Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Luận văn thạc sỹ - Kiểm soát của ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Hà Tĩnh đối với dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.89 KB, 84 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


LÊ CẢNH HƯNG

KIỂM SOÁT CỦA“NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
CHI NHÁNH TỈNH HÀ TĨNH”ĐỐI VỚI DỊCH VỤ THANH
TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH

Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THỊ LỆ THÚY

Hà Nội - 2017


“LỜI CAM ĐOAN”

Học viên“xin cam đoan luận văn”“Kiểm soát của ngân hàng Nhà
nước chi nhánh tỉnh Hà Tĩnh đối với dịch vụ thanh toán không dùng tiền
mặt của các ngân hàng thương mại” là kết quả của quá trình học tập, nghiên
cứu khoa học độc lập, nghiêm túc, do chính tác giả nghiên cứu và thực hiện.
Các số liệu sử dụng trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đáng tin cậy
và được xử lý khách quan, trung thực. Các giải pháp nêu trong luận văn được
rút ra từ những cơ sở lý luận và quá trình nghiên cứu thực tiễn.
Học viên

Lê Cảnh Hưng



LỜI CẢM ƠN
“Học viên xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của TS.
Nguyễn Thị Lệ Thúy trong suốt quá trình học viên viết và hoàn thành luận
văn.
Học viên cũng xin cảm ơn Ban lãnh đạo, các cán bộ của ngân hàng nhà
nước Việt Nam - Chi nhánh Hà Tĩnh đã nhiệt tình giúp đỡ học viên trong quá
trình tìm hiểu và thu thập số liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu luận văn. ”
Học viên

Lê Cảnh Hưng


MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Ban Quản lý dự án là tổ chức có chức năng điều phối các hoạt động liên
quan đến đầu tư các dự án tạo nên sự phát triển về kinh tế hay gia tăng các
phúc lợi xã hội, thông qua đó các chủ thể có liên quan thực hiện hoàn thành
dự án, từ ý tưởng đến khi bàn giao sử dụng theo đúng quy định. Do đó, hoạt
động Ban quản lý dự án có vai trò rất quan trọng. Hàng năm, ngân sách nhà
nước các cấp từ Trung ương đến địa phương đầu tư hàng nghìn tỷ đồng cho
các dự án phát triển, trong đó ưu tiên đầu tư các công trình hạ tầng khung
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế. Để quản lý hiệu quả nguồn vốn, nâng cao
chất lượng trong các dự án đầu tư thì việc xắp xếp, tổ chức nhằm chuyên
nghiệp hóa Ban Quản lý dự án là lý do thiết thực.
Tháng 12 năm 2016 UBND thành phố Hà Nội quyết định thành lập 5
Ban QLDA đầu tư xây dựng trên cơ sở sát nhập 24 đơn vị trước đây bao gồm:
Ban QLDA đầu tư xây dựng Công trình dân dụng và công nghiệp thành phố
Hà Nội (sáp nhập từ 8 đơn vị); Ban QLDA đầu tư xây dựng Công trình giao
thông thành phố Hà Nội (sáp nhập từ 7 đơn vị); Ban QLDA đầu tư xây dựng

Công trình nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội (sáp nhập
từ 3 đơn vị); Ban QLDA đầu tư xây dựng Công trình văn hóa xã hội thành
phố Hà Nội (sáp nhập từ 3 đơn vị): Ban QLDA đầu tư xây dựng Công trình
Cấp thoát nước và môi trường thành phố Hà Nội (sáp nhập 3 đơn vị). Cùng
với việc sắp xếp lại các Ban QLDA thuộc UBND thành phố Hà Nội, với quyết
tâm nâng cao kỷ cương, tiến độ, chất lượng, hiệu quả công trình, việc xây
dựng cơ chế quản lý và công tác tổ chức quản lý tiến độ, chất lượng và giá
thành xây dựng công trình. Việc để xảy ra tình trạng một số dự án xây dựng bị
chậm tiến độ, chất lượng chưa đảm bảo và giá thành phải điều chỉnh, thay đổi


lớn có nhiều nguyên nhân khách và chủ quan một trong những nguyên nhân
đó là Ban quản lý dự án thiếu tính chuyên nghiệp. Trong đó phải kể đến là
tình trạng còn thiếu sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật liên quan đến
đầu tư, sự phân cấp quản lý còn chưa khoa học, phù hợp, năng lực quản lý,
điều hành của các chủ thể, trong đó có các chủ đầu tư, ban quản lý dự án. Từ
những bất cập, tồn tại trong công tác quản lý đầu tư xây dựng các dự án xây
dựng về tiến độ thi công, chất lượng xây dựng và giá thành công trình, Luận
văn sẽ phân tích, đánh giá, tổng kết cụ thể và đưa ra mô hình ban quản lý dự
án theo hướng chuyên nghiệp hoá. Điều này sẽ tạo nên sự thay đổi về chất,
khiến các ban QLDA phải hoàn thiện mình để nâng cao tính chuyên nghiệp và
dần loại bỏ cách phân chia dự án mang tính ngắn hạn mỗi dự án là một ban
quản lý. Trước xu thế phát triển của Hà Nội, vấn đề đặt ra là phải sớm hình
thành một tổ chức bộ máy đảm nhiệm công tác quản lý các dự án đầu tư xây
dựng mang tính chuyên nghiệp do vậy đòi hỏi phải có các Ban quản lý dự án
chuyên nghiệp để quản lý các dự án.
Trong khoảng một thập niên trở lại đây, cùng với xu hướng hội nhập khu
vực hóa, toàn cầu hóa trong mọi lĩnh vực kinh tế và xã hội. Công tác quản lý
đầu tư dự án ngày càng trở nên phức tạp đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều
cấp, nhiều ngành, nhiều đối tác và nhiều bộ môn liên quan. Do đó, công tác

quản lý dự án đòi hỏi phải có sự phát triển sâu rộng, và mang tính chuyên
nghiệp hơn mới có thể đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển các dự án tạo được
hiệu quả cao ở nước ta trong thời gian tới. Thực tiễn đó đã thúc đẩy sự ra đời
một công việc mới mang tính chuyên nghiệp thực sự: Quản lý dự án - một nghề
đòi hỏi tính tổng hợp và chuyên nghiệp từ các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt
động tư vấn, kể cả trong nước và nước ngoài. Do đó, việc nghiên cứu mô hình
ban quản lý dự án theo hướng chuyên nghiệp hoá giảm bớt số lượng các Ban
quản lý dự án, tiết kiệm kinh phí, nguồn lực và khắc phục tình trạng quản lý dự
án kéo dài, chất lượng, hiệu quả thấp là hết sức cần thiết.


2. Tổng quan các nghiên cứu về quản lý dự án
2.1 . Các nghiên cứu trong nước
Năm 2006, từ việc hệ thống các nghiên cứu trước đây trên thế giới, Cao
Hảo Thi (2006) đã xây dựng mô hình nghiên cứu cho 239 dự án xây dựng cơ
bản ở Việt Nam và khẳng định nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến thành công
của dự án là năng lực quản lý dự án và năng lực của người tham gia và Môi
trường bên ngoài với tác động đặc trưng chịu ảnh hưởng bởi giai đoạn hoàn
thành dự án và thực hiện chu kỳ sống của dự án.
Cao Hao Thi & Swierczek (2010) qua phân tích 150 công trình dân dụng
của miền Nam đã đưa ra các yêu cầu cần thiết phải xây dựng ban quản lý dự
án theo hướng chuyên nghiệp và kết luận có 4 yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến
sự chuyên nghiệp trong quản lý dự án là sự hỗ trợ của các tổ chức kết hợp
năng lực của Ban QLDA, năng lực của người tham gia, môi trường bên ngoài,
khả năng quản lý dự án và các yếu tố gián tiếp bao gồm đặc điểm của nhà đầu
tư và ngân sách dự án.
Nguyễn Thị Minh Tâm (2009) phân tích trên 216 dự án xây dựng ở Việt
Nam phản ánh 6 yếu tố ảnh hưởng đến tính chuyên nghiệp trong quản lý dự
án bao gồm: sự thay đổi của chi phí dự án, năng lực thực hiện, năng lực lập
dự án, gian lận và mất mát, năng lực tài chính, các yếu tố chính sách. Tuy

nhiên, các nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu là việc thực hiện chung cho loại
hình dự án và không thể hiện bản chất của các dự án đầu tư xây dựng cơ bản.
Thông qua việc nghiên cứu các tài liệu liên quan đên quản lý dự án và các yếu
tố tác động đến mô hình quản lý dự án theo hương chuyên nghiệp.
Ngoài ra còn có một số các nghiên cứu khác như: Hoàng Đỗ Quyên
(2008), Đề tài đề cập đến việc hoàn thiện công tác quản lý dự án đầu tư tại
Ban quản lý dự án Công trình điện Miền Bắc, đưa ra những lý luận cơ bản về
quản lý dự án, phân tích thực trạng và đưa ra những giải pháp nhằm hoàn
thiện công tác quản lý dự án tại Ban quản lý dự án Công trình điện Miền Bắc.


Đề tài tập trung chủ yếu vào việc công tác quản lý dự án trong giai đoạn thực
hiện dự án tại các dự án thuộc phạm vi quản lý của Ban quản lý dự án công
trình điện.
Nguyễn Mạnh Hà (2012), cũng đã đưa ra những lý luận cơ bản về quản
lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản và phân tích một số tồn tại, vứớng mắc, khó
khăn trong công tác quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình thời gian vừa
qua để đưa ra một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các dự án
đầu tư xây dựng công trình thuộc Bộ Tổng tham mưu - Bộ Quốc phòng. Tuy
nhiên đề tài cũng mới tập trung nghiên cứu về quản lý dự án đầu tư xây dựng
cơ bản nói chung tại một đơn vị quân đội. Bên cạnh đó phương pháp nghiên
cứu vẫn còn sơ sài, không có hệ thống bảng biểu để phân tích đánh giá.
Vũ Thị Thành Hưng (2015) Kết hợp nghiên cứu lý luận, phân tích thực
trạng về công tác quản lý dự án tại Ban Quản lý dự án công trình giao thông
Nghệ An ta sẽ có cái nhìn tổng quan về công tác quản lý dự án tại Ban Quản
lý dự án công trình giao thông Nghệ An, thấy được những đóng góp đối với
sự phát triển kinh tế xã hội và dân sinh trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Nhu cầu
đầu tư các dự án xây dựng hạ tầng giao thông đang trên đà tăng lên, hơn nữa
quy trình và phƣơng pháp quản lý các dự án là teơng tự nhau. Vì vậy đề tài
mở ra một hướng đi cho việc quản lý dự án tại Ban Quản lý dự án công trình

giao thông Nghệ An cho những năm tiếp theo có hiệu quả hơn.
2.2 Các nghiên cứu nước ngoài
Chan (2001) trong một nghiên cứu tổng quan về các nghiên cứu về quản
lý dự án đã cho thấy nhu cầu cần thiết phải có các ban quản lý dự án mang
tính chuyên nghiệp, tác giả cũng đưa ra các tiêu chí để đánh gia tính chuyên
nghiệp như: quá trình thực hiện, giá trị nhận thức và sự hài lòng của khách
hàng với sản phẩm cuối cùng; hoặc các tiêu chí chính để đánh giá thành công
của dự án như hiệu năng kỹ thuật, hiệu quả thực hiện, các yếu tố tác động đến
các nhà quản lý và tổ chức (chủ yếu là sự hài lòng của khách hàng), phát triển


cá nhân, năng lực tổ chức và hiệu quả hoạt động kinh doanh, hoặc nghiên cứu
của Belassi& Tukel, (1996), đã đưa ra khung nghiên cứu về mô hình dự án
chuyên nghiệp và sự thành công và thất bại của mô hình ban quản lý dự án.
Liên quan đến các yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyên nghiệp trong quản lý
của dự án, Belassi và Tukel (1996) đã biên soạn một danh sách các yếu tố ảnh
hưởng đến sự thành công của dự án thông qua các nghiên cứu trước đây như:
Cơ sở tiêu chuẩn trong ngân sách và thời hạn đạt được các mục tiêu đã đề ra,
nhu cầu của dự án và các nhà đầu tư, nhu cầu của người sử dụng, nhu cầu của
các bên liên quan. Tuy nhiên, một số yếu tố không liên quan đến quản lý dự
án nhưng cũng có thể ảnh hưởng đến sự thành công của dự án, đó là các yếu
tố điển hình của dự án, người tham gia và môi trường bên ngoài.
Belassi và Tukel (1996, trang 143-144) đã đưa ra các các nhóm yếu tố
ảnh hưởng đến sự chuyên nghiệp trong quản lý dự án như: các nguyên tắc cơ
bản, các tiêu chuẩn và yếu tố ảnh hưởng: điều kiện ảnh hưởng, bằng chứng
thực nghiệm về sự ảnh hưởng đến thành công của dự án trong 4 lĩnh vực: dự
án, Quản lý dự án và các bên tham gia tham gia, môi trường bên trong và môi
trường bên ngoài, và giải thích mối quan hệ giữa các yếu tố của nhóm. Các
yếu tố ảnh hưởng đến sự tính chuyên nghiệp trong quan lý dự án cũng có thể
thay đổi theo từng giai đoạn của vòng đời dự án (Pinto & Prescott, 1988). Mối

quan hệ giữa yếu tố quan lý dự án và các yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyên
nghiệp trong quản lý dự án và sau đó là Westerveld (2002) đã mô tả chi tiết
hơn bằng cách tóm tắt các yếu tố quản lý dự án và các yếu tố ảnh hưởng đến
thành công của dự án nghiên cứu, sau đó phát triển các mô hình quản lý dự án
chuyên nghiệp (mô hình dự án chuyên nghiệp) trên cơ sở mô hình quản lý của
quỹ Châu Âu về quản lý chất lượng (EFQM). Westerveld (2002, trang 7) cho
thấy không có một tiêu chuẩn thống nhất để xác định sự chuyên nghiệp trong
quản lý dự án và các tiêu chí để xác định sự thành công của dự án, điều này sẽ
phụ thuộc vào từng dự án được mô tả, đề xuất một mô hình linh hoạt hơn để


xem xét trực tiếp mối quan hệ giữa các yếu tố quyết định thành công của dự
án với các yếu tố tác động đến sự chuyên nghiệp trong quản lý dự án. Từ các
nghiên cứu trước đó có thể thấy Mô hình quản lý dự án theo hướng chuyên
nghiệp vẫn chưa được đánh giá một cách triệt để đồng thời các nhân tố ảnh
hưởng đến nó vẫn chưa được thống nhất.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các lý luận về ban quản lý dự án và xây
dựng mô hình ban quản lý dự án theo hướng chuyên nghiệp với các mục tiêu
cụ thể như sau:
- Tổng quan các lý luận về về ban quản lý dự án, ban quản lý dự án theo
hướng chuyên nghiệp hóa.
- Đánh giá thực trạng về một số mô hình ban quản lý dự án hiện tại ở Hà Nội
- Đề xuất các kiến nghị nhằm xây dựng mô hình ban quản lý dự án theo
hướng chuyên nghiệp.
4. Các câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi 1: Mô hình ban quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản theo
hướng chuyên nghiệp hoá là gì?
Câu hỏi 2: Thực trạng mô hình ban quản lý dự án hiện nay có đáp ứng
được tính chuyên nghiệp hóa không?

Câu hỏi 3: Giải pháp nào để xây dựng mô hình ban quản lý dự án theo
hướng chuyên nghiệp hoá?
1. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, Tác giả luận văn đã dựa trên
các phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu tổng quan về cơ sở lý thuyết trên thế giới và trong nước về
mô hình hoạt động của các ban quản lý dự án;
- Tiếp cận thực tế, thu thập thông tin, xử lý số liệu, nghiên cứu thực tiễn
và ý kiến chuyên gia;


- Nghiên cứu các quy định hiện hành để áp dụng với đối tượng và nội
dung nghiên cứu trong điều kiện hiện nay theo mô hình phù hợp.
6. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tổng quan đồng thời nghiên cứu một số mô hình tổ chức,
cách thức hoạt động của Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng trực thuộc Sở
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà NộI từ năm 2013- 2016. từ đó đưa
ra các nhận xét về ưu nhược điểm của các mô hình hiên đang có của Hà Nội,
đồng thời đề xuất mô hình BQL Dự án ĐTXD Cơ Bản theo hướng chuyên
nghiệp hoá.
7. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài đánh giá những ưu, nhược điểm; những thuận lợi, khó khăn, tồn
tại ở các Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng thuộc Hà Nội. Điều đó giúp cho
Lãnh đạo Hà Nội cũng như ở Việt Nam nắm bắt được thực trạng mô hình các
Ban quản lý dự án trực thuộc mình đang hoạt động, vận hành ra sao, tác động
của nó tới chất lượng hiệu quả của các dự án đầu tư.
8. Kết quả dự kiến đạt được
Đánh giá sự phù hợp về mô hình quản lý, hoạt động, vận hành của các
Ban Quản lý dự án ở Hà Nội.
Tìm ra những ưu, nhược điểm; những thuận lợi, khó khăn, tồn tại và đề

xuất mô hình Ban quản lý dự án theo hướng chuyên nghiệp hoá và giải pháp
thích hợp để xây dựng mô hình
9. Cơ cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận bao gồm 3 chương.
Chương 1: Tổng quan cơ sở lý thuyết mô hình ban quản lý dự án theo
hướng chuyên nghiệp hóa
Chương 2: Phân tích thực trạng về mô ban quản lý dự án hiện nay ở Hà Nội
Chương 3: Giải pháp, Kiến nghị xây dựng mô hình ban quản lý dự án
theo hướng chuyên nghiệp hoá.


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ MÔ HÌNH
BAN QUẢN LÝ DỰ ÁN THEO HƯỚNG CHUYÊN NGHIỆP HOÁ

1.1. Tổng quan về Ban quản lý dự án
1.1.1 Khái niệm:
Ban Quản lý dự án là một tổ chức tư vấn, có năng lực quản lý thực hiện
và điều hòa, phối hợp các hoạt động liên quan tới dự án nhất định. Ban Quản
lý dự được thành lập trong trường hợp Chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án
hoặc được thành lập như một tổ chức có tư cách pháp nhân với mục đích quản
lý dự án theo sự phân cấp của Chủ đầu tư. Ban Quản lý dự án không được
phép thành lập Ban trực thuộc hay các đơn vị sự nghiệp có thu để thực hiện
quản lý dự án. Ban Quản lý dự án phải chịu trách nhiệm trước pháp luật theo
nhiệm vụ và quyền hạn được giao. Ban Quản lý dự được thành lập, phát triển
và kết thúc cùng dự án.
Các thành phần của Ban QLDA có thể thay đổi Theo các giai đoạn của dự
án, như:
Giai đoạn Lập báo cáo dự án:
- Đại diện Chủ đầu tư: trình bày rõ mục đích đầu tư và sử dụng công trình,

nguồn vốn đầu tư, các đối tác tham gia dự án;
- Giám đốc điều hành dự án: điều hành quản lý chung, lập kế hoạch tổng
thể dự án, tổ chức nhân sự, chuẩn bị và trình Chủ đầu tư các Báo cáo dự án.
- Các trợ lý chuyên môn, thư ký giúp việc và các chuyên gia KTS, kỹ sư
kết cấu, điện, nước, ….
Giai đoạn Thiết kế và đấu thầu:
- Giám đốc điều hành dự án: chuẩn bị nhiệm vụ thiết kế cho công trình,
mời hoặc thi tuyển các đơn vị tư vấn thiết kế, công bố kết quả & ký hợp đồng
với đơn vị được tuyển chọn, điều phối hoạt động tư vấn thiết kế theo đúng trình
tự, thời gian, nội dung của Bản nhiệm vụ thiết kế đã đề ra, cùng Chủ đầu tư xem


xét và phê duyệt nội dung thiết kế và bản dự toán cuối cùng.
- Các trợ lý chuyên môn, thư ký giúp việc cho Giám đốc dự án, nếu dự
án hợp tác với đối tác nước ngoài thì cần thiết phải có thêm bộ phận
biên/phiên dịch;
- Kiến trúc sư (nếu Giám đốc dự án đã là KTS thì không cần thêm người
này): chuẩn bị và cùng thuyết trình cho Chủ đầu tư hiểu các phương án thiết kế
sơ bộ do đơn vị tư vấn thiết kế đưa ra. Nêu yêu cầu sửa chữa, bổ sung để tư vấn
thiết kế triển khai phương án chi tiết.
- Chuyên gia tính dự toán: ước tính & kiểm tra giá thành, dự toán công
trình theo bản vẽ thiết kế thi công do Đơn vị tư vấn thiết kế cung cấp, hỗ trợ việc
lập các hồ sơ mời thầu & đấu thầu.
- Nhà thầu: tham gia ý kiến về vật liệu xây dựng, phương pháp tổ chức
thi công.
Giai đoạn Thi công xây dựng:
- Giám đốc điều hành dự án; các trợ lý chuyên môn, thư ký giúp việc;
- Kiến trúc sư tại hiện trường; Chuyên gia tính toán; Các nhà tư vấn
kỹ thuật;
- Nhà thầu.

Giai đoạn Nghiệm thu công trình:
- Chủ đầu tư; Giám đốc dự án; Các trợ lý chuyên môn, thư ký giúp việc;
- Người sử dụng công trình (Ví dụ: công trình là một Khách sạn quốc tế
thì người sử dụng là nhà quản lý điều hành khách sạn);
- Các nhà thầu tư vấn thiết kế, xây dựng.
Trong Ban quản lý dự án, vị trí quan trọng là Giám đốc điều hành dự án
(Project Manager). Đây là người có trình độ và kinh nghiệm quản lý; có bản
lĩnh, kỹ năng lãnh đạo và làm việc theo nhóm, biết ngoại ngữ nếu Dự án hợp tác
với nước ngoài. Giám đốc dự án hiểu rõ chủ trương, ý đồ của Chủ đầu tư và mọi
khía cạnh của dự án, để truyền đạt lại cho các thành viên khác và phải đưa ra


những quyết định chính xác, hợp lý và khách quan trong quá trình quản lý, nhằm
đạt được những mục tiêu của dự án đã đề ra. Giám đốc dự án sẽ hoạt động liên
tục trong suốt quá trình của dự án, từ khi nghiên cứu lập báo cáo dự án đến giai
đoạn thiết kế, giai đoạn đấu thầu, giai đoạn triển khai dự án và cuối cùng là giai
đoạn nghiệm thu bàn giao dự án.
1.2.2. Nguyên tắc tổ chức, hoạt động và phạm vi
quản lý của Ban QLDA
a) Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Ban QLDA:
- Ban QLDA được thành lập để giúp Cơ quan chủ quản, Chủ dự án quản
lý thực hiện chương trình, dự án;
- Việc giao nhiệm vụ và ủy quyền cho Ban QLDA phải được quy định
trong Quyết định thành lập Ban QLDA hoặc tại các văn bản ủy quyền cụ thể của
Cơ quan quyết định thành lập Ban QLDA;
- Tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế ký
kết với nhà tài trợ;
- Ban QLDA và người đứng đầu Ban QLDA chịu trách nhiệm trước Cơ
quan quyết định thành lập Ban QLDA và pháp luật về hành vi của mình trong
việc thực hiện các nhiệm vụ được giao;

- Có trách nhiệm giải trình với Cơ quan quyết định thành lập Ban
QLDA, các cơ quan quản lý Nhà nước về ODA, các cơ quan bảo vệ pháp luật,
các cơ quan dân cử, các tổ chức chính trị, xã hội và nhà tài trợ về các vấn đề
thuộc thẩm quyền;
- Mọi hoạt động của Ban QLDA phải được công khai và chịu sự giám sát
theo các quy định hiện hành;
- Quản lý và sử dụng có hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí các nguồn lực
của chương trình, dự án;
- Thực hiện các quy định của pháp luật về phòng chống tham nhũng; có
các biện pháp phòng chống tham nhũng.


b) Phạm vi quản lý của Ban QLDA:
Ban QLDA có thể đồng thời quản lý nhiều chương trình, dự án khi tuân
thủ các điều kiện sau:
- Phải đủ năng lực và phải được tổ chức theo hướng có các bộ phận chức
năng phục vụ chung cho tất cả các dự án (đấu thầu, giải phóng mặt bằng, kế
hoạch, tài chính, tổ chức, hành chính và quản lý nhân sự...);
- Phải được Cơ quan quyết định thành lập Ban QLDA cho phép bằng
Quyết định thành lập Ban QLDA cho từng chương trình, dự án cụ thể, thuân thủ
các quy định của Thông tư này.
1.2.3. Chức năng, nhiệm vụ của ban quản lý dự án
Nghị định 59/2015/NĐ-CP của chính về quản lý đầu tư xây dựng đã
quy định về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Ban QLDA theo đó Ban
QLDA có chức năng giúp Chủ dự án quản lý thực hiện chương trình, dự án với
các nhiệm vụ sau đây:
a) Nhiệm vụ lập kế hoạch bao gồm: Xây dựng kế hoạch tổng thể và kế hoạch
chi tiết hàng năm thực hiện chương trình, dự án (kế hoạch giải ngân, kế hoạch chi
tiêu, kế hoạch đấu thầu...), trong đó xác định rõ các nguồn lực sử dụng, tiến độ thực
hiện, thời hạn hoàn thành, mục tiêu chất lượng và tiêu chí chấp nhận kết quả đối với

từng hoạt động của chương trình, dự án để làm cơ sở theo dõi, đánh giá. Kế hoạch
tổng thể thực hiện dự án phải được Ban QLDA chuẩn bị 3 tháng trước ngày khởi
động chương trình, dự án và phải được Cơ quan quyết định thành lập Ban QLDA phê
duyệt. Kế hoạch chi tiết hàng năm phải được xây dựng trên cơ sở thống nhất với nhà
tài trợ và trình Cơ quan quyết định thành lập Ban QLDA phê duyệt phù hợp với lịch
biểu xây dựng kế hoạch hàng năm của các cơ quan, đơn vị này, bảo đảm tiến độ thực
hiện chương trình, dự án theo Điều ước quốc tế cụ thể về ODA đã ký.
b) Nhiệm vụ quản lý chuẩn bị thực hiện chương trình, dự án:
- Đối với chương trình, dự án hỗ trợ kỹ thuật:
Việc quản lý chuẩn bị thực hiện chương trình, dự án hỗ trợ kỹ thuật bao
gồm công tác nghiên cứu văn kiện chương trình, dự án hỗ trợ kỹ thuật hoặc Điều


ước quốc tế về ODA ký kết với nhà tài trợ, quy trình, thủ tục và những điều kiện
thực hiện chương trình, dự án (chế độ chi tiêu ngân sách; chế độ kế toán, kiểm
toán dự án; chế độ báo cáo...).
- Đối với chương trình, dự án đầu tư:
Việc quản lý chuẩn bị thực hiện chương trình, dự án đầu tư thực hiện theo
quy định hiện hành về quản lý đầu tư và xây dựng công trình, có tính đến một số
yêu cầu có tính đặc thù đối với chương trình, dự án ODA (di dân, tái định cư,
giải phóng mặt bằng; đánh giá tác động môi trường; đánh giá tác động xã hội)
trên cơ sở Điều ước quốc tế về ODA ký kết với nhà tài trợ.
c) Nhiệm vụ thực hiện các hoạt động đấu thầu và quản lý hợp đồng:
- Thực hiện nhiệm vụ về đấu thầu do Cơ quan quyết định thành lập Ban
QLDA giao phù hợp với quy định của pháp luật về đấu thầu và các quy định đấu
thầu của nhà tài trợ;
- Quản lý việc thực hiện các nghĩa vụ quy định tại hợp đồng đã được
người có thẩm quyền ký kết với nhà thầu (trên các phương diện: tiến độ, khối
lượng, chất lượng, an toàn lao động và vệ sinh môi trường). Theo dõi, giám sát,
đánh giá hoạt động và kết quả hoạt động của nhà thầu. Kịp thời giải quyết các

vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện các hợp đồng theo thẩm quyền;
- Tổ chức thực hiện nghiệm thu sản phẩm; thanh quyết toán theo quy định
của pháp luật.
d) Nhiệm vụ quản lý tài chính, tài sản và giải ngân:
Quản lý tài chính, tài sản và thực hiện các thủ tục giải ngân theo quy định
của pháp luật và phù hợp với các quy định của nhà tài trợ.
đ) Nhiệm vụ hành chính, điều phối và trách nhiệm giải trình:
- Tổ chức văn phòng và quản lý nhân sự Ban QLDA;
- Thiết lập hệ thống thông tin nội bộ, tập hợp, phân loại, lưu trữ toàn bộ
thông tin, tư liệu gốc liên quan đến chương trình, dự án và Ban QLDA theo các
quy định của pháp luật;


- Chuẩn bị để Cơ quan quyết định thành lập Ban QLDA công khai hóa nội
dung, tổ chức, tiến độ thực hiện và ngân sách của chương trình, dự án cho những
đối tượng thụ hưởng trực tiếp của chương trình, dự án (áp dụng với chương
trình, dự án hỗ trợ kỹ thuật) và chính quyền địa phương, các cơ quan dân cử, các
tổ chức chính trị, xã hội và phi Chính phủ tại địa bàn dự án (áp dụng với chương
trình, dự án đầu tư);
- Cung cấp các thông tin chính xác và trung thực cho các cơ quan bảo vệ
pháp luật, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, nhà tài trợ, các cơ quan thông tin đại
chúng và cá nhân liên quan trong khuôn khổ nhiệm vụ và trách nhiệm được giao,
ngoại trừ những thông tin được giới hạn phổ biến theo luật định;
- Là đại diện theo ủy quyền của Cơ quan quyết định thành lập Ban QLDA
trong các giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện được xác định tại Quy chế tổ
chức và hoạt động của Ban QLDA và tại các văn bản ủy quyền;
- Làm đầu mối của Cơ quan quyết định thành lập Ban QLDA và các cơ
quan tham gia thực hiện chương trình, dự án trong việc liên hệ với nhà tài trợ về
các vấn đề liên quan trong quá trình thực hiện chương trình, dự án;
- Làm đầu mối phối hợp với các đơn vị chức năng của Cơ quan quyết

định thành lập Ban QLDA tham gia các hoạt động của chương trình, dự án.
e) Nhiệm vụ theo dõi, đánh giá và báo cáo tình hình thực hiện chương
trình, dự án:
- Tổ chức đánh giá về hoạt động của Ban QLDA;
- Tổ chức theo dõi và đánh giá tình hình thực hiện các chương trình, dự án
ODA theo quy định hiện hành, trong đó:
+ Lập báo cáo tình hình thực hiện chương trình, dự án theo quy định;
cung cấp chia sẻ thông tin thông qua hệ thống quốc gia theo dõi, đánh giá
chương trình, dự án ODA;
+ Thuê tư vấn tiến hành đánh giá ban đầu, giữa kỳ và kết thúc theo nội
dung báo cáo khả thi hoặc văn kiện chương trình, dự án đã được phê duyệt; làm


đầu mối phối hợp với nhà tài trợ hoặc cơ quan quản lý có thẩm quyền để đánh
giá chương trình, dự án.
- Gửi báo cáo tình hình thực hiện chương trình, dự án định kỳ và đột xuất theo
quy định hiện hành tới Cơ quan quyết định thành lập Ban QLDA để cơ quan này gửi
các báo cáo trên tới Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
nơi thực hiện chương trình, dự án để theo dõi, giám sát và hỗ trợ quá trình thực hiện;
g) Nhiệm vụ đối với việc nghiệm thu, bàn giao, quyết toán chương trình,
dự án:
- Chuẩn bị để Cơ quan chủ quản, Chủ dự án nghiệm thu chương trình, dự
án và bàn giao chương trình, dự án đã hoàn thành cho đơn vị tiếp nhận theo quy
định để vận hành, khai thác.
- Lập báo cáo kết thúc chương trình, dự án và báo cáo quyết toán chương
trình, dự án trong thời hạn quy định tại Khoản 3.5, Điều 3, Mục III của Thông tư này.
h) Các nhiệm vụ đặc thù:
- Căn cứ nội dung, quy mô và tính chất của từng chương trình, dự án và
năng lực của Ban QLDA, Cơ quan quyết định thành lập Ban QLDA ủy quyền
cho Ban QLDA quyết định hoặc ký kết các văn bản thuộc thẩm quyền của mình

trong quá trình quản lý thực hiện. Việc ủy quyền có thể thực hiện ngay từ khi bắt
đầu triển khai chương trình, dự án, hoặc theo từng giai đoạn và phải được quy
định tại Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban QLDA hoặc tại từng văn bản ủy
quyền cụ thể.
- Trong trường hợp điều ước quốc tế về ODA ký kết với nhà tài trợ có quy
định cơ cấu tổ chức quản lý dự án, nhiệm vụ và trách nhiệm của Ban QLDA, thì
những quy định này phải được cụ thể hóa và thể hiện đầy đủ trong Quy chế tổ
chức và hoạt động của Ban QLDA.
i) Các nhiệm vụ khác:
Ban QLDA thực hiện các nhiệm vụ khác trong khuôn khổ chương trình,
dự án do Cơ quan quyết định thành lập Ban QLDA giao.


1.2.4. Các yêu cầu cơ bản đối với tổ chức và nhân sự của Ban QLDA
a) Ban QLDA phải có cơ cấu tổ chức thích hợp, có đủ nhân sự với
năng lực, kinh nghiệm phù hợp đảm bảo việc quản lý thực hiện chương
trình, dự án hiệu quả và bền vững. Trong một số trường hợp theo quy định
của nhà tài trợ, các chức danh chủ chốt của Ban QLDA cần có sự thỏa
thuận với nhà tài trợ.
b) Chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của từng phòng, ban;
mối quan hệ công tác giữa các phòng, ban phải được quy định rõ ràng, cụ thể
trong Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban QLDA.
c) Mỗi chức danh và vị trí công tác trong Ban QLDA phải có bản mô tả
công việc do Giám đốc Ban QLDA xây dựng và được công bố công khai trong
Ban QLDA và các đơn vị của Cơ quan quyết định thành lập Ban QLDA, trong
đó quy định cụ thể về yêu cầu năng lực chuyên môn, phạm vi trách nhiệm,
quyền hạn, chế độ đãi ngộ, chế độ báo cáo và đánh giá kết quả công việc.
d) Các chức danh chủ chốt của Ban QLDA: Giám đốc Ban QLDA, Phó
giám đốc Ban QLDA (nếu có), Kế toán trưởng hoặc Kế toán Ban QLDA do Cơ
quan quyết định thành lập Ban QLDA bổ nhiệm và miễn nhiệm. Đối với các

chương trình, dự án đầu tư, nếu các chức danh này được tuyển chọn từ các cán
bộ thuộc Cơ quan chủ quản của Chủ dự án phải được sự nhất trí của Cơ quan
này. Các chức danh khác trong Ban QLDA do Giám đốc Ban QLDA tuyển chọn,
bổ nhiệm và miễn nhiệm.
đ) Cán bộ, nhân viên của Ban QLDA được điều động từ bộ máy của Cơ
quan quyết định thành lập Ban QLDA phải được sự nhất trí của các cơ quan này.
Ban QLDA có thể thuê tuyển cán bộ, nhân viên từ bên ngoài trên cơ sở hợp
đồng. Việc tuyển chọn cán bộ, nhân viên của Ban QLDA phải căn cứ vào các
tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, phẩm chất cá nhân được xác
định cụ thể trong bản mô tả công việc, tuân thủ các quy định của pháp luật hiện
hành và điều ước quốc tế ODA đã ký kết.


e) Yêu cầu đối với Giám đốc Ban QLDA:
- Đối với chương trình, dự án hỗ trợ kỹ thuật:
Giám đốc Ban QLDA (Giám đốc dự án quốc gia - nếu có) là người có đủ
phẩm chất, năng lực chuyên môn, kinh nghiệm công tác trong quản lý thực hiện
chương trình, dự án, hiểu biết về chính sách và quy trình, thủ tục của nhà tài trợ,
có năng lực quản lý và điều phối các hoạt động của chương trình, dự án. Về
ngoại ngữ, ưu tiên những người thông thạo ngoại ngữ phù hợp đối với chương
trình, dự án được giao quản lý thực hiện. Về độ tuổi, Giám đốc Ban QLDA ít
nhất phải trong độ tuổi làm việc đủ để thực hiện xong chương trình, dự án theo
thời hạn quy định trong văn kiện chương trình, dự án. Giám đốc Ban QLDA
(Giám đốc dự án quốc gia - nếu có) có thể làm việc theo chế độ kiêm nhiệm.
Cơ quan quyết định thành lập Ban QLDA xây dựng tiêu chuẩn, bản mô tả
công việc đối với chức danh Giám đốc Ban QLDA, tham vấn ý kiến của bên tài
trợ (nếu cần thiết).
Cơ quan quyết định thành lập Ban QLDA chọn và quyết định bổ nhiệm
Giám đốc Ban QLDA trong số cán bộ thuộc thẩm quyền quản lý đáp ứng được
tiêu chuẩn và các yêu cầu của bản mô tả công việc.

Cơ quan quyết định thành lập Ban QLDA có trách nhiệm hỗ trợ và tạo điều
kiện để Giám đốc Ban QLDA tổ chức thực hiện có hiệu quả chương trình, dự án.
- Đối với chương trình, dự án đầu tư:
Giám đốc Ban QLDA là người có phẩm chất, năng lực chuyên môn, có
khả năng lãnh đạo và kinh nghiệm về quản lý chương trình, dự án. Về ngoại ngữ,
ưu tiên những người thông thạo ngoại ngữ phù hợp đối với chương trình, dự án
được giao quản lý thực hiện. Về độ tuổi, Giám đốc Ban QLDA ít nhất phải trong
độ tuổi làm việc đủ để thực hiện xong chương trình, dự án theo thời hạn quy
định trong văn kiện chương trình, dự án.
Chủ dự án chủ động xây dựng tiêu chuẩn, bản mô tả công việc đối với
chức danh Giám đốc Ban QLDA, tham vấn ý kiến của bên tài trợ (nếu cần thiết).


Chức danh này được tuyển chọn từ các cán bộ của Chủ dự án hoặc Cơ
quan chủ quản mà Chủ dự án trực thuộc cần được sự nhất trí của các cơ quan
này hoặc thông qua tổ chức thi tuyển rộng rãi. Việc tuyển chọn phải được hoàn
tất trước khi ra quyết định thành lập Ban QLDA.
1.2.5. Cơ cấu tổ chức của Ban QLDA
Căn cứ vào nội dung, quy mô, tính chất, phạm vi hoạt động, phương thức
tổ chức quản lý thực hiện chương trình, dự án ODA, Giám đốc Ban QLDA
chuẩn bị và trình cơ quan quyết định thành lập Ban QLDA cơ cấu tổ chức của
Ban QLDA.
Cơ cấu tổ chức của Ban QLDA thường bao gồm các khối sau:
- Khối hành chính, tổ chức, hỗ trợ;
- Khối chức năng bao gồm kế hoạch, đấu thầu, tài chính, giải phóng mặt
bằng và một số hoạt động cần thiết khác;
- Khối kỹ thuật bao gồm giám sát thiết kế, thi công, môi trường hoặc theo
các cấu phần kỹ thuật của chương trình, dự án.
Hình thức tổ chức của từng khối trong cơ cấu tổ chức của Ban QLDA có
thể lựa chọn một trong những hình thức như: phòng, ban, nhóm chức năng.

Cơ quan chủ quản, Chủ dự án ban hành Quyết định thành lập Ban QLDA
trong vòng 10 ngày làm việc sau khi văn kiện chương trình, dự án được cấp có
thẩm quyền phê duyệt.
Trong trường hợp bổ sung nhiệm vụ quản lý thực hiện chương trình, dự
án mới, Cơ quan quyết định thành lập Ban QLDA ban hành Quyết định bổ sung
nhiệm vụ quản lý thực hiện chương trình, dự án mới cho Ban QLDA đang hoạt
động, tuân thủ các quy định của Thông tư này.
Cơ quan quyết định thành lập Ban QLDA có trách nhiệm ban hành Quy
chế tổ chức và hoạt động của Ban QLDA trong vòng 15 ngày làm việc kể từ
ngày có Quyết định thành lập Ban QLDA.
Cơ quan quyết định thành lập Ban QLDA có trách nhiệm gửi Quyết định
thành lập và Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban QLDA tới Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (phù hợp với quy định về
nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại Điều 42 của Nghị định
131/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 11 năm 2006) trong vòng 15 ngày làm việc kể


từ ngày ban hành các quyết định nói trên để tạo cơ sở cho việc quản lý Nhà nước
đối với hoạt động của Ban QLDA.
Ban QLDA được đăng ký sử dụng con dấu riêng theo quy định của pháp
luật để phục vụ cho việc thực hiện chương trình, dự án.
Ban QLDA được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng
thương mại phù hợp với các quy định của pháp luật và Điều ước quốc tế về
ODA ký kết với nhà tài trợ.
1.2.6. Kết thúc chương trình, dự án và giải thể Ban QLDA
Thời điểm kết thúc chương trình, dự án ODA được quy định tại Điều ước
quốc tế về ODA hoặc tại các thỏa thuận ký kết với nhà tài trợ.
Sau khi kết thúc chương trình, dự án, trong vòng 6 tháng, Ban QLDA hỗ
trợ kỹ thuật phải hoàn thành báo cáo kết thúc và báo cáo quyết toán chương
trình, dự án để trình Cơ quan chủ quản (trường hợp Cơ quan chủ quản quản lý

trực tiếp) hoặc để Chủ dự án trình Cơ quan chủ quản (trường hợp Cơ quan chủ
quản giao cho một đơn vị thuộc thẩm quyền làm Chủ dự án).
Sau khi kết thúc chương trình, dự án, trong vòng 6 tháng, Ban QLDA đầu
tư phải hoàn thành báo cáo kết thúc và báo cáo quyết toán chương trình, dự án
để Chủ dự án trình Cơ quan ra quyết định đầu tư chương trình, dự án. Đồng thời,
Ban QLDA tiến hành xử lý tài sản của Ban QLDA theo quy định hiện hành.
Sau khi báo cáo kết thúc và báo cáo quyết toán chương trình, dự án được
cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và việc xử lý tài sản của Ban QLDA đã hoàn
thành, Cơ quan quyết định thành lập Ban QLDA sẽ ban hành Quyết định kết
thúc chương trình, dự án và giải thể Ban QLDA.
Trong trường hợp chưa thể kết thúc được các công việc nêu trên theo thời
hạn quy định, trên cơ sở văn bản giải trình của Ban QLDA, Cơ quan quyết định
thành lập Ban QLDA ban hành văn bản cho phép gia hạn tối đa thêm 6 tháng
nữa để Ban QLDA tiếp tục hoàn thành các công việc dở dang và đảm bảo kinh
phí cần thiết để Ban QLDA duy trì hoạt động trong thời gian gia hạn.
Đối với trường hợp Ban QLDA quản lý nhiều chương trình, dự án, Cơ
quan quyết định thành lập Ban QLDA sẽ ban hành Quyết định kết thúc từng


chương trình, dự án cụ thể, đồng thời điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Ban
QLDA, tuân thủ các quy định của Thông tư này.
Trường hợp có sự thay đổi giữa kỳ về Cơ quan chủ quản, Chủ dự án thì:
- Cơ quan chủ quản, Chủ dự án chuyển giao và Cơ quan chủ quản, Chủ
dự án tiếp nhận chương trình, dự án thực hiện thủ tục bàn giao theo quy định.
- Cơ quan chủ quản, Chủ dự án chuyển giao chương trình, dự án ra Quyết
định giải thể Ban QLDA.
- Cơ quan chủ quản, Chủ dự án tiếp nhận chương trình, dự án ra Quyết
định thành lập Ban QLDA.
1.3. Các mô hình ban quản lý dự án ĐTXDCB
1.3.1. Mô hình chủ nhiệm điều hành dự án:

Là mô hình trong đó Chủ đầu tư giao cho Ban quản lý dự án chuyên
ngành hoặc thuê một tổ chức tư vấn đáp ứng đầy đủ năng lực, chuyên môn
phù hợp để quản lý dự án. Mọi quyết định của Chủ đầu tư liên quan đến thực
hiện dự án được triển khai thông quan Ban quản lý dự án.

Chủ đầu tư

Ban Quản lý dự án
(Chủ nhiệm điều hành dự
án)

Tổ chức thực hiện dự án 1

Lập dự
toán

Khảo sát

Tổ chức thực hiện dự án 2



Quyết toán
vốn

Hình 1.1. Mô hình chủ nhiệm điều hành dự án
Nguồn: giáo trình Quản lý dự án, Từ Quang Phương (2006), Đại học KTQD


Mô hình này bắt buộc Ban quản lý dự án phải có tư cách pháp nhân độc

lập, chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý, điều hành và chịu trách nhiệm trước
pháp luật về toàn bộ quá trình thực hiện dự án.
Mô hình này áp dụng cho những dự án quy mô lớn, tính chất kỹ thuật
phức tạp bởi mô hình này tận dụng được năng lực chuyên môn điều hành của
chủ nhiệm điều hành dự án về nhiều mặt công việc của dự án, cũng như tập
trung đầu mối giải quyết và sát sao hơn đối với công việc.
1.3.2. Mô hình chìa khóa trao tay:
Là mô hình trong đó Ban Quản lý dự không chỉ đại diện toàn quyền của
Chủ đầu tư mà còn là “chủ” thực hiện trọn gói các công việc của dự án. Mô
hình này cho phép tổ chức đấu thầu để lực chọn ra nhà tổng thầu thực hiện
trọn gói dự án. Mọi trách nhiệm thực hiện dự án được giao cho Ban quản lý
dự án và đơn vị này phải chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với toàn bộ
phần việc thực hiện dự án. Ban Quản lý dự án lúc này có quyền độc lập thuê
thầu phụ để thực hiện từng phần việc trong gói tổng thầu đã thắng thầu.
Chủ đầu tư
Thuê tư vấn hoặc tự lập dự
án
Ban Quản lý dự án
(Tổng thầu)

Tổ chức thực hiện dự án 1

Lập dự
toán

Khảo sát

Tổ chức thực hiện dự án 2




Quyết toán
vốn

Hình 1.2. Mô hình chìa khóa trao tay
Nguồn: giáo trình Quản lý dự án, Từ Quang Phương (2006), Đại học KTQD


1.3.3. Mô hình chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án:
Mô hình điển hình là mô hình chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án, theo
đó, chủ đầu tư hoặc trực tiếp thực hiện dự án nhờ sự giúp việc của các phòng
chức năng (tự sản xuất, tự xây dựng, tự tổ chức giám sát và tự chịu trách
nhiệm trước pháp luật) hoặc lập ra một “phòng, ban” quản lý dự án thuộc nội
tổ chức để tư vấn, phối hợp quản lý dự án cũng như chịu sự điều hành và chỉ
đạo trực tiếp của Chủ đầu tư. Ban Quản lý dự án không được phép thành lập
đơn vị quản lý dự án trực thuộc. Theo đó, không chỉ Ban quản lý dự án chịu
trách nhiệm trước pháp luật về những công việc được Chủ đầu tư giao, mà
bản thân Chủ đầu tư cũng chịu trách nhiệm theo nguyên tắc người đứng đầu.
Chủ đầu tư

Ban Quản lý dự án
(tư vấn, phối hợp, chịu chỉ
đạo)
Tổ chức thực hiện dự án
1

Lập dự
toán

Khảo sát


Tổ chức thực hiện dự án
2



Quyết toán
vốn

Hình 1.3. Mô hình chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án
Nguồn: giáo trình Quản lý dự án, Từ Quang Phương (2006), Đại học KTQD
1.3.4. Mô hình quản lý dự án đầu tư theo chức năng
Mô hình quản lý này có đặc điểm
- Dự án đầu tư được đặt vào một phòng chức năng nào đó trong cơ cấu
tổ chức của doanh nghiệp (tuỳ thuộc vào tính chất của dự án).
- Các thành viên quản lý dự án được điều động tạm thời từ các phòng
chức năng khác nhau đến và họ vẫn thuộc quyền quản lý của phòng chức
năng nhưng lại đảm nhận phần việc chuyên môn của mình trong quá trình


quản lý điều hành dự án.
Mô hình quản lý này có ưu điểm sau:
- Linh hoạt trong việc sử dụng cán bộ. Phòng chức năng có dự án đặt
vào chỉ quản lý hành chính và tạm thời một số mặt đối với các chuyên viên
tham gia quản lý dự án đầu tư. Họ sẽ trở về vị trí cũ của mình tại các phòng
chuyên môn khi kết thúc dự án.
- Một người có thể tham gia vào nhiều dự án để sử dụng tối đa, hiệu
quả vốn, kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm của các chuyên viên.
Mô hình này có nhược điểm:
- Đây là cách tổ chức quản lý không theo yêu cầu của khách hàng.

- Vì dự án được đặt dưới sự quản lý của một phòng chức năng nên
phòng này thường có xu hướng quan tâm nhiều hơn đến việc hoàn thành
nhiệm vụ chính của nó mà không tập trung nhiều nỗ lực vào việc giải quyết
thoả đáng các vấn đề của dự án. Tình trạng tương tự cũng diễn ra đối với các
phòng chức năng khác cùng thực hiện dự án. Do đó dự án không nhận được
sự ưu tiên cần thiết, không đủ nguồn lực để hoạt động hoặc bị coi nhẹ.
1.3.5. Mô hình tổ chức chuyên trách quản lý dự án:
Đây là mô hình quản lý mà các thành viên ban quản lý dự án tách hoàn
toàn khỏi phòng chức năng chuyên môn, chuyên thực hiện quản lý điều hành
dự án theo yêu cầu được giao.
Mô hình quản lý này có ưu điểm:
- Đây là hình thức quản lý dự án phù hợp với yêu cầu của khách hàng
nên có thể phản ứng nhanh trước yêu cầu của thị trường.
- Nhà quản lý dự án có đầy đủ quyền lực hơn đối với dự án.
- Các thành viên trong ban quản lý dự án chịu sự điều hành trực tiếp
của chủ nhiệm dự án, chứ không phải những người đứng đầu các bộ phận
chức năng điều hành.
- Do sự tách khỏi các phòng chức năng nên đường thông tin được rút


×