vật
chất và các điều kiện khác phục vụ cho dạy và học môn GDCD nhất là đối với khối
12. Sau khi cho học sinh đăng ký chọn ban thi, nhà trường phân công giáo viên có
kinh nghiệm vào giảng dạy, nhờ vậy mà chất lượng và hiệu quả của môn GDCD đã
có những bước chuyển biến đáng kể. Đối với học sinh lớp 12 đăng ký thi Ban Khoa
học xã hội, nhà trường tăng cường cho các em thêm 2 tiết mỗi tuần, ôn tập những
kiến thức cơ bản về chương trình pháp luật lớp 12 và phần Kinh tế lớp 11.
Năm học 2016-2017, là năm đầu tiên bộ môn tham gia thi tốt nghiệp nên
công tác ôn tập cũng không tránh khỏi lúng túng, vì vậy vẫn còn một số hạn chế :
Thứ nhất : Khi làm bài tập vận dụng cao nhiều học sinh đoán mò, suy luận
mang tính chủ quan, chưa gắn với thực tế cuộc sống và kiến thức được học. Điều
này xuất phát từ thực trạng học sinh không có kiến thức cơ bản, không hiểu được
yêu cầu của bài tập.

Thứ hai : Giáo viên chưa có kinh nghiệm trong ôn tập, phần lớn phụ thuộc
vào tính chủ quan của người dạy, vừa dạy vừa tìm tòi thậm chí lúng túng trong việc
hướng dẫn học sinh làm bài tập vận dụng cao.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng.
Để góp phần khắc phục những hạn chế nêu trên, với mục tiêu nâng cao chất
lượng ôn tập cho học sinh trong kỳ thi THPT quốc gia trong thời gian tới, trên cơ
sở nghiên cứu về phương pháp giảng dạy trong các năm qua, tôi đưa ra một số biện
pháp cụ thể sau:
2.3.1. Nắm vững kiến thức cơ bản thông qua các từ khóa.
Trong mỗi chuyên đề đều có các khái niệm, nội dung. Mỗi khái niệm thường
biểu đạt thông qua một số dấu hiệu cơ bản:

9


Ví dụ: Chuyên đề Thực hiện pháp luật : Ở khái niệm Thực hiện pháp luật:
Giáo viên nên cho học sinh phân tích khái niệm và gạch chân các từ khóa cơ bản.
Ví dụ: “Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho
những quy định của pháp luật đi vào đời sống trở thành hành vi hợp pháp của
cá nhân, tổ chức”. Những từ khóa này là những đơn vị kiến thức cơ bản mà dựa vào
đó xây dựng các câu hỏi trắc nghiệm. Như vậy với khái niệm thực hiện pháp luật sẽ
có ít nhất 03 câu hỏi dạng nhận biết, 03 câu dạng thông hiểu.
Ở phần các hình thức thực hiện pháp luật cho học sinh phân biệt các hình
thức bằng các cụm từ:
Quyền là sử dụng pháp luật;
Nghĩa vụ là thi hành pháp luật;
Không làm điều cấm là tuân thủ pháp luật.
Cơ quan chức năng hoặc cá nhân có thẩm quyền ra quyết định... là áp
dụng pháp luật...
Ví dụ: Chuyên đề Công dân với các quyền tự do cơ bản, cho học sinh nhận

biết các quyền thông qua một số từ, cụm từ như sau:
- Quyền bất khả xâm phạm thân thể là: Bắt, giam, giữ;
- Quyền được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe: liên quan đến cụm từ
đánh người, hành hung, giết người, đe dọa giết người...
- Quyền được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm: các cụm từ nói xấu,
tung tin, bịa đặt, vu khống...
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên yêu cầu học sinh tìm các từ khóa cho dễ
nhớ, dễ hiểu, dễ thuộc. Đây chính là phương pháp quan trọng khi học sinh làm bài
tập vận dụng cao.
2.3.2. Dùng phương pháp tư duy “ngược” để giải quyết vấn đề
Phương pháp thông thường
Tư duy “ngược”
- Đọc từ đầu đến cuối phân tích hành - Xác định yêu cầu bài tập ( hỏi gì?)

10


vi

- Đọc tình huống, phân tích hành vi.

- Xác định yêu cầu bài tập ( hỏi gì?)

- Trả lời

- Trả lời
Trong thực tế, việc đọc đề một cách tuần tự từ đầu đến cuối trong khi chưa
nắm được yêu cầu đề ra giống như người chưa biết đường nên vừa đi vừa thăm dò
mất nhiều thời gian. Do vậy, đây là phương pháp quan trọng giúp học sinh xác định
được yêu cầu đề ra, từ đó đọc và phân tích nhân vật, đưa ra kết luận giống như

người đã thuộc đường, biết mình cần đến đâu và vì vậy khi phân tích nhân vật sẽ
chú ý đến mục tiêu cần đạt.
Ví dụ: Anh T nhân viên chi cục Thú y huyện X rủ các anh K, B, C chơi bài
tại chốt kiểm dịch cúm gia cầm trong ca trực của mình. Phát hiện có phóng viên
đến lấy thông tin để viết bài, anh T và anh K đồng nghiệp cùng cơ quan vội trở về
nơi làm việc. Đúng lúc có khách, anh B thợ may rủ anh C chủ cửa hàng tạp hóa gần
đó ra về. Sau đó, vì ông M cán bộ hưu trí sống cùng tổ dân phố đồng thời là bố anh
T nhờ giúp đỡ nên ông P trưởng chi cục thú y huyện X đã bỏ qua chuyện này.
Những ai dưới đây vi phạm pháp luật kỉ luật?
A. Anh T, anh K và ông P.

B. Anh T, ông P và ông M.

C. Anh K, anh T và anh B.

D. Anh B, anh C và ông P.

Với bài tập này, học sinh trước hết đọc câu hỏi: Những ai dưới đây vi phạm
pháp luật kỉ luật?
Sau khi biết được yêu cầu của bài tập, học sinh đọc từ đầu bài để xác định
hành vi vi phạm của từng nhân vật, bỏ qua các chi tiết gây nhiễu như ông M là cán
bộ về hưu, bố anh T, nhân vật B, C là lao động tự do…
2.3.3. Phương pháp xác định phạm vi kiến thức cần có để giải bài tập tình
huống.
Đây là phương pháp bắt buộc học sinh phải nắm vững được kiến thức cơ bản,
phải hiểu được nội hàm của các khái niệm và nội dung liên quan. Trong thực tế có

11



nhiều bài tập với độ nhiễu cao đòi hỏi học sinh phải trải qua nhiều thao tác tư duy
và phân tích mới đưa ra đáp án đúng. Trong tình huống như vậy học sinh cần biết
được phạm vi, bài tập yêu cầu và khoanh vùng kiến thức.
Ví dụ ở chủ đề 4- Bình đẳng trong hôn nhân và gia đình: Khi câu hỏi yêu cầu
xác định những ai vi phạm trong lĩnh vực hôn nhân gia đình. Học sinh cần tái hiện
kiến thức Bình đẳng trong hôn nhân gia đình là gì ? Từ đó xác đinh các mối quan
hệ trong gia đình như vợ chồng, cha mẹ và con, ông bà và cháu, anh chị em…
những nhân vật như hàng xóm, nhân tình… chỉ để gây nhiễu.
Khi giải bài tập dạng vi phạm hôn nhân gia đình còn cần quan tâm đến các
tình tiết nếu bố/mẹ (chồng hoặc vợ) mâu thuẫn với nhau thì cũng không bị coi là vi
phạm trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình mà có thể chỉ vi phạm pháp luật.
Ví dụ: Biết chồng giấu một khoản thu nhập để làm tài sản riêng, bà L đã tìm
cách lấy trộm để cho cháu gái V chung vốn với người yêu (anh K) để mở cửa hàng
kinh doanh quần áo. Thấy cửa hàng đắt khách, bà L xui cháu V cất riêng ít tiền vào
tài khoản của mình. Biết chuyện này, anh K đã tìm cách để một mình đứng tên cửa
hàng đó khiến V bị trắng tay. Trong trường hợp này, những ai đã vi phạm quyền
bình đẳng trong hôn nhân và gia đình?
A. Anh K và V.

B. Vợ chồng bà L.

C. Vợ chồng bà L và V.

D. Vợ chồng bà L, anh K và V.

Trong tình huống này chỉ vợ chồng bà L vi phạm quyền bình đẳng trong hôn
nhân gia đình còn các nhân vật khác chỉ vi phạm dân sự vì cháu V và anh K chỉ là
người yêu.
Ở một số chủ đề khác khi trong tình huống có nhân vật biết mà không tố giác
(không hành động), can ngăn nhưng hậu quả vẫn xảy ra thì đó là yếu tố để xác định

họ phải chịu trách nhiệm pháp lí cho hành vi của mình.
Ví dụ : Ông A rủ ông B cùng đột nhập vào tiệm vàng X để ăn trộm, phát hiện
có người đang ngủ, ông B hoảng sợ bỏ đi. Sau khi lấy hết vàng hiện có trong tiệm X,

12


ông A kể lại toàn bộ sự việc với người bạn thân là ông T và nhờ ông cất giữ hộ số
vàng đó nhưng đã bị ông T từ chối. Ba tháng sau, khi sửa nhà, con trai ông A phát
hiện có khá nhiều vàng được chôn dưới phòng ngủ của bố nên đến trình báo cơ quan
công an thì mọi việc được sáng tỏ. Những ai dưới đây phải chịu trách nhiệm pháp lí?
A. Ông A, ông B và ông T.

B. Ông B và bố con ông A.

C. Ông A và ông T.

D. Ông A và ông B.

Ở tình huống này ông B mặc dù sợ bỏ đi, ông T chỉ nghe ông A kể, không cất
giữ số tiền phạm tội nhưng do không tố giác tội phạm nên vẫn phải chịu trách
nhiệm pháp lí.
2.3.4. Phương pháp loại trừ phương án nhiễu.
Đây là phương pháp được áp dụng trong trường hợp khẩn cấp hoặc do yếu tố
tâm lí, sức khỏe mà học sinh không thể giải được bài tập thì có thể áp dụng, tuy
nhiên sau đó cần kiểm tra lại độ chính xác theo đúng quy định.
Đối với bài tập dạng khẳng định: Thường có 3 phương án nhiễu, các phương
án nhiễu thường chứa ít nhất 1 nhân vật không vi phạm và chỉ có duy nhất 1
phương án đúng. Trong trường hợp này học sinh cần xác định được ít nhất một
nhân vật có hành vi vi phạm rõ ràng, sau đó quan sát đáp án. Nếu câu hỏi những ai

không vi phạm, thì loại trừ ngay được đáp án sai (bao gồm người vi phạm).
Ví dụ : Anh K nghi ngờ gia đình ông B tàng trữ ma túy nên đã báo với công
an xã X. Do vội đi công tác, anh T phó công an xã yêu cầu anh S công an viên và
anh C trưởng thôn đến khám xét nhà ông B. Vì cố tình ngăn cản, ông B bị anh S và
anh C cùng khống chế rồi giải ông về giam giữ tại trụ sở công an xã. Hai ngày sau,
khi anh T trở về thì ông B mới được trả lại tự do. Những ai dưới đây vi phạm quyền
bất khả xâm phạm về thân thể của công dân?
A. Anh S và anh C.

B. Anh T và anh S.

C. Anh C, anh T và anh S.

D. Anh T, anh S và anh K.

13


Trong tình huống này xác định ngay anh T không vi phạm quyền bất khả xâm
phạm thân thể công dân (bắt, giam, giữ). Trong đáp án có 03 phương án có nhân
vật anh T. Dùng phương pháp loại trừ suy ra đáp án A là đúng.
2.3.5. Các bước cơ bản giải bài tập vận dụng cao.
Học sinh cần hiểu rõ các bước cơ bản trong quá trình làm bài tập, đây là yếu
tố quan trọng giúp học sinh suy luận trên cơ sở khoa học để đưa ra kết quả chính
xác nhất.
Ví dụ: Anh T nhân viên chi cục Thú y huyện X rủ các anh K, B, C chơi bài
tại chốt kiểm dịch cúm gia cầm trong ca trực của mình. Phát hiện có phóng viên
đến lấy thông tin để viết bài, anh T và anh K đồng nghiệp cùng cơ quan vội trở về
nơi làm việc. Đúng lúc có khách, anh B thợ may rủ anh C chủ cửa hàng tạp hóa gần
đó ra về. Sau đó, vì ông M cán bộ hưu trí sống cùng tổ dân phố đồng thời là bố anh

T nhờ giúp đỡ nên ông P trưởng chi cục thú y huyện X đã bỏ qua chuyện này.
Những ai dưới đây vi phạm pháp luật kỉ luật?
A. Anh T, anh K và ông P.

B. Anh T, ông P và ông M.

C. Anh K, anh T và anh B.

D. Anh B, anh C và ông P.

Trên cơ sở ví dụ nêu trên, có thể khái quát thành các bước cơ bản như sau :
Thứ nhất: Học sinh khoanh vùng nội dung kiến thức cần vận dụng: Vi phạm
kỉ luật.
Thứ hai: Yêu cầu học sinh nhớ được các dấu hiệu cơ bản để nhận biết hành vi
vi phạm kỉ luật: Là hành vi vi phạm pháp luật xâm hại đến các quan hệ lao động và
công vụ nhà nước... do pháp luật lao động và pháp luật hành chính bảo vệ.
Vi phạm kỉ luật phải chịu trách nhiệm như cảnh cáo, hạ bậc lương, chuyển
công tác khác, buộc thôi việc...
Đối tượng chịu trách nhiệm kỉ luật là cán bộ, công chức.
Thứ ba: Liệt kê được đầy đủ các nhân vật có trong tình huống: Anh T, anh K,
ông P, ông B, anh C, ông M.

14


Thứ tư: Phân tích hành vi của các nhân vật:
- Anh T: Là cán bộ công chức, rủ người khác đánh bài tại nơi làm việc; Không
thực hiện nhiệm vụ đó là hành vi vi phạm kỉ luật.
- Anh K: Là đồng nghiệp của anh T (Khi phóng viên đến lấy tin thì hai anh rủ
nhau về làm việc)- hành vi này cũng là hành vi vi phạm kỉ luật.

- Anh B: Là thợ may, nếu xét khái niệm vi phạm kỉ luật thì anh không thuộc
đối tượng vi phạm kỉ luật nhưng sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính vì hành vi đánh
bài.
- Anh C: Là chủ cửa hành tạp hóa do đó không vi phạm kỉ luật mà sẽ bị xử
phạt hành chính cho hành vi đánh bài (như anh B).
- Ông M (bố anh T) cán bộ hưu trí nhờ ông P bỏ qua: Ông M không vi phạm
kỉ luật, nếu có căn cứ ông M đưa tiền và ông P nhận tiền thì ông M phải chịu trách
nhiệm cho hành vi đưa hối lộ. Tuy nhiên trong đề bài không đề cập đến.
- Ông P: Là cấp trên của anh T và K nhưng lại vì tình riêng (hàng xóm với
ông M) không xử lí vi phạm của anh T và K là đã không thực hiện đúng trách
nhiệm được giao, không hoàn thành nhiệm vụ- Hành vi này vi phạm kỉ luật.
Thứ năm: Đưa ra đáp án cho bài tập: Như vậy, với việc phân tích hành vi vi
phạm như trên, học sinh có thể đưa ra được đáp án chính xác là A.
Những người vi phạm kỉ luật là: Anh T, anh K và ông P.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
2.4.1. Đối với hoạt động ôn tập cho học sinh.
Sau khi áp dụng các phương pháp trên chất lượng thi của học sinh được nâng
lên rõ rệt. Điều đó được minh chứng cụ thể qua các năm học:
ơ

Năm học
2016-2017

Tổng số
HS dự thi
42

Kết quả
Khá
TB


Giỏi

Yếu, kém

SL

TL %

SL

TL %

SL

TL %

SL

TL %

9

21,4

18

42,9

10


23,8

5

11,9

15


2017-2018
42
11 26,2 20 47,6
7
16,7
4
9,5
2018-2019
42
13
31
21 49,9
6
14,3
2
4,8
( Năm học 2018-2019 thống kê số liệu từ đề khảo sát chung toàn tỉnh môn GDCD)
2.4.2. Đối với đồng nghiệp và nhà trường.
Sau khi bản thân nghiên cứu, thử nghiệm tôi đã phổ biến kinh nghiệm cho các đồng
nghiệp trong trường cùng thực hiện và kết quả cụ thể:


Năm học

Kết quả
Khá
TB

Tổng số

Giỏi
Yếu, kém
HS dự thi SL TL % SL TL % SL TL %
SL
TL %
2016-2017
153
25 16,3 58 37,9 50
32,7
20
13,1
2017-2018
132
23 17,4 57 43,22 42
31,8
10
7,58
2018-2019
164
44 26,8 71 43,3 40
24,4

9
5,5
( Năm học 2018-2019 thống kê số liệu từ đề khảo sát chung toàn tỉnh môn GDCD)
Qua bảng số liệu trên cho thấy: các năm học sau số học sinh điểm yếu kém
giảm so với năm học trước ( từ 13,1% còn 5,5 và dự kiến 1.3); số học sinh đạt điểm
khá giỏi tăng thêm (từ 54,2% lên 70,1 %).
Không có học sinh khối 12 vi phạm kỉ luật và pháp luật. Đặc biệt trong
những năm vừa qua, chính các em học sinh trường THPT Nga Sơn cũng đã tích cực
tham gia nhiều phong trào thiện nguyện như: Phong trào nuôi lợn đất (năm học
2016- 2017 được 23.567.000 đồng; năm học 2018- 2019 được 37.600.000 đồng
giúp đỡ bạn nghèo trong học tập; các em thường xuyên tổ chức thăm và chia sẻ
những gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn ở địa phương; thường xuyên chăm sóc,
quét dọn nghĩa trang liệt sỹ huyện; tích cực thi đua học tốt, rèn luyện tốt để có
thành tích xuất sắc báo công trước anh linh các anh hùng liệt sỹ….
Chính nhờ bộ môn GDCD đạt kết quả cao nên nâng số lượng học sinh đậu
tốt nghiệp lên 99,5% năm học 2016-2017 và 100% năm học 2017-2018 trong đó có
01 điểm 10 (là 1 trong 7 điểm 10 của tỉnh Thanh Hóa đều thuộc bộ môn GDCD).
Từ kết quả trên, môn GDCD đã tạo được sức thu hút đối với các em học
sinh. Sự đam mê nghề nghiệp, nhiệt huyết chuyên môn của các đồng chí giáo viên

16


dạy bộ môn GDCD đã lan tỏa tới các đồng chí giáo viên bộ môn nói chung, giáo
viên chủ nhiệm nói chung…. đã xây dựng được nhà trường THPT Nga Sơn thực sự
thân thiện mà ở trong đó mỗi thầy, cô giáo luôn mẫu mực; mỗi em học sinh đều
luôn tích cực- tích cực trong suy nghĩ, tích cực trong hành động. Đây là kết quả
đáng ghi nhận và khích lệ đối với nhà trường.

III. KẾT LUẬN

Qua thời gian triển khai đề tài (năm học 2016-2017, 2017-2018 và 20182019), tôi đã nhận được:
- Sự quan tâm của lãnh đạo các cấp, sự ủng hộ tích cực của Ban Giám hiệu,
tập thể giáo viên trong tổ chuyên môn, sự ủng hộ tích cực của học sinh trong nhà
trường.
- Bản thân các giáo viên khi tham gia thử nghiệm đều nhiệt tình và tâm huyết
từ đó nâng chất lượng bộ môn qua các năm học, khiến cho việc ôn tập môn Giáo
dục công dân trở nên dễ dàng hơn. Học sinh hiểu và ứng dụng thành thạo cách làm
bài mang lại hiệu quả cao trong học tập.
3.1. Bài học kinh nghiệm: Thông qua việc nghiên cứu và áp dụng các biện
pháp trong quá trình hướng dẫn học sinh ôn tập bản thân tôi nhận thấy để tiến hành
các hoạt động đạt kết quả cao, mỗi giáo viên cần tâm huyết và nghiên cứu kỹ bài
giảng, hệ thống cho học sinh được những kiến thức cơ bản, trọng tâm, bản chất để
từ đó khai thác làm tiền đề cho việc ôn tập và làm bài tập. Ngoài ra, giáo viên cần
tạo cho học sinh hứng thú, đam mê tìm tòi, có động lực trong học tập thông qua quá
trình tranh luận, đàm thoại, phát vấn, học sinh hướng dẫn cho nhau và giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ.
3.2. Những kiến nghị, đề xuất.
3.2.1. Đối Sở Giáo dục và Đào tạo.

17


- Tổ chức nhiều chương trình hội thảo, khóa tập huấn cho giáo viên GDCD
về chuyên môn để các đồng chí giáo viên có điều kiện hiểu sâu hơn bản chất nội
hàm nhiều đơn vị kiến thức, đặc biệt là về pháp luật.
- Hiện tại thời lượng giảng dạy môn GDCD là 01 tiết/ tuần. Trong khi đó:
đặc thù kiến thức bộ môn là khó, rộng; lại phải có trách nhiệm lồng ghép nhiều kiến
thức đang là vấn đề quan trọng của xã hội- sẽ rất khó khăn cho giáo viên. Vì vậy,
tôi kính đề xuất với Sở Giáo dục và Đào tạo có thể tham mưu với Bộ Giáo dục và
Đào tạo tăng thời lượng giảng dạy cho bộ môn GDCD (02 tiết/ tuần cho cả 3 khối)

và đưa các nội dung hiện đang lồng ghép vào chương trình chính khóa.
3.2.2. Đối với nhà trường.
- Tăng cường đầu tư tủ sách pháp luật trong nhà trường để cả giáo viên và
học sinh có điều kiện nghiên cứu- không chỉ có giá trị trong công tác dạy và học,
mà còn có giá trị trong cuộc sống lâu dài.
- Tổ chức nhiều hoạt động ngoại khóa nội dung chuyên môn GDCD tạo hứng
thú học tập hơn cho học sinh, từ đó thu hút các em nghiên cứu, học tập đặc biệt
tăng khả năng vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
3.2.3. Đối với giáo viên bộ môn.
- Không ngừng tự học, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ chuyên môn.
- Tích cực đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá để
tăng sức thu hút của học sinh đối với bộ môn.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 27 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

18


Mai Thị Hạnh

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
2
3
4


Luật giáo dục sửa đổi 2009
Thông tư 12/2011/TT-BGDĐT Điều lệ trường trung học cơ sở, phổ thông
và trường phổ thông có nhiều cấp học
Kế hoạch giáo dục nhà trường môn Giáo dục công dân
Nhiệm vụ năm học 2018-2019

19


20



×