Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Luận văn thạc sỹ - Các biện pháp chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.49 KB, 91 trang )

THÂN VĂN MẠNH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

CÁC BIỆN PHÁP CHẾ TÀI
ĐỐI VỚI HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
THÂN VĂN MẠNH

2016 - 2018

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CÁC BIỆN PHÁP CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI HẠN CHẾ
CẠNH TRANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
THÂN VĂN MẠNH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐẶNG VŨ HUÂN


HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ này là công trình nghiên cứu khoa học
độc lập của tôi. Các số liệu khoa học, kết quả nghiên cứu của Luận văn là trung thực
và có nguồn gốc rõ ràng.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2018

Thân Văn Mạnh


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được thực hiện tại trường Đại học Mở Hà Nội. Để hoàn thành
chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ
và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trong trường cùng một số cá nhân, đoàn thể
khác.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy giáo - Tiến sỹ Đặng Vũ
Huân đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện luận văn của mình.
Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo, những người đã

đem lại cho tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong những năm học vừa
qua.
Cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa đào tạo Sau
đại học, Viện Đại học Mở Hà Nội, đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập
hoàn thành khóa học.
Qua đây, tôi muốn gửi lời cảm ơn đến lãnh đạo của cơ quan đã tạo điều kiện
hết sức giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã luôn
bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu
của mình.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2018

Thân Văn Mạnh


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HẠN CHẾ CẠNH
TRANH VÀ CHẾ TÀI XỬ LÝ HẠN CHẾ CẠNH TRANH

6


1.1. Khái niệm và nội dung chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh....................................6
1.1.1. Khái niệm chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh

6

a) Khái niệm 6
b) Những đặc trưng cơ bản 7
1.1.2. Sự cần thiết áp dụng chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh8
a) Ảnh hưởng của các hành vi hạn chế cạnh tranh đối với phát triển nền kinh tế

8

b) Yêu cầu bảo vệ cấu trúc thị trường và môi trường cạnh tranh lành mạnh, công
bằng trong kinh doanh

9

1.1.3. Các hình thức chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh
a) Chế tài hành chính
b) Chế tài hình sự

12

c) Chế tài dân sự

13

10

10


d) Mối quan hệ giữa các hình thức chế tài

14

1.2. Kinh nghiệm pháp luật các nước về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh..............14
1.2.1. Kinh nghiệm các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU) 14
1.2.2. Kinh nghiệm của Canada và Mỹ

18

1.2.3. Kinh nghiệm của một số nước Châu Á
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

20

22

CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI
XỬ LÝ HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM

23

2.1. Thực trạng pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam..............23
2.1.1. Khái quát về các biện pháp chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam
23


a) Chế tài hành chính
b) Chế tài dân sự


28

c) Chế tài hình sự

29

24

2.1.2. Thẩm quyền, trình tự và thủ tục xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam
31
a) Thẩm quyền áp dụng chế tài đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh
b) Trình tự áp dụng chế tài đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh

32

33

2.2. Thực trạng áp dụng các biện pháp chế tài đối với các hành vi hạn chế cạnh
tranh ở Việt Nam.....................................................................................................37
2.2.1. Điều tra, xử lý vụ việc vi phạm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 37
2.2.2. Điều tra, xử lý hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền
38
2.2.3. Điều tra, xử lý hành vi tập trung kinh tế

40

2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về chế tài xử lý hạn chế
cạnh tranh ở Việt Nam.............................................................................................41
2.3.1. Đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về chế tài xử lý hạn chế cạnh

tranh của Luật Cạnh tranh 2004 so với Luật Cạnh tranh 2018

42

2.3.2. Đánh giá thực tiễn xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh 44
a) Hạn chế về nguồn nhân lực

44

b) Khó khăn trong việc thu thập thông tin45
c) Vấn đề độc quyền hành chính 45
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

47

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
CHẾ TÀI XỬ LÝ HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM

48

3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam......48
3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh Việt Nam.....49


3.2.1. Xu hướng pháp luật và việc sử dụng các chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh
tranh của các nước trên thế giới

49

3.2.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về chế tài hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam

50
a) Xây dựng hệ thống chế tài đầy đủ, đồng bộ và thống nhất 51
b) Các chế tài phải đủ sức răn đe, ngăn chặn các hành vi vi phạm hạn chế cạnh tranh
51
c) Đảm bảo sự phù hợp của quy định về chế tài với thực tiễn xử lý

52

d) Hoàn thiện chế tài hạn chế cạnh tranh cần phải đặt trong bối cảnh hội nhập quốc tế
52
3.3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam....53
3.3.1. Các giải pháp pháp lý

53

a) Hoàn thiện các quy định về chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh
b) Hoàn thiện trình tự, thủ tục xử lý các vụ vệc hạn chế cạnh tranh

54

61

c) Tăng cường năng lực của cơ quan có thẩm quyền xử lý các hành vi hạn chế
cạnh tranh

65

3.3.2. Các giải pháp bổ trợ khác

68


a) Tăng cường tính kiểm soát của nhà nước trong các hoạt động kinh tế

68

b) Nâng cao nhân lực trong xử lý vi phạm hạn chế cạnh tranh 70
c) Tuyên truyền, giáo dục pháp luật và đạo đức kinh doanh cho doanh nghiệp
71
d) Hợp tác quốc tế để đào tạo chuyên gia pháp lý, xây dựng pháp luật và xử lý vi
phạm hạn chế cạnh tranh

73

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

74

KẾT LUẬN 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

76


PHẦN MỞ ĐẦU

1


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, thì cạnh tranh luôn là một

điều kiện và là yếu tố kích thích sản xuất kinh doanh, là môi trường và động lực thúc
đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động và tạo đà cho sự phát triển của xã
hội. Tuy nhiên, nếu để tồn tại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, các thủ đoạn
nhằm kìm hãm quá trình cạnh tranh sẽ đưa lại những hệ quả không mong muốn về
mặt kinh tế và xã hội, thị trường bị bóp méo, thay đổi cấu trúc xã hội về sở hữu của
cải, phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo. Do đó, yêu cầu kiểm soát và điều chỉnh đối với
quá trình cạnh tranh là một nhiệm vụ cần thiết đặt ra cho các thiết chế quản lý nền
kinh tế thị trường. Những thủ đoạn cạnh tranh tiêu cực trên thị trường rất đa dạng,
trong đó, các hành vi hạn chế cạnh tranh có ảnh hưởng lớn tới môi trường kinh
doanh và cấu trúc thị trường. Nếu như các hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây
thiệt hại trực tiếp cho các đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng xã hội, thì các hành
vi hạn chế cạnh tranh còn gây thiệt hại và ảnh hưởng đến một ngành hay lĩnh vực
kinh tế, phá vỡ cấu trúc thị trường. Bởi vậy, nếu không được điều tiết, kiểm soát một
cách thỏa đáng và phù hợp, thì các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, thống lĩnh
thị trường, tập trung kinh tế sẽ loại trừ khả năng cạnh tranh của các đối thủ tiềm
năng, kéo theo đó là sự trì trệ, thậm chí thụt lùi của nền kinh tế. Cho nên, pháp luật
các nước trên thế giới đều chú trọng xây dựng pháp luật để điều chỉnh vấn đề này
với những chế tài rất nghiêm khắc.
Hiểu được vai trò của việc xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh
trong phát triển kinh tế xã hội nói chung, năm 2004, Việt Nam đã ban hành Luật
Cạnh tranh, trong đó có các quy định nhằm điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh
tranh và đặt ra chế tài để xử vi phạm để răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên,
thực tiễn áp dụng đã cho thấy, chế tài đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh chưa đủ
mạnh, thủ tục xử lý chưa phù hợp, các chế tài được quy định rải rác trong nhiều văn
bản luật và các bất cập khác đã gây khó khăn cho việc tổ chức thực thi pháp luật trên
thực tế. Trong khi đó, sự tồn tại với vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp nhà nước,
sự gia tăng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với tiềm lực tài chính

2



mạnh mẽ, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế, các thủ đoạn nhằm hạn chế cạnh tranh ở nước ta vốn đã phức tạp lại
ngày càng tinh vi hơn, đã gây nhiều tổn hại đến quyền và lợi ích của các doanh
nghiệp, người tiêu dùng cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Từ những phân tích ở trên, việc hoàn thiện pháp luật cạnh tranh nói chung
và hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của các chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh nói
riêng đang là những yêu cầu rất cấp thiết. Với ý nghĩa như vậy, nên tôi đã mạnh
dạn lựa chọn đề tài “Các biện pháp chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh
theo pháp luật Việt Nam” để nghiên cứu và làm Luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tổng quan nghiên cứu đề tài
Trên thế giới, hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều rất
quan tâm đến việc kiểm soát và điều tiết cạnh tranh bằng pháp luật nhằm chống lại
những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hành vi hạn chế cạnh tranh, tạo ra môi
trường kinh doanh công bằng, bình đẳng. Các nước như Mỹ, Cộng hòa Liên bang
Đức, các nước thuộc Liên minh châu Âu, Nhật Bản… đã có những công trình
nghiên cứu sâu sắc, cũng như các án lệ liên quan đến xử lý các hành vi hạn chế cạnh
tranh.
Ở Việt Nam, trong quá trình nghiên cứu để xây dựng và hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã có rất nhiều các nghiên cứu về
các hành vi hạn chế cạnh tranh như: "Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh
theo pháp luật Việt Nam" của ThS. Hồ Thị Duyên; "Thỏa thuận ấn định giá nhằm
hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam" của ThS. Mai Duy Phước; "Về thoả thuận hạn chế
cạnh tranh" của tác giả Trần Thị Nguyệt, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
1(237)/2008; "Kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện nay" của ThS. Nguyễn Thị Bảo
Nga; "Pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trường ở Việt Nam" của
ThS. Nguyễn Ngọc Quý; "Kiểm soát tập trung kinh tế theo quy định của pháp luật
Việt Nam" của ThS. Phạm Thị Ngoan… Ngoài ra, còn nhiều bài viết, bài báo liên


3


quan đến pháp luật cạnh tranh nói chung và những phản ánh về thực tế hạn chế cạnh
tranh ở Việt Nam nói riêng.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên đây chủ yếu tập trung vào phân tích, làm rõ
các vấn đề pháp lý đối với từng nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh, còn các vấn đề về
chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh, thì chưa có nghiên cứu khoa học chuyên sâu
nào đề cập nghiên cứu, bên cạnh đó, thực tiễn áp dụng pháp luật các chế tài này ở
Việt Nam cũng chưa nhiều. Bởi vậy, nếu nghiên cứu và bảo vệ thành công, có thể
xem đây là công trình chuyên khảo đầu tiên ở cấp độ Luận văn Thạc sĩ luật học về
đề tài "Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam".
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là làm rõ các vấn đề lý luận pháp luật về
hành vi hạn chế cạnh tranh; bản chất, nội dung, đặc điểm của các biện pháp chế tài
xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh; đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng
các biện pháp chế tài đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh ở thị trường Việt Nam,
chỉ ra những bất cập, hạn chế, để từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh
tranh, đặc biệt là nâng cao hiệu quả của các biện pháp chế tài đối với các hành vi hạn
chế cạnh tranh ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu ở trên, đề ra nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Nghiên cứu, làm rõ các vấn đề lý luận pháp luật về hạn chế cạnh tranh, bản
chất, nội dung, đặc điểm của các biện pháp chế tài xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật cạnh tranh hiện hành về các chế tài
liên quan tới hạn chế cạnh tranh, cũng như thực tiễn áp dụng các biện pháp chế tài
xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam.
- Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất, kiến nghị các giải pháp góp
phần hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này, cũng như nâng cao hiệu quả

áp dụng các biện pháp chế tài xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh.
4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan tới chế tài đối với
các hành vi hạn chế cạnh tranh, bao gồm các quy định về hành vi hạn chế cạnh
tranh, các biện pháp chế tài, trình tự áp dụng chế tài, thẩm quyền xử lý xử lý hành vi
hạn chế cạnh tranh..., được quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành như:
Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Bộ luật Hình
sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và các văn bản hướng dẫn thi hành, cùng với
thực tế áp dụng chế tài xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu là các biện pháp chế tài xử lý các hành
vi hạn chế cạnh tranh và các vấn đề có liên quan theo quy định của pháp luật Việt
Nam từ thời điểm Luật Canh tranh năm 2004 có hiệu lực thi hành.
Bên cạnh đó, việc tham khảo kinh nghiệm pháp luật của một số nước trên thế
giới về vấn đề này chỉ nhằm làm rõ hơn đối tượng nghiên cứu và rút ra bài học kinh
nghiệm góp phần hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các biện
pháp chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin;
chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học
cơ bản như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, so sánh pháp luật... để
làm sáng tỏ mục tiêu và nội dung nghiên cứu của đề tài.
6. Những đóng góp mới của đề tài

Luận văn nếu được thực hiện và bảo vệ thành công sẽ đưa lại các đóng góp
mới như sau:
5


- Góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận pháp luật về kiểm soát và xử lý các
hành vi hạn chế cạnh tranh; bản chất, nội dung, đặc điểm của các biện pháp chế tài
xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh.
- Góp phần đánh giá trung thực, khách quan về thực trạng pháp luật và hiệu
quả áp dụng các chế tài xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay.
- Góp phần hoàn thiện pháp luật về các biện pháp chế tài xử lý hành vi hạn
chế cạnh tranh tại Việt Nam, từ đó, xây dựng và hoàn thiện môi trường cạnh tranh
bình đẳng, công bằng ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, luận
văn có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về hạn chế cạnh tranh và chế tài
xử lý hạn chế cạnh tranh.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về chế tài xử lý hạn
chế cạnh tranh ở Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế tài xử lý
hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam.

6


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ
HẠN CHẾ CẠNH TRANH VÀ CHẾ TÀI XỬ LÝ HẠN CHẾ
CẠNH TRANH
1.1. Khái niệm và nội dung chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh

1.1.1. Khái niệm chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh
a) Khái niệm
Chế tài theo quan niệm chung là: “Cách thức áp đặt đối với một người, mà tại
đó một quyền được thi hành hoặc được làm thỏa mãn bởi tòa án khi ai đó bị thiệt hại
hay tổn thương mà xã hội thừa nhận đó là một hành vi sai trái” [29, tr.6]
Tóm lại, chế tài là hậu quả pháp lý bất lợi mà người có hành vi vi phạm phải
gánh chịu. Nó biểu hiện thái độ của Nhà nước và của người bị vi phạm đối với
người vi phạm và là điều kiện đảm bảo cần thiết cho việc tuân thủ pháp luật, tuân
thủ hợp đồng. Đây là những biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với chủ thể có hành vi
vi phạm các yêu cầu của bộ phận quy định của quy phạm pháp luật.
Theo tính chất của sự phản ứng pháp lý đối với vi phạm, chế tài bao gồm: (i)
Chế tài hình phạt là sự phản ứng gay gắt nhất của Nhà nước đối với các hành vi vi
phạm pháp luật như chế tài hình sự, chế tài hành chính…; (ii) Chế tài khôi phục
pháp luật hướng tới biện pháp xử phạt đến việc khôi phục trạng thái trước đây, phục
hồi lại trật tư pháp luật đã bị xâm hại; (iii) Chế tài phủ nhận pháp luật là sự phản ứng
tiêu cực của nhà nước đối với việc thực hiện không đúng các quy định pháp luật.
[51, tr. 387] Chế tài này thể hiện sự không thừa nhận tính chất pháp lý của các quan
hệ xã hội mới phát sinh.
Căn cứ vào tính chất của các nhóm quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh,
chế tài được phân chia thành nhiều loại: Chế tài hình sự, chế tài dân sự, chế tài hành
chính...
Đối với các vi phạm về hạn chế cạnh tranh, pháp luật các nước đều quy định
trách nhiệm pháp lý mà chủ thể vi phạm phải chịu, bao gồm: Đình chỉ hành vi, công

7


bố công khai về hành vi vi phạm, phạt tiền, bồi thường thiệt hại hoặc phạt tù….Dù
bị áp dụng biện pháp gì để phản ứng trước các hành vi hạn chế cạnh tranh thì các
biện pháp đó đều có đặc điểm chung, đó là sự đánh giá tiêu cực của Nhà nước và xã

hội về hành vi và chủ thể thực hiện hành vi đó, buộc chủ thể vi phạm phải gánh chịu
những hậu quả bất lợi do đã thực hiện hành vi gây hạn chế, kìm hãm cạnh tranh.
Hiện nay, khoa học pháp lý không đưa ra khái niệm chế tài đối với hành vi
hạn chế cạnh tranh, nhưng căn cứ vào khái niệm chế tài nói chung, có thể hiểu:
“Chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh là những hình thức trách nhiệm
pháp lý được Nhà nước áp dụng đối với các chủ thể kinh doanh, buộc các chủ thể đó
phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do đã có hành vi hạn chế cạnh tranh gây thiệt
hại cho các chủ thể kinh doanh và các chủ thể khác”.
Chế tài cạnh tranh tác động đến hoạt động của người vi phạm để thiết lập lại
hoặc bảo vệ môi trường cạnh tranh.
b) Những đặc trưng cơ bản
Ngoài những đặc điểm chung của chế tài như: chỉ áp dụng khi có vi phạm
pháp luật xảy ra; là hình thức cưỡng chế của Nhà nước đối với chủ thể vi phạm; chủ
thể vi phạm phải gánh chịu một hậu quả bất lợi nhất định, chế tài đối với hành vi hạn
chế cạnh tranh còn có những đặc điểm riêng:
- Chủ thể bị áp dụng chế tài là các doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề. Theo
Điều 2 Luật Cạnh tranh Việt Nam, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
và các hiệp hội ngành nghề hoạt động ở Việt Nam, trong tất cả các ngành nghề kinh
tế, các khâu, các công đoạn của quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh, nếu các chủ
thể đó vi phạm các quy định về hạn chế cạnh tranh thì sẽ bị áp dụng chế tài xử lý.
- Chủ thể bị áp dụng chế tài có hành vi vi phạm quy định của Luật Cạnh tranh
về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, độc quyền,
tập trung kinh tế. Các hành vi này có thể đã, đang hoặc có thể gây ra hậu quả ngăn
cản hay hạn chế cạnh tranh đáng kể trên thị trường.

8


- Chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh được quy định trong nhiều văn
bản pháp luật khác nhau, thuộc các ngành luật khác nhau. Luật Cạnh tranh phá vỡ

biên giới giữa luật công và luật tư, nó là sự xâu chuỗi của hầu hết các ngành luật dân
sự, thương mại hành chính, hình sự…Đây là nét đặc trưng của Luật Cạnh tranh, nó
không có chế tài riêng mà sử dụng chế tài của các ngành luật khác, bao gồm: Chế tài
dân sự (chủ yếu là bồi thường thiệt hại, buộc chấm dứt hành vi vi phạm), chế tài
hành chính (chủ yếu là phạt tiền), và chế tài hình sự (áp dụng đối với các hành vi vi
phạm Luật Cạnh tranh đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm) [34, tr. 27]. Tương tự như
vậy, pháp luật cạnh tranh Việt Nam cũng quy định về chế tài hạn chế cạnh tranh trong
nhiều văn bản luật khác nhau như Luật Cạnh tranh, Luật Xử lý vi phạm hành chính,
Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Thương mại…
1.1.2. Sự cần thiết áp dụng chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh
a) Ảnh hưởng của các hành vi hạn chế cạnh tranh đối với phát triển nền kinh tế
Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường, là
động lực phát triển của các thành phần, chủ thể kinh tế cùng tham gia kinh doanh.
Góp phần đào thải các chủ thể kinh doanh kém hiệu quả, giữ lại những chủ thể kinh
doanh sử dụng hiệu quả nguồn vốn. Cạnh tranh như một bàn tay vô hình dẫn dẵn các
chủ thể kinh doanh, thúc đẩy các doanh nghiệp tăng năng suất lao động, không
ngừng cải tiến thiết bị, công nghệ, phương thức quản lý để ứng dụng công nghệ tiên
tiến, hiện đại nhằm nâng cao chất lượng, năng lực cạnh tranh của sản phẩm, hàng
hóa và doanh nghiệp của mình. Cạnh tranh định hướng cho việc kinh doanh sản
phẩm dịch vụ, điều tiết quan hệ cung cầu của xã hội, thông qua cạnh tranh các nhà
sản suất sẽ không ngừng sáng tạo ra sản phẩm, dịch vụ mới tốt hơn với giá thành
hợp lý hơn, nhờ vậy người tiêu dùng được lựa chọn các loại hàng hóa, sản phẩm
dịch vụ mà họ mong muốn. Đồng thời, cạnh tranh giúp cho việc sử dụng các nguồn
tài nguyên hiệu quả nhất, phân phối nguồn lực và điều hòa thu nhập.
Các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí
độc quyền hoặc tập trung kinh tế diễn ra khi doanh nghiệp sử dụng bằng mọi cách
thức, thủ đoạn để tiến hành cạnh tranh với mục đích chiếm được ưu thế cạnh tranh,

9



gây thiệt hại hoặc bất lợi cho chủ thể cạnh tranh, thậm chí thủ tiêu cạnh tranh, loại
bỏ và tiêu diệt các đối thủ cạnh tranh. Hậu quả là nó xóa bỏ cạnh tranh, các doanh
nghiệp sẽ không còn phải chịu sức ép của cạnh tranh và từ đó có thể tha hồ đưa ra
những điều kiện giao kết bất lợi cho khách hàng. Đặc biệt, khi xuất hiện độc quyền,
người tiêu dùng không còn sự lựa chọn nào khác là phải chấp nhận hàng hóa, dịch
vụ và các điều kiện kèm theo của doanh nghiệp độc quyền.
Tuy nhiên, tác động nguy hiểm của các hành vi hạn chế cạnh tranh đó chính
là ảnh hưởng tới cấu trúc thị trường và sự phát triển của nền kinh tế. Sự lạm dụng vị
trí thống lĩnh, độc quyền sẽ tác động đến quy luật cung - cầu và các quy luật cạnh
tranh tự nhiên trên thị trường, khiến cho các nguồn lực kinh tế không thật sự tập
trung vào các doanh nghiệp có khả năng thực sự. Điều này làm sai lệch sự vận động
vốn có của thị trường, gây ra sự hỗn loạn và làm thị trường mất đi sự ổn định, nhịp
nhàng vốn có. Các hành vi hạn chế cạnh tranh còn gây hao phí nguồn lực kinh tế,
ngăn cản, kìm hãm việc đầu tư công nghệ, kỹ thuật, mở rộng sản xuất… nên các
nguồn lực kinh tế của xã hội và của chính doanh nghiệp không được sử dụng một
cách hiệu quả và hợp lý. Hạn chế mức độ đầu tư làm giảm đi khả năng phát triển thị
trường liên quan, từ đó khả năng cạnh tranh và quy mô kinh doanh sẽ bị kìm hãm,
gây tổn hại không thể phục hồi cho sự tăng trưởng kinh tế. Để loại trừ được những
nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực trên thị trường, pháp luật chống hạn chế cạnh tranh là
công cụ cần thiết để Nhà nước điều tiết những hành vi gây nguy hại cho thị trường
và đặc biệt cho sự phát triển của nền kinh tế.
b) Yêu cầu bảo vệ cấu trúc thị trường và môi trường cạnh tranh lành mạnh,
công bằng trong kinh doanh
Như phân tích ở trên, có thể thấy hậu quả của cạnh tranh tự do sẽ dẫn đến các
thủ đoạn, hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
nhằm kìm hãm, hạn chế sự phát triển của thị trường. Điều này không chỉ gây thiệt
hại cho người tiêu dùng, các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh chân
chính mà còn cả kinh tế - xã hội đất nước. Do vậy, cùng với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường là nhu cầu: Bảo vệ và điều tiết quy luật cạnh tranh, bảo vệ cấu trúc


10


của thị trường; bảo vệ các chủ thể kinh doanh (chủ thể tham gia cạnh tranh trên thị
trường); bảo vệ người tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội.
. Để hạn chế hậu quả tiêu cực do hành vi cạnh tranh gây ra, cũng như bảo
đảm chủ thể cạnh tranh không lạm dụng quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh, ở
mức độ nào đó, Nhà nước tác động vào các hành vi cạnh tranh của họ. Sự tác động
đó có thể làm cho doanh nghiệp hiểu được khuôn khổ, quy tắc của hành vi kinh
doanh, từ đó có những ứng xử trên thị trường cho phù hợp. Luật Cạnh tranh ra đời là
để bảo vệ quá trình cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, các quy phạm của luật
cạnh tranh có mục tiêu tìm cách phát huy cạnh tranh hiệu quả và không bị bóp méo
trên thị trường.. Thông qua khung pháp lý về cạnh tranh được thiết lập, Nhà nước
cũng có thể can thiệp vào các hành vi cạnh tranh bằng cách áp dụng biện pháp đình
chỉ hành vi, phạt tiền, bồi thường thiệt hại đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh..
Chế tài hạn chế cạnh tranh ra đời nhằm: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
doanh nghiệp, chống lại hành vi cản trở, kìm hãm cạnh tranh của các doanh nghiệp
đối thủ; bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (khách hàng); là công cụ góp phần tạo
lập môi trường kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, công bằng.
Như vậy, chế tài có vai trò vô cùng quan trọng, nó không chỉ nhằm đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp tham gia thị trường và người tiêu
dùng, nó còn có chức năng ngăn ngừa và hạn chế vi phạm các quy định về cạnh
tranh, nâng cao đạo đức kinh doanh, ý thức tuân thủ pháp luật, góp phần bảo vệ
quyền tự do kinh doanh của chủ thể trên thị trường, bảo vệ môi trường cạnh tranh và
các quan hệ thị trường, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế…
1.1.3. Các hình thức chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh
Căn cứ vào tính chất của nhóm các quan hệ xã hội được pháp luật cạnh tranh
điều chỉnh, chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh gồm: Chế tài hành chính, chế
tài dân sự và chế tài hình sự.

a) Chế tài hành chính
Chế tài hành chính là biện pháp cưỡng chế Nhà nước do các cơ quan và
người có thẩm quyền quyết định áp dụng đối với cá nhân hay tổ chức có hành vi vi
11


phạm hành chính hoặc đối với một số cá nhân, tổ chức nhất định với mục đích ngăn
chặn hay phòng ngừa, vì lý do an ninh quốc phòng hoặc vì lợi ích quốc gia. Chế tài
hành chính được áp dụng không chỉ nhằm mục đích bảo vệ các lợi ích công mà còn
bảo vệ các quy tắc, trật tự xã hội, đảm bảo cuộc sống yên bình cho cư dân. Ngoài
tính trừng phạt, chế tài hành chính nhằm ngăn chặn những vi phạm có thể xảy ra
nguy hiểm hơn.
Chế tài hành chính luôn luôn chứa trong nó tính trừng trị. Điều đó có nghĩa
là, chế tài hành chính phải bao gồm các hình thức chế tài nghiêm khắc và thi hành
nghiêm minh. Các hình thức chế tài hành chính ở các nước có thể kể đến như các
hình thức như phạt tiền, tước giấy phép, thu hồi hay huỷ bỏ, xử phạt về thuế, đình chỉ
hay tạm đình chỉ. Quan trọng nhất là đảm bảo cho các hình thức xử phạt nêu trên
được áp dụng đúng đối với chủ thể, mức độ vi phạm và không để những hành vi
tham nhũng, hối lộ xảy ra trong quá trình xử lý. [44, tr. 39].
Pháp luật cạnh tranh các nước trên thế giới đều sử dụng các biện pháp chế tài
hành chính nhằm xử lý các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh, các hình thức xử
phạt hành chính đối với vi phạm pháp luật chống hạn chế cạnh tranh bao gồm:
- Phạt tiền là một trong những hình thức xử phạt hành chính chủ yếu đối
trong xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh.
- Ngoài phạt tiền, các vi phạm hạn chế cạnh tranh còn bị áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính khác như: Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để
thực hiện hành vi vi phạm, bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được
từ việc thực hiện hành vi vi phạm; cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường; chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập, hợp nhất hay bác bỏ (đối với
những vụ sáp nhập, mua lại và thỏa thuận hạn chế cạnh tranh); buộc bán lại phần

doanh nghiệp đã mua; cải chính công khai; loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp
luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh; bồi thường thiệt hại theo quy định
của pháp luật.
Cơ quan quản lý cạnh tranh và cơ quan tư pháp cũng có thể ra các quyết định
vĩnh viễn hay có thời hạn dài để nới lỏng, dỡ bỏ hay để điều chỉnh việc vi phạm bởi
12


hành vi khắc phục hậu quả, công bố ra công chúng hay xin lỗi công khai… được cho
là cần thiết.
Áp dụng các biện pháp chế tài hành chính đối với các hạn chế cạnh tranh nói
riêng và các vi phạm cạnh tranh nói chung, là biện pháp quan trọng nhằm tác động
vào chủ thể vi phạm nhằm răn đe, phòng ngừa và khôi phục lợi ích của đối thủ cạnh
tranh và khách hàng. Pháp luật mỗi nước có quy định về việc áp dụng và mức xử phạt
khác nhau tùy thuộc vào chính sách cạnh tranh và nhu cầu điều chỉnh của quốc gia đó.
b) Chế tài hình sự
Chế tài hình sự (hay hình phạt) là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với
người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi
ích của người, pháp nhân thương mại [1, Điều 30]. Hình phạt là hậu quả pháp lý của
tội phạm. Bản chất của chế tài hình sự là sự lên án của Nhà nước đối với người đã có
lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Mục đích của các hình phạt không
chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức
tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo
dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm. [1, Điều 31]
Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 không quy định về chế tài hình sự, tuy
nhiên nếu hành vi hạn chế cạnh tranh cấu thành tội phạm thì sẽ có thể bị xử lý theo
quy định của Bộ luật Hình sự. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật Việt
Nam đối với hành vi hạn chế cạnh tranh được quy định tại Điều 217 “Tội vi phạm

quy định về cạnh tranh” của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Hình phạt áp dụng đối với tội danh vi phạm về cạnh tranh thường là phạt tiền, cải
tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn. Ngoài ra, còn có thể áp dụng các biện pháp
như: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định đối với
chủ thể thực hiện hoặc tham gia hành vi và cấm kinh doanh, hoạt động trong một số
lĩnh vực, cấm huy động vốn đối với pháp nhân thương mại.

13


c) Chế tài dân sự
Pháp luật dân sự là luật chung điều chỉnh các quan hệ giao dịch và giải quyết
các tranh chấp trên thị trường. Quan hệ kinh doanh, thương mại cũng chỉ là một dạng
cụ thể của quan hệ dân sự theo nghĩa rộng. Vì vậy, một trong những nguồn quan trọng
của pháp luật cạnh tranh là pháp luật dân sự. Những quy định của pháp luật dân sự đã
hỗ trợ cho Luật Cạnh tranh trong việc điều chỉnh các quan hệ cạnh tranh và kiểm soát
những hành vi phản cạnh tranh. Hầu hết các quy định trong Luật Cạnh tranh đều chịu
ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau của các quy định có tính nguyên tắc trong Bộ
luật Dân sự. Những quy định này có thể là nguyên tắc tôn trọng truyền thống đạo
đức tốt đẹp, các chế định hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Chẳng
hạn, các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế đều chịu ảnh hưởng trực tiếp
của các quy định về hợp đồng vô hiệu. Quy định về các hành vi hạn chế cạnh tranh,
thực chất là hạn chế khả năng tự do khế ước của cá nhân. Theo nguyên tắc này, các
chủ thể được tự do thỏa thuận, tự do giao kết hợp đồng. Nhưng một số thỏa thuận,
giao kết lại bị cấm theo quy định của Luật Cạnh tranh. Do vậy, nhằm giải quyết một
cách thỏa đáng lợi ích của các bên, pháp luật cạnh tranh còn áp dụng chế tài dân sự
đối với các vi phạm, trong đó chủ yếu là yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi vi
phạm gây ra.
Luật mẫu về cạnh tranh đã quy định tại Chương XIII về việc bồi thường thiệt

hại “để cho phép một người, hay một quốc gia nhân danh người hay doanh nghiệp bị
thiệt hại hay thua lỗ vì hành vi hay tắc trách của doanh nghiệp hay của cá nhân trái
quy định của luật, được quyền hưởng bồi thường thiệt hại (gồm cả chi phí và lãi
suất) thông qua việc khởi kiện tại cơ quan tư pháp có thẩm quyền. Theo pháp luật
cạnh tranh Việt Nam, khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại thì phải dẫn chiếu
đến pháp luật dân sự. Vấn đề khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại đối với hành vi
cạnh tranh sẽ được áp dụng theo các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, tại Chương XX của Bộ luật Dân sự năm 2015 (Sửa đổi , bổ sung
năm 2017) và pháp luật có liên quan.

14


Yêu cầu bồi thường thiệt hại là một quyền mặc định được pháp luật thừa
nhận, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể kinh doanh. Vì vậy, chế tài
bồi thường thiệt hại có thể áp dụng đồng thời với các chế tài khác.
d) Mối quan hệ giữa các hình thức chế tài
Các chế tài có bản chất, nội dung, hậu quả trái ngược nhau thì không thể áp
dụng đồng thời. Các chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh có tính độc lập
nhất định, trừ một số biện pháp bổ sung, khắc phục hậu quả trong các chế tài hành
chính. Tuy nhiên, việc áp dụng chế tài phải căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi
và các quy định của pháp luật trong từng trường hợp cụ thể.
Những chế tài mang tính trách nhiệm vật chất thường có thể áp dụng đồng
thời với các chế tài khác. Điều 117 Luật Cạnh tranh Việt Nam quy định: “Tổ chức,
cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường thiệt
hại theo quy định của pháp luật”. Vì vậy, khi doanh nghiệp thực hiện hành vi hạn
chế cạnh tranh gây ra thiệt hại cho chủ thể khác thì tất yếu phải chịu trách nhiệm
bồi thường dân sự. Nghĩa là, chế tài bồi thường thiệt hại có thể áp dụng đồng thời
với chế tài hành chính hoặc chế tài hình sự.

1.2. Kinh nghiệm pháp luật các nước về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh
Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh của các nước đều có mục đích bảo vệ tự
do cạnh tranh cũng như bảo vệ cơ cấu và tương quan thị trường. Các chế tài được áp
dụng để xử lý những hành vi vi phạm mang tính đặc thù của các biện pháp hành
chính kinh tế, có thể ở những dạng như: Đình chỉ hành vi, tuyên bố thỏa thuận vô
hiệu, tái cấu trúc công ty, phạt tiền… Tuy nhiên, tùy thuộc vào chính sách cạnh tranh
của mỗi quốc gia mà việc quy định chế tài áp dụng đối với các vi phạm về hạn chế
cạnh tranh có sự khác nhau.
1.2.1. Kinh nghiệm các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU)
Vi phạm các quy định cạnh tranh của EU có thể phải chịu trách nhiệm thông
qua áp đặt phạt tiền tương đối nặng. Chế tài đối với cá nhân được quy định tại Quy

15


chế 17 ban hành ngày 6/2/1962 của Hội đồng kinh tế châu Âu quy định thi hành
Điều 85 và 86 của Hiệp ước Rome và Quy chế 1/2003 ban hành ngày 16/12/2002
quy định thi hành Điều 81 và 82 của Hiệp ước Rome. Theo Điều 15 của Quy chế 17,
phạt tiền được xem là chế tài hành chính, Luật Cạnh tranh châu Âu không quy định
về chế tài hình sự. Chế tài chủ yếu mà Ủy ban châu Âu áp dụng đối với các vi phạm
cạnh tranh của EU là các biện pháp phạt tiền hoặc biện pháp hành vi. Chế tài này
được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 83 Hiệp ước Rome, theo đó: “Bảo đảm sự
tôn trọng các điều khoản cấm được quy định tại Điều 81, khoản 1 và Điều 82 bằng
các chế tài phạt tiền hoặc hạn chế” [58, tr. 214]. Ủy ban châu Âu, tự mình hoặc theo
đề nghị của một quốc gia thành viên, phối hợp với các cơ quan công quyền của các
quốc gia thành viên có đề nghị Ủy ban hỗ trợ để hướng dẫn việc áp dụng các chế tài
dự kiến áp dụng đối với hành vi vi phạm các nguyên tắc nêu trên. Nếu Ủy ban phát
hiện thấy có vi phạm, Ủy ban sẽ đề nghị áp dụng các biện pháp để chấm dứt các vi
phạm đó. Nếu các vi phạm đó vẫn không chấm dứt, Ủy ban sẽ xử lý vi phạm đó
bằng một quyết định. Ủy ban có thể công bố quyết định đó và cho phép các quốc gia

thành viên áp dụng các biện pháp cần thiết mà Ủy ban xác định các điều kiện và
phương thức áp dụng để xử lý tình huống đó (Điều 85, Hiệp ước Rome) [58, tr.
215]. Theo Điều 15 của Quy chế 17 thì những vi phạm Điều 81 hoặc 82 của Hiệp
ước Rome cũng như vi phạm các nghĩa vụ đối với các miễn trừ cá nhân thì có thể bị
phạt từ 1000 Euro tới 1 triệu Euro, hoặc phạt tiền không quá 10% doanh thu trong
năm kinh doanh mà có vi phạm (khoản 2, Điều 15). Việc áp đặt phạt tiền không
được chấp nhận nếu những thỏa thuận liên quan tới quy định của Ủy ban có mục
đích miễn trừ cá nhân (điểm a khoản 5 Điều 15). Thêm vào đó, các biện pháp phạt
tiền được áp đặt đối với hành vi cố ý hoặc vô ý. Để quyết định mức phạt, thời gian
và tính chất nghiêm trọng của vi phạm được đưa ra xem xét.
a) Ở Cộng hòa Pháp
Luật Cạnh tranh của Pháp quy định cả chế tài hình sự, dân sự, hành chính.
Hội đồng cạnh tranh có thể ban hành các lệnh mang tính quy định, khi nào cần thiết
áp dụng trong các trường hợp nghiêm trọng, ngay lập tức của nền kinh tế hoặc của
một khu vực kinh tế liên quan, lợi ích của người tiêu dùng hoặc người khiếu nại

16


(Điều 464-1 Luật Thương mại của Pháp). Có thể áp dụng đồng thời chế tài hình sự
và chế tài hành chính.
Bộ luật Hình sự năm 1810 của Pháp quy định hai tội danh: Tội cạnh tranh bất
hợp pháp và tội lạm dụng thế mạnh để cạnh tranh. Hình phạt tù là hãn hữu và thời
gian cũng rất ngắn. Hình phạt chủ yếu là phạt tiền ở mức rất nặng nhằm vào hai đối
tượng: doanh nghiệp và người lãnh đạo doanh nghiệp. Theo các quy định của pháp
luật về cạnh tranh thì không những người lãnh đạo công ty bị phạt, mà công ty với
tư cách là một pháp nhân (bị xử lý là đồng phạm) cũng phải chịu những hình phạt
như phạt tiền... Đây là một ngoại lệ vì pháp luật hình sự của Pháp có nguyên tắc bao
giờ cũng phải cá thể hóa trách nhiệm hình sự. Theo đó, hình phạt có thể là phạt tù tới
4 năm hoặc phạt tiền tới 75000 Euro (Theo Điều L420-6 Luật Thương mại Pháp).

Ngoài ra, Hội đồng Cạnh tranh cũng có thể áp đặt biện pháp phạt tiền (Điều L.464-2
Luật Thương mại Pháp). Khi Hội đồng Cạnh tranh cũng có thẩm quyền áp dụng
Điều 81 và 82 của Hiệp ước Rome trong việc thực thi các quy định cạnh tranh của
quốc gia, nó cũng có thể áp dung chế tài đối với các vi phạm luật cạnh tranh của
Châu Âu (Điều L.470-6 Luật Thương mại Pháp). Liên quan đến việc xác định mức
phạt, Hội đồng cạnh tranh đã có thông báo về tính chất nguy hiểm của hành vi vi
phạm và thiệt hại do hành vi đó gây ra đối với nền kinh tế thông qua thực tiễn hạn
chế cạnh tranh. Mức phạt tối đa có thể được giảm một nửa nếu những thỏa thuận
không liên quan tới vi phạm bị cáo buộc và có cam kết chấm dứt hành vi vi phạm.
Một đặc điểm nữa của Luật Cạnh tranh Pháp đó là các chương trình khoan hồng,
Điều L.464-2 III Luật Thương mại Pháp quy định: “Có thể miễn trừ toàn bộ hay một
phần các chế tài phạt tiền đối với doanh nghiệp hay tổ chức đã cùng với doanh
nghiệp hay tổ chức khác thực hiện hành vi bị cấm theo quy định tại Điều L.420-1,
nếu doanh nghiệp hay tổ chức đó đã góp phần vào việc xác minh các hành vi bị cấm
và xác định người đã thực hiện hành vi, bằng cách cung cấp các thông tin mà hội
đồng hay Tổng cục chưa nắm được… nếu các điều kiện quy định trong văn bản
thông báo về chính sách khoan hồng được đáp ứng, Hội đồng có thể áp dụng một
mức miễn giảm phạt tiền tương ứng với đóng góp của doanh nghiệp, tổ chức đó
trong việc xác minh hành vi vi phạm”.

17


×