Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 33 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO QUẬN THANH XUÂN
................

MÃ SKKN



SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
XÂY DỰNG MỐI QUAN HỆ GẦN GŨI,
THÂN THIỆN GIỮA CÔ VÀ TRÒ

Lĩnh vực : Chủ nhiệm
Cấp

: Tiểu học

Năm học 2016 – 2017


PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO QUẬN THANH XUÂN
................

MÃ SKKN



SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
XÂY DỰNG MỐI QUAN HỆ GẦN GŨI,
THÂN THIỆN GIỮA CÔ VÀ TRÒ

Lĩnh vực : Chủ nhiệm


Cấp

: Tiểu học

Năm học 2016 –2017


MỤC LỤC
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................... 1
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ..................................................................................... 1
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ............................................................................ 2
III. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, PHẠM VI NGHIÊN CỨU ............................... 2
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ........................................................................... 2
V. ỨNG DỤNG..................................................................................................... 2
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ......................................................... 3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................... 3
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN ............................................................................................... 3
1.1.Những căn cứ khoa học. .................................................................................. 3
1.2 Cơ sở lí luận của đề tài. .................................................................................. 3
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN ........................................................................................ 4
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.................................... 5
I. Mục đích của việc nghiên cứu thực trạng: ......................................................... 5
II. Cách tiến hành nghiên cứu thực trạng .............................................................. 5
III. Kết quả khảo sát học tập của học sinh đầu năm học 2016 - 2017: ................. 5
CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN .................................................. 6
I. Tạo ấn tượng tốt đẹp trong học sinh ngay từ buổi đầu tiên gặp mặt. ................ 6
II. Tạo sự gần gũi, thân thiện với học sinh trong từng tiết học. ............................ 9
III. Gần gũi, thân thiện với học sinh trong các hoạt động khác của trường, lớp. 16
IV. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhằm gây hứng thú cho học sinh. . 17
1. Đổi mới phương pháp dạy học. .................................................................... 17

2. Tổ chức nhiều hình thức dạy học khác nhau ................................................ 17
3. Phát huy tối đa hiệu quả của đồ dùng dạy học............................................. 20
4. Tạo ra môi trường học tập công bằng, thân thiện, hứng thú cho học sinh. . 21
V. Kết hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh............................................................ 23
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ....................................... 28
1. Kết luận ......................................................... Error! Bookmark not defined.
2. Khuyến nghị .................................................. Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………..30


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong công cuộc đổi mới của xã hội hiện nay, một nền giáo dục tiến bộ
được coi là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Sinh thời Bác Hồ đã nói:
“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước
tới đài vinh quang để sánh vai cùng với cường quốc năm châu được hay không
chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”. Đúng vậy, tất cả những
điều đó đều bắt đầu từ giáo dục mà nên, mà khởi nguồn là giáo dục Tiểu học.
Trong bậc Tiểu học thì lớp Một là môi trường đầu tiên các em được làm
quen với trường Tiểu học. Đây là một việc rất mới lạ nên các em thường bỡ ngỡ
và lúng túng. Chính vì vậy giáo viên chủ nhiệm lớp Một là cầu nối rất quan
trọng giúp các em làm quen và nhanh chóng hòa nhập với môi trường học tập.
Giáo viên chủ nhiệm lớp Một luôn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc dạy dỗ và giáo dục học sinh. Ngoài việc truyền thụ kiến thức cho các
em chúng ta còn phải uốn nắn, rèn luyện cho các em từ lời ăn, tiếng nói và rèn
luyện kĩ năng hình thành nhân cách cho học sinh.
Đúng vậy, các cụ xưa đã có câu:
“Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài
Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc thôi.”

Mỗi viên ngọc muốn có một giá trị nhất định như chúng ta hằng mong
muốn thì cần phải có những người thợ khéo tay mài dũa mà nên. Học sinh lớp
Một ví như những viên ngọc thô nếu được giáo dục toàn diện thì sẽ trở thành
công dân có ích cho xã hội, góp phần không nhỏ trong công cuộc xây dựng đất
nước sau này. Đúng là: “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”.
Thực tế cho thấy việc định hướng, kích thích học sinh Tiểu học, đặc biệt
là học sinh lớp Một hăng say học tập là một điều vô cùng quan trọng.
Học sinh lớp Một được ví như tờ giấy trắng rất hồn nhiên trong quan hệ
với các bạn và mọi người xung quanh. Học sinh rất tin vào những điều được
học, được nghe hằng ngày thầy cô dạy bảo. Vậy làm thế nào để tạo dựng được
mối quan hệ thân thiện giữa cô và trò để từ đó lôi cuốn học sinh tham gia tích
cực vào việc học tập là điều mà tôi đã từng băn khoăn trăn trở bấy lâu nay. Cuối
cùng tôi cũng tìm ra được một giải pháp tốt nhất cho học sinh lớp tôi chủ nhiệm,
đó là: “Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.” Từ đó kích
thích học sinh hăng say học tập.

1/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu nội dung của đề tài nhằm giúp giáo viên chủ nhiệm lớp đặc
biệt là giáo viên chủ nhiệm lớp Một có điều kiện để xây dựng mối quan hệ thân
thiện giữa cô và trò từ đó góp phần kích thích học sinh hăng say học tập.
III. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, PHẠM VI NGHIÊN cøu
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối lớp Một.
- Thời gian tôi tiến hành nghiên cứu từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 4
năm 2017.
- Phạm vi nghiên cứu: Mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Để hoàn thành được đề tài này tôi cần làm tốt các nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu một số vấn đề lí luận cơ bản làm cơ sở khoa học của đề tài.
- Nghiên cứu thực trạng việc xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện
giữa cô và trò.Trên cơ sở đó phân tích thực trạng để tìm ra biện pháp đổi mới
việc xây dựng mối quan hệ này, kích thích học sinh hăng say học tập.
- Tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm xây dựng mối quan hệ gần gũi,
thân thiện giữa cô và tròđể các em tích cực học tập góp phần nâng cao chất
lượng dạy học và kết quả giáo dục toàn diện của nhà trường.
V. ỨNG DỤNG
Đối với học sinh lớp Một việc ứng dụng quan hệ gần gũi thân thiện giữa
cô và trò sẽ thu hút học sinh tích cực tham gia các hoạt động học tập, giúp các
con tự tin hơn khi tiếp thu các kiến thức, phát huy khả năng tư duy độc lập sáng
tạo một cách phong phú và đa dạng, tạo nguồn cảm hứng, sự say mê học tập của
học sinh lớp Một.

2/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I. C¬ së lÝ luËn.
1.1.Những căn cứ khoa học.
1.1.1 Luật giáo dục (ban hành năm 2005)
Chương 2, mục 2, điều 23 của luật giáo dục đã chỉ rõ mục tiêu của giáo
dục Tiểu học: “Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở
ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở.”
Chương 2, điều 3 có chỉ rõ hoạt động giáo dục phải thực hiện theo nguyên
lí học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí luận gắn với

thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội.
1.1.2 Điều lệ trường Tiểu học.
Trong điều lệ quy định hoạt động giáo dục trong nhà trường Tiểu học
được chia thành hai bộ phận: hoạt động giáo dục trên lớp và hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp. Mỗi bộ phận trên đều có chức năng là thực hiện mục
tiêu giáo dục.
1.1.3 Nhiệm vụ năm học của các trường Tiểu học.
Sở giáo dục và đào tạo Hà Nội có hướng dẫn: Mục tiêu giáo dục Tiểu học
được thực hiện thông qua việc tổ chức các hoạt động dạy học trong trường Tiểu
học. Hoạt động dạy học được thực hiện với hình thức lên lớp là hoạt động đặc
trưng, là hoạt động chủ yếu của nhà trường. Việc tổ chức các hoạt động tập thể
cho học sinh Tiểu học là rất cần thiết, nhằm hỗ trợ và bổ sung cho hoạt độngdạy
học chính khoá nhằm thay đổi không khí học tập, tạo nên hứng thú tích cực cho
các em.
1.2 Cơ sở lí luận của đề tài.
Đối với học sinh Tiểu học, tình cảm, sự gần gũi, thân thiện của cô giáo có
vị trí đặc biệt vì nó là khâu trọng yếu gắn liền với sự nhận thức của trẻ. Sự thân
thiện ấy không chỉ kích thích trẻ nhận thức mà còn thúc đẩy trẻ hoạt động, khám
phá, tự vươn lên trong học tập.
Học sinh lớp Một lần đầu tiên đến lớp nên rất e ngại khi tiếp xúc với cô,
với bạn mới. Có em còn khóc lóc, bám chặt lấy bố mẹ không chịu vào lớp. Có
em lại nhất định đòi bố mẹ phải vào ngồi cùng trong lớp. Đây cũng là lúc giáo
viên cần khéo léo tạo sự an tâm, tin tưởng cho các em để các em có thể tự tin
vào ngồi trong lớp học mà không còn lo sợ nữa. Sự gần gũi, ân cần, sự quan tâm
nhẹ nhàng, sự cởi mở chân tình của cô giáo ngay từ lần đầu tiên đến lớp sẽ tạo
nên những xúc cảm mạnh mẽ và để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn trẻ thơ
3/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.

của các em. Như vậy xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò
tức là chúng ta đã đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách cho
học sinh lớp Một nói chung và học sinh Tiểu học nói riêng.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Lứa tuổi học sinh Tiểu học đang trong thời kì phát triển, đây cũng là lúc
các em chuyển từ hoạt động chủ đạo chơi là chủ yếu (ở trường Mầm non) sang
hoạt động học là chủ yếu (ở trường Tiểu học). Các em thường rất dễ nhớ những
cũng rất dễ quên, mức tập trung chú ý còn thấp, vì vậy giáo viên cần tạo hứng
thú học tập và niềm tin cho trẻ để trẻ có thể yên tâm ngồi học mà không phải lo
sợ bất kì một việc gì cả.
Có một câu nói rằng: “Dù đã dắt ngựa đến bờ sông cũng không thể bắt nó
uống nước được”. Vấn đề học tập của trẻ cũng vậy. Dù có bắt được chúng ngồi
ngay ngắn trong lớp nhưng nếu không thích thú, trẻ không thể học tốt được.
Chính vì vậy ngoài việc truyền đạt kiến thức cho học sinh của người thầy, tôi
nghĩ rằng mình cần phải biết tạo niềm tin và gây hứng thú học tập cho học sinh
để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động. Học sinh tiếp thu kiến thức một cách
tự nhiên, không gượng ép. Đó là điều làm tôi phải suy nghĩ, trăn trở để tìm cách
gây dựng được mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò từ đó gây hứng
thú học tập cho học sinh.

4/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
I. MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG:
Khảo sát thực trạng việc xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện với
học sinh để từ đó kích thích tinh thần hăng say học tập cho các em nhằm mục
đích là:
- Xác định biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm lớp mà tôi được phân

công chủ nhiệm.
- Phân tích thực trạng để tìm hiểu và xác định nguyên nhân dẫn đến hạn
chế của việc giáo viên chưa thực sự gần gũi, thân thiện với học sinh và học sinh
cũng rất lo sợ khi phải nói chuyện với các thầy cô giáo. Đây chính là cơ sở khoa
học cần thiết để cải tiến, xây dựng những biện pháp đổi mới của đề tài nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạtđộng dạy học trong nhà trường.
Để nghiên cứu thực trạng đạt kết quả tốt, cần thực hiện nghiêm túc một số
yêu cầu: đảm bảo tính kế hoạch, có sự chuẩn bị chu đáo, có tính linh hoạt, mềm
dẻo, tính thực tiễn, tính khoa học, tính kế thừa, tính hệ thống…
II. CÁCH TIẾN HÀNH NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG
Tôi đã tiến hành phối kết hợp một số cách thức và biện pháp là:
- Dự giờ đồng nghiệp đặc biệt là các tiết dự thi của các đồng chí tham gia
hội thi Giáo viên chủ nhiệm giỏi.
- Tham khảo ý kiến của Ban giám hiệu về kế hoạch xây dựng công tác
chủ nhiệm lớp cho giáo viên.
- Trao đổi, trò chuyện với học sinh và cha mẹ học sinh về mối quan hệ
gần gũi giữa giáo viên và học sinh, thu thập thêm những thông tin cần thiết để
xây dựng đề tài.
III. KẾT QUẢ KHẢO SÁT HỌC TẬP CỦA HỌC SINH ĐẦU NĂM
2016 - 2017:
Kiến thức – Kĩ năng
HTT
HT
CHT
13HS 36HS
3HS

Năng lực
Tốt
Đạt

CCG
35HS
14HS
3HS

Phẩm chất
Tốt
Đạt
CCG
35HS 14HS
3HS

Việc nghiên cứu để xác định rõ thực trạng và tìm hiểu kĩ về biện pháp xây
dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa giáo viên và học sinh chính là cơ sở
để tôi suy nghĩ, mạnh dạn cải tiến và tìm ra các biện pháp xây dựng mối quan hệ
gần gũi, thân thiện giữa cô và trò để kích thích học sinh hăng say học tập đồng
thời góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động dạy học.
5/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
CHƯƠNG III:CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Như chúng ta đã biết học sinh lớp Một khi đến trường các em còn nhiều
bỡ ngỡ, lần đầu tiên được làm quen với nội quy trường lớp, với những môn học
và biết bao hoạt động khác mà ở trường Mầm non các em chưa từng được trải
qua. Vậy phải làm thế nào để giúp trẻ tập trung học tập, có ý thức rèn luyện để
trở thành con ngoan, trò giỏi.Người dìu dắt, giúp đỡ các em vượt qua những bỡ
ngỡ này, đó chính là cô giáo chủ nhiệm. Sau đây là những giải pháp tôi đã làm
để xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò để kích thích học
sinh hăng say học tập.

I. TẠO ẤN TƯỢNG TỐT ĐẸP TRONG HỌC SINH NGAY TỪ
BUỔI ĐẦU TIÊN GẶP MẶT.
Như chúng ta đã biết, trước khi vào năm học mới bao giờ giáo viên nói
chung và giáo viên lớp Một nói riêng cũng có một buổi nhận lớp, làm quen với
học sinh. Đây là lúc thích hợp nhất để tôi thể hiện sự thân thiện của mình với
học trò ngay từ buổi gặp mặt đầu tiên. Ngày hôm đó các em thường được cha
mẹ hoặc ông bà đưa đến lớp. Các em rất hào hứng cho buổi đầu tiên đến trường
này. Nhưng khi đến lớp gặp bạn mới, cô giáo mới thì các em lại rất e ngại và
không dám vào lớp một mình. Có em còn bám chặt lấy mẹ hay là bất ngờ khóc
rất to và kiên quyết đòi về nhà không chịu vào lớp. Là một giáo viên chủ nhiệm
có nhiều năm trực tiếp giảng dạy học sinh lớp Một nên tôi đã rất quan tâm đến
việc này và tôi đã cố gắng tạo sự an tâm, tin tưởng vào cô giáo cho các em để
các em bớt đi phần nào sự sợ hãi đó.
Đầu tiên tôi tươi cười, nhẹ nhàng giới thiệu cho các em biết đôi điều về
bản thân mình cũng như về trường, lớp mới nơi mà các em sẽ học tập trong năm
học này. Sau đó gọi những bạn nhanh nhẹn, hoạt bát tự giới thiệu về bản thân,
về trường Mầm non, về cô giáo cũ của con và hỏi xem con có vui khi được đi
học lớp Một không?
Tiếp đến tôi bắt đầu trò chuyện với học sinh để các em nói lên suy nghĩ
của mình. Tôi giới thiệu cho các em xem một vài hình ảnh về các hoạt động học
tập, vui chơi của các anh chị lớp trên.Một số hình ảnh như sau:

6/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.

Học sinh tham gia chơi kéo co

Học sinh chơi rồng rắn lên mây

7/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.

Lễ trao phần thưởng cho học sinh tiêu biểu

Học sinh tham gia thi Hội thi giai điệu tuổi hồng cấp trường
8/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
Tôi tin rằng với việc làm của mình các con sẽ cảm thấy vui thích khi đến
trường Tiểu học.Với học sinh quá nhút nhát thì buổi học đầu tiên tôi cho em đó
ngồi gần bạn cùng học ở trường Mầm non hay ngồi gần bạn cùng giới và nhanh
nhẹn hơn để giúp bạn nhanh chóng làm quen với trường lớp mới.
Từ đó làm giảm sự căng thẳng cho học sinh bằng cách cho các con vui hát
những bài hát mà con yêu thích. Việc làm này vô cùng cần thiết nó vừa động
viên khích lệ học sinh vừa tạo cho các con cảm giác yên tâm khi bước chân vào
học lớp Một.
II. TẠO SỰ GẦN GŨI, THÂN THIỆN VỚI HỌC SINH TRONG
TỪNG TIẾT HỌC.
Do đặc điểm tâm lí của học sinh Tiểu học là trí nhớ trực quan – hình
tượng được phát triển hơn trí nhớ từ ngữ - logic. Các em thường nhớ và giữ gìn
chính xác những sự vật hiện tượng cụ thể nhanh hơn và tốt hơn những định
nghĩa, những lời giải thích dài dòng. Học sinh lớp Một có khuynh hướng ghi
nhớ máy móc bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần một vấn đề nào đó, có khi chưa
hiểu hết những mối liên hệ, ý nghĩa của vấn đề đó. Chính vì vậy nhiệm vụ của
giáo viên là gây dựng cho học sinh tâm thế để ghi nhớ, hướng dẫn các em thủ
thuật ghi nhớ tài liệu học tập, kiến thức mà cô truyền đạt. Chỉ cho các em đâu là

điểm chính, điểm quan trọng của bài học, tránh cho học sinh ghi nhớ máy móc
hay chỉ là học vẹt.
Trong khi dạy kiến thức mới tôi luôn luôn động viên khích lệ học sinh tự
quan sát, nhận xét và tư duy để tìm ra kiến thức mới. Với câu hỏi tìm hiểu bài
mà cô đưa ra cho học sinh trả lời tôi luôn động viên học sinh: “Các con hãy
mạnh dạn lên nhé!”. Rồi hỏi học sinh ở dưới lớp: “Bạn nào muốn có câu trả
lời?”. Khi có học sinh nào đó trả lời đúng nhưng chưa đủ ý của câu hỏi thì tôi vỗ
về các con bằng câu nói: “Con trả lời tốt lắm, có ai muốn bổ sung gì cho bạn
không nhỉ?”. Còn nếu học sinh trả lời đúng, trọn ý của của câu hỏi thì tôi lập tức
khen luôn: “Đó là một câu trả lời xuất sắc, chúng mình cùng khen bạn nào.” Cứ
như vậy học sinh sẽ mạnh dạn giơ tay phát biểu ý kiến xây dựng bài, lớp học rất
sôi nổi và các em tíếp thu bài một cách nhẹ nhàng, thoải mái.
Khi gọi học sinh đọc bài cũng vậy, tôi luôn luôn yêu cầu các con đọc bài
to, rõ ràng. Cứ như thế tôi luôn vỗ về học sinh bằng những câu động viên, khích
lệ rằng con cứ yên tâm, những âm nào, tiếng nào, từ nào không nhớ, đọc sai thì
cô sẽ giúp con sửa sai,con đừng sợ. Vì vậy dần dần đã tạo cho học sinh thói
quen mạnh dạn, tự tin và đãđọc to, lưu loát ngay từ tiết học đầu tiên. Tuy nhiên
trong khi học sinh thực hành làm bài tập không thể tránh khỏi sai sót. Tuỳ vào

9/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
từng trường hợp sai của học sinh mà cô có hướng giải quyết khác nhau từ đó tạo
cho học sinh tâm lí thật thoải mái tự tin khi học bài.
Ví dụ 1: Chẳng hạn trong phần Học vần của môn Tiếng Việt, học
sinhđược học âm “b” từ bài 2. Lúc này các con đã biết đọc, viết, nhớ tên âm và
tên chữ cái của nó. Đến bài 14 các con lại được học âm mới là “d, đ”. Khi đó rất
nhiều em lúng túng không phân biệt được đâu là “b” và đâu là “d”.
Hay ở bài 3 con được học dấu thanh sắc “/” và ở bài 5 con được học dấu

thanh huyền “ \”, đến đây nhiều học sinh lại nhầm lần hai dấu này với nhau.
Còn ở bài 22 các con được học âm mới là “p, ph, nh”, đến bài 24 các con
lại được tiếp âm mới là “q, qu, gi” , lúc này các con lại lúng túng khi không
phân biệt được đâu là “q” đâu là “p”. Trước tình trạng đó tôi đã:
1. Tìm hiểu nguyên nhân.
Nguyên nhân của tình trạng học sinh có sự nhầm lẫn giữa chữ “p” với chữ
“q”; chữ “d” với chữ “b”; nhầm dấu thanh “ /” với dấu thanh “ \” … là do tri
giác của học sinh lớp một mang tính chất đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và mang
tính không chủ động, do đó các em phân biệt những đối tượng này chưa chính
xác, lúc nhớ, lúc quên.
2. Cách giải quyết
Trong từng tiết học cô giáo luôn tạo cho học sinh những định hướng mốc
tri giác. Chẳng hạn giúp học sinh phân biệt đâu là tay phải, đâu là tay trái, sau đó
phân tích cho các em thấy chữ “q” có nét sổ thẳng ở bên tay phải còn chữ “p” lại
có nét sổ thẳng ở bên trái (hai nét này đều là nét sổ thẳng được viết xuống dưới
đường kẻ ngang thứ nhất là hai ô li). Hay chữ “d” có nét sổ thẳng ở bên phải còn
chữ “b” lại có nét sổ thẳng ở bên trái (hai nét này đều là nét sổ thẳng được viết
từ đường kẻ ngang số bốn xuống dưới đường kẻ ngang thứ nhất). Tương tự như
vậy, dấu thanh “ /” được viết giống nét xiên phải còn dấu thanh “ \” lại được viết
giống nét xiên trái.Để giúp học sinh ghi nhớ một cách dễ dàng, giáo viên có thể
nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho các em ghi nhớ. Nếu trong quá trình dạy có em
nào quên thì cô giáo lại nêu lại qui ước đơn giản đó để giúp các em tự phát hiện
và nhớ ra tên của các chữ cái đó.
Với học sinh tiếp thu chậm, thường xuyên nhầm lẫn giữa hai chữ cái
này với nhau, ngay cả khi tôi đã nhắc lại quy ước đó mà em vẫn không nhớ
ra thì có thể gọi bạn khác nhắc bạn rồi yêu cầu em học sinh đó đọc lại. Lần
sau khi gọi học sinh đọc bài mà bạn đó đọc đúng tên chữ cái thì giáo viên
tuyên dương ngay trước lớp để động viên khích lệ học sinh. Tôi cảm thấy
em đó rất vui khi mình được cả lớp vỗ tay cổ vũ, như vậy lần sau emđó sẽ


10/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
cố gắng vươn lên trong học tập để theo kịp các bạn trong lớp và nhận được
nhiều tràng vỗ tay của các bạn hơn.
Ví dụ 2: Học sinh lớp Một thường hay mắc lỗi chính tả, ngay cả khi cô
giáo đọc lại cho cả lớp soát lỗi mà vẫn không phát hiện ra. Hay làm sai một phép
tính nào đấy, cho dù cô nhắc là con kiểm tra lại bài đi mà vẫn không phát hiện ra
mình làm sai phép tính nào cả.Đây là chuyện thường gặp khi trực tiếp giảng dạy
học sinh lớp Một học toán. Tôi đã tìm cách khắc phục tình trạng này như sau:
1. Tìm hiểu nguyên nhân:
Đánh giá kết quả hoạt động học tập của bản thân là một việc làm rất mới
với học sinh lớp Một. Nó chưa thể trở thành kĩ năng cho các em được vì khả
năng tập trung chú ý vừa nghe, vừa nhìn, vừa viết bài còn rất kém. Khả năng ghi
nhớ các quy tắc ngữ pháp còn nhiều hạn chế, nó rất cần sự rèn luyện thông qua
các hoạt động học tập dưới sự tác động sư phạm của cô giáo.
Trong khi tính toán cũng vậy, nếu lần đầu tiên con đã tính ra kết quả thì
lần sau con cũng sẽ dễ dàng tính sai kết quả.
2. Cách giải quyết.
Với những bài học sinh viết sai chính tả, tôi viết lại từ đúng lên bảng và
cho học sinh đối chiếu từ của cô với từ con viết trong vở. So sánh như vậy các
em sẽ dễ dàng nhận ra lỗi sai của mình. Bằng kinh nghiệm giảng dạy của bản
thân để tránh trường hợp học sinh viết sai nhiều tôi hướng dẫn cho các con viết
vào bảng trước. Đến lúc viết vào vở, tôi nhắc học sinh nhẩm đọc lại từ và tự nhớ
lại quy tắc chính tả trước khi viết.
Trong quá trình dạy học sinh tôi hình thành cho các con thói quen sau khi
viết xong một chữ là con sẽ nhẩm lại xem mình viết đúng chưa, có đủ dấu thanh
chưa, nếu thiếu thì phải bổ sung ngay lập tức. Như vậy các em sẽ ít sai lỗi chính
tả hơn. Một việc làm rất quan trọng giúp học sinh phát hiện ra lỗi sai của mìnhlà

tôi cho các con đổi chéo vở để tự kiểm tra bài của nhau.
Trong môn Toán cũng vậy, ngoài việc hình thành cho các con kĩ năng tự
kiểm tra bài của mình, tôi cũng tổ chức cho đổi chéo kiểm tra như môn Tiếng
Việt. Việc làm đó cũng giúp học sinh dễ dàng phát hiện và sửa lỗi sai của bản
thân. Cũng có thể giúp học sinh sửa sai bằng cách cô chỉ vào phép tính sai, bài
toán sai và nhắc nhẹ nhàng “Con kiểm tra lại phép tính này đi!”. Khi đó học sinh
sẽ tự tính toán lại và nhận ra ngay sai sót của mình. Cần lưu ý là thấy học sinh
làm bài sai tránh quát mắng ầm ĩ làm cho các em hoảng sợ sẽ mất tập trung và
không thể học được. Khi học sinh làm sai, tôi thường chỉ cho các em thấy mình
sai ở đâu và sửa sai như thế nào. Từ đó, học sinh vừa yên tâm vì khi làm sai
không bị cô mắng lại còn biết cách sửa sai kịp thời. Vì vậy các con hoàn toàn tự
11/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
tin trong học tập và thế là tôi đã thành công trong việc dạy dỗ và giáo dục học
sinh của mình.
Với thái độ ân cần nhẹ nhàng của cô, học sinh sẽ cảm thấy rất thoải mái,
tự tin trong học tập, không phải lo ngại mình làm sai sẽ bị cô giáo mắng phạt gì
cả.Không chỉ trong môn Toán và Tiếng Việt mà trong những môn học khác tôi
cũng từng bước giảm bớt áp lực trong học tập bằng cách đưa vào cuối mỗi tiết
học các trò chơi nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức đã học cho học sinh. Chẳng
hạn như trong môn Tự nhiên và Xã hội, sau khi học bài cây hoa, tôi cho học sinh
tham gia vào trò chơi đoán tên các loài hoa như sau:
- Cách 1: Đưa hình ảnh một số loài hoa cho học sinh nêu tên loài hoa đó.

Đáp án:
Hoa Hướng Dương

Đáp án:

Hoa Hồng

12/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.

Đáp án:
Hoa Sen

Đáp án:
Hoa Cúc trắng

Đáp án:
Hoa Đào

13/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
- Cách 2: Đưa một số câu thơ nói về loài hoa và yêu cầu học sinh nói tên hoa:

Câu thơ
Hoa gì tươi thắm sắc vàng
Cánh dài thường nở muộn màng vào thu?

Hoa cúc

Câu thơ
Hoa màu nhung đỏ

Cánh tròn xinh xinh
Gió thổi rung rinh
Hương thơm ngan ngát?

Hoa hồng nhung

Câu thơ
Tên mua được nhiều thứ
Mà lại là loài hoa
Nép trong đám cỏ loà xoà
Cuống dài không lá, hoa mà chẳng thơm?

Hoa đồng tiền

14/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.

Câu thơ
Hoa đào ngoài Bắc
Hoa gì trong Nam
Cánh nhỏ màu vàng
Cùng vui đón Tết?
Hoa mai
Sau khi học sinh nêu được tên hoa tôi cho các con so sánh với đáp án của
cô xem có đúng hay không. Làm như vậy các con vừa hào hứng tham gia vào trò
chơi vừa củng cố được nội dung của tiết học.
Thêm vào đó để tạo sự hứng thú cho việc học tập tôi còn đưa các con ra
thăm vườn hoa của trường:


Học sinh thăm vườn hoa của trường
15/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
III. GẦN GŨI, THÂN THIỆN VỚI HỌC SINH TRONG CÁC HOẠT
ĐỘNG KHÁC CỦA TRƯỜNG, LỚP.
Ngoài việc tham gia vào các hoạt động học tập trên lớp, học sinh còn
được tham gia vào rất nhiều các hoạt động khác như: sinh hoạt tập thể, đọc
truyện ở thư viện, múa hát tập thể, tham quan dã ngoại… Đây là lúc giáo viên
hoà mình với các con, cùng các con vui chơi khám phá những điều kì lạ ở thế
giới xung quanh.
Trong các tiết hoạt động tập thể cũng vậy, học sinh được tham gia vào rất
nhiều các hoạt động khác nhau như: văn nghệ theo chủ đề (hát, múa, đọc thơ, kể
chuyện…); chơi các trò chơi dân gian; vẽ tranh theo chủ đề; học về Quyền và
bổn phận của trẻ em; phòng tránh tai nạn thương tích và cùng các em tham gia
Hội chợ quê.

Tổ chức cho các em tham gia Hội Chợ Quê
Ngoài ra, tham quan dã ngoại là một hoạt động thu hút được rất nhiều học
sinh tham gia. Đây là cơ hội lớn để bổ sung kĩ năng sống, hiểu biết cho học sinh
và cũng là cơ hội để giáo viên thể hiện sự gần gũi, thân thiện của mình.

16/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.

Học sinh tham gia hoạt động ngoại khóa

IV.TÍCH CỰC ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NHẰM GÂY
HỨNG THÚ CHO HỌC SINH.
4.1 Đổi mới phương pháp dạy học.
Trên thực tế chúng ta thấy không có một phương pháp dạy học nào là tối
ưu. Bên cạnh những phương pháp dạy học hiện đại: thảo luận, động não, đóng
vai… Người thầy cần phát huy những phương pháp dạy học truyền thống: quan
sát, hỏi đáp, thực hành, thí nghiệm, thuyết minh… trong một tiết học nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Phải nhận thức được việc “dạy học có hiệu quả” có nghĩa là dạy học
không chạy theo thành tích, mà phải dạy cho học sinh lĩnh hội kiến thức một
cách hiệu quả nhất. Dạy theo cách tiếp cận dần với việc phân hóa đối tượng
học sinh.
4.2 Tổ chức nhiều hình thức dạy học khác nhau
* Hình thức 1: Tăng cường hoạt động nhóm trong các môn học.
Tổ chức nhiều hình thức học tập như cá nhân, lớp, nhóm đôi, nhóm lớn.
Tùy theo từng mục tiêu cần đạt, từng đặc trưng của môn học mà giáo viên lựa
chọn, phối hợp một cách hợp lí các hình thức học tập với nhau.
17/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
Cho học sinh luyện đọc theo nhóm đôi trong tiết Tập đọc vừa có tác
dụng giúp học sinh được đọc nhiều hơn, vừa giúp cho các em dễ dàng phát hiện
ra lỗi sai của bạn để từ đó giúp bạn sửa sai.
Ví dụ: Khi dạy bài “Mưu chú Sẻ” tôi đã cho học sinh luyện đọc theo
nhóm như sau:
- Chia bài tập đọc thành hai đoạn: đoạn 1 từ đầu đến rửa mặt; đoạn 2 là
phần còn lại.
- Cho học sinh luyện đọc theo nhóm đôi (hai em trong cùng một bàn tạo
thành một nhóm, một em đọc đoạn 1, một em đọc đoạn 2 và ngược lại).

- Học sinh đọc xong trong nhóm thì tôi gọi các em đọc trước lớp. Sau
mỗi nhóm đọc tôi luôn mời các bạn nhận xét và cho ý kiến về bài đọc của hai
bạn trong nhóm. Tôi cũng hướng dẫn học sinh nhận xét cụ thể bạn nào đọc tốt,
bạn nào đọc còn có điểm gì cần khắc phục để giúp nhau cùng đọc tốt hơn.
Ngoài việc cho học sinh đọc theo nhóm đôi như trên tôi còn cho các con
tập làm quen với cách đọc hỏi đáp theo nội dung bài học.Việc làm này vừa giúp
học sinh luyện đọc được nhiều hơn vừa giúp các em hiểu thêm về nội dung của
bài học mà lại tạo cho các em nguồn hứng thú mới khi tham gia luyện đọc.
Ví dụ: Khi dạy bài tập “Kể cho bé nghe”, sau khi hướng dẫn học sinh tìm
hiểu bài xong tôi cho các em luyện đọc đối đáp như sau:
- Hai em trong một bàn tạo thành một nhóm.
- Em A đọc dòng thứ nhất: Hay nói ầm ĩ
- Em B đọc dòng thứ hai: Là con vịt bầu.
- Em A đọc dòng thứ ba: Hay hỏi đâu đâu
- Em B đọc dòng thứ tư: Là con chó vện…
Cứ như vậy lần lượt đến hết bài. Tôi thấy hầu hết học sinh đều rất hứng
thú khi tham gia vào hoạt động đọc theo nhóm này. Các con thích thú khi tham
gia luyện đọc cùng đồng nghĩa với việc kĩ năng đọc của học sinh ngày được
nâng cao và như vậy tôi đã thành công trong việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh.
Tăng cường tổ chức cho học sinh làm việc nhóm (nhóm 2, 3, nói
chuyện tay đôi, nói chuyện tay ba …) để học sinh có cơ hội trao đổi bàn bạc.
Tuy nhiên, không phải lúc nào học tập nhóm cũng là tốt. Chúng ta chỉ nên cho
học sinh làm việc nhóm khi câu hỏi đặt ra khá rộng, khó, cần sự góp ý của nhiều
người thì làm việc nhóm mới thật cần thiết và đạt hiệu quả.
Ví dụ: Dạy bài “Con gà” trong môn Tự nhiên và Xã hội: giáo viên có thể tổ
chức cho học sinh thảo luận nhóm đôi để tìm ra các bộ phận chính của con gà. Lúc
này các em sẽ quan sát tranh và tự do kể tên những bộ phận chính của con gà. Như
vậy học sinh sẽ tự mình phần nào lĩnh hội được kiến thức của tiết học.
18/29



Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
Ví dụ : Sau khi dạy bài “Phép trừ trong phạm vi 4” tôi cho học sinh chơi
trò chơi “Tìm bạn” như sau:
- Gọi sáu em học sinh lên bảng, ba em cầm các tấm thẻ mang số 1; 2; 3,
ba em còn lại sẽ lấy tấm thẻ ghi các phép tính:

4- 1

4-3

4- 2

Khi có hiệu lệnh của cô thì những em cầm tấm thẻ ghi phép tính
phải tự tìm đến với các bạn cầm tấm thẻ ghi số (là kết quả của phép tính mình
đang cầm) để tạo thành một nhóm đôi. Chẳng hạn bạn cầm tấm thẻ có phép tính
“4 – 1” thì phải tìm đến bạn cầm tấm thẻ mang số “3” để tạo thành một nhóm.
Bạn nào tìm đúng và nhanh nhất là thắng cuộc. Ai không tìm được bạn cùng
nhóm là bị thua, phải nhảy lò cò một vòng quanh lớp.
* Hình thức 2: Tổ chức các hoạt động phân vai, sắm vai trong tiết học.
Mỗi môn học có đặc trưng khác nhau nhưng nó lại luôn liên quan chặt chẽ
với nhau. Thấy được điều đó, ngay từ đầu năm học tôi đã đặc biệt lưu tâm đến
việc rèn kĩ năng nghe, nói cho học sinh ở tất cả các môn học.
Trong Phân môn Tập đọc của môn Tiếng Việt cũng không ngoại lệ. Ở
những tiết học này, ngoài việc rèn cho học sinh kĩ năng đọc to, rõ ràng, rành
mạch tôi còn cho học sinh luyện đọc phân vai (với các bài có lời thoại) nhằm
thay đổi không khí của tiết học và tăng thêm hứng thú học tập cho học sinh.
Chẳng hạn như khi dạy bài tập đọc “Mời vào” tôi đã hướng dẫn các em đọc
phân vai như sau:
- Một em đóng vai chủ nhà.

- Một em đóng vai các nhân vật đến gõ cửa ngôi nhà (Thỏ, Nai, Gió).
- Tiến hành luyện đọc:
Nhân vật: Cốc, cốc, cốc!
Chủ nhà: Ai gọi đó?
Nhân vật: Tôi là Thỏ.
Chủ nhà: Nếu là Thỏ
Cho xem tai.
Hay trong bài tập đọc “Vì bây giờ mẹ mới về” tôi cho học sinh luyện đọc
sắm vai theo các nhân vật như sau:
* Phân vai cho học sinh hoặc cho học sinh xung phong nhận vai:
- Người dẫn chuyện.
- Người mẹ
- Cậu con trai

19/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
* Tiến hành đọc:
Người dẫn chuyện: Đọc từ đầu đến hoảng hốt
Người mẹ: Con làm sao thế?
Cậu con trai:Con bị đứt tay.
Người mẹ: Đứt khi nào thế?
Cậu con trai:Lúc nãy ạ!
Người mẹ: Sao đến bây giờ con mới khóc?
Cậu con trai: Vì bây giờ mẹ mới về.
Hình thức luyện đọc này thường được tiến hành sau phần tìm hiểu bài.
Bởi lúc này các em đã nắm được nội dung bài tập đọc nên sẽ dễ dàng đọc đúng
ngữ điệu, phù hợp với nhân vật mà mình đang đọc sắm vai.
4.3 Phát huy tối đa hiệu quả của đồ dùng dạy học.

Bên cạnh những lời giảng giải của giáo viên thì đồ dùng trực quan cũng là
một phương tiện hỗ trợ hiệu quả giúp học sinh dễ tiếp thu kiến thức.Lúc này tôi
thường sử dụng những đồ dùng trực quan như tranh ảnh, video, clip ...để giúp
học sinh dễ dàng cảm nhận được điều cô muốn truyền tải. Vì vậy đi đâu gặp bất
cứ hình ảnh, cảnh đẹp nào có thể làm tư liệu dạy học tôi đều chụp lại hoặc quay
video mang về để làm kho tư liệu dùng chung..
Ví dụ: Khi dạy học vần bài 34: ui – ưi học sinh được học từ mới là: “Đồi
núi” mà đối tượng học sinh của tôi là thành phố, có nhiều em chưa bao giờ tận
mắt nhìn thấy đồi núi. Nên khi dạy tôi đã vừa giải thích vừa chỉ vào tranh cho
các em thấy đâu là đồi, đâu là núi. Tôi nghĩ làm như vậy học sinh sẽ dễ dàng
hình dung ra và nhận biết về đồi và núi.

20/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
Ngoài việc sử dụng có hiệu quả bộ tranh được trang bị tôi luôn học hỏi,
tìm tòi để đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy nhằm thay đổi
không khí lớp học và thu hút sự tập trung chú ý của học sinh.
Ví dụ: Dạy học vần bài 38: ao- eo
Ở phần luyện đọc câu, đoạn thơ ứng dụng, học sinh được luyện đọc đoạn thơ:
Suối chảy rì rào
Gió reo lao xao
Bé ngồi thổi sáo
Nếu trong khi dạy mà cô chỉ dùng lời để giải thích về nội dung, ý nghĩa
của đoạn thơ này thì hầu hết các em chưa cảm nhận được. Còn khi cô cho học
sinh xem tranh như trong sách giáo khoa và lại còn lồng âm thanh tiếng suối
chảy, tiếng sáo thì học sinh sẽ dễ dàng cảm nhận được hết nội dung mà đoạn thơ
muốn truyền tải.


Tranh môn học vần bài 38 : eo – ao
4.4 Tạo ra môi trường học tập công bằng, thân thiện, hứng thú
cho học sinh.
Học sinh lớp một còn rất nhỏ nên rất thích được cô khen. Cô thường
xuyên khen để trẻ tự tin khi phát biểu ý kiến xây dựng bài, thamgia thảo luận
hay trình bày quan điểm của mình về một vấn đề gì đó. Tránh chê bai hay dùng
những câu nói thiếu tế nhị ( như “Con nói sai rồi”; “Có thế mà cũng không
biết”…) khiến trẻ sợ hãi, căng thẳng dẫn đến chán học và không nói điều gì
trong lớp vì sợ sai cô lại mắng. Trái lại trong khi học sinh đọc bài hoặc phát biểu
ý kiến xây dựng bài, tôi luôn luôn động viên các em bằng những lời lẽ rất gần
gũi như:
21/29


Xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò.
- Con cứ nói (đọc) to lên cho cả lớp cùng nghe không sợ sai, nếu sai cô sẽ
giúp con.
- Con nói gần đúng rồi đấy, có bạn nào muốn bổ sung gì cho bạn không?
(khi học sinh lời chưa đầy đủ).
- Con nói hơi nhầm một tí thôi (nếu là khi học sinh trả lời sai)…
Để giảm bớt áp lực cho học sinh, trong quá trình giảng dạy tôi chỉ chấm bài
đúng, sai cho học sinh và nhận xét cụ thể những mặt mạnh cần phát huy cũng như
động viên những em cần cố gắng hơn trong học tập với lời nhận xét như:
- Con làm bài tốt, cần phát huy.
- Con làm bài khá tốt, nếu viết cẩn thận hơn thì bài viết sẽ đẹp hơn nhiều.
- Con có tiến bộ rất nhiều song cần cẩn thận hơn nhé.
- Nếu sửa được nét khuyết thì chữ của con sẽ đẹp lên rất nhiều.
- Nếu con tính toán cẩn thận thì bài làm của con tốt hơn rất nhiều. …
Giáo viên cũng có thể gây hứng thú học tập ngay từ thời điểm bắt đầu tiết
học nhằm kích thích sự tò mò của học sinh.

Ví dụ:Khi dạy bài “Con mèo” môn Tự nhiên và Xã hội.
- Phần khởi động: tôi cho học sinh hát bài “Rửa mặt như mèo”
- Tiếp đó tôi tổ chức cho học sinh thi bắt chước tiếng kêu của mèo.
- Sau đó tôi giới thiệu bài như sau: Để biết mèo có những bộ phận chính
nào? Người ta nuôi mèo để làm gì? Hôm nay chúng ta cùng tìm hiều qua bài
“Con mèo”. Làm như vậy học sinh sẽ cảm thấy rất thoải mái khi bước vào tiết
học mới và sẵn sàng lĩnh hội kiến thức mà cô giáo truyền đạt.
Một việc làm thiết thực nữa để tạo hứng thú học tập cho học sinh là tạo
không gian lớp học tích cực, sạch sẽ, thoáng mát, sạch đẹp. Để tạo ra môi trường
học tập công bằng, thân thiện, hứng thú cho học sinh bằng cách thay đổi không
gian học tập. Có thể có những việc làm cụ thể như:
+ Xếp lại bàn ghế theo hình chữ U trong khi học các tiết hoạt động tập thể
hay tiết sinh hoạt lớp.
+ Kết hợp hài hòa giữa kiến thức trong sách và quan sát thực tế cho học
sinh. Chẳng hạn như dạy bài “Gió” trong môn Tự nhiên và Xã hội, tôi cho học
sinh chuẩn bị chong chong từ hôm trước, đến tiết học cho học sinh cầm chong
chóng thực hành xem chong chóng của ai quay nhanh hơn.
Với việc tích cực đổi mới phương pháp dạy học, linh hoạt thay đổi các
hình thức học tập trong lớp như trên, tôi nhận thấy học sinh lớp tôi rất thoải mái,
tự tin trong học tập. Các em lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, không khí
lớp học rất sôi nổi. Mỗi khi tôi đưa ra một câu hỏi nào đó thì các em rất mạnh

22/29


×