Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ đọc hiểu tác phẩm hai đứa trẻcủa thạch lam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.18 KB, 20 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn - một vấn đề tuy đã được nói
đến nhiều, song chưa bao giờ hết tính thời sự. Nhất là hiện nay, khi những thông
tin về việc dạy học, thi cử môn Văn không còn xa lạ, và khi bộ Sách giáo khoa
Ngữ văn mới chuẩn bị được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Phương pháp
dạy học lấy người thầy làm trung tâm đã dẫn đến kiểu học thụ động thiên về ghi
nhớ, ít chịu suy nghĩ, từ đó hạn chế đến chất lượng và hiệu quả dạy học không
đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Để khắc phục tình trạng đó thì cần phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh thông qua quá trình dạy học dưới
sự chỉ đạo, tổ chức của người giáo viên. Người học phải tích cực, chủ động vào
chính mình chứ không ai có thể làm thay cho mình được.
Chương trình đổi mới giáo dục trên phạm vi toàn quốc trong những năm
vừa qua đã và đang được cả xã hội quan tâm sâu sắc. Một trong những nhiệm vụ
cơ bản của đội ngũ nhà giáo là không ngừng cải tiến phương pháp giảng dạy
nhằm giáo dục học sinh lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, sáng tạo. Chính
vì thế, người giáo viên trực tiếp giảng dạy phải biết vận dụng các phương pháp
hoạt động lên lớp một cách hợp lý, cụ thể, phù hợp với từng đối tượng học sinh
nhằm khơi dậy niềm say mê, sáng tạo và khả năng khám phá thế giới xung
quanh.
Văn học là một môn học đặc thù bởi tính nghệ thuật và tính khoa học của
nó. Ngoài việc cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản như các môn học
khác, môn học Ngữ văn còn tác động đến tư tưởng, tình cảm, đem lại niềm vui,
sự hứng thú học tập cho học sinh, góp phần trực tiếp vào việc giáo dục đạo đức,
nhân cách cho mỗi học sinh... Như vậy, việc vận dụng đổi mới phương pháp dạy
học là vô cùng cần thiết.
Xuất phát từ lí do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm:
“Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ đọc-hiểu tác
phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam ” với hi vọng cùng chia sẻ kinh nghiệm,

1




hiểu biết về phương pháp dạy học hiện đại với đồng nghiệp, đồng thời để cùng
nhau vận dụng vào thực tiễn dạy học để nâng cao chất lượng môn Ngữ văn.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu hướng vào mục đích tìm tòi và khẳng định vai trò, tác
dụng của việc phát huy “tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của học
sinh” trong quá trình học văn thông qua những phương pháp dạy học cụ thể,
hiệu quả. Từ đó, người dạy có điều kiện triển khai hướng dạy học tích cực vào
việc nâng cao chất lượng dạy học văn ở nhà trường; đồng thời giúp học sinh tiếp
cận được những phương pháp học mới để học sinh có thể tự tìm hiểu khám phá
nhiều tri thức ở trong và ngoài chương trình.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Ở đề tài này, tôi tập trung nghiên cứu về những phương pháp dạy học
tăng tính “tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh”; vận dụng
một số phương pháp dạy học tích cực khi tìm hiểu tác phẩm “Hai đứa trẻ” của
nhà văn Thạch Lam.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp so sánh.

2


II. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận

2.1.1. Một số khái niệm
* Tính tích cực học tập
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội.
Khác với động vật, con người không chỉ tiêu thụ những gì sẵn có trong thiên
nhiên mà còn chủ động, bằng lao động, sản xuất ra những của cải vật chất cần
cho sự tồn tại của xã hội, sáng tạo ra nền văn hóa ở mỗi thời đại. Hình thành và
phát triển tính tích cực xã hội đã là củng cố một trong các nhiệm vụ chủ yếu của
giáo dục nhằm đào tạo những con người năng động, thích ứng và góp phần phát
triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực như là một điều kiện đồng thời là một
kết quả của sự phát triển nhân cách của hoc sinh trong quá trình giáo dục trong
nhà trường [1].
Tính tích cực học tập thể hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao như:
- Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn…
- Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác
nhau về một số vấn đề…
- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
* Phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn được dùng ở nhiều
nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của người học.
“Tích cực” trong phương pháp dạy học – tích cực được dùng với nghĩa là
hoạt động, chủ động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng
theo nghĩa trái với tiêu cực.
Phương pháp dạy học tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa
hoạt động nhận thức của người học nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực
của người học chứ không phải là tâp trung vào người dạy [1]. Tuy nhiên để dạy
học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo
phương pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học,
nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy.

3


Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng
giáo viên chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp giáo viên hăng hái áp dụng
phương pháp dạy học tích cực nhưng không thành công vì học sinh chưa thích
ứng, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì vậy, giáo viên phải kiên trì dùng cách
dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động
một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có
sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt
động học thì mới thành công. Như vậy, việc dùng thuật ngữ "Dạy và học tích
cực" để phân biệt với "Dạy và học thụ động".
2.1.2. Một số phương pháp dạy học tích cực
Hiện nay có nhiều phương pháp dạy học tích cực đã được sử dụng, tuy
nhiên do giới hạn của đề tài, tôi chỉ xin đưa ra một số phương pháp dạy học tiêu
biểu hay được sử dụng trong trường THPT.
- Phương pháp vấn đáp: Vấn đáp (đàm thoại) là biện pháp trong đó giáo
viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc học sinh có thể bàn cãi với nhau và
với cả giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học [1]. Chứng cứ
vào thuộc tính hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các loại phương pháp
vấn đáp:
+ Vấn đáp tái hiện: giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại
kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không thèm suy luận. Vấn đáp tái tạo
không được xem là phương pháp có giá trị sư phạm.
+ Vấn đáp giải thích – minh hoạ : Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề
tài nào đó, giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh
hoạ để học sinh dễ nắm bắt, dễ nhớ.
+ Vấn đáp tái tạo: giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp
hợp lý để hướng học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy
luật của cảnh tượng đang tìm hiểu, kích thích sự thèm muốn hiểu biết. Giáo viên

tổ chức sự trao đổi ý kiến – kể cả tranh luận – giữa thầy cô giáo với cả lớp, có
khi giữa trò với trò, nhằm giải quyết một sự tình xác định. Trong vấn đáp tái tạo,
thầy giáo giống như người tổ chức sự tái tạo, còn học sinh giống như người tự
lực phát hiện kiến thức mới. Vì thế, khi chấm dứt cuộc nói chuyện, học sinh có
được niềm vui của sự khám phá trưởng thành thêm một bước về thấp tư duy.
4


- Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề.
Có thể phân biệt bốn mức trình độ đặt và giải quyết vấn đề như sau:
Mức 1: Giáo viên đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực
hiện cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên đánh giá
kết quả làm việc của học sinh.
Mức 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn
đề. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của giáo viên khi
cần. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Mức 3: Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề. Học sinh
phát hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải
pháp. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học sinh cùng
đánh giá.
Mức 4: Học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của
mình hoặc cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. Học sinh giải quyết vấn đề, tự
đánh giá chất lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc.
Các mức
1
2
3
4

Đặt vấn đề

GV
GV
GV + HS
HS

Nêu giả thuyết
GV
GV
HS
HS

Lập kế hoạch Giải quyết vấn đề K Luận, đánh giá
GV
HS
GV
HS
HS
GV + HS
HS
HS
GV + HS
HS
HS
GV + HS

Trong dạy học theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, học sinh vừa
nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó, phát
triển tư duy tích cực, sáng tạo, được chuẩn bị một năng lực thích ứng với đời
sống xã hội, phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh.
- Phương pháp hoạt động nhóm: Lớp học được chia thành từng nhóm

nhỏ từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục đích, của vấn đề học hỏi, các nhóm được phân
chia không hẹn mà có hay có chủ tâm, được duy trì yên ổn hay thay đổi trong
từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác
nhau [1].
Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có xác xuất phân
việc mỗi người một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm
việc hăng hái, chẳng thể ỷ lại vào một đôi người hiểu biết và năng động hơn.
Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiêu vấn đề nêu ra trong không khí
5


thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết
quả học hỏi chung của cả lớp. Để trình diễn kết quả làm việc của nhóm trước
toàn lớp, nhóm có xác xuất cử ra một đại diện hoặc phân việc mỗi thành viên
trình diễn, một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp.
Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo, hoặc vấn đề tiếp theo
trong bài. Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm san sẻ
các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới.
Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có xác xuất nhận rõ trình độ
hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài
học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp thụ bị động từ
giáo viên. Thành công của bài học phụ thuộc vào sự nồng nhiệt tham gia của
mọi thành viên, vì vậy phương pháp này còn làm gọi là phương pháp cùng tham
gia. Tuy nhiên, phương pháp này bị ngăn lại trong một giới hạn nhất định bởi
không gian có phạm vi nhỏ của lớp học, bởi thời kì hạn định của tiết học, thành
thử giáo viên phải biết tổ chức hợp lý và học trò đã khá quen với phương pháp
này thì mới có kết quả.
- Phương pháp đóng vai : Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh
thực hành một số cách xử sự nào đó trong một cảnh huống giả định[1].
Cách tiến hành có thể như sau:

+ Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm và quy
định rõ thời gian chuẩn mực, thời gian đóng vai.
+ Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.
+ Các nhóm lên đóng vai.
+ Giáo viên phỏng vấn học sinh đóng vai: Vì sao em lại ứng xử như vậy?
Cảm xúc, thái độ của em khi thực hiện cách ứng xử? Khi nhận được cách ứng
xử ( đúng hoặc sai).
+ Lớp thảo luận, nhận xét: Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa
phù hợp? Chưa phù hợp ở điểm nào? Vì sao?
+ Giáo viên kết luận về cách ứng xử cần thiết trong tình huống.
- Phương pháp động não: Động não là phương pháp giúp học sinh trong
một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một sự tình

6


nào đó. Thực hiện phương pháp này, thầy giáo cần đưa ra một hệ thống các
thông báo làm tiền đề cho buổi thảo luận[1].
Cách tiến hành: Thầy giáo nêu câu hỏi cần được tìm hiểu trước cả lớp
hoặc trước nhóm, động viên học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trước môn Ngữ văn thường được thực hiện theo phương pháp dạy học
truyền thống thiên về lí thuyết, thầy cô giáo soạn bài giảng, truyền thụ đến học
sinh, học sinh tiếp thu thụ động kiến thức ấy, ghi nhớ và vận dụng vào bài kiểm
tra. Cứ như thế thành một chu kì khép kín. Phương pháp dạy học này có những
ưu điểm riêng không thể phủ nhận được là đã đạt những kết quả đáng kể trong
việc bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh dễ đạt được những kiến thức hàn lâm.
Tuy nhiên, trong môi trường giáo dục ngày nay phương pháp truyền thống ấy
cũng bộc lộ không ít nhược điểm như: Học sinh thụ động, chỉ biết tiếp nhận một
chiều chứ không tự nghiên cứu, tìm hiểu. Như thế, hậu quả khó tránh khỏi là học

sinh dần dần mất đi năng lực tư duy, tự cảm thụ tác phẩm mà chỉ chấp nhận và
sao chép lại cảm thụ của thầy cô. Đã có nhiều trường hợp học sinh phải ngồi học
cả mấy trang giấy phần giảng bài của thầy cô cho một tác phẩm văn học, dù kiến
thức thuộc làu làu nhưng chỉ cần lúc thi câu hỏi hỏi chệch đi chút ít là học sinh
không thể nào tư duy làm được. Đặc biệt, khi cần vận dụng những kiến thức đó
vào cuộc sống là học sinh cảm thấy vô cùng khó khăn.
Trước thực trạng ấy, có thể thấy đổi mới phương pháp dạy học là việc làm
cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng đối với việc vực dậy môn Ngữ văn vốn đang
mất dần sức hút đối với học sinh. Trong những năm qua, ngành giáo dục đã có
nhiều cải cách quan trọng từ giáo dục ở bậc Tiểu học cho đến các trường THPT.
Riêng ở phổ thông, sự đổi mới thể hiện trên nhiều phương diện, rõ nhất là
về chương trình, sách giáo khoa và đặc biệt là phương pháp dạy học.
Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là thay đổi
lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “phương pháp dạy học tích
cực” nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn
luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến
thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và thực tiễn, tạo niềm tin,
niềm vui hứng thú trong học tập. Nhờ việc vận dụng những phương pháp dạy
7


học mới này học sinh không còn thụ động mà chủ động tiếp cận kiến thức. Điều
đó dần dần hướng tới yêu cầu của giáo dục mới đó là quan tâm tới những kĩ
năng học sinh học được để vận dụng vào cuộc sống. Học sinh sẽ không trở thành
những cỗ máy vận hành theo những khuôn mẫu có sẵn theo các dây chuyền định
trước mà các em được tự do thể hiện cái tôi cảm thụ văn học.
Đặc biệt với nền văn học lãng mạn, các nhà văn có rất nhiều cách tân
nghệ thuật, nếu học sinh nếu cứ thụ động tiếp thu kiến thức sẽ khó lòng phát
hiện hết các ý. Do vậy, một vài ý kiến nhỏ cuả đề tài, phần nào giúp học sinh
chủ động, tích cực hơn trong việc tiếp thu tác phẩm để nắm bắt được nét hay,

độc đáo của tác phẩm và đặc điểm của trào lưu văn học này.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
“Hai đứa trẻ” là một truyện dường như không có chuyện, không có
hành động và xung đột gay gắt mà đầy nội tâm. Cấu tứ của tác phẩm tựa như
một bài thơ trữ tình chảy theo mạch tâm tư, rung động của cô bé Liên ở một phố
huyện nghèo cạnh ga xép trước cảnh chiều muộn, khi đêm tối và lúc đợi tàu
đêm. Điểm nhìn trần thuật, những hình ảnh biểu tượng, hệ thống ngôn ngữ của
tác phẩm đều toát lên một ý vị trữ tình. Hiện thực trong tác phẩm chỉ là điểm tựa
để soi chiếu thế giới suy tư, khao khát của con người. Khi tìm hiểu tác phẩm
này, phần lớn học sinh vẫn cảm thấy đây là một tác phẩm khó có thể cảm nhận
hết cái hay của nó. Vì vậy, với đề tài này, tôi chỉ xin đưa ra một số phương pháp,
cách dạy nâng cao hiệu quả tìm hiểu tác phẩm.
2.3.1. Phần tìm hiểu chung
Đây là phần mà các giáo viên thường ít chú trọng vì nghĩ rằng kiến thức
của nó khá dễ dàng lại hoàn toàn có trong Sách giáo khoa. Thế nhưng đây lại là
phần vô cùng quan trọng vì nó quyết định sự tò mò hứng thú của học sinh trong
việc tìm hiểu phần văn bản. Do vậy, cần phải chú ý cách vào bài, cách tìm hiểu
Tiểu dẫn sao cho hấp dẫn nhất tạo không khí cho học sinh tiếp cận bài học một
cách dễ dàng.
- Như phần dẫn nhập vào bài: Là một thành viên trong nhóm Tự lực văn
đoàn nhưng nhà văn Thạch Lam đã không đi theo lối viết chung của nhóm mà
ông tìm đến một phong cách hoàn toàn khác - giản dị và trong trẻo, để rồi những
đóng góp về nghệ thuật ngôn ngữ của ông được nhắc đến khá nhiều và có ảnh
8


hưởng sâu đậm trong quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc. Để hiểu được
rõ hơn điều đó, hôm nay, chúng ta cùng tìm hiểu truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.
=> Đây là phương pháp nêu vấn đề khiến học sinh phải tìm hiểu để đi đến
câu trả lời.

- Phần Tiểu dẫn: Giáo viên yêu cầu học sinh đọc thầm các kiến thức ở
phần Tiểu dẫn trong Sách giáo khoa, trả lời cho câu hỏi cuộc đời, con người, sự
nghiệp sáng tác của nhà văn Thạch Lam?(phương pháp đọc thầm + vấn đáp).
+ Câu hỏi: Những yếu tố về con người đã ảnh hưởng như thế nào đến sáng
tác của ông? (HS trả lời: Chính đặc điểm con người đã làm nên giá trị nhân đạo
và ngòi bút nhạy cảm trước những biến thái tinh vi của tâm hồn con người trong
văn Thạch Lam) => Phương pháp tái tạo.
+ GV dẫn dắt và hỏi: Thạch Lam có quan điểm nghệ thuật tiến bộ: “Đối với
tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay
sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng
ta có thể có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa
làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”. Em hiểu nhận
định trên như thế nào?( phương pháp đặt và giải quyết vấn đề + phương pháp
gợi mở)
(Học sinh trả lời: Văn chương không thể tách rời cuộc sống, không đưa đến
cho người đọc thái độ quay lưng, lảng tránh đời sống; Văn chương là công cụ
nghề nghiệp hoàn hảo của nhà văn, là vũ khí có khả năng giúp nhà văn hoàn
thành sứ mệnh của mình một cách có hiệu quả. Nó không bị sử dụng vào mục
đích xấu, hơn nữa, luôn tác động qua con đường tình cảm; Văn chương vạch
trần, phê phán những tệ lậu, những cái xấu xa của xã hội và đòi hỏi diệt trừ, thay
thế nó, đồng thời bồi đắp tinh thần, xây dựng đời sống tâm hồn, thanh lọc tình
cảm con người.)
+ Câu hỏi: Cho biết những đặc trưng truyện ngắn của Thạch Lam:
(Học sinh trả lời: Đề tài: viết về cuộc sống cơ cực, vất vả bế tắc của nhân
dân, tiểu tư sản, thị dân nghèo; Truyện không có chuyện, chủ yếu khai thác thế
giới nội tâm với xúc cảm mong manh, mơ hồ trong cuộc sống thường ngày;
Giọng điệu: điềm đạm, chứa đựng tình cảm mếm yêu chân thành và sự nhạy
9



cảm của nhà văn trước biến thái của cảnh vật và lòng người; Văn Thạch Lam
trong sáng, giản dị, thâm trầm, sâu sắc.)
Giáo viên mở rộng: Ngôn ngữ của ông rất đặc biệt, giản dị mà làm say đắm
lòng người. Những tác phẩm của ông không gân guốc, nhưng thâm trầm và kín
đáo. Mỗi truyện ngắn của nhà văn Thạch Lam như một bài thơ hàm súc, cô đọng
với một dư ba vang vọng. Ở đó, “cái ngữ điệu nhỏ nhẹ và man mác thi vị, những
cảm xúc tinh tế của một tâm hồn dễ rung động” đã làm nên một phong cách
ngôn ngữ rất riêng, độc đáo và đặc sắc; Nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét rất
sâu sắc:“Thạch Lam đã làm cho tiếng Việt gọn ghẽ đi, co duỗi thêm, mềm mại
và tươi tắn hơn. Thạch Lam có đem sinh sắc vào tiếng ta. Và theo tôi nghĩ, đứng
bên cái tiêu chuẩn thái độ tư tưởng nó là tiêu chuẩn chung cho các thể, các
ngành văn nghệ thì đây là cái chuẩn trong những tiêu chuẩn quan trọng nếu
không là duy nhất”. Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về điều này ở phần đọc-hiểu văn
bản.
=> Đây là phương pháp nêu vấn đề để học sinh hứng thú hơn khi chuyển
sang phần tìm hiểu văn bản.
2.3.2. Phần đọc- hiểu văn bản
* Phần đọc và cảm nhận chung về tác phẩm: Giáo viên hướng dẫn học
sinh đọc một số đoạn trong văn bản.
+ Câu hỏi: Cảm nhận chung của em về giọng văn của tác phẩm?
(Học sinh trình bày cảm nhận: giọng văn chậm rãi, nhẹ nhàng, êm dịu, tha
thiết. Giáo viên định hướng cách đọc cho học sinh)
=> phương pháp gợi mở
+ Câu hỏi: Hãy tóm tắt tác phẩm và nêu cảm nhận của em khi làm công
việc này?
(Học sinh tóm tắt và nêu cảm nhận: tóm tắt truyện “Hai đứa trẻ” khó hơn
những truyện ngắn khác. Giáo viên giải thích: vì truyện chỉ xoay xung quanh
một sự kiện: hai chị em Liên và An cố thức để đợi tàu. Truyện chủ yếu miêu tả
thế giới tâm hồn của cô bé Liên. Đây là kiểu truyện ngắn trữ tình nên không thể
tóm tắt theo dòng sự kiện hoặc cuộc đời nhân vật.)

10


=> phương pháp vấn đáp + nêu và giải quyết vấn đề.
* Phần phân tích văn bản:
GV định hướng: “Hai đứa trẻ” là truyện ngắn không có cốt truyện. Truyện
ngắn chỉ là bức tranh phố huyện nghèo được hiện lên qua cái nhìn của chị em
Liên, chủ yếu là Liên. Vì vậy khi tìm hiểu tác phẩm, chúng ta sẽ đi tìm hiểu tâm
trạng của Liên trước bức tranh phố huyện ở những thời điểm khác nhau.
- Phần một: Tâm trạng của Liên trước bức tranh phố huyện lúc chiều
muộn.
+ Trước cảnh chiều tàn:
GV đọc diễn cảm đoạn: “Tiếng trống thu không….một bên sáng, một bên
tối”. (Giọng đọc chậm rãi, nhẹ nhàng gợi được không khí làng quê toát lên từ
những câu văn của Thạch Lam).
Câu hỏi:
Bức tranh thiên nhiên phố huyện lúc chiều tàn được nhà văn khắc hoạ qua
những chi tiết nào? (Học sinh tìm những chi tiết miêu tả âm thanh, màu sắc,
đường nét)
Nhận xét nghệ thuật miêu tả cảnh thiên nhiên của Thạch Lam? Cảm nhận
của em về vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên này?
(Học sinh trả lời: Trong đoạn văn tả cảnh thiên nhiên, Thạch Lam đã viết
những câu văn giàu chất thơ, chất nhạc: “ Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như
ru”. Câu văn toàn thanh bằng, nhịp chậm, điệp từ “chiều”, từ láy, nghệ thuật so
sánh tinh tế đã gợi không khí một buổi chiều quê êm đềm thơ mộng mang cốt
cách Việt Nam, thể hiện sự nâng niu trân trọng của Thạch Lam với những gì là
hồn xưa của dân tộc.)
=> Kết hợp phương pháp đọc + phương pháp tái tạo, gợi mở.
Câu hỏi: Trước giờ khắc ngày tàn ấy, tâm trạng của Liên như thế nào? Tìm
những chi tiết miêu tả tâm trạng của Liên( tư thế, dáng vẻ, tâm hồn)?

(Học sinh trả lời: Ngồi yên lặng trầm tư suy nghĩ, trong đôi mắt Liên ngập
đầy bóng tối ; Liên không hiểu sao nhưng thấy lòng buồn man mác trước giờ
khắc ngày tàn.)
11


=> phương pháp nêu vấn đề và giải quyết vấn đề.
GV bình giảng: Liên có cảm giác buồn mơ hồ không hiểu vì Liên vẫn còn
là môt đứa trẻ hồn nhiên ngây thơ. Đây cũng là nỗi buồn mơ hồ không hiểu của
văn học lãng mạn: “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” (Xuân Diệu). Dường
như trong “Chiếc linh hồn nhỏ” của cô bé nơi phố huyện đã vương vấn chút
“Mang mang thiên cố sầu” của văn học lãng mạn. Thạch Lam đã để cho cô bé
Liên dường như nghe được một cách vô thức sự hữu hạn của đời người trước cái
vô hạn của thời gian.
Câu hỏi: Nhận xét nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật? Qua đó, nêu cảm
nhận của em về vẻ đẹp tâm hồn của Liên?
(Học sinh trả lời: Liên có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên)
=> Phương pháp tái tạo
+ Trước cảnh chợ tàn:
GV gọi 1 HS đọc diễn cảm đoạn văn tả cảnh chợ tàn:“Chợ họp giữa phố…
không có tiền để mà cho chúng nó”.
Câu hỏi: Cảnh chợ tàn được gợi qua chi tiết nào? Nhận xét nghệ thuật miêu
tả cảnh chợ tàn của tác giả? Nêu cảm nhận của em về cảnh chợ tàn?
GV bình: Đến đây chúng ta đã thấy rõ nét đặc trưng trong văn Thạch Lam ở
sự kết hợp giữa yếu tố lãng mạn và hiện thực. Nếu ở cảnh chiều tàn, ngòi bút
Thạch Lam thật lãng mạn trữ tình thì ở cảnh chợ tàn, nhà văn lại dùng ngòi bút
tả thực.
=> Kết hợp phương pháp đọc + phương pháp tái tạo, bình giảng.
Câu hỏi: Vậy tâm trạng của Liên trước cảnh chợ tàn như thế nào? Cảm
nhận của em về vẻ đẹp tâm hồn của Liên? (Học sinh trả lời: Liên cảm nhận

được “mùi riêng của đất, của quê hương này”. Liên có tâm hồn tinh tế, nhạy
cảm, gắn bó với quê hương.) => Phương pháp tái tạo.
+ Trước những kiếp người tàn:
GV dẫn dắt: Trên nền cảnh chiều tàn, chợ tàn, tác giả còn khắc hoạ hình
ảnh những kiếp người tàn.
Phần này, câu hỏi được xây dựng dưới dạng phương pháp tái tạo + gợi mở:
12


Những kiếp người tàn là ai? Cuộc sống của họ như thế nào? (Học sinh trả
lời: Liên và An, những đứa trẻ con nhà nghèo, mẹ con chị Tý, bà cụ Thi)
Tâm trạng của Liên trước những kiếp người tàn nơi phố huyện như thế
nào? Qua đó, nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp tâm hồn của Liên? (Học sinh trả
lời: Liên giàu lòng trắc ẩn và yêu thương con người)
Câu hỏi khái quát: Qua tìm hiểu tâm trạng của nhân vật Liên trước cảnh
chiều tàn, chợ tàn và những kiếp người tàn, em có nhận xét gì về bút pháp nghệ
thuật của tác giả? Tác giả thể hiện tư tưởng gì?
- Phần 2: Tâm trạng của Liên trước bức tranh phố huyện lúc đêm
khuya.
+ Khung cảnh và con người:
Câu hỏi: Cảnh phố huyện về đêm có đặc điểm gì nổi bật?(phương pháp nêu
và giải quyết vấn đề)
(Học sinh trả lời: bóng tối bao trùm phố huyện, ánh sáng rất nhỏ bé, yếu ớt)
Phương pháp thảo luận nhóm, sử dụng phiếu học tập:
Nhóm 1: thống kê các chi tiết trong đoạn miêu tả cảnh phố huyện ngập
chìm trong bóng tối?
Nhóm 2: thống kê các chi tiết miêu tả ánh sáng?
(Học sinh làm việc nhóm, tìm các chi tiết trong văn bản, hoàn thành phiếu
học tập)
Câu hỏi: Em có cảm nhận gì về sự tương quan giữa bóng tối và ánh sáng?

Tương quan ấy nói lên điều gì(ý nghĩa biểu tượng)?
(Học sinh cảm nhận và suy ngẫm về ý nghĩa biểu tượng của các chi tiết
nghệ thuật) => phương pháp tái tạo, gợi mở.
+ Nhịp sống của những người dân: kết hợp phương pháp vấn đáp + tái tạo,
so sánh.
Câu hỏi: Khi đêm xuống, phố huyện xuất hiện thêm những ai? Em có nhận
xét gì về nhịp sống của những người dân nơi đây?

13


(Học sinh phát hiện: nhịp sống của những người dân lặp đi lặp lại đơn diệu,
buồn tẻ những động tác quen thuộc, những suy nghĩ mong đợi như mọi ngày.
Họ “mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày”)
Giáo viên so sánh mở rộng với bài thơ “Quẩn quanh” của Huy Cận:
“Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu,
Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người.
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười,
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện…”
Và sơ thuyết về thiên truyện ý tưởng “Tỏa nhị Kiều”(Xuân Diệu). Từ các
ngữ liệu mở rộng, học sinh hiểu rõ hơn cảm hứng này trong đời sống văn học
lúc bấy giờ.
+ Tâm trạng của Liên:
Câu hỏi: Trước đêm tối, tâm trạng của Liên được miêu tả như thế nào?
(Học sinh trả lời: Nỗi buồn cùng bóng tối đã tràn ngập trong đôi mắt Liên,
nhưng trong tâm hồn cô bé vẫn dành chỗ cho một mong ước, một sự đợi chờ
trong đêm.)
 phương pháp nêu và giải quyết vấn đề
- Phần 3: Hình ảnh đoàn tàu và tâm trạng của Liên lúc chuyến tàu đến
và đi qua.

Phương pháp nêu vấn đề, thảo luận nhóm: Đoàn tàu đã xuât hiện như thế
nào trong cái nhìn và tâm trạng của Liên và An?
(Học sinh làm việc nhóm( 4HS/nhóm): tìm những chi tiêt tái hiện sự xuất
hiện của đoàn tàu qua cái nhìn và tâm trạng của hai đứa trẻ khi đoàn tàu chưa
đến, đoàn tàu đến và đi qua)
Phương pháp gợi mở: Vì sao hai chị em Liên và An cố thức để được nhìn
chuyến tàu đi qua trong đêm?
(HS suy nghĩ, phát hiện ý nghĩa của đoàn tàu cũng là lí giải nguyên nhân
sâu xa vì sao Liên và An cố thức để đợi tàu: đoàn tàu là biểu tượng của một thế
giới thật đáng sống(sức sống mạnh mẽ, giàu sang và rực rỡ ánh sáng). Nó đối
lập với cuộc sống mòn mỏi, nghèo nàn, tối tăm và quẩn quanh của người dân nơi
14


phố huyện; Đoàn tàu là hình ảnh của Hà Nội, của hạnh phúc, của những kí ức
tuổi thơ êm đềm.)
Kết hợp phương pháp tái tạo + động não: Từ sự kiện hai đứa trẻ cố thức đợi
tàu, đặc biệt là những hồi tưởng của Liên về Hà Nội, em có suy nghĩ gì về hai
đứa trẻ và thái độ, dụng ý tư tưởng của nhà văn?
(Học sinh phát hiện ý nghĩa hàm ẩn của việc hai đứa trẻ đợi tàu và thái độ
của nhà văn qua cách dựng người, dựng cảnh: Thạch Lam trân trọng, nâng niu
khát vọng vươn ra ánh sáng, vượt thoát khỏi cuộc sống tù túng, quẩn quanh,
không cam chịu cái hiện tại tầm thường, nhạt nhẽo đang vây quanh mình của hai
đứa trẻ  thông điệp tác giả muốn gửi gắm: đừng bao giờ để cuộc sống của
mình chìm trong “cái ao đời phẳng lặng”. Con người phải sống cho ra sống,
phải không ngừng khao khát và xây dựng một cuộc sống có ý nghĩa. Đây chính
là giá trị nhân văn, nhân bản đáng quý của truyện ngắn.)
Phương pháp thảo luận nhóm + tái tạo:
Hình ảnh nhân vật Liên đã để lại cho em ấn tượng gì? Tại sao tác giả lại đặt
tên cho tác phẩm là “Hai đứa trẻ”?

Có người cho rằng chủ đề chính của tác phẩm là về cuộc sống nghèo nàn,
chủ đề về sự tàn tạ…Theo em, chủ đề chính của tác phẩm là gì? Rút ra đặc sắc
nghệ thuật của tác phẩm?
2.3.3. Phần củng cố, thực hành
Giáo viên sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, tổ chức giờ dạy theo
cách phát phiếu học tập, học sinh hoàn thành phiếu học tập tại lớp: So sánh Hai
đứa trẻ với Tắt đèn, Lão hạc ( đã học ở chương trình THCS) để thấy con người
và xã hội trong những năm trước cách mạng tháng Tám năm 1945?
HS trả lời, GV định hướng đáp án:
+ Điểm chung: Cái nhìn hiện thực và nhân đạo đối với xã hội Việt Nam
đang chìm đắm trong cảnh nô lệ, lầm than.
+ Nét riêng: Phong cách và bút pháp nghệ thuật của các nhà văn: Hiện thực
– Lãng mạn.
2.4. Hiệu quả của đề tài
15


Trong năm học 2017-2018, tôi được phân công giảng dạy ba lớp 11: 11A,
11E, 11H. Tôi đã thử nghiệm đề tài với học sinh cả ba lớp. Sau khi học xong bài
“Hai đứa trẻ”, tôi đã khảo sát sự hứng thú học tập của học sinh ba lớp 11A, 11E
và 11H. Kết quả là lớp 11A có 83% học sinh hứng thú với tác phẩm, lớp 11E có
có 79%, 11H có 81% học sinh hứng thú. Kết quả của bài kiểm tra 15 phút cho
thấy kết quả rõ rệt khi áp dụng phương pháp dạy học này:
Lớp

Giỏi

Khá

TB


Yếu

Kém

11A

18%

42%

33,5%

6,5%

0%

11 E

13%

34%

42%

8.0%

0%

11H


20%

37%

35,8%

7.2%

0%

Kết quả của bài kiểm tra cho thấy kết quả từ trung bình trở lên của lớp
11A là 93,5%, lớp 11E có 92% và 11H có 92,8. Đặc biệt, điểm khá giỏi của lớp
của cả ba lớp khá tốt. Điều đó chứng tỏ khi áp dụng phương pháp này mang lại
hiệu quả cao hơn, học sinh nắm vững kiến thức hơn so với cách dạy truyền
thống.
Cũng trong năm học 2017 - 2018, tôi được nhà trường, tổ chuyên môn
phân công nhiệm vụ bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi tỉnh môn Ngữ văn khối
11. Tôi đã áp dụng phương pháp này trong giảng dạy, hướng dẫn học sinh tìm
hiểu các tác phẩm trong chương trình. Kết quả là đội tuyển học sinh giỏi môn
Ngữ văn của trường THPT Tống Duy Tân dự thi học sinh giỏi tỉnh có 5 em dự
thi thì có 4 em đạt giải: 2 giải ba, 2 giải khuyến khích. Đặc biệt, tôi thấy phương
pháp này không chỉ hiệu quả ở các lớp mũi nhọn của nhà trường mà ngay cả các
lớp cơ bản cũng đạt kết quả tốt. Trong số 4 em học sinh đạt giải học sinh giỏi
tỉnh môn văn 11 thì có 3 em học ở các lớp cơ bản. Kết quả học tập của học sinh
lớp cơ bản cũng tăng rõ rệt.
Như vậy sau khi áp dụng đề tài, tôi thấy phương pháp này có hiệu quả
hơn hẳn với phương pháp truyền thống. Nó giúp học sinh hứng thú hơn với giờ
học văn, nhờ đó mà kết quả học tập cũng khả quan hơn. Quan trọng hơn nữa,
nhờ phương pháp này, học sinh có thể phát huy được khả năng tiếp nhận, cảm

16


thụ một tác phẩm văn học. Từ tác phẩm này, học sinh có thể tự khai thác, tiếp
cận các tác phẩm văn học khác dưới sự định hướng của giáo viên.

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
“Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh” theo quan điểm dạy học
văn hiện đại - “học sinh là chủ thể cảm thụ, tích cực, chủ động, sáng tạo”, yêu
17


cầu người giáo viên phải thay đổi cách dạy và cách học. Chuyển cách dạy thụ
động, truyền thụ một chiều “đọc - chép”, giáo viên làm trung tâm sang cách dạy
lấy học sinh làm trung tâm hay còn được gọi là dạy và học tích cực. Trong cách
dạy này, học sinh là chủ thể hoạt động, giáo viên là người thiết kế, tổ chức,
hướng dẫn, tạo nên sự tương tác tích cực giữa người dạy và người học.
Trong đề tài này, chúng tôi đã lần lượt chỉ ra một số phương pháp dạy học
nhằm “Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ đọc hiểu tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam” như: đọc sáng tạo, vấn đáp, thảo
luận nhóm, tái tạo, gợi mở, nêu và giải quyết vấn đề, bình giảng, sử dụng giáo
án điện tử.
Đề tài cũng đã được chúng tôi kiểm nghiệm qua thực tiễn giảng dạy. Kết
quả cho thấy, các em học sinh rất hứng thú khi học tác phẩm. Qua thực tế giảng
dạy và học tập, được sự giúp đỡ của các thầy cô, các bạn đồng nghiệp, bản thân
tôi đã tiếp thu được nhiều điều bổ ích, thiết thực cho quá trình giảng dạy và công
tác. Tôi mạnh dạn chọn đề tài này với mong muốn phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh khi học môn Ngữ văn nói chung. Qua thực nghiệm,
tôi thấy đề tài này đã có tác dụng tốt trong việc giảng dạy và học tập của thầy và
trò. Tôi sẽ cùng các đồng nghiệp áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào công

tác giảng dạy Ngữ văn khối 11 cho những năm tiếp theo nhằm nâng cao hiệu
quả và chất lượng dạy học.
3.2. Đề xuất
- Đối với nhà trường phổ thông:
+ Cần trang bị các thiết bị dạy học đầy đủ, chất lượng tốt và thuận tiện
trong việc tố chức các giờ dạy áp dụng công nghệ thông tin.
+ Thư viện nhà trường nên bổ sung nguồn tài liệu mới giới thiệu về cuộc
đời, sự nghiệp của các tác giả trong dòng văn học lãng mạn Việt Nam .
+ Các tài liệu văn học giới thiệu về các giai đoạn phát triển của văn học
nước nhà gắn với các giai đoạn lịch sử của dân tộc.
- Đối với Sở giáo dục:

18


+ Cần phổ biến các sáng kiến kinh nghiệm đã được xếp loại để giáo viên có
điều kiện học hỏi.
+ Cung cấp thêm các tư liệu về tác phẩm để giáo viên và học sinh có thể
tham khảo.

XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác
Người viết

Trương Thị Thanh


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các phương pháp dạy học hiệu quả (Nguyễn Hồng Vân dịch, Nhà xuất
bản giáo dục)
19


2. Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng Ngữ văn 11 (Phan Trọng Luận
chủ biên, Nhà xuất bản sư phạm 2010) .
3. Đa trí tuệ trong lớp học (Lê Quang Long dịch, Nhà xuất bản giáo dục
Việt Nam 2010)
4. Lí luận văn học: Tác phẩm và thể loại (Trần Đình Sử chủ biên, Nhà
xuất bản Đại hoạc sư phạm 2008)
5. Một số vấn đề dạy học giảng văn (Tài liệu tham khảo)( Nguyễn Đức
Ân, 1996, ĐHQG TP Hồ Chí Minh, Trường ĐHSP)
6. Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo loại thể) (Nguyễn
Viết Chữ, Nxb Đại học Sư phạm, H. 2004)
7. Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi, Nxb Giáo dục, 2004)
8. Sách giáo khoa Ngữ Văn 11, tập 1 (Phan Trọng Luận, Nhà xuất bản
giáo dục 2016)
9. Rèn tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn chương(Nguyễn
Trọng Hoàn, 2003, NXB Giáo dục)
10. Văn học Việt Nam(1900-1945) (Phan Cư Đệ, Nhà xuất bản Giáo dục
2009)

20




×