Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Áp dụng kĩ thuật lắng nghe và phản hồi tích cực trong ôn luyện học sinh giỏi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn ở trường THPT như thanh 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 19 trang )

SKKN môn Địa lí

STT
1

2

3

MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. MỞ ĐẦU

TRANG
3
1.1. Lý do chọn đề tài
3
1.2. Mục đích nghiên cứu
3
1.3. Đối tượng nghiên cứu
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
3
4
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
4
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
4


nghiệm
2.2.1. Thực trạng chung
4
2.2.2. Thực trạng ở trường THPT như Thanh 2
5
2.2.2.1. Về học sinh
5
2.2.2.2. Về giáo viên
5
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
5
2.3.1.Tìm hiểu về kĩ thuật " lắng nghe tích cực"
5
2.3.1.1. Khái niệm
5
2.3.1.2. Các kiểu nghe và cấp độ nghe
5
2.3.1.3. Vai trò và lợi ích của lắng nghe
6
2.3.1.4. Những rào cản đối với lắng nghe có hiệu quả
6
2.3.1.5. Những nguyên tắc lắng nghe hiệu quả
6
2.3.2. Tìm hiểu kĩ thuật " phản hồi tích cực "
6
2.3.2.1. Khái niệm
6
2.3.2.2. Các kiểu phản hồi
7
2.3.2.3. Tầm quan trọng của phản hồi tích cực

7
2.3.2.4. Các nguyên tắc cần nhớ khi đưa ra ý kiến phản hồi
7
xây dựng
2.3.3. Các biện pháp thực hiện
7
2.3.3.1. Cách thực hiện
7
2.3.3.2. Ví dụ minh họa
8
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
17
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục
17
2.4.1. Đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
17
17
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
17
3.2. Những kiến nghị
18
3.3. Rút kinh nghiệm
18

Giáo viên: Nguyễn Thị Huyền

1



SKKN môn Địa lí
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dạy và học tích cực – Bộ giáo dục và đào tạo - Dự án Việt - Bỉ.
2. Các tài liệu có liên quan đến lí luận dạy học -Tác giả Lê Thông.
3. Sách giáo khoa địa lí lớp 10,11- Lê Thông.
4. Tài liệu về đổi mới kiểm tra đánh giá thúc đẩy đổi mới phương pháp
dạy học- Sở GD và ĐT Thanh Hoá.
5. Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn địa lí 10,11 - Nhà xuất bản
ĐHSP - Lê Thông, Đỗ Anh Dũng, Vũ Đình Hòa, Trần Thị Tuyến - năm 2010.
6. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục trung học phổ thông - Nhà
xuất bản giáo dục - Bộ giáo dục và đào tạo - năm 2007.

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Huyền
Chức vụ, đơn vị công tác: Tổ trưởng chuyên môn - Trường THPT Như Thanh 2
- huyện Như Thanh - Thanh Hóa.

TT

Tên đề tài SKKN

1.

Áp dụng một số kĩ thuật dạy
học tích cực trong ôn luyện
HSG ở trường THPT Như
Thanh 2

Áp dụng kĩ thuật sơ đồ tư
duy trong ôn luyện HSG ở
trường THPT Như Thanh 2

2.

Giáo viên: Nguyễn Thị Huyền

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

Kết quả
đánh
giá xếp
loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại
2010-2011

Cấp tỉnh

B


2013-2014
Cấp tỉnh

B

2


SKKN môn Địa lí
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong ôn luyện học sinh giỏi đòi hỏi người dạy không chỉ thường xuyên trau
dồi kiến thức, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp mà còn phải áp dụng linh
hoạt các phương pháp và kĩ thuật dạy học phù hợp với từng bài cụ thể, từng đối
tượng học sinh. Đặc biệt với chất lượng đầu vào như Trường THPT Như Thanh
2 có nhiều năm học sinh chỉ cần không có điểm liệt là được vào trường học, nên
việc lựa chọn và ôn đội tuyển của các môn gặp rất nhiều khó khăn, chưa kể đến
đa số học sinh đều có hoàn cảnh khó khăn nên gây trở ngại rất lơn đến giáo dục
mũi nhọn của nhà trường.
Do vậy, thiết nghĩ việc áp dụng các kĩ thuật dạy học tích cực, đặc biệt là kĩ
thuật "lắng nghe và phản hồi tích cực" là điều hết sức cần thiết. Tuy vậy việc
áp dụng kĩ thuật như thế nào để đạt kết quả cao là điều không dễ dàng. Đòi hỏi
người dạy phải nhẹ nhàng, khéo léo, linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng học
sinh, từng thời điểm. Trong quá trình 9 năm ôn luyện học sinh giỏi, với kinh
nghiệm của mình thông qua việc thực hiện kĩ thuật "lắng nghe và phản hồi tích
cực" là rất hiệu quả, được thể hiện qua kết quả học sinh giỏi của tôi trong thời
gian qua.
Từ thực trạng đó đã thức đẩy tôi nghĩ và tìm ra việc "Áp dụng kĩ thuật lắng
nghe và phản hồi tích cực trong ôn luyện học sinh giỏi nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục mũi nhọn ở Trường THPT Như Thanh 2" là rất cần thiết.

Xuât phát từ thực tiễn trên là lý do cấp thiết khiến tôi chọn đề tài này.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích cao nhất là nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn của nhà trường.
- Hướng dẫn học sinh làm quen và thuần thục với các kĩ thuật dạy học tích cực
mà giáo viên đưa ra từ đó có ý thức cao trong học tập.
- Giúp cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học tích cực là lấy học sinh làm
trung tâm.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Giáo viên trong việc giảng dạy học sinh giỏi lớp 11.
- Học sinh ôn luyện học sinh giỏi lớp 11.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Từ thực tế trong 9 năm ôn luyện học sinh giỏi ở Trường THPT Như Thanh 2
tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp quan sát: Quan sát kết quả đạt được từ thực tiễn ôn luyện học
sinh giỏi thời gian qua.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tham khỏa ý kiến bạn bè, đồng nghiệp
- Phương pháp thử nghiệm.
- Phương pháp điều tra.
- Các phương pháp liên quan đến lý luận dạy học đổi mới.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
- Đề tài có thể sử dụng hoặc làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy địa lí nói
chung và ôn luyện học sinh giỏi nói riêng.
Giáo viên: Nguyễn Thị Huyền

3


SKKN môn Địa lí
- Khả năng áp dụng kĩ thuật dạy học tích cực trong ôn luyện học sinh giỏi từ đó
nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn cho nhà trường.

- Đề tài có sức lan tỏa lớn và có thể áp dụng rộng rãi không chỉ dành cho môn
địa lí mà có thể áp dụng cho các môn học khác.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong thời gian gần đây ngành giáo dục đã nói nhiều đến việc đổi mới căn bản
và toàn diện giáo dục như Nghị quyết số 40/2000/QH10, ngày 09 tháng 12 năm
2000 của Quốc hội khóa X về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã
khẳng định: “Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông phải quán triệt mục
tiêu, yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục của các bậc học, cấp học quy
định trong Luật Giáo dục; khắc phục những mặt hạn chế của chương trình, sách
giáo khoa; tăng cường tính thực tiễn, kĩ năng thực hành, năng lực tự học; coi
trọng kiến thức khoa học xã hội và nhân văn; bổ sung những thành tựu khoa học
và công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh ... Đổi mới
nội dung chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy và học phải thực
hiện đồng bộ với việc nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học, tổ chức đánh
giá, thi cử, chuẩn hóa trường sở, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và công tác quản
lí giáo dục”.
Do vậy yêu cầu đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học luôn được nghành
chú trọng. Đặc biệt từ năm 2010 đến nay Sở giáo dục đã tổ chức rất nhiều đợt
tập huấn về đổi mới các kĩ thuật dạy học tích cực lấy học sinh làm trung tâm.
Đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học mới tạo ra sự đổi mới thực sự trong
giáo dục, mới có thể đào tạo ra những lớp người năng động, sáng tạo, có tiềm
năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng tới
nền kinh tế tri thức. Một trong những yêu cầu của đổi mới phương pháp và kĩ
thuật dạy học là dạy học chú trọng đến việc kết hợp các kĩ thuật dạy học hiện đại
với sử dụng có hiệu quả phương tiện, thiết bị dạy học được trang bị hoặc do GV
tự làm, đặc biệt lưu ý đến những ứng dụng của công nghệ thông tin.
Để đảm bảo những yêu cầu trên thì việc áp dụng các kĩ thuật dạy học hiện đại
sẽ đảm bảo sự tin cậy cao về mặt khoa học trong việc học tập đặc biệt là trong
ôn thi học sinh giỏi.

Năm học 2017 - 2018 là năm đầu tiên nghành giáo dục Thanh hóa tổ chức thi
học sinh giỏi lớp 11. Do vậy đòi hỏi người dạy phải vận dụng tổng hợp các
phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực một cách khéo léo, linh hoạt, phù hợp
với đối tượng học sinh, từng thời điểm.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng chung
Năm học 2017 – 2018 là năm đầu tiên Sở giáo dục và đào tạo Thanh Hóa tổ
chức thi học sinh giỏi lớp 11, do vậy đã gây khá nhiều lúng túng cho giáo viên
trong ôn luyện, từ trước đến nay chủ yếu thi chương trình 12. Đây là thời điểm
mà ngành nói chung và giáo viên ôn luyện học sinh giỏi vừa thực hiện vừa rút
kinh nghiệm. Thực trạng trên thiết nghĩ bản thân là người trực tiếp ôn luyện nên
Giáo viên: Nguyễn Thị Huyền

4


SKKN môn Địa lí
đòi hỏi phải không ngừng học hỏi, không ngừng đổi mới. Mặt khác nhiều giáo
viên không quan tâm đến việc đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học nên
ngại ôn đội tuyển và đùn đẩy nhau, trốn tránh trách nhiệm.
2.2.2. Thực trạng ở trường THPT như Thanh 2
2.2.2.1. Về học sinh
Trường THPT Như Thanh 2 là ngôi trường trước đây đóng ở địa bàn Thị
trấn Như Thanh, nhưng từ năm 2008 đến nay trường đã chuyển về địa bàn thôn
Đồng Dẻ - xã Thanh Tân - huyện Như Thanh - tỉnh Thanh Hóa. Đây là một xã
thuộc diện đặc biệt khó khăn (135) của tỉnh. Học sinh ở đây có tới hơn 60% hộ
nghèo, địa hình đi lại cách trở, nhiều sông suối, nhận thức của đại bộ phận học
sinh, phụ huynh còn chưa tốt. Tất cả đã gây cản trở rất lớn cho giáo dục nhà
trường, đặc biệt là giáo dục mũi nhọn. Đầu vào gần đây là năm học vừa qua
điểm cao nhất của học sinh bao gồm cả điểm cộng là 20 điểm, còn lại đa phần

điểm rất thấp.
Mặt khác môn Địa lý cấp THCS không được chú trọng và coi là môn phụ
nên gần như học sinh không có kĩ năng Địa lý và rời rạc không hiểu rõ vấn đề vì
nhiều trường còn thiếu giáo viên Địa lý. Đây là cản trở lớn trong tuyển chọn học
sinh giỏi. Tuy nhiên do đặc thù vùng 135 nên học sinh chủ yếu theo khối C và
một bộ phận học sinh nhất là học sinh thuộc vùng tuyển sinh Nông Cống, Tĩnh
Gia có chút tố chất và đây là thuận lợi cơ bản để giáo viên áp dụng "kĩ thuật
lắng nghe và phản hồi tích cực" vào ôn luyện.
2.2.2.2. Về giáo viên.
- Giáo viên 100% đạt chuẩn, trẻ và có lòng yêu nghề, không ngừng học hỏi để
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thâm niên công tác lớn hơn 9 năm nên
cơ bản có đủ kinh nghiệm ôn luyện.
- Tuy nhiên còn bộ phận không nhỏ giáo viên chậm và ngại đổi mới, không
muốn thay đổi, thỏa mãn với những gì mình có, chất lượng học sinh thấp nên
không có tâm huyết đổi mới.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1.Tìm hiểu về kĩ thuật " lắng nghe tích cực".
2.3.1.1. Khái niệm
- Nghe theo nghĩa đen là nhận thức tiếng bằng tai, là sự cảm nhận được bằng tai
ý người nói. Nói cách khác nghe là hình thức tiếp nhận thông tin thông qua thính
giác. Lắng nghe là hình thức tiếp nhận thông tin thông qua thính giác có trạng
thái chú ý làm nền.
- Lắng nghe tích cực là nhằm suy nghĩ và làm việc của mình để hoàn toàn tập
trung vào những gì mà ai đó đang nói. Lắng nghe là một mặt giao tiếp của cuộc
sống.
- Khái niệm lắng nghe tích cực không phải là một kĩ năng bẩm sinh của mọi
người. Bất cứ ai muốn thành công trong học tập, giảng dạy, công việc khác phải
trau dồi nó và học cách làm chủ nó. Lắng nghe tích cực bắt đầu với sự sẵn sàng
nhận ra giá trị của mọi cuộc đối thoại bạn tham gia.
2.3.1.2. Các kiểu nghe và cấp độ nghe

Giáo viên: Nguyễn Thị Huyền

5


SKKN môn Địa lí
* Các kiểu nghe
Căn cứ vào mục tiêu của hoạt động nghe người ta chia thành các kiểu nghe
như sau :
- Nghe giao tiếp xã hội.
- Nghe giải trí.
- Nghe có tính phân tích, đánh giá.
- Nghe để lĩnh hội thông tin, tri thức .
- Nghe để ra quyết định thương thuyết.
* Các cấp độ nghe.
- Không nghe.
- Nghe giả vờ.
- Nghe có chọn lọc.
- Nghe chăm chú.
- Nghe có hiệu quả.
2.3.1.3. Vai trò và lợi ích của lắng nghe
- Thỏa mãn nhu cầu của đối tượng, không có gì chán bằng khi mình nói mà
không có người nghe. Vì vậy khi bạn lắng nghe người ta nói chứng tỏ bạn biết
tôn trọng người khác và có thể thỏa mãn nhu cầu của người khác.
- Thu thập được nhiều thông tin hơn: Bằng cách khuyến khích người ta nói bạn
sẽ có thêm được các thông tin, càng có nhiều thông tin thì quyết định càng chính
xác.
- Tạo ra mối quan hệ tốt đẹp với người khác: Khi một người có cảm tình lắng
nghe nảy sinh mối quan hệ tốt đẹp. Lắng nghe giúp tình bằng hữu nảy sinh, phát
triển và kết quả là sự hợp tác trong hoạt động.

- Tìm hiểu được người khác tốt hơn. Lắng nghe giúp bạn nắm bắt được tính
cách, tính nết và quan điểm của họ, vì họ sẽ bộc lộ con người trong khi nói.
- Giúp cho người khác lắng nghe có hiệu quả bằng cách tạo dựng một không khí
lắng nghe tốt, bạn sẽ thấy rằng những người đang nói chuyện với bạn trở thành
người lắng nghe có hiệu quả.
2.3.1.4. Những rào cản đối với lắng nghe có hiệu quả
- Rào cản sinh lí gồm : Khả năng nghe, tốc độ suy nghĩ.
- Rào cản môi trường : Khí hậu, thời tiết, tiếng ồn.
- Rào cản mang tính quan điểm: Những người có quan điểm khác thường lơ
đễnh, thiếu tập trung khi nghe người khác trình bày.
- Rào cản văn hóa.
- Rào cản trình độ học vấn, chuyên môn.
2.3.1.5. Những nguyên tắc lắng nghe hiệu quả
- Tập trung chú ý.
- Đáp lại một cách chân thành.
- Diễn giải lại điều vừa được chia sẻ.
- Đặt câu hỏi.
- Cuối cùng hãy im lặng.
2.3.2. Tìm hiểu kĩ thuật " phản hồi tích cực ".
Giáo viên: Nguyễn Thị Huyền

6


SKKN môn Địa lí
2.3.2.1. Khái niệm
Hồi đáp là bất kì một hành vi, ý kiến hay nhận xét được gửi chuyển ngược lại
đối tác. Hồi đáp là phản ánh lại những điều thấy được, nghe được chứ không
phải suy đoán. Phản hồi là phương pháp giao tiếp để đưa và nhận thông tin về
cách ứng xử.

2.3.2.2. Các kiểu phản hồi
Có 2 kiểu phản hồi :
- Phản hồi xây dựng: Là đưa ra những thông tin cụ thể, trọng tâm vào vấn đề và
dựa trên sự quan sát, nêu lên những điểm tích cực và những điểm cần cải thiện.
- Phản hồi theo kiểu " khen và chê ": Là những đánh giá mang tính cá nhân,
chung chung, không rõ ràng, chú trọng vào con người và dựa trên quan điểm,
cảm nhận của người đưa ra ý kiến phản hồi.
2.3.2.3. Tầm quan trọng của phản hồi tích cực
- Kĩ năng phản hồi là phần rất quan trọng trong kĩ năng giao tiếp hằng ngày nói
chung và trong môi trường học tập nói riêng.
- Khi một người nhận được những phản hồi mang tính tích cực nó sẽ giúp cho
họ sẵn sàng thay đổi để hoàn thiện mình hơn và tối đa hóa khả năng của mình.
- Trong quá trình học tập có khi học sinh nhận được phản hồi tích cực từ thầy cô
nhưng cũng có khi chính học sinh là người đưa ra ý kiến phản hồi cho chính
thầy cô. Nhưng dù ở vai trò nào học sinh cũng sẽ cố gắng để không bị rơi vào
cái bẫy của kiểu phản hồi "khen và chê".
2.3.2.4. Các nguyên tắc cần nhớ khi đưa ra ý kiến phản hồi xây dựng.
- Chỉ đưa ra ý kiến phản hồi khi có sự chấp thuận của người nhận.
- Đưa ý kiến phản hồi càng sớm càng tốt.
- Chọn địa điểm thích hợp, đặc biệt khi đưa ý kiến phản hồi mang tính cá nhân
cần chọn chỗ riêng tư.
- Người đưa ra phản hồi cần đưa ra những hành vi cụ thể, những hiện tượng vừa
quan sát và ghi chép được thể hiện phản hồi, không tự đánh giá, áp đặt hoặc suy
diễn.
- Hãy bắt đầu bằng cách nêu ra những ưu điểm trước.
- Không nên nêu ra bốn điểm cần cải thiện trong một lần phản hồi.
- Khuyến khích người nhận phản hồi tự đưa ra giải pháp.
- Phản hồi là vì người nhận, không vì người đưa phản hồi.
- Đi thẳng vào vấn đề tránh vòng vo.
- Chân thành, tránh dùng câu phức: Sự chân thành nói lên mối quan tâm, trân

trọng đối với người phản hồi.
- Chú ý đến giọng nói: Âm sắc trong giọng nói cũng cần truyền tải tầm quan
trọng của vấn đề và sự quan tâm của người đưa phản hồi. Giọng nói cáu kỉnh,
thất vọng sẽ dẫn đến dễ chuyển phản hồi tích cực, có tính chất xây dựng thành
phê phán.
2.3.3. Các biện pháp thực hiện
2.3.3.1. Cách thực hiện
* Lắng nghe tích cực
Giáo viên: Nguyễn Thị Huyền

7


SKKN môn Địa lí
Lắng nghe gồm 5 hoạt động liên quan với nhau và hầu như đều xảy ra theo
một chuỗi liên tiếp:
- Tham dự : Nghe thông tin một cách tự nhiên và ghi chép.
- Diễn giải (phân tích thông tin): Gắn ý nghĩa của lời nói dựa theo giá trị, ý kiến,
kì vọng, vai trò, yêu cầu, trình độ của bạn.
- Ghi nhớ: Lưu giữ thông tin để tham khảo sau này.
- Đánh giá: Ứng dụng kĩ năng phân tích, phê bình để cho những nhận xét của
diễn giả.
- Đáp lại: Phản hồi khi đánh giá thông tin của người nói. Tóm lại việc lắng nghe
đòi hỏi sự phối hợp các hoạt động thể chất và tinh thần, nên nó bị chi phối bởi
các rào cản bởi cả hai hoạt động đó. Bởi vậy muốn lắng nghe tích cực cần phải
rèn luyện để nhận biết và sửa chữa những rào cản đó.
* Phản hồi tích cực
- Bước 1: Quan sát (nghe, xem) và suy nghĩ (Tôi nhìn thấy gì ? Và tôi đánh giá
như thế nào về những điều tôi nhìn thấy ?).
- Bước 2: Kiểm tra nhận thức: Đặt các câu hỏi để chắc chắn rằng mình đã hiểu

đúng ý định của người thực hiện.
- Bước 3: Đưa ra ý kiến đóng góp của mình: Xác nhận và thừa nhận những ưu
điểm (cần giải thích tại sao khi đánh giá đó là những ưu điểm). Đưa ra các ý để
hoàn thiện và nâng cao.
2.3.3.2. Ví dụ minh họa
*Ví dụ 1: Lắng nghe và phản hồi tích cực trong một bài dạy cụ thể
- Trước khi truyền tải kiến thức bài: Hoa kỳ- Tiết 1- Tự nhiên, dân cư và xã hội
tới học sinh, giáo viên yêu cầu học sinh ngồi lại với nhau theo nhóm và đưa ra
câu hỏi: Em hãy trình bày đặc điểm vị trí địa lí, tài nguyên thiên nhiên và dân cư
xã hội của Hoa Kì và yêu cầu học sinh làm theo " sơ đồ tư duy ".
- Trong khoảng thời gian các em đang làm bài tôi là người quan sát bằng hình
thức đứng cạnh từng học sinh một và hỏi: " Làm được không gái? hay thông
minh như "Nguyệt Sún" mà làm chậm thế? "Thảo Lý" hôm nay sao thế em?
Nghĩa là tôi đặt cho mỗi học sinh một biệt hiệu để tạo cho học sinh cảm giác
đáng yêu và gần gũi.
- Sau khi học sinh làm bài xong tôi yêu cầu từng học sinh lên bảng trình bày
theo "sơ đồ tư duy ".

Giáo viên: Nguyễn Thị Huyền

8


SKKN môn Địa lí

HS trình bày sơ đồ tư duy

Giáo viên: Nguyễn Thị Huyền

HS nhận xét bài làm của bạn


9


SKKN môn Địa lí
- Trong quá trình học sinh lên bảng trình bày tôi yêu cầu cả nhóm phải thực sự
chú ý và giữ im lặng. Sau đó yêu cầu học sinh khác nhận xét phần trình bày của
bạn một cách chân thành. Nếu thiếu cần bổ sung, giáo viên quán triệt học sinh
không được chê bai bạn mà chỉ góp ý, xây dựng.
- Cuối cùng giáo viên nhận xét và chốt lại kiến thức cho học sinh. Trong qúa
trình nhận xét tôi chủ yếu đưa ra những lời khen trước, tuyệt đối không chê bai
học sinh và yêu cầu học sinh hoàn thiện hơn. Sau đó tôi đưa ra một số câu hỏi
khó. Đối với những câu hỏi khó tôi buộc phải có " thần thái '' tốt để học sinh bớt
căng thẳng và sợ kiến thức bằng cách chỉ địa chỉ kiến thức ở đâu và nhẹ nhàng
chỉ bảo cho học sinh.
*Ví dụ 2 : Lắng nghe và phản hồi tích cực trong quá trình gặp gỡ gia đình
học sinh
- Để động viên được học sinh tham gia đội tuyển việc gặp gỡ gia đình học sinh
đóng vai trò rất quan trọng. Cá nhân tôi và một số giáo viên cùng bộ môn, đoàn
trường đã trực tiếp đến gia đình học sinh.

Hình ảnh giáo viên đến gia đình học sinh
- Khi bước chân đến cổng nhà học sinh thực lòng tôi như nghẹn lại vì gia cảnh
nhà học sinh quá nghèo, trong nhà không có gì trị giá ngoài chiếc giường cũ kĩ.
Trong quá trình nói chuyện với phụ huynh họ đã ứa nước mắt và nói:" Tôi cũng
muốn cho con đi học nhưng vì gia đình quá khó khăn nên mong thầy cô thông
cảm ". Nói đến đây tôi ngắt lời phụ huynh và hứa với gia đình sẽ xin giáo viên
và nhà trường miễn tiền học cho học sinh và động viên phụ huynh bằng mọi
cách cho con mình đi học.
- Do đặc thù địa bàn trường đóng ở vùng đặc biệt khó khăn nên đa phần các em

là người dân tộc thiểu số. Bố mẹ học sinh nói tiếng kinh chưa rõ, chủ yếu là giao
tiếp bằng tiếng dân tộc. Cá nhân tôi may mắn được sinh ra ở vùng đất nơi tôi
Giáo viên: Nguyễn Thị Huyền

10


SKKN môn Địa lí
công tác, mặc dù là dân tộc Kinh song từ nhỏ tôi đã giao tiếp với họ nên tôi khá
thành thạo tiếng dân tộc và tôi chọn phương án giao tiếp với họ bằng tiếng Thái,
thực sự phụ huynh rất ngạc nhiên và quý tôi và họ không hiểu tại sao cô giáo
cũng nói được tiếng dân tộc và gần gũi họ như thế. Cuối cùng tôi đã thuyết phục
được phụ huynh và khi ra về phụ huynh còn cho chúng tôi một số sản phẩm
nông nghiệp do họ làm ra. Ra về trong lòng nhẹ nhõm và thầm nghĩ cảm ơn bố
mẹ đã sinh tôi ra nơi đây, trưởng thành từ mảnh đất cằn cỗi, muôn vàn khó khăn
và lại được may mắn trở về phục vụ quê hương mình, tiếng dân tộc Thái đã giúp
cho tôi tự tin trong cuộc sống và công tác nơi đây rất nhiều.
*Ví dụ 3 : Lắng nghe và phản hồi tích cực trong quá trình thuyết phục, gặp
gỡ từng học sinh
- Do học sinh không có nhu cầu thi Đại học - Cao đẳng nên việc lựa chọn và
thuyết phục học sinh vào đội tuyển không phải dễ dàng. Mặt khác do đầu vào
quá thấp (không liệt là có thể vào học) nên việc tìm nhân tố vô cùng khó khăn.
Tôi bắt đầu ôn luyện đội tuyển với học sinh từ con số không tròn vo, thậm chí
nhiều khi tôi mất phương hướng vì không chọn được học sinh nào vì quá yếu.
- Nhưng rồi cần cù bù khả năng tôi đã tìm chọn những học sinh siêng năng, chữ
viết được một chút và nhanh nhẹn vào đội tuyển nhưng các em đã từ chối không
đồng ý với lý do không thi Đại học. Tôi đã gọi trực tiếp học sinh đó nói chuyện
riêng với em. Tất nhiên tôi sẽ hỏi vì sao em không đi ôn và tôi giữ nét mặt buồn.
Học sinh hỏi cô sao thế? Tôi ứa nước mắt và nói cô thấy bất lực quá em à! Cô
không đủ mọi thứ để bọn em tin tưởng và chọn lựa vào đội tuyển của cô, hay cô

dạy không hay, không có phương pháp... Cô không nghĩ mình kém cỏi đến như
thế. Thế rồi học sinh tỏ ra lúng túng, thực sự nhiều khi tôi cảm thấy như thế thật
" bất lực" vì không thuyết phục được học sinh.

Giáo viên nói chuyện với học sinh
Giáo viên: Nguyễn Thị Huyền

Con đường tới nhà học sinh
11


SKKN môn Địa lí
- Hai hôm sau tôi đến gặp phụ huynh học sinh như ở ví dụ số 2 qua thực hiện
cách nói chuyện và khả năng lắng nghe cũng như phản hồi tích cực của tôi tới
học sinh và phụ huynh có hiệu quả bất ngờ. Khoảng một tuần sau đó cả phụ
huynh và học sinh đã gặp trực tiếp tôi để xin theo học.
- Việc kết hợp nhịp nhàng giữa lắng nghe và phản hồi tích cực đã cho tôi kết quả
không ngờ. Thầm cảm ơn cuốn sách nói về kĩ thuật này đã cho tôi biết trong
cuộc sống ta cần phải có " tấm lòng " và thực sự đôi khi phải khéo léo, mềm
dẻo, cương, nhu, đúng lúc, đúng chỗ và quan trọng cho chúng ta cách sống
"đẹp" giữa người với người mặc dù chỉ thông qua giao tiếp.
* Ví dụ 4 : Lắng nghe và phản hồi tích cực trong quá trình hướng dẫn học
sinh học nhóm với nhau
- Trước hết nhóm học sinh giỏi có 5 học sinh và đủ số lượng để thành lập một
nhóm. Tôi giao nhiệm vụ cho học sinh một bài cụ thể chẳng hạn như bài: Liên
Bang Nga - Tiết 1 - Tự nhiên, dân cư và xã hội. Tôi yêu cầu học sinh làm việc
với nhau và kết quả là lập thành sơ đồ tư duy trên bảng.
- Trong quá trình làm việc nhóm tôi yêu cầu học sinh phải hợp tác với nhau. Mỗi
buổi học thường xuyên thay đổi nhóm trưởng và thư ký, sau khi hoạt động nhóm
xong tôi yêu cầu học sinh tự trình bày sản phẩm và trao đổi với nhau. Theo sơ

đồ: Bạn trình bày - mình nhận xét - bổ sung - bạn cuối phải chốt được kiến thức
cho giáo viên.

Giáo viên hướng dẫn HS thảo luận nhóm
HS thảo luận nhóm
- Khi học sinh làm việc nhóm với nhau sẽ thúc đẩy sự đoàn kết trong nhóm, các
bạn biết lắng nghe và trao đổi với nhau một cách tích cực. Tôi quán triệt không
đi tranh cãi mà chỉ nhận xét và bổ sung cho nhau, đích cuối cùng là hoàn thành
bài học một cách trọn vẹn. Đa phần học sinh có thái độ phản hồi tích cực với
nhau và gần như không có sự mâu thuẫn.

Giáo viên: Nguyễn Thị Huyền

12


SKKN môn Địa lí
- Ngoài việc hướng dẫn học sinh hoạt động nhóm theo hướng tích cực trong một
bài học cụ thể thì thông qua hoạt động nhóm học sinh biết yêu thương và chia sẻ
với nhau như anh chị em trong gia đình. Trong đội tuyển của tôi có 5 học sinh
thì có tới 4 học sinh thuộc diện hộ nghèo. Do vậy tinh thần là điều không thể
thiếu đối với cô trò chúng tôi. Tôi đóng vai trò là người trọng tài, người bạn,
người mẹ không chỉ trong bài dạy mà trong cả cuộc sống hằng ngày của các em.
lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của học sinh, đặc biệt tôi gần gũi và chưa bao
giờ quát mắng học sinh, luôn là người bạn để các em tâm sự.
* Ví dụ 5: Lắng nghe và phản hồi tích cực trong quá trình chấm bài viết của
học sinh
- Tôi đã áp dụng " kĩ thuật lắng nghe và phản hồi tích cực" không chỉ bằng cử
chỉ, lời nói, hành động mà còn thể hiện ngay cả khi chấm bài cho học sinh.


Hình ảnh giáo viên nhận xét bài làm của học sinh
- Tôi đã phải khéo léo ngay cả khi nhận xét bài làm của học sinh, hạn chế thấp
nhất chê bai học sinh ngay cả khi học sinh làm chưa tốt, tôi chỉ sử dụng những
từ như : Tại sao câu này em không làm được? Em là học sinh thông minh kia mà
sao lại làm như thế này? Cô tin em sẽ làm tốt ở bài sau đúng không? Em sẽ làm
tốt hơn nữa chứ?...
- Nhiều lúc học sinh nói: " Sao cô không bao giờ chửi bọn em ngay cả khi bọn
em làm sai ". Tôi chỉ cười và nói: "Bọn em lớn cả rồi, có tự trọng riêng của
mình, cô luôn tôn trọng mấy đứa vì cô tin bọn em sẽ không làm cô thất vọng ".
* Ví dụ 6: Lắng nghe và phản hồi tích cực trong quá trình tham mưu với ban
giám hiệu
- Để đạt kết quả cao hơn trong quá trình ôn luyện tôi đã tham mưu với ban giám
hiệu về một số vấn đề như: Thời gian ôn luyện, vị trí dành cho đội tuyển ôn
luyện, tăng mức thưởng, ban giám hiệu thường xuyên gặp gỡ đội tuyển để động
viên giáo viên và học sinh ôn luyện để từ đó có động lực hơn .
Giáo viên: Nguyễn Thị Huyền

13


SKKN môn Địa lí

Hình ảnh giáo viên tham mưu với ban giám hiệu
- Sau khi tham mưu cá nhân cũng luôn lắng nghe một cách tích cực trước sự chỉ
đạo của ban chuyên môn và có những phản hồi mang tính xây dựng để ban
chuyên môn quan tâm hơn nữa đến đội tuyển, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất
về vật chất và tinh thần cho các em.
* Ví dụ 7: Lắng nghe và phản hồi tích cực với từng cá nhân học sinh
- Ngoài việc thuyết phục được học sinh vào đội tuyển , nhiều khi tôi còn đóng
vai trò là " bác sĩ tâm lí " trong giải quyết chuyện tình cảm của học sinh, ở lứa

tuổi các em thực sự chưa định hình được mục tiêu của bản thân mình, cứ thích là
làm, trong đó chuyện yêu đương ở lứa tuổi là điều sẽ diễn ra, nhưng quả thực nó
ảnh hưởng rất lớn đến quá trình ôn luyện của học sinh.
- Cá nhân tôi mặc dù đã có gia đình hai con nhưng chuyện tâm lí tình cảm để tư
vấn cho học sinh tôi thực sự không có khiếu, bản thân đã phải vào mạng đọc để
có chút kiến thức về tình cảm với tư vấn cho học sinh thậm chí với học sinh nữ
tôi đã thủ thỉ và bảo học sinh tối về nhà ngủ cùng tôi rồi cô trò tâm sự sau giờ
học .

Giáo viên: Nguyễn Thị Huyền

14


SKKN môn Địa lí

Hình ảnh giáo viên tâm sự với học sinh

Hình ảnh ngôi nhà học sinh của tôi
- Sau khi nghe cô nói học sinh đã khóc rất nhiều và xin lỗi tôi vì không hiểu
chuyện. Ngay từ buổi sau đó em đã lao vào việc học như lời tôi khuyên và quả
thực đã không phụ lòng cô trò chúng tôi, em được giải ba trong kì thì năm 20172018 vừa qua.
Giáo viên: Nguyễn Thị Huyền

15


SKKN môn Địa lí
- Thiết nghĩ việc lắng nghe tích cực từ phía học sinh, luôn nhìn học sinh như
con, em gái, em trai mình ắt hẳn mỗi chúng ta sẽ có những phản hồi tích cực như

những cử chỉ âu yếm, lắng nghe, thấu hiểu, chia sẻ, tâm sự, động viên và giúp
đỡ các em.
* Ví dụ 8: Lắng nghe và phản hồi tích cực trong quá trình học hỏi kinh
nghiệm của bạn bè, đồng nghiệp
- Việc áp dụng "kĩ thuật lắng nghe và phản hồi tích cực" trong quá trình học
hỏi kinh nghiệm của bạn bè, đồng nghiệp luôn được tôi ưu tiên. Với những bài
dạy khó, những câu hỏi mở, tư duy đòi hỏi giáo viên phải hỏi đồng nghiệp, bạn
bè, liên môn qua đó mới đủ kiến thức để truyền đạt cho học sinh. Thậm chí
nhóm tôi còn chọn người dạy theo từng phần, giáo viên nào có lợi thế về lí
thuyết sẽ đảm nhận, giáo viên nào chắc phần kĩ năng sẽ đảm nhận phần thực
hành.
- Trong quá trình lắng nghe ý kiến đóng góp tôi luôn nêu cao tinh thần "cầu thị"
lắng nghe chăm chú và khéo léo hỏi lại đồng nghiệp những vấn đề mình chưa rõ.

Hình ảnh giáo viên trao đổi với đồng nghiệp
Sau đó tôi có sự phản hồi một cách tích cực, mang tính tiếp thu tất nhiên có
chọn lọc. Sau mỗi buổi thảo luận chuyên môn như thế tôi là tổ trưởng và nói với
các anh em: " Cảm ơn các đồng chí rất nhiều vì những ý kiến đóng góp chuyên
Giáo viên: Nguyễn Thị Huyền

16


SKKN môn Địa lí
môn cho môn Địa Lý, cá nhân tôi sẽ tiếp thu và thực hiện thật tốt, chân thành
cảm ơn mọi người một lần nữa".
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục.
- Việc áp dụng kĩ thuật trên đã góp phần không nhỏ vào nâng cao chất lượng
giáo dục mũi nhọn.

- Thực hiện đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực.
2.4.2. Đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
* Trước khi thực nghiệm
Thực tế quan sát kết quả học sinh giỏi của nhà trường ở các môn khác năm học
2017-2018 như sau:
- Môn ngữ văn: 3 học sinh trong đó 1 giải 3 và 2 khuyến khích.
- Môn địa lí: 4 học sinh trong đó 3 giải 3 và 1 khuyến khích.
- Môn lịch sử: 1 học sinh giải 3.
- Môn GDCD: 2 học sinh đạt trong đó 1giải 3 và 1 khuyến khích.
Trừ môn ngữ văn và môn địa lí còn các môn khác không có hoặc rất ít giải.
Trong đó môn Địa lí gần như năm nào cũng dẫn đầu nhà trường.
* Sau khi thực nghiệm
Từ thực tiễn ôn luyện học sinh giỏi trong thời gian qua với việc áp dụng "kĩ
thuật lắng nghe và phản hồi tích cực" tôi đã đạt được kết quả như sau:
+ Năm học 2007 - 2008 đạt tỉ lệ : 50%
+ Năm học 2010 - 2011 đạt tỉ lệ : 100%
+ Năm học 2011 - 2012 đạt tỉ lệ : 80%
+ Năm học 2013 - 2014 đạt tỉ lệ : 60%
+ Năm học 2015 - 2016 đạt tỉ lệ : 60%
+ Năm học 2017 - 2018 đạt tỉ lệ : 90%
Đặc biệt trong năm học 2017 - 2018 vừa qua tôi cử 5 học sinh đi thi trong đó
đạt 4 giải (3 giải ba, 1 giải khuyến khích) còn học sinh không được giải cũng chỉ
thiếu 0,25đ). Tôi đã vinh dự được nhà trường thưởng nóng vì thành tích "đột
phá" trong năm học và trường tôi đã xếp 8/23 trường miền núi. Đây là kết quả
cao nhất mà nhà trường đạt được từ trước tới giờ. Do trường tôi chỉ có mình tôi
là giáo viên dạy Địa lí trong diện biên chế nên gần như năm nào tôi cũng phải ôn
đội tuyển.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Việc áp dụng "kĩ thuật lắng nghe và phản hồi tích cực" là rất cần thiết và

quan trọng trong việc ôn luyện học sinh giỏi môn Địa lí. Đối với học sinh lớp 11
kỹ thuật này có tác dụng thúc đẩy tính tích cực, tự giác trong học tập, giúp các
em chủ động, sáng tạo, độc lập tự mình phân tích khai thác kiến thức. Ngoài
việc chủ động trong học tập, yêu thương và giúp đỡ nhau các em còn biết tự
mình trau dồi kĩ năng sống cho bản thân, biết lắng nghe và phản hồi tích cực.
Giáo viên có thêm nhiều kinh nghiệm và trải nghiệm khi đi thực tế, hiểu rõ đặc
Giáo viên: Nguyễn Thị Huyền

17


SKKN môn Địa lí
điểm hoàn cảnh từng gia đình học sinh, văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số từ
đó có cách điều chỉnh cách dạy phù hợp.
Từ kết quả đạt được như trên theo tôi là rất khả quan nên trong thời gian tới sẽ
tiếp tục áp dụng " kĩ thuật lắng nghe và phản hồi tích cực " trong quá trình ôn
luyện học sinh giỏi.
Vận động giáo viên, các cá nhân, các nhà hảo tâm quyên góp "quỹ vì học sinh
nghèo Trường THPT Như Thanh 2" để trích một phần giúp đỡ các em ôn đội
tuyển .
3.2. Những kiến nghị
- Từ những việc làm được cũng như những tồn tại do điều kiện khách quan tôi
có một số kiến nghị sau đây:
- Đề nghị ban giám hiệu, ban chuyên môn, sở giáo dục và đào tạo quan tâm
nhiều hơn nữa đến những vấn đề có liên quan đến đổi mới phương pháp và kĩ
thuật trong dạy học.
- Tạo mọi điều kiện về thời gian, kinh phí và đặc biệt là tinh thần tới giáo viên
và học sinh ôn thi trong đội tuyển.
- Có chế tài khen thưởng kịp thời và cao hơn nữa để giáo viên và học sinh có
thêm động lực.

3.3. Rút kinh nghiệm
- Giáo viên ôn đội tuyển cần phải linh hoạt, rõ ràng về thời gian, cách thức tổ
chức, cách khai thác kiến thức để học sinh có thể rèn luyện thêm kĩ thuật lắng
nghe và phản hồi tích cực.
- Cần phải thật nhịp nhàng, uyển chuyển, khéo léo trong tất cả các khâu nếu
không kết quả sẽ ngược lại.
- Trong quá trình thực hiện cần phải có "niềm tin và hy vọng" bởi chỉ có "niềm
tin" mới cho chúng ta "đòn bẩy" để đi tiếp.
Trên đây là việc "Áp dụng kĩ thuật lắng nghe và phản hồi tích cực trong ôn
luyện học sinh giỏi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn ở Trường
THPT Như Thanh 2" mà tôi đã áp dụng trong thời gian qua. Với trình độ và
kinh nghiệm có hạn cá nhân xin mạo muội đưa ra kĩ thuật trên, rất mong nhận
được sự đóng góp chân thành từ đồng nghiệp. Xin trân thành cảm ơn!

Giáo viên: Nguyễn Thị Huyền

18


SKKN môn Địa lí
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 05 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác

Nguyễn Thị Huyền


Giáo viên: Nguyễn Thị Huyền

19



×