1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
- Nghị luận là một trong sáu phương thức biểu đạt quen thuộc của con
người trong nhận thức đời sống, xã hội. Vận dụng kết hợp các phương thức tự
sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận văn học là một hoạt
động quan trọng, cần thiết phù hợp với nhu cầu biểu đạt tự nhiên. Trong thực tế,
khơng có văn bản nghị luận nào dù ở dạng nói hoặc viết mà từ đầu đến cuối chỉ
sử dụng duy nhất một phương thức biểu đạt. Muốn diễn đạt rõ ràng sáng tỏ tư
tưởng, quan điểm của mình, người nói, người viết thường phải sử dụng kết hợp
nhiều phương thức khác để hỗ trợ làm tăng sức thuyết phục của văn nghị luận.
- Đổi mới chương trình, SGK Ngữ văn THPT đem đến nhiều thay đổi về nội
dung và phương pháp dạy học tạo lập kiểu văn bản nghị luận. Nếu chương trình
Làm văn trước đây chia nhỏ và phân biệt các kiểu bài nghị luận theo thao tác tư
duy đơn lẻ thì kiểu văn bản nghị luận trong chương trình, SGK Ngữ văn phổ thông
hiện hành chủ trương dạy cho HS khả năng vận dụng kết hợp các PTBĐ và các
thao tác lập luận.
- Trong số bốn PTBĐ tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh được sử dụng
trong văn bản nghị luận, thì ở các bài văn NLVH, phương thức tự sự và miêu tả
được sử dụng nhiều hơn cả.
- Vận dụng kết hợp các PTBĐ tự sự và miêu tả trong bài văn NLVH là
một kĩ năng làm văn mới trong chương trình, SGK Ngữ văn THPT hiện hành.
Sử dụng các phương thức này sẽ tạo thêm các giá trị mới cho bài văn nghị luận,
hình thành và phát triển ở người HS tư duy năng động và kĩ năng vận dụng sáng
tạo. Chương trình, SGK Ngữ văn 12 chỉ dành 1 tiết để luyện tập vận dụng kết
hợp 4 PTBĐ nhưng khi viết bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ; Nghị
luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xi; Nghị luận về một ý kiến bàn về
văn học... thì bao giờ cũng yêu cầu HS phải biết xác định vận dụng PTBĐ nào
cho phù hợp với mục đích giao tiếp. Thực tế này khiến GV và HS gặp nhiều
khó khăn lúng túng, chất lượng bài văn NLVH của HS còn thấp do chưa biết
vận dụng các PTBĐ phù hợp với mục đích nghị luận.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tơi chọn nghiên cứu đề tài Rèn luyện
kĩ năng vận dụng kết hợp phương thức tự sự và miêu tả trong bài văn NLVH
cho HS lớp 12.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm đề xuất được các nguyên tắc, biện pháp rèn
luyện kĩ năng vận dụng kết hợp phương thức tự sự và miêu tả trong bài văn
NLVH cho HS lớp 12.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1
Đề tài nghiên cứu nguyên tắc, biện pháp, cách thức tổ chức rèn luyện kĩ
năng vận dụng kết hợp phương thức tự sự và miêu tả trong bài văn NLVH cho
HS lớp 12.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp nhằm hệ thống hóa các
vấn đề lí luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp khảo sát
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
- Đề xuất được một số nguyên tắc, biện pháp rèn luyện kĩ năng vận dụng
kết hợp phương thức tự sự và miêu tả trong tạo lập bài văn NLVH cho HS lớp
12.
- Giúp GV và HS THPT thực hiện tốt mục tiêu dạy học tạo lập văn bản
nghị luận trong chương trình, SGK Ngữ văn 12.
Trong khn khổ của một đề tài luận văn thạc sĩ, đề tài chỉ giới hạn ở
phạm vi nghiên cứu rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp phương thức tự sự và
miêu tả trong bài văn NLVH cho HS lớp 12 (Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ;
Nghị luận về một tác phẩm hoặc đoạn trích văn xi, Nghị luận về một ý kiến
bàn về văn học)
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của việc Rèn luyện kĩ năng sử dụng kết hợp các
phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả trong bài văn nghị luận văn học
2.1.1. Khái niệm văn nghị luận
Văn nghị luận là một loại văn có vẻ đẹp riêng ở cách lập luận lơi cuốn và
lí lẽ thuyết phục, có tác dụng to lớn trong đời sống và trong nhà trường. Ta có
thể bắt gặp văn nghị luận ở bất cứ đâu, trong cuộc họp, trong bài diễn thuyết,
trong các bài xã luận, bình luận, phát biểu ý kiến trên báo chí hoặc trao đổi,
tranh luận về một vấn đề cụ thể trong cuộc sống thường ngày,... Ở nước ta, văn
nghị luận có lịch sử khá lâu đời, có sứ mệnh lớn lao trong trường kì lịch sử,
trong cơng cuộc dựng nước và giữ nước. Cho đến nay, văn nghị luận vẫn đang
tiếp tục phát triển mạnh mẽ và ngày càng trở nên đa dạng, phong phú. Khác với
kiểu văn bản tự sự, miêu tả nhằm tái hiện con người và cuộc sống bằng ngôn
ngữ, chủ yếu khơi gợi tác động vào cảm xúc, tưởng tượng của người đọc, người
nghe, kiểu văn bản nghị luận thiên về trình bày các ý kiến, các lí lẽ để giải thích,
chứng minh, phân tích, bình luận... một vấn đề nào đó nhằm tác động vào trí tuệ,
vào lí trí của người đọc. Do vậy, vấn đề nghiên cứu về văn nghị luận vẫn tiếp tục
tiêu tốn khơng ít giấy mực, cơng sức của rất nhiều các học giả, các nhà nghiên
2
cứu quan tâm đến nó. Về khái niệm văn nghị luận cũng có rất nhiều quan niệm
khác nhau:
2.1.2. Nghị luận văn học
Nghị luận văn học là dùng những lý lẽ của mình để bàn bạc thuyết phục
người khác về vấn đề mình đang nói tới. Để thuyết phục người khác nghe theo
quan điểm, ý kiến cá nhân của mình và từ đó nhận ra những vấn đề nào là đúng
và vấn đề nào là sao. Trong văn nghị luận ta sẽ gọi thái độ là tình, cịn ý kiến là
lý. Để thuyết phục được ý kiến của mình thì chúng ta cần có phải có lập luận sắc
bén, dẫn chứng rõ ràng, có như vậy thì mọi người mới cảm thấy thuyết phục và
đồng ý với quan điểm của mình.
- Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ;
- Nghị luận về một tác phẩm hoặc đoạn trích văn xi,
- Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học.
2.1.3. Phân biệt “tự sự”, “miêu tả” và các phương thức tự sự, miêu tả
trong văn nghị luận
* Khái niệm: PTBĐ được hiểu là “Cách thức phản ánh và tái hiện lại đời
sống (thiên nhiên, xã hội, con người) của người viết, người nói. Mỗi PTBĐ phù
hợp với một mục đích, ý đồ phản ánh, tái hiện nhất định và được thực hiện bởi
một thao tác chính nào đó.
* Phân biệt PTBĐ chính và PTBĐ kết hợp
Mỗi PTBĐ được sử dụng trong văn bản phải phù hợp với mục đích, ý đồ
giao tiếp. Chẳng hạn, khi tạo lập kiểu văn bản tự sự người viết, người nói cần sử
dụng kết hợp phương thức miêu tả vì nó phù hợp với ý đồ xây dựng nhân vật (kể
kết hợp với tả hình dáng, tính tình, nội tâm, hành động việc làm của nhân vật).
Khi tạo lập kiểu văn bản nghị luận, người ta thường hay sử dụng kết hợp
phương thức tự sự, miêu tả vì nó phù hợp với u cầu và mục đích của bài văn
nghị luận làm tăng thêm sức thuyết phục cho bài văn nghị luận. Để tránh nhầm
lẫn giữa PTBĐ chính với PTBĐ kết hợp trong một kiểu văn bản, chúng ta có thể
căn cứ vào sự khác biệt được xác định trong bảng so sánh sau:
Bảng 1: So sánh PTBĐ chính và PTBĐ kết hợp
PTBĐ chính
PTBĐ kết hợp
- Được sử dụng chủ yếu trong văn bản
- Là khi phương thức được vận dụng một
cách thứ yếu bên cạnh PTBĐ chủ yếu
khác.
- Chi phối tồn bộ q trình tạo lập văn - PTBĐ lúc này chỉ được sử dụng xen kẽ
bản từ mục đích giao tiếp của văn bản trong văn bản, thường chỉ có tác dụng đến
đến các yếu tố tạo nên nội dung và hình một bộ phận, tạo thêm một đặc điểm nào
thức của văn bản như: đề tài, kết cấu nội đó của văn bản không tạo nên sự thay đổi
dung của văn bản, từ ý đến lời văn,...
về tổng thể bố cục, kết cấu nội dung và
3
hình thức của văn bản
* Phương thức tự sự:
“Tự” có nghĩa là kể, “sự” là việc. Tự sự là kể việc. Trong quá trình bàn
luận vấn đề, để người nghe, người đọc có thể hiểu rõ hơn q trình hình thành
và phát triển của sự vật, hiện tượng người viết phải sử dụng phương thức tự sự.
Bản chất của tự sự là trình bày sự việc, sự kiện được diễn ra theo trình tự thời
gian, diễn biến của sự việc. Trong văn bản nghị luận, tự sự là phương thức được
sử dụng kết hợp, đan xen khi người nói người viết muốn trình bày trình tự phát
triển của sự vật, sự việc hoặc vấn đề được bàn luận. Việc sử dụng tự sự như vậy
sẽ làm tăng tính chính xác và sự hấp dẫn cho nội dung vấn đề được bàn luận.
* Phương thức miêu tả:
Trong quá trình tạo lập văn bản, khi muốn giúp người đọc hình dung ra
đặc điểm, tính chất nổi bật của một sự vật, sự việc, con người, phong cảnh... làm
cho đối tượng được nói tới như hiện lên trước mắt người đọc... thì người viết
phải dùng động tác miêu tả. Như thế, phương thức miêu tả chính là phương thức
dùng động tác miêu tả để phản ánh và tái hiện đời sống. Tuy nhiên không phải
chỉ trong văn miêu tả người ta mới sử dụng đến phương thức này bởi miêu tả
hiện diện hầu như trong tất cả các kiểu văn bản khác với tư cách là PTBĐ kết
hợp, bổ trợ. Đối với kiểu văn bản nghị luận cũng vậy, nhờ có phương thức miêu
tả mà đối tượng bàn luận được khắc họa rõ nét, nội dung bàn luận trở nên cụ thể
sinh động hơn, qua đó người tiếp nhận có điều kiện hiểu rõ hơn về đối tượng
bàn luận.
* Tự sự và miêu tả
Tuy ranh giới giữa miêu tả và tự sự không thật rõ, hoặc không phải bao
giờ cũng rõ rệt, nhưng xét trên đại thể, tự sự khác với miêu tả ở chỗ tự sự xét về
bản chất là kể lại, thuật lại sự việc, câu chuyện theo một quá trình diễn biến nào
đó. Sự việc, câu chuyện thì có bắt đầu, có phát triển và có kết thúc. Cịn miêu tả
là tả lại,vẽ lại bằng lời một cảnh ngộ, một người, một vật. Như vậy, khi kể
chuyện người ta phải làm rõ diễn biến sự việc hoặc chú ý làm rõ các quan hệ,
trạng thái đời sống theo quá trình biến đổi đa dạng, phức tạp của nó. Phân biệt
miêu tả với kể chuyện không đơn thuần chỉ là dựa vào hình thức bên ngồi mà
cịn phải dựa vào bản chất bên trong của cảm hứng sáng tạo hay mục đích giao
tiếp.
2.1.4. Kĩ năng và quy trình rèn luyện kĩ năng cho học sinh trong dạy học
Làm văn ở trường phổ thơng
* Khái niệm kĩ năng
Kĩ năng có vai trị vơ cùng to lớn trong q trình nhận thức của con
người. ”Kĩ năng là khả năng vận dụng kiến thức nhận được trong một lĩnh vực
nào đó vào thực tế ”. Như vậy, có thể hiểu kĩ năng chính là khả năng con người
4
thực hiện một hành động nào đó có tính chất kĩ thuật, được rèn luyện thông qua
hoạt động luyện tập thực hành.
* Quy trình rèn luyện kĩ năng cho HS trong dạy học làm văn ở trường
phổ thơng
Bước 1: Tìm hiểu nhận thức đúng đắn, đầy đủ về hành động cần thực
hiện. Đây là bước trang bị những hiểu biết nhằm định hướng cho việc hình thành
kĩ năng.
Bước 2: Quan sát mẫu, làm thử theo mẫu. Đây chính là bước theo dõi kĩ
lưỡng các động tác thực hiện hành động, đối chiếu với lí thuyết, từ đó hình thành
kĩ năng.
Bước 3: Luyện tập. Trên cơ sở bước 2, HS tiến hành luyện tập, hoàn thiện
kĩ năng, phát triển thành năng lực riêng của từng cá nhân.
Để tạo lập văn bản nói chung và bài văn nghị luận nói riêng, HS cần rất
nhiều kĩ năng như: kĩ năng tìm hiểu đề, tìm ý, kĩ năng lập dàn ý, kĩ năng viết
đoạn văn, bài văn, kĩ năng xây dựng luận điểm, kĩ năng lập luận, kĩ năng vận
dụng các PTBĐ... Trong đó, kĩ năng vận dụng kết hợp các PTBĐ đóng vai trò
quan trọng trong việc tường minh nội dung nghị luận và làm tăng sức thuyết
phục cho bài văn nghị luận.
2.2. Thực trạng rèn luyện kĩ năng vận dụng phương thức tự sự và miêu tả
trong bài văn nghị luận văn học cho học sinh lớp 12 ở trường phổ thông
2.2.1. Mục đích khảo sát thực trạng
Sử dụng kết hợp các PTBĐ là một trong những kĩ năng làm văn mới của
chương trình, SGK Ngữ văn hiện hành. Vì vậy, việc khảo sát đánh giá thực trạng
dạy học hướng vào các mục đích cụ thể sau:
Thu thập kịp thời chính xác những thông tin về mức độ đạt được mục tiêu
dạy học tạo lập các kiểu bài văn bản NLVH ở lớp 12 của GV và HS so với chuẩn
chương trình và SGK.
Tìm đúng những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tạo lập
kiểu văn bản NLVH có vận dụng kết hợp phương thức tự sự và miêu tả.
2.2.2. Nội dung khảo sát
Thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát thực trạng rèn luyện kĩ
năng vận dụng kết hợp phương thức tự sự và miêu tả trong bài văn NLVH ở lớp
12 thông qua khảo sát giáo án của GV, giờ dạy của GV và bài làm văn của HS.
2.2.3. Kết quả khảo sát thực trạng
* Kết quả khảo sát giáo án:
GV chưa chú ý đến các mức độ yêu cầu rèn luyện kĩ năng trong các bài
tập trong SGK vì vậy, ở một số trường hợp GV thường bỏ bớt bài tập phần thực
hành hoặc giao cho HS làm một cách qua qt khơng có định hướng về mục tiêu
cần đạt ở mỗi yêu cầu, bài tập thực hành và hướng dẫn HS cách làm. Đặc biệt,
5
thiếu hẳn hoạt động đánh giá trong giờ thực hành luyện tập kĩ năng nên hầu như
chưa thúc đẩy được tinh thần học tập nghiêm túc ở HS.
* Kết quả khảo sát giờ dạy :
Quan sát giờ dạy của GV ở trường phổ thông cho thấy, những tiết dạy
thực hành phần lớn GV còn tỏ ra lúng túng trong quá trình tổ chức các hoạt động
thực hành luyện tập của HS. Rèn luyện kĩ năng làm văn là một quá trình vận
dụng tổng hợp. Trong một bài học thực hành luyện tập GV bao giờ cũng phải
hướng HS vào một số cơng đoạn chính – đó là kĩ năng trọng tâm của bài học HS
cần đạt. Giờ thực hành ở phổ thông hiện nay phần nhiều GV không ý thức rõ
vấn đề này. Cụ thể là các nội dung thực hành được tiến hành được tiến hành một
cách dàn trải khơng có trọng tâm; thiếu hẳn những thao tác cơng đoạn cụ thể,
cần thiết để hình thành và rèn luyện kĩ năng cho HS. Vai trò của GV trong giờ
thực hành mờ nhạt, việc luyện tập của HS bị thả nổi. Đa số HS khi được hỏi đều
cho rằng, giờ thực hành kém hứng thú, ít hiệu quả.
Trong các giờ thực hành luyện tập, đa số GV dạy theo kinh nghiệm làm
văn cá nhân và rất tùy hứng, không bám sát nội dung dạy học trong SGK.
Không chỉ vậy, khi luyện tập thực hành, nhiều GV chỉ giao bài tập cho HS,
khơng có sự hướng dẫn, giám sát hay kiểm tra đánh giá giúp HS kịp thời nhận ra
ưu điểm, hạn chế, biết cách khắc phục hạn chế trong làm văn.
* Kết quả khảo sát bài làm văn của HS:
Ưu điểm nổi bật nhất của các bài làm văn theo chương trình, sách giáo
khoa Ngữ văn hiện hành là được học sinh chủ động bày tỏ ý kiến, quan điểm
riêng về vấn đề bàn luận và sử dụng đan xen kết hợp nhiều phương thức biểu đạt
và thao tác lập luận trong bài văn. Tuy nhiên, qua khảo sát, đa số học sinh làm
văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống nhưng không nêu ý kiến nhận
xét, đánh giá của bản thân về sự việc, hiện tượng đó, khơng tỏ rõ ý thức và thái
độ đúng đắn trước vấn đề NLVH mà sa vào kể lể, miêu tả, phát biểu cảm nghĩ
lan man về các sự việc, hiện tượng trong đời sống, xã hội. Số ít học sinh lại mắc
lỗi sử dụng phương thức tự sự, miêu tả như là phương thức chính để tạo lập bài
văn.
Cách sử dụng kết hợp các phương thức tự sự, miêu tả trong bài văn nghị
luận xã hội của học sinh lớp 12 hiện nay cũng còn rất đơn điệu, thiếu sự sáng
tạo. Điều này làm cho bài văn nghị luận trở nên khn sáo và khó tạo được sự
đồng cảm ở người đọc.
Có thể nói, xem xét ở cả hai phương diện kiến thức và kĩ năng, học sinh
lớp 12 còn rất nhiều hạn chế về khả năng sử dụng kết hợp các phương thức tự
sự, miêu tả trong bài văn NLVH. Sự hạn chế về năng lực của học sinh trước hết
có nguyên nhân từ nội dung dạy học trong sách giáo khoa còn sơ sài nhất là tiết
luyện tập chưa đủ để chuyển hóa thành kỹ năng, thành năng lực thực sự của học
6
sinh. Thêm nữa nhiều giáo viên lại chưa chú ý đầu tư, tìm hiểu để bổ sung, nâng
cao kiến thức. Do vậy, hầu hết các tiết học về nội dung này đều chỉ được tiến
hành theo một quy trình: Tìm hiểu ví dụ, giáo viên chỉ chú ý làm rõ vai trò, tác
dụng của một phương thức biểu đạt mà chưa giúp học sinh nắm được cách vận
dụng phương thức biểu đạt này như thế nào. Phần luyện tập mới chỉ tập trung
chủ yếu đến việc phân tích tác dụng mà chưa chú ý đúng mức tới bài tập tạo lập,
bài tập rèn luyện kỹ năng và nhất là bài tập sửa lỗi cho học sinh.
Bên cạnh đó, nguyên nhân dẫn đến những hạn chế nói trên cịn bắt nguồn
từ sự thiếu hụt những tri thức về đời sống cũng như kinh nghiệm giao tiếp của
học sinh lớp 12. Điều này làm cho bài văn nghị luận của các em chẳng những
thiếu tính thuyết phục mà cịn nghèo nàn về thông tin, đơn điệu trong cách thức
diễn đạt. Một số học sinh dù có hiểu biết nhất định nhưng lại chưa biết cách vận
dụng sao cho phù hợp với vấn đề nghị luận, làm cho lý lẽ và dẫn chứng thiếu
tính nhất qn.
Ngồi ra, kĩ năng dụng kết hợp các PTBĐ trong bài văn NLVH của học
sinh lớp 12 hiện nay còn tùy tiện, chung chung là do xu hướng xem nhẹ việc học
văn và làm văn. Phần lớn học sinh làm văn không xuất phát từ nhu cầu tự thân
của học sinh, làm văn theo kiểu đối phó, kém hứng thú. Một số lượng không nhỏ
bài văn của học sinh là sự cóp nhặt nội dung từ các nguồn tài liệu tham khảo
khác nhau, không phải là kết quả của một q trình suy nghĩ nghiêm túc, cũng
khơng phải là tiếng nói hay thái độ, hành động của người viết trước các vấn đề
của đời sống, xã hội.
2.3. Một số giải pháp Rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các phương
thức tự sự, miêu tả trong bài văn NLXH cho học sinh lớp 12
2.3.1. Hệ thống hóa kiến thức về các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả
trong bài văn nghị luận xã hội bằng phương pháp phân tích mẫu
Trước khi rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp phương thức tự sự, miêu tả
trong bài văn NLVH, học sinh đã được trang bị kiến thức về từng phương thức
riêng lẻ ở lớp 6, kiến thức về sự kết hợp chúng ở lớp 8 chương trình THCS. Cho
nên khi rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp cả 4 phương thức này trong các bài
văn NLVH cho học sinh lớp 12 giáo viên cần định hướng, khơi gợi để học sinh
huy động một cách tổng lực, tối đa những tri thức cũ đã học ở các lớp trước để
hình thành kiến thức mới và phát triển kĩ năng làm bài văn NLVH ở mức độ khó
hơn, phức tạp hơn. Mục tiêu của phần củng cố kiến thức lí thuyết là giúp học
sinh nhớ lại kiến thức về phương thức tự sự, miêu tả thấy được vai trò quan
trọng của sự kết hợp chúng trong bài văn NLVH. Đồng thời giúp học sinh biết
cách vận dụng kết hợp từ hai phương thức hay kết hợp nhiều phương thức khi
viết đoạn văn, bài văn NLvH. Khi hình thành tri thức cho học sinh, giáo viên có
thể thực hiện theo trình tự sau:
7
Bước 1: Cung cấp ngữ liệu, yêu cầu học sinh đọc, quan sát ngữ liệu đã
được giáo viên cung cấp
Bước 2: Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu bằng cách đưa ra những
câu hỏi gợi mở, câu hỏi có tính khám phám, phát hiện, câu hỏi lí giải, phân tích
câu hỏi tích hợp huy động. Từ việc phân tích văn bản ngữ liệu, học sinh sẽ xác
định được các phương thức tự sự, miêu tả được sử dụng trong bài văn NLVH,
cách vận dụng kết hợp chúng trong bài văn.
Bước 3: Học sinh tổng hợp, ghi nhớ kiến thức, kĩ năng trọng tâm của bài
học. Giáo viên nhận xét, bổ sung và chốt kết quả bài học cần ghi nhớ.
2.3.2. Tổ chức cho học sinh nhận biết các phương thức biểu đạt và cách
thức vận dụng tổng hợp chúng trong bài văn NLVH bằng kĩ thuật dạy học tương
tác
Nhận biết trong làm văn là mức độ nhận thức tương ứng với mức độ
“Biết” trong thang phân loại của Bloom. Mức độ nhận biết giúp giáo viên kiểm
tra khả năng ghi nhớ của học sinh về những đặc điểm của phương thức tự sự,
miêu tả. Yêu cầu học sinh nhận biết sự kết hợp bốn phương thức biểu đạt này
trong bài văn NLVH là loại bài tập có mức độ yêu cầu đơn giản nhất trong
thang phân loại 6 mức độ nhận thức của Bloom. Loại bài tập này thường mang
tính ơn tập sau các giờ học lí thuyết hoặc mang tính chất khởi động, khơi gợi
khả năng nhớ lại kiến thức cơ bản của học sinh. Phần trình bày yêu cầu thường
được diễn đạt theo những hình thức khác nhau: Đoạn văn đã sử dụng những
phương thức biểu đạt nào? Phương thức biểu đạt nào đóng vai trị chủ yếu?
Phương thức biểu đạt nào được sử dụng đan xen (kết hợp) đóng vai trị bổ trợ?
Hãy chỉ ra sự kết hợp các PTBĐ trong đoạn văn? Tác giả đã vận dụng các
PTBĐ trong đoạn văn/văn bản này như thế nào?
Để hướng dẫn học sinh nhận biết cách thức kết hợp phương thức tự sự,
miêu tả trong đoạn ngữ liệu trên, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh thực hiện
các yêu cầu theo quy trình sau:
Bước 1: Đọc kĩ các đoạn văn và xác định chủ đề bàn luận.
Bước 2: Xác định mục đích nghị luận của đoạn văn.
Bước 3: Xác định luận điểm và các luận cứ trong đoạn văn.
Bước 4: Xác định phương thức biểu đạt chính và các phương thức biểu
đạt kết hợp trong đoạn văn.
Bước 5: Xác định cách vận dụng kết hợp các PTBĐ đó.
2.2.3. Học sinh lí giải sự cần thiết của sự kết hợp các phương thức biểu
đạt tự sự, miêu tả trong bài văn NLVH
Lí giải là khả năng giải thích, cắt nghĩa, diễn đạt những kiến thức đã biết
theo những yêu cầu khác nhau hoặc theo một quan điểm mới. Học sinh sẽ sử
dụng những kiến thức đã học về phương thức tự sự, miêu tả để lí giải vai trò, tác
8
dụng của chúng khi được sử dụng kết hợp trong những đoạn văn, bài văn
NLVH. Mục đích của loại bài tập này không chỉ nhằm làm cho học sinh hiểu
được giá trị của việc sử dụng kết hợp mà còn biết cách sử dụng kết hợp chúng
trong quá trình viết bài văn.
2.3.4. Hướng dẫn học sinh xác định PTBĐ chính và các PTBĐ kết hợp để
làm sáng tỏ chủ đề, đề bài làm văn NLVH
Tìm hiểu đề, tìm ý hay còn gọi là định hướng cho nội dung bài viết là một
khâu quan trọng trong quá trình làm bài văn NLVH. Để có thể xác định được
PTBĐ cần kết hợp để làm sáng tỏ chủ đề, đề tài trong một đề văn nghị luận xã
hội, trước hết học sinh cần xác định được đề bài hướng tới nội dung nghị luận
nào? Vấn đề nào cần được làm sáng tỏ? Học sinh có thể tiến hành theo các bước
sau:
Bước 1: Học sinh tìm hiểu đề. Ở bước này, học sinh cần đọc kĩ đề bài,
nhận diện đề, xác định mục đích, yêu cầu về chủ đề, đề tài cần bàn luận, phạm vi
của bài viết, phương thức biểu đạt chính.
Bước 2: Học sinh xác định nội dung bàn luận, tìm ý, xác định các thao tác
lập luận cần sử dụng và các phương thức biểu đạt kết hợp.
Bước 3: Học sinh lập dàn ý (tổ chức sắp xếp ý) cho bài văn đảm bảo bố
cục của kiểu bài mà đề yêu cầu tạo lập. Căn cứ vào các ý trong dàn ý học sinh
xác định chính xác hơn PTBĐ nào cần sử dụng kết hợp trong bài văn.
Bước 4: Nhận xét, đánh giá.
2.3.5. Tổ chức cho học sinh viết đoạn văn NLVH có sử dụng kết hợp các
phương thức tự sự, miêu tả
Bên cạnh việc đảm bảo các tiêu chí trên, để trình bày một đoạn văn nghị
luận học sinh cần biết vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt và các thao
tác lập luận. Việc sử dụng kết hợp phương thức tự sự, miêu tả có vai trị quan
trọng trong việc tạo ra sự sinh động, cụ thể, chặt chẽ và sức thuyết phục cho luận
điểm, luận cứ trong đoạn văn, bài văn nghị luận. Bài tập yêu cầu học sinh viết
đoạn văn, bài văn nghị luận văn học sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt
không chỉ giúp học sinh nâng cao năng lực tạo lập văn bản, năng lực vận dụng
sáng tạo mà còn nâng cao chất lượng của các bài làm văn.
Để giúp HS rèn luyện kĩ năng viết các đoạn văn trong bài văn NLVH có
vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt, GV cần tổ chức và hướng dẫn cho
HS lần lượt thực hiện các bước sau:
Bước 1: Xác định vai trò, vị trí của đoạn văn (đoạn mở bài, đoạn thân bài,
đoạn kết bài).
Xác định nội dung (chủ đề), mục đích nghị luận của đoạn văn
9
Bước 2: Từ việc xác định trên, lựa chọn phương thức biểu đạt chính, xác
định các phương thức biểu đạt và các thao tác lập luận kết hợp, chọn kiểu kết
cấu đoạn văn phù hợp.
Bước 3: Đặt câu và liên kết câu để tạo thành đoạn văn hoàn chỉnh đúng
ngữ pháp.
2.3.6. Học sinh nhận xét, sửa lỗi kết hợp phương thức tự sự, miêu tả trong bài
văn NLVH bằng phương pháp đánh giá đồng đẳng
Một trong những phương pháp học tập môn làm văn hiệu quả là học sinh
được học tập qua thực hành trải nghiệm và học qua sai lầm « Đọc văn người để
sửa văn mình ». Việc làm cho học sinh có khả năng phát hiện ra lỗi sai và khắc
phục lỗi sai trong tạo lập văn bản là khâu hết sức cần thiết giúp các em nâng cao
năng lực làm văn phù hợp với mục đích giao tiếp, phát huy tính tích cực, chủ
động sáng tạo của học sinh đòi hỏi phải thay đổi nội dung và cách thức đánh giá.
Học sinh được tự đánh giá kết quả thực hành viết đoạn văn, bài văn nghị luận
văn học sử dụng kết hợp PTBĐ vừa có ý nghĩa tăng cường tình khách quan
trong đánh giá đồng thời phát huy vai trị tích cực, sáng tạo của chủ thể học sinh
trong học tập. GV cần tổ chức, thực hiện các bước sau:
Bước 1: Giáo viên cho học sinh đánh giá kết quả thực hành của bạn theo
hình thức đổi bài.
Bươc 2: Học sinh nhận bài thực hành của mình đã được bạn đánh giá. Học
sinh kiểm tra lại và trao đổi với bạn nếu có vấn đề thắc mắc
Bước 3: Giáo viên đánh giá kết quả thực hành của học sinh.
2.2.7. Học sinh tự rèn luyện kĩ năng sử dụng kết hợp các PTBĐ có sự
hướng dẫn của giáo viên
Để kích thích tinh thần hăng say học tập rèn luyện của học sinh, giáo viên
có thể kiểm tra đánh giá kết quả tự học, tự thực hành luyện tập ở nhà của các em
bằng cách kiểm tra miệng, kiểm tra làm bài tập ở nhà vào đầu tiết học.
Những biện pháp, cách thức tổ chức rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp
các PTBĐ tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn NLVH góp phần
hiện thực hóa mục tiêu dạy học kiểu văn bản nghị luận trong chương trình, sách
giáo khoa Ngữ văn 12, nâng cao năng lực tạo lập văn bản của học sinh.
2.2.8. Tổ chức thực nghiệm: Thiết kế giáo án thực nghiệm
Tiết 38: LUYỆN TẬP VẬN DỤNG KẾT HỢP CÁC PHƯƠNG
THỨC BIỂU ĐẠT TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN
A. Mục tiêu cần đạt
1/ Kiến thức: Thấy được sự cần thiết phải vận dụng kết hợp các PTBĐ tự
sự, miêu tả trong bài văn nghị luận
2/ Kĩ năng:
10
- Biết vận dụng kết hợp các phương thức đó trong một đoạn văn, bài văn
nghị luận.
- Nâng cao năng lực viết bài văn nghị luận của HS lớp 12.
3/ Thái độ:
- Nhận thấy vai trò quan trọng của sự kết hợp các PTBĐ tự sự, miêu tả
trong bài văn nghị luận
- Có ý thức vận dụng kết hợp các PTBĐ đó khi làm bài văn nghị luận.
B. Chuẩn bị:
1. Chuẩn bị của GV
- Giáo án
- SGK Ngữ văn 12
- Máy chiếu
- Một số ngữ liệu phục vụ tiết học
C. Lên lớp:
- GV kiểm tra phần chuẩn bị bài ở nhà của HS.
- Giới thiệu bài mới: Trong sáu kiểu văn bản tự sự, miêu tả, biểu cảm,
nghị luận, thuyết minh, hành chính – cơng vụ, thì kiểu văn bản nghị luận được
học nhiều hơn cả tập trung ở các lớp 7, lớp 8, lớp 9 bậc THCS và toàn bộ
chương trình lớp 11 và lớp 12 bậc THPT. Học nhiều như vậy nhằm mục đích
giúp HS có năng lực tạo lập tốt kiểu văn bản nghị luận với 6 loại bài thông dụng
sẽ giúp các em thành đạt trong cuộc sống: Nghị luận về một sự việc hiện tượng
đời sống; Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí; Nghị luận về một vấn đề xã
hội trong tác phẩm văn học; Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ; Nghị luận về
một ý kiến bàn về văn học; Nghị luận về một tác phẩm văn học hoặc đoạn trích
văn xi. Một trong những kĩ năng quan trọng giúp các em viết bài văn nghị
luận có sức thuyết phục mạnh mẽ chính là kĩ năng vận dụng kết hợp các PTBĐ
tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh.
Hoạt động của GV và HS
Hoạt động 1: HS quan sát ngữ
liệu qua máy chiếu trên bảng
và củng cố lại các kiến thức đã
học
- GV chiếu ngữ liệu “Vẻ đẹp
của sông Hương được phát hiện
bằng nhiều cách tiếp cận khác
nhau.
? HS xác định PTBĐ chính và
các PT được kết hợp trong đoạn
văn?
Kết quả cần đạt
I. Củng cố kiến thức lí thuyết về sự kết
hợp các phương thức tự sự, miêu tả trong
bài văn NL
(1) Mục đích giao tiếp: Hai đoạn văn làm
nổi bật vẻ đẹp của sông Hương xứ Huế qua
sự khám phá phát hiện của nhà văn Hoàng
Phủ Ngọc Tường.
(2) PTBĐ chính: PT lập luận
(3) PTBĐ kết hợp: tự sự, miêu tả, biểu cảm
(4) Cách kết hợp: Phương thức tự sự và
11
? Vì sao trong một bài văn hoặc miêu tả được dùng làm luận cứ trong đoạn
đoạn văn NL cần vận dụng kết văn NLVH.
hợp các PT tự sự, miêu tả?
(5) Vai trị, tác dụng: giúp cho việc trình bày
lí lẽ và dẫn chứng trong đoạn văn được rõ
ràng, cụ thể, sinh động đồng thời làm rõ
luận điểm, làm tăng sức thuyết phục của
luận điểm.
? Để làm tăng sức thuyết phục (6) Ngoài việc sử dụng PT tự sư, miêu tả,
của bài văn, đoạn văn NL, bài văn, đoạn văn NL cần sử dụng thêm PT
người viết cần sử dụng thêm các biểu cảm, thuyết minh làm cho việc trình
PT biểu cảm, thuyết minh có bày luận cứ trở nên cụ thể, sinh động, có
đúng khơng?
sức thuyết phục mạnh mẽ.
? Để việc vận dụng kết hợp các (7) Những lưu ý khi sử dụng kết hợp:
PTBĐ có tác dụng nâng cao - Phù hợp với yêu cầu và mục đích NL.
hiệu quả nghị luận chúng ta cần - Các PT tự sự, miêu tả… được sử dụng để
chú ý những điều gì?
việc trình bày luận cứ (lí lẽ, dẫn chứng) trở
nên sinh động, cụ thể, có sức thuyết phục
mạnh mẽ.
- Sử dụng PT tự sự, miêu tả,… làm luận cứ
phục vụ cho việc làm sáng tỏ luận điểm
trong bài NL.
- Không phá vỡ mạch nghị luận.
Hoạt động 2: Tổ chức cho HS II. Luyện tập trên lớp
luyện tập vận dụng kết hợp
các PT tự sự, miêu tả, biểu Bài tập 3: Viết một bài văn NL ngắn để
cảm, thuyết minh trong bài phát biểu ý kiến trong buổi trao đổi về chủ
văn NL
đề: “Nhà văn mà tơi u thích”.
- HS đọc yêu cầu của bài tập
trong SGK tr.159
(1) Nhà văn tơi u thích nhất ở chương
- HS đọc kĩ phần gợi ý trong trình lớp 12 là nhà văn Nguyễn Trung
SGK để làm bài tập 3, tr 159.
Thành.
? Xác định chủ đề của bài phát (2) Chủ đề của bài phát biểu: Nguyễn Trung
biểu (Phát biểu về nhà văn nào? Thành được nhớ như là nhà văn của Tây
Phát biểu những điều gì về nhà Ngun.
văn mà mình u thích?)
a) Luận điểm 1: Người viết hay nhất về
Tây Nguyên: những sáng tác bất hủ viết về
Tây Nguyên trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc: Tiểu
? Tìm những luận điểm cần thiết thuyết Đất nước đứng lên và truyện ngắn
12
để làm sáng rõ chủ đề của bài Rừng xà nu.
viết.
b) Luận điểm 2: Những sáng tác về Tây
Nguyên đã làm nên phần hay nhất, phần tiêu
? Để làm sáng tỏ các luận điểm biểu nhất trong sự nghiệp văn chương của
của bài NL, cần sử dụng kết hợp Nguyễn Trung Thành.
các PTBĐ nào?
(3) Các PT biểu đạt cần kết hợp: tự sự, miêu
? Kết hợp các PT đó như thế tả, thuyết minh, biểu cảm.
nào?
(4) Cách kết hợp:
- Sử dụng PT thuyết minh để giới thiệu về
quê hương của nhà văn, hoàn cảnh ra đời,
nội dung phản ánh trong 2 tác phẩm nổi
tiếng viết về Tây Nguyên của nhà văn.
- Sử dụng PT tự sự để tóm tắt cốt truyện,
các sự kiện tiêu biểu và các hình tượng nghệ
thuật trong tác phẩm.
? Viết thành đoạn văn NL hoàn - Sử dụng PT miêu tả nhằm tái hiện đặc
chỉnh có sử dụng kết hợp các PT điểm, tính cách của nhân vật, hình tượng
tự sự, miêu tả làm sáng tỏ luận nhân vật trong 2 tác phẩm nổi tiếng của NV.
điểm.
- Sử dụng PT biểu cảm để bày tỏ tình cảm,
cảm xúc, suy nghĩ của bản thân về vẻ đẹp
của các hình tượng nhân vật trong 2 tác
phẩm, về chủ nghĩa anh hùng cách mạng kết
tinh trong dòng máu quật cường bất khuất
- HS trình bày các đoạn văn đã của con người và đất rừng Tây Nguyên.
hoàn thành trước lớp
ó Ưu điểm và hạn chế của các đoạn văn
? HS rút ra cách sử dụng kết được HS trình bày.
hợp các PTBĐ trong bài văn, Ghi nhớ: dựa vào phần ghi nhớ trong SGK
đoạn văn NL và tác dụng của sự Ngữ văn 12, tập 1, trang 161.
kết hợp đó.
Hoạt động 3: GV hướng dẫn III. Luyện tập ở nhà
HS thực hiện 2 bài tập (tr.161).
* GV gợi ý:
- Bài tập 1:
Bài tập 1:
+ gồm 2 câu yêu cầu HS lí giải a) Đúng: Sử dụng kết hợp các PTBĐ làm
tác dụng của sự kết hợp các PT cho việc trình bày luận cứ trong bài văn NL
tự sự, miêu tả, biểu cảm,, thuyết trở nên sinh động, cụ thể và có sức thuyết
minh trong bài văn NL.
phục mạnh mẽ.
+ Hình thức học tập cá thể.
b) Sai: Việc sử dụng kết hợp một hay nhiều
13
- Bài tập 2:
+ HS luyện viết một bài hoặc
một đoạn văn NL về một tác
phẩm văn học hoặc một vấn đề
thời sự đang đặt ra trong đời
sống. Trong bài văn, đoạn văn
đó nhất thiết phải sử dụng kết
hợp các PTBĐ.
* GV gợi ý các yêu cầu HS cần
đạt ở bài tập 2.a)
PTBĐ trong bài văn NL phải xuất phát từ
u cầu và mục đích NL.
Bài tập 2:
a) HS trình bày đoạn văn NL có sử dụng
kết hợp các PTBĐ:
ó Một số yêu cầu HS cần đạt:
(1) Đoạn văn thông báo tương đối trọn vẹn
một chủ đề cụ thể
(2) Bắt đầu đoạn lùi đầu dòng viết hoa chữ
cái đầu và kết thúc đoạn bằng dấu chấm
xuống dòng.
(3) Kiểu lập luận trong đoạn văn ? (diễn
dịch, quy nạp, tổng phân hợp...)
(4) Phương thức tự sự và miêu tả có giúp
cho việc trình bày luận cứ trong đoạn văn
được rõ ràng, cụ thể, sinh động ?
(5) Phương thức tự sự và miêu tả có phục vụ
cho việc làm sáng rõ luận điểm (câu chủ đề)
* GV gợi ý các yêu cầu HS cần trong đoạn văn ?
đạt ở bài tập 2.b)
b) HS trình bày bài văn NL có sử dụng
kết hợp các PTBĐ
ó Một số yêu cầu HS cần đạt:
(1) Bài văn có đầy đủ bố cục 3 phần phù
hợp với loại bài NLVH đề yêu cầu tạo lập?
(2) Việc tổ chức các ý trong bài văn có đáp
ứng được chủ đề, đề tài bàn luận ở đề bài
hay không ?
(3) Sử dụng phương thức tự sự và miêu tả
có giúp cho việc trình bày luận cứ trong bài
văn được rõ ràng, cụ thể, sinh động ?
(4) Phương thức tự sự và miêu tả có phục vụ
cho việc làm sáng rõ luận điểm trong bài
văn ?
(5) Sử dụng phương thức tự sự và miêu tả
có phá vỡ mạch nghị luận của bài văn
không ?
14
4. Dặn dò
- HS làm bài tập 1 và 2 trong SGK trang 161.
- Đọc thêm: Về bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (SGK, tr. 137 - 138)
IV. Củng cố dặn dị:
1. HS về nhà hồn thành các bài tập 1 và 2, sách Ngữ văn tập một, trang
161.
2. Sau khi dạy học thực nghiệm, tôi tổ chức cho học sinh viết một bài nghị
luận ngắn về một tư tưởng đạo lí, thu thập thơng tin về tiết dạy học thực nghiệm,
tiết dạy đối chứng, thông tin về bài kiểm tra của học sinh, thống kê, xử lí kết quả
dạy học thực nghiệm trên các phương diện định tính và định lượng.
- Đề bài kiểm tra
Cảm nhận của em về đoạn thơ sau:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xơi
(Tây Tiến, Quang Dũng)
- Thời gian làm bài kiểm tra: 45 phút
-. Đối tượng và địa bàn kiểm tra dạy học thực nghiệm và dạy học đối chứng:
Lớp 12A5 và lớp 12A1 trường PT Nguyễn Mộng Tn (Đơng Sơn, Thanh Hóa)
2.4. Hiệu quả Rèn luyện kĩ năng sử dụng kết hợp các phương thức
biểu đạt tự sự, miêu tả trong bài văn nghị luận văn học
2.4.1. Kết quả dạy học thực nghiệm - đối chứng: Kết quả bài kiểm tra
Bảng 2: Kết quả bài làm văn của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
Tên
Điểm
Lớp
Điểm 7,8 Điểm 5,6 Điểm 3,4 Điểm 1,2
trường
9,10
15
PT
Nguyễn
Mộng
Tuân
(Đông
Sơn)
Lớp thực
nghiệm
12A5
Lớp đối
chứng
12A1
Sĩ
số SL %
HS
SL
40
0
0
12
30,
25 62,5
0
40
0
0
4
%
SL
%
SL
%
SL
%
3
7,5
0
0
10,
37,
21 52,5 15
0
5
1
2,5
2.4.2. Nhận xét chung
Căn cứ vào những thông tin thu thập được từ kết quả bài kiểm tra của lớp
dạy học thực nghiệm và lớp dạy học đối chứng tại trường PT Nguyễn Mộng
Tuân (Đông Sơn) chúng tôi rút ra một số nhận xét đánh giá sau:
- Ở giờ học thực nghiệm, học sinh phải thực hành nhiều hơn, học sinh chủ
động, tích cực giải quyết các yêu cầu thực hành luyện tập theo các mức độ từ
đơn giản đến phức tạp: từ bài tập yêu cầu nhận biết –> đến bài tập thơng hiểu, lí
giải –> đến bài tập vận dụng theo mẫu –> và cuối cùng là học sinh làm bài văn
sáng tạo. Các kiến thức và kĩ năng tìm hiểu để, tìm ý, lập dàn ý, xác định
phương thức biểu đạt kết hợp đều do học sinh chủ động khám phá, chiếm lĩnh
thông qua hoạt động thực hành, nêu câu hỏi, tìm kiếm thơng tin trả lời câu hỏi,
vận dụng sáng tạo để giải quyết vấn đề. Học sinh không bị gị bó áp đặt bởi suy
nghĩ và cách giải quyết vấn đề của giáo viên. Chính vì vậy, khơng khí giờ học
sơi nổi hơn bởi sự trao đổi, đối thoại giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh
với nhau. Các hình thức tổ chức luyện tập thực hành rèn kĩ năng vận dụng kết
hợp các phương thức tự sự, miêu tả trong bài văn nghị luận cụ thể, phong phú,
có sức lơi cuốn hơn so với các hoạt động học tập trong giờ dạy đối chứng.
- Nếu để đánh giá chung thì ở tiết dạy thực nghiệm và bài kiểm tra thực
nghiệm, đa số học sinh hiểu được sự cần thiết phải vận dụng kết hợp các PTBĐ
tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, biết viết bài văn nghị luận về một tư
tưởng đạo lí có vận dụng kết hợp các PTBĐ.
- Ở bài làm văn của lớp học thực nghiệm đã đạt được một điều quan trọng
mà ở lớp học đối chứng chưa có đó là nhiều học sinh đã biết nêu ra ý kiến, luận
điểm cho bài văn nghị luận, biết tìm ý, biết vận dụng kết hợp các phương thức tự
sự, miêu tả để làm sáng rõ luận điểm, giúp cho việc trình bày các luận cứ trong
bài văn trở nên sinh động, cụ thể, có sức thuyết phục. So với lớp dạy học đối
chứng, lớp thực nghiệm có kết quả có kết quả cao hơn. Tỷ lệ học sinh ở lớp thực
nghiệm đạt kết quả khá giỏi (điểm từ 7 - 10) nhiều hơn: HS thực hiện tốt các yêu
cầu của đề bài, biết cách vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt một cách
16
linh hoạt, sáng tạo phù hợp với yêu cầu, mục đich nghị luận. Tỷ lệ học sinh đạt
điểm dưới trung bình giảm hẳn so với lớp đối chứng.
Qua các hoạt động thực nghiệm: thiết kế giáo án; tổ chức dạy học thực
nghiệm và dạy học đối chứng, xây dựng đề, đáp án kiểm tra đánh giá; học sinh
làm bài kiểm tra; giáo viên chấm bài thực nghiệm - bài đối chứng; họp tổng kết
rút kinh nghiệm dạy thực nghiệm…v.v giúp cho chúng tôi kịp thời bổ sung, điều
chỉnh nâng cao tính hiệu quả, tính khả thi của các nguyên tắc, biện pháp tổ chức
rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các PTBĐ tự sự, miêu tả trong bài văn
NLVH cho học sinh lớp 12. Từ đó, nâng cao năng lực viết văn nghị luận cho
học sinh lớp 12. Giúp phát triển kĩ năng, năng lực làm văn của học sinh, đem
lại niểm vui hứng thú học tập cho các em, trang bị cho học sinh phương pháp
tự học, tự rèn luyện để phát triển năng lực đáp ứng nhu cầu xã hội.
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
- Vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả trong bài văn
nghị luận văn học là một kĩ năng cần thiết làm cho vấn đề nghị luận được trình
bày một cách sinh động, cụ thể, giàu sức thuyết phục.
- Qua khảo sát 12 tiết dạy học làm văn nghị luận tại 6 trường THPT trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa cho thấy giáo viên và học sinh cịn gặp nhiều khó khăn
lúng túng ở các tiết rèn luyện kĩ năng sử dụng kết hợp các PTBĐ tự sự, miêu tả
trong bài văn nghị luận do thời lượng ít, lí thuyết làm văn còn chung chung,
thiếu các chỉ dẫn cụ thể; học sinh kém hứng thú với công việc làm văn; giáo
viên ít đầu tư cho các tiết dạy làm văn. Đây chính là căn nguyên của vấn đề học
sinh được học tất cả các kiểu văn bản, các dạng bài làm văn nhưng khi thực
hành, viết bài thì lại khơng thể viết đúng, viết đạt u cầu theo chuẩn kiến thức,
kĩ năng.
- Vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả trong văn bản
nghị luận và các dạng bài nghị luận xã hội là một kĩ năng mới và khó đối với
học sinh lớp 12. Việc vận dụng kết hợp hai hay nhiều phương thức biểu đạt phải
xuất phát từ yêu cầu và mục đích của bài nghị luận. Các nguyên tắc, biện pháp
tổ chức rèn luyện kĩ năng cho học sinh mà chúng tơi đề xuất ở chương 2 góp
phần hóa giải những khó khăn lúng túng trong thực tế dạy học làm văn nghị luận
ở lớp 12 hiện hành nâng cao năng lực tạo lập văn bản và đọc hiểu văn bản nghị
luận cho học sinh THPT.
3.2. Kiến nghị
Chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn cần tiếp tục dạy cho học sinh kĩ
năng vận dụng kết hợp các PTBĐ tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong
bài văn nghị luận; tăng thêm thời lượng thực hành rèn luyện các kĩ năng làm văn
17
nghị luận cho học sinh lớp 12 để đảm bảo sau mỗi tiết học, kiến thức và kĩ năng
làm văn của học sinh đạt so với Chuẩn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
HIỆU TRƯỞNG
Thanh Hóa, ngày 2 tháng 6 năm 2019
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.
Vũ Thị Hoàng Yến
18