Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp dạy tốt môn địa lí lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.79 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUAN SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ DẠY TỐT MÔN ĐỊA LÝ LỚP 4

Người thực hiện: Lê Thị Hà
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH và THCS Thị trấn
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Địa lý

THANH HÓA, NĂM 2016

1


A - ĐẶT VẤN ĐỀ
Một năm bắt đầu từ mùa xuân
Đời người bắt đầu từ tuổi trẻ.
Tuổi trẻ với tư cách là tương lai của đất nước. Tuổi trẻ sẽ làm gì và làm
như thế nào trong tương lai? Tất cả phải nhờ vào sự nghiệp giáo dục. Người
xây nền tảng đó lại là những người có nhiệm vụ vẻ vang trong sự nghiệp
“Trồng người”. Bồi dưỡng cho thế hệ sau là một việc rất quan trọng, cần thiết.
Mỗi giáo viên chúng ta nhận thấy: Giáo dục những học sinh vừa có đức vừa
có tài để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mục
tiêu của giáo dục là phát triển toàn diện con người về đạo đức, trí tuệ, thể
chất, thẩm mỹ. Học không chỉ đơn giản đạt đến mục đích có trình độ hiểu biết
cao, có kiến thức sâu rộng mà quan trọng hơn là phải thực sự trở thành người
có ích cho gia đình và xã hội.
Cùng với các môn học khác, môn Địa lí là môn học quan trọng trong


chương trình Tiểu học. Ở bậc học này, việc phát huy tính tích cực của học
sinh trong việc dạy và học môn Tự nhiên Xã hội nói chung và phân môn Địa
lí nói riêng là một phần quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học của
bộ môn này để góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh Tiểu học. Chương
trình Địa lí lớp 4 giúp học sinh lĩnh hội được một số tri thức ban đầu về Địa lí
Việt Nam và những nội dung cơ bản về địa hình, dân cư, khí hậu và nền kinh
tế xã hội của các vùng miền trong cả nước …
Qua nhiều năm giảng dạy khối lớp 4, do đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh,
nên việc dạy và học môn Địa lí còn nhiều bất cập với giáo viên và có phần tẻ
nhạt với học sinh. Vì đa số phụ huynh và học sinh đều quan niệm Địa lí là
môn học không có tính quyết định nên thường không thích đầu tư cho môn
học. Từ trước đến nay, học sinh chỉ được cung cấp các khái niệm Địa lí thông
qua giáo viên nên giờ học Địa lí chưa thực sự thu hút các em…Giáo viên
cũng chưa thực sự chọn được những phương pháp gây hứng thú mới mẻ trong
cách dạy để thu hút các em. Với suy nghĩ làm sao để lựa chọn được những
phương pháp nào hay, đặc trưng để dạy Địa lí ở Tiểu học và dạy như thế nào
cho có hiệu quả? Đó không chỉ là vấn đề tôi quan tâm và hầu hết các giáo
viên Tiểu học đều quan tâm .
Bên cạnh đó, bản thân tôi thấy: Đa số học sinh dành nhiều thời gian học
cho các môn Toán, Tiếng Việt,… còn môn học Địa lí thì được xem nhẹ, chỉ
cần học bài là được. Vì thế, tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm để
dạy tốt môn Địa lí lớp 4” để giúp học sinh yêu thích, hứng thú học Địa lí và
nâng cao chất lượng học tập cho học sinh.
I. C¬ së lÝ luËn:

B . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

Con người dù hoạt động trong lĩnh vực nào cũng cần có kiến thức về Địa
lí. Giáo viên là cầu nối giữa tri thức và nhân loại. Giáo viên có nhiệm vụ giúp
Học sinh khám phá những kiến thức cơ bản cần thiết về trái đất, môi trường

sống của con người, về những hoạt động của loài người trên bình diện quốc
2


tế, quốc gia. Trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, Địa lí là
một trong những bộ môn quan trọng đòi hỏi mỗi người phải am hiểu về kiến
thức bộ môn. Tinh thần đổi mới phương pháp dạy học trong giáo dục hiện nay
là: Giáo viên luôn giữ vai trò tổ chức chỉ đạo, học sinh tích cực chủ động nắm
tri thức, tạo cho học sinh sự tham gia hứng thú và trách nhiệm. Giáo viên đảm
nhận vai trò là người mở đường, cố vấn và đánh giá. Vì vậy hoạt động của
giáo viên tập trung vào những hoạt động sau: đề xuất ý tưởng, tổ chức học
sinh làm việc theo các hình thức khác nhau (cá nhân, cặp, nhóm,..), giám sát
và hỗ trợ học sinh trong quá trình các em thực hiện nhiệm vụ, đánh giá kết
quả học tập. Hoạt động của học sinh rất phong phú: trải nghiệm và chia sẻ
kinh nghiệm của cá nhân, quan sát đối tượng học tập, đọc tài liệu, suy nghĩ và
phán đoán, phát biểu ý kiến trong nhóm và trước lớp tích cực tự giác thể hiện
sự năng động trong hoạt động học tập. Quán triệt tinh thần chỉ đạo nói trên,
kết quả là học sinh lớp tôi dạy đã tiếp thu được những nguồn tri thức mới,
bằng sự khám phá của bản thân với sự định hướng giúp đỡ của giáo viên. Khi
tự mình khám phá ra tri thức học sinh sẽ cảm nhận được sự hứng thú, say mê
và yêu mến môn học hơn rất nhiểu những gì học sinh tiếp nhận một cách thụ
động từ giáo viên.
Khi tôi đến lớp giảng dạy bất cứ môn gì thì cũng cần phải có sự hỗ trợ của
thiết bị dạy học. Đối với môn Địa lí cần phải có: bản đồ, lược đồ, tranh ảnh
địa lý… Dạy học Địa lí đòi hỏi kết hợp các phương pháp dạy học nhằm giúp
học sinh nắm vững những tri thức khoa học và kỹ năng vận dụng các tri thức
đó vào cuộc sống, giúp học sinh phát triển toàn diện, rèn luyện tính tích cực
độc lập cho học sinh.
Đặc điểm môn Địa lí lớp 4 là giúp các em biết được các sự vật hiện tượng
về lĩnh vực Địa lí và mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng đó. Sách

"Hướng dẫn học Lịch sử và Địa lí lớp 4" được biên soạn phù hợp với tâm lý
nhận thức của học sinh Tiểu học và không quá tải về kiến thức, tạo điều kiện
cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học và giúp HS tự rèn tại lớp, nhằm
giúp các em phát huy hết năng lực của mình cũng như rèn học sinh tính tự
giác học tập.
Học sinh đến với môn Địa lí là hình thành cho học sinh những biểu tượng,
khái niệm đơn giản và bước đầu giúp học sinh nhận thấy mối quan hệ địa lí
đơn giản giữa các yếu tố tự nhiên cũng như giữa tự nhiên và hoạt động sản
xuất của con người ở các vùng niềm khác nhau của đất nước. Từ đây học sinh
thu nhập tìm kiếm tư liệu địa lí từ bài học hàng ngày trên lớp và trong đời
sống thực tế… Vì vậy trong quá trình dạy học, giáo viên khai thác tối đa vốn
sống của học sinh, tranh ảnh, bản đồ và hỗ trợ kịp thời để các em có được các
biểu tượng, khái niệm Địa lí một cách đầy đủ và chính xác. Bên cạnh đó, giáo
viên cần giúp học sinh nhận ra mối quan hệ địa lí đơn giản để các em hiểu sâu
và chắc các kiến thức địa lí đã học đồng thời phát triển tư duy học sinh. Để từ
những giờ học trên lớp, các em biết đem về vận dụng vào cuộc sống phong
phú. Từ đó các em hình thành thái độ ham học hỏi, tìm hiểu để biết về quê
hương đất nước, con người và môi trường xung quanh, giúp học sinh có tình
yêu thiên nhiên, con người, quê hương đất nước, khát khao được học để trở
3


thành con người năng động sáng tạo, có ích cho gia đình, xã hội, đem hết sức
mình để góp phần xây dựng một đất nước Việt Nam văn minh giàu mạnh.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.

1. Thuận lợi
Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
giáo viên và học sinh về cơ sở vật chất và các điều kiện nhà trường hiện có.
Hệ thống các loại bản đồ, lược đồ rất phong phú, màu sắc rõ ràng, hấp dẫn,

kích thích được sự hứng thú học tập của các em. Các tranh ảnh để cung cấp
cho việc dạy Địa lí cũng tương đối đầy đủ. Đồ dùng dạy học cũng được trang
bị, tuy không đủ. Một số đồ dùng tự làm đạt hiệu quả cao.
Học sinh được tự học, học phù hợp với năng lực của mình, có nhiều cơ
hội phát triển tư duy sáng tạo. Học sinh được hình thành thói quen làm việc
trong môi trường tương tác, từ đó các em biết thừa nhận người khác, học hỏi
người khác để điều chỉnh bản thân mình.
2. Khó khăn
Lớp có nhiều em gia đình nhà nông sống trong bản là chủ yếu và còn khó
khăn, gia đình chưa có sự quan tâm đúng đắn về việc học của học sinh. Cơ sở
vật chất của nhà trường còn thiếu thốn, chưa có phòng chức năng. Đồ dùng
dạy học tuy được trang bị nhưng chưa đầy đủ và phong phú. Thư viện chưa
có nhiều sách báo để tham khảo làm tốt đề tài nghiên cứu. Thời gian chưa
nhiều để nghiên cứu kỹ và tốt hơn.
Bên cạnh đó trong lớp học có nhiều học sinh có trình độ phát triển khác
nhau có nhiều học sinh dân tộc, việc đọc, viết Tiếng Việt chưa tốt, các học
sinh làm nhóm trưởng còn lúng túng dẫn đến tổ chức các hoạt động của học
sinh chưa được tốt.
Khi mới nhận lớp, qua trao đổi và thông qua một số tiết dạy Địa lí đầu
năm tôi nhận thấy: Thực trạng học sinh lớp chỉ có khoảng rất ít em có kỹ năng
sử dụng bản đồ, các em biết sử dụng bản đồ và phân tích một số liệu ở bảng
thống kê ở mức biết nhưng chưa thành thạo, đặc biệt rất nhiều em học rất thụ
động và lúng túng khi sử dụng bản đồ, đọc bảng số liệu thống kê. Đa số các
em phân tích bản số liệu, đọc và chỉ bản đồ, lược đồ còn lúng túng. Việc quan
sát sự vật, hiện tượng địa lí, tìm tòi tư liệu và trình bày lại kết quả bằng lời
nói, bài viết… còn sơ sài. Chất lượng học sinh không đồng bộ, một số em
nhận thức chưa cao, nên việc tiếp thu bài còn chậm .
III. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC ĐỊA LÍ LỚP 4.

1. Hệ thống nội dung, chương trình học môn Địa lí lớp 4.

Để phát huy tính tích cực của học sinh khi dạy môn Địa lí thì việc lựa
chọn phương pháp dạy học và hướng dẫn học sinh cách học là rất quan trọng.
Giáo viên phải lựa chọn phương pháp cho phù hợp với từng loại bài, từng đối
tượng học sinh. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ tự khám phá ra
kiến thức. Dạy môn Địa lí cần sử dụng phương pháp đặc trưng của bộ môn
trên cơ sở tích hợp những phương pháp dạy học của những bộ môn khác có
liên quan. Đề cao vai trò chủ thể của người học, tăng cường tính tự giác tích
cực và sáng tạo của hoạt động học tập. Ở bậc Tiểu học do đặc điểm tâm lý của
lứa tuổi học sinh nên yêu cầu về mặt tri thức của dạy học Địa lí chủ yếu chỉ
4


dừng lại ở việc cung cấp các biểu tượng địa lí. Bước đầu hình thành một số
khái niệm, xây dựng một số mối quan hệ địa lí đơn giản. Chương trình môn
học Địa lí lớp 4 được phân phối như sau:
* Học kỳ I ( 15 tiết)
Bài 1: Dãy núi Hoàng Liên Sơn
( 3 tiết)
Bài 2: Trung du Bắc Bộ
( 2 tiết)
Bài 3: Tây Nguyên
( 3 tiết)
Bài 4: Hoạt động sản xuất của người dân ở Tây Nguyên
( 2 tiết)
Bài 5: Đồng bằng Bắc Bộ
( 2 tiết)
Bài 6: Hoạt động sản xuất của người dân ở đồng bằng Bắc Bộ
( 2 tiết)
Phiếu kiểm tra 1
( 1 tiết)

* Học kỳ II ( 17 tiết)
Bài 7: Thủ đô Hà Nội
( 2 tiết)
Bài 8: Đồng bằng Nam Bộ
( 2 tiết)
Bài 9: Hoạt động sản xuất của người dân ở đồng bằng Bắc Bộ
(2 tiết)
Bài 10: Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ
( 2 tiết)
Bài 11: Dải đồng bằng duyên hải Miền Trung
( 3 tiết)
Bài 12: Thành phố Huế và thành phố Đà Nẵng
( 2 tiết)
Phiếu kiểm tra 2
( 1 tiết)
Bài 13: Biển, đảo và quần đảo
(2 tiết)
Phiếu kiểm tra 3
( 1 tiết)
* Cấu trúc nội dung
Hệ thống các phần trong chương trình tương đối hợp lý. Những khái niệm,
biểu tượng mà học sinh tiếp xúc là từ dễ đến khó; khối lượng kiến thức vừa
phải, dễ tiếp thu, dễ nắm vững các kiến thức cơ bản của bài.
* Nội dung kênh hình, kênh chữ
Mỗi bài học đều được trình bày bằng cả kênh chữ và kênh hình và bao
gồm một hệ thống các hoạt động (có cả ba dạng hoạt động: hoạt động cơ bản,
thực hành và ứng dụng) hướng tới đạt mục tiêu của bài. Biết rằng kênh chữ
đóng vài trò chủ yếu trong việc cung cấp kiến thức. Tuy nhiên, kênh hình vẫn
đóng vai trò quan trọng. Nó không chỉ là sự minh hoạ cho kênh chữ mà còn là
nguồn cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng tìm thông tin cho học sinh.

* Ba yêu cầu hoạt động chung.
- Các hoạt động cơ bản của một bài học thường bao gồm:
+ Hoạt động trải nghiệm hoặc liên hệ với những kiến thức học sinh đã
biết liên quan đến kiến thức mới;...
+ Hoạt động tự xây dựng kiến thức, kĩ năng cho học sinh là hoạt động
trọng tâm, bao gồm một số dạng hoạt động nhơ: quan sát đối tượng học tập
(tranh ảnh, hình vẽ, lược đồ, bản đồ,..); khai thác thông tin từ kênh hình hoặc
kênh chữ (đoạn hội thoại, đoạn văn, bảng thông tin, sơ đồ thông tin,...) của Tài
liệu; giải quyết các tình huống có vấn đề;..
+ Hoạt động củng cố kiến thức, Hoạt động này thường tiến hành thông
qua bài đọc để củng cố những kiến thức học sinh đã tự xây dựng và trau dồi
thái độ và giá trị liên quan đến nội dung học tập;
5


- Hoạt động thực hành thường có các hoạt động như: Làm bài tập, liên hệ
thực tế địa phương, tham gia chơi trò chơi hoặc làm hướng dẫn viên du lịch,...
- Hoạt động ứng dụng: Vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã học để timg
hiểu một chủ đề cụ thể có liên quan đến bài học và tạo ra một sản phẩm; thực
hiện các hoạt động học tập ứng dụng trong môi trường địa phương.
2. Nghiên cứu, nắm vững mục tiêu môn Địa lí
Một trong những yếu tố để giúp cho tiết dạy Địa lí thành công, đạt chất
lượng cao thì trước tiên giáo viên phải nghiên cứu nắm vững mục tiêu chương
trình Địa lí lớp 4. Đây là việc làm hết sức quan trọng. Vì thế khi nghiên cứu
bài giảng, giáo viên cần phải nắm chắc những nội dung cơ bản của bài và
những hướng dẫn cụ thể về mục tiêu cần đạt để việc thiết kế bài dạy sao cho
thật sáng tạo, chất lượng, phù hợp với từng bài dạy, từng đối tượng học sinh.
Nếu làm được như vậy sẽ gây hứng thú cho học sinh học Địa lí
3. Một số biện pháp đã thực hiện giúp học sinh học tốt môn Địa lí
Những kiến thức về môn Địa lí Việt Nam bao gồm phần Tự nhiên và

phần Kinh tế - Xã hội. Hai phần kiến thức này rất quan trọng và hết sức cần
thiết đối với các em. Phần Địa lí Tự nhiên và phần Địa lí Kinh tế - Xã hội sẽ
cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản về điều kiện tự nhiên, về sự khai
thác thiên nhiên và các hoạt động kinh tế, nếp sống, sinh hoạt của con người ở
các vùng chính trên đất nước Việt Nam. Đây cũng là tiêu đề cho việc học Địa
lí ở các lớp sau. Vậy muốn dạy cho học sinh một tiết Địa lí hấp dẫn, sinh
động, đạt hiệu quả cao để các em có hứng thú ham học mỗi giờ Địa lí. Trước
tiên, tôi phải tìm hiểu những kiến thức, những thông tin về lĩnh vực Địa lí của
từng miền, từng vùng trên đài truyền hình, sách, báo, … nhằm cung cấp thêm
những kiến thức cho các em để giáo dục các em biết yêu thiên nhiên và văn
hoá gần gũi với các em. Mà để đạt được điều này tôi hướng dẫn học sinh thực
hiện bằng các bước cụ thể sau:
Biện pháp 3.1. Rèn kỹ năng đọc và chỉ bản đồ, lược đồ, bảng số liệu
Trong mỗi tiết học của môn Địa lí các em đều phải sử dụng bản đồ, lược
đồ. Vì bản đồ, lược đồ là nguồn cung cấp kiến thức, là đối tượng để học sinh
chủ động, tự lực khai thác kiến thức địa lí, học sinh phải biết đọc các ký hiệu
trên bản đồ, lược đồ, hiểu được ý nghĩa màu sắc được biểu thị trên bản đồ,
lược đồ, xác định được các yếu tố địa lí trên bản đồ.
Ví dụ: Khi dạy bài: Môn Lịch sử và Địa lí
Tôi yêu cầu học sinh phải nêu được ba bước sử dụng bản đồ. Hướng dẫn
học sinh tỉ mỉ cách sử dụng bản đồ, một số đối tượng lịch sử và địa lí trên bản
đồ Địa lí tự nhiên Việt Nam (các hướng, đường biên giới quốc gia, sông,
thành phố...)
Khi dạy bài: Tây Nguyên
Khi hướng dẫn học sinh thực hiện hoạt động 3 (phần hoạt động cơ bản SHDH tập 1) cách chỉ vị trí, giới hạn và mô tả về Tây Nguyên trên bản đồ thì
phải khoanh kín theo ranh giới của khu vực.
Kế đến, tôi cho các nhóm thảo luận HĐ4 bằng phiếu bài tập sau để các
nhóm trao đổi, thảo luận và làm việc với bản đồ:
1. Quan sát “Lược đồ các cao nguyên ở Tây Nguyên”.
6



Đánh dấu X vào ô ý đúng.
Tây Nguyên nằm ở phía nào của dãy núi Trường Sơn Nam?
 Phía Bắc
 Phía Đông
 Phía Nam
 Phía Tây
2. Điền tên các cao nguyên vào bảng theo thứ tự từ thấp đến cao
Thứ tự

Tên các cao nguyên

Độ cao trung bình

Số thứ tự

1.
2.
3.
4.
5.

Kon Tum
500m
Plây Ku
800m
Đắk Lắk
400m
Lâm Viên

1500m
Di Linh
1000m
Khi dạy bài: Đồng bằng Bắc Bộ
Muốn cho học sinh chỉ được đồng bằng Bắc Bộ trên bản đồ Địa lí Việt
Nam và mô tả Đồng bằng Bắc Bộ (HĐ2- HĐ thực hành, SHDH tập 1), tôi yêu
cầu học sinh phải dựa vào màu sắc biểu thị trên bản đồ. Ví dụ như: Đồng bằng
được biểu thị bằng màu xanh lá cây. Đồi núi được biểu thị bằng màu vàng. Màu
vàng càng đậm thì độ cao của địa hình nơi đó càng cao. Muốn hướng dẫn học
sinh xác định vị trí của con sông Cầu, sông Đuống, sông Thái Bình… trên
“Lược đồ đồng bằng Bắc Bộ” ta phải xác định từ đầu nguồn xuống cuối nguồn
của một dòng sông. Muốn xác định được địa điểm của thủ đô Hà Nội, tôi yêu
cầu học sinh chỉ vào kí hiệu chứ không chỉ vào chữ ghi bên cạnh. Muốn học
sinh thấy được sự khác biệt giữ đường biên giới đất liền được biểu hiện bằng
những nét đứt. Muốn hướng dẫn xác định hướng gió, hướng núi chính trên bản
đồ. Đầu tiên tôi hướng dẫn học sinh nắm được phương hướng của bản đồ là:
 Đầu phía trên bản đồ là hướng Bắc
 Đầu phía dưới bản đồ là phía Nam.
 Bên phải bản đồ là hướng Đông.
 Bên trái bản đồ là hướng Tây.
Khi dạy bài: Đồng bằng Nam Bộ
Để xác định được vị trí, giới hạn của đồng bằng Nam Bộ (HĐ1 của phần
HĐ cơ bản, SHDH tập 2). Tôi hướng các em dựa vào phương hướng của bản
đồ để chỉ khu vực Đồng baèng Nam Bộ (Nằm ở hướng Nam của bản đồ).
Ngoài ra, đối với bài này học sinh còn phải dựa vào màu sắc của “Lược đồ tự
nhiên Đồng bằng Nam Bộ” để so sánh diện tích đất, hệ thống sông ngòi, kênh
rạch…. với đồng bằng Bắc Bộ để rút ra kết luận: Đồng bằng Nam Bộ có diện tích
lớn gấp hơn ba lần Đồng bằng Bắc Bộ, hệ thống sông ngòi, kêng rạch chằng chịt,
có nhiều đất phèn, đất bị ngập mặn. Ngoài bản đồ, lược đồ ra, khi học Địa lí các
em còn phải chú ý đến các bảng số liệu. Đối với các bảng số liệu, học sinh không

phải học thuộc mà quan trọng nhất ở đây là các em biết và hiểu được ý nghĩa của
chúng để có thể tự luận, so sánh, đối chiếu, phân tích các số liệu.
Ví dụ: Khi dạy bài: Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ
Tôi cho học sinh quan sát: “Bảng số liệu về diện tích và dân số của một
thành phố lớn.” (HĐ1- phần HĐ thực hành, SHDH tập 2). Qua bảng số liệu
này, tôi yêu cầu học sinh nắm diện tích và dân số của Thành phố Hồ Chí Minh
7


với các thành phố khác như: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ. Để học
sinh nắm được các yêu cầu trên tôi đề ra một số gợi ý cho các nhóm thảo luận
như sau:
+ Đọc tên các cột, hàng trên bảng số liệu.
+ Các số liệu trong bảng được ghi vào thời gian nào? Được biểu thị theo
đơn vị nào?
+ Năm 2011 Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ có diện tích và
dân số là bao nhiêu?
+ Diên tích và dân số Thành phố Hồ Chí minh đứng thứ mấy trong các
thành phố có trong bảng ?
+ Diện tích và dân số Thành phố Cần Thơ đứng thứ mấy trong các thành
phố có trong bảng ?
+ Nêu nhận xét về dân số, diện tích đất ở Thành phố Hồ Chí Minh và thành
phố Cần Thơ.
Qua bảng số liệu về diện tích và dân số ở Thành phố Hồ Chí Minh và
thành phố Cần Thơ, học sinh sẽ tự rút ra nhận xét: Thành phố Hồ Chí Minh có
diện tích lớn thứ hai trong các thành phố trong bảng và số dân lớn nhất trong
các thành phố có trong bảng. Còn thành phố Cần Thơ có diện tích và số dân
đứng thứ tư trong các thành phố có trong bảng.
Khi dạy bài: Hoạt động sản xuất của người dân Tây Nguyên
Qua bảng số liệu về diện tích trồng cây công nghiệp ở Tây Nguyên

(HĐ2a- HĐ thực hành, SHDH tập 1). Học sinh sẽ biết so sánh và rút ra nhận
xét: Tây Nguyên là nơi trồng cà phê nhiều nhất ở nước ta. Đây còn là vùng
chuyên trồng những loại cây công nghiệp lâu năm như cao su, điều…có giá trị
xuất khẩu cao, tương tự để học sinh so sánh, nhận xét phần gia súc ở Tây
Nguyên. Qua bảng số liệu về nhiệt độ trung bình tháng ở Hà Nội (Bài: Hoạt
động sản xuất của người dân ở đồng bằng Bắc Bộ - HĐ2C phần HĐ cơ
bản, SHDH tập 1) Học sinh sẽ nắm được nhiệt độ của từng tháng trong măm ở
Hà Nội. Bên cạnh đó các em còn biết: Vào các tháng mùa đông, nhiệt độ hạ
thấp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng các cây rau xứ lạnh như: bắp cải,
hoa lơ, xà lách…. Mang lại giá trị cao cho người dân ở đây.
Biện pháp 3.2: Hình thành biểu tượng Địa lí
Đây là bước rất quan trọng. Vì vậy phương pháp hình thành biểu tượng
Địa lí tốt nhất là giáo viên phải biết lựa chọn đối tượng quan sát phù hợp với
trình độ học sinh và điều kiện của lớp, của địa phương để cho các em quan sát
trực tiếp các đối tượng tại thực địa hoặc qua tranh ảnh, băng hình……
Ví dụ : Khi dạy bài: Hoạt động sản xuất của người dân Tây Nguyên
Phần HĐ5- HĐ cơ bản, SHDH tập 1: Tìm hiểu về rừng, hình thành biểu
tượng rừng rụng là trong mùa khô (rừng khộp). Tôi cho học sinh quan sát tranh
và thảo luận cặp đôi các tranh sách HDH và tranh mà tôi sưu tầm được. Sau đó
tôi hướng dẫn các em xác định mục đích quan sát về đặc điểm của rừng rụng lá
mùa khô mà các em quan sát từ tranh ảnh là:
+ Rừng thưa
+ Chỉ có một vài cây
+ Lá rụng vào mùa khô
8


Từ đây các em chọn và xếp các ý vào bảng cho phù hợp.
Tiếp đến tôi đề một số phiếu bài tập, câu hở để hướng dẫn các em quan
sát và phân tích tranh (Theo HĐ cặp đôi) như sau:

Câu 1 : Đánh dấu X vào những ý mà em cho là đúng.
Rừng rậm
Rừng khộp là

Rừng thưa
Rừng chỉ có một loài cây 
Rừng có nhiều loài cây 

Câu 2 :
a. Các loài cây trong rừng khộp có kính thước gần như nhau hay rất khác
nhau? (gần như nhau)
b. Các loại cây ở rừng khộp vào mùa khô trông xanh tốt hay xơ xác? Vì sao?
(xơ xác vì rụng gần hết lá )
Câu 3: Rừng khộp có đặc điểm gì khác với rừng rậm nhiệt đới?
Với những câu hỏi, bài tập trên học sinh sẽ rút ra được kết luận: Rừng
khộp là loại rừng thưa, hầu như chỉ có một loài cây (rừng thuần nhất). Cảnh
rừng khộp vào mùa khô trông rất xơ xác vì lá rụng gần hết.
Biện pháp 3.3. Hình thành khái niệm Địa lí.
Hình thành khái niệm Địa lí là một trong những mục đích của việc dạy
Địa lí. Vì thế bước này rất quan trọng. Vậy muốn hình thành khái niệm Địa lí
cho học sinh, tôi yêu cầu các em phải nắm được các dấu hiệu của đối tượng Địa
lí mà các em quan sát được từ thực tế, từ băng hình, tranh ảnh để các em tìm ra
những dấu hiệu, bản chất của đối tượng Địa lí nhằm đưa ra khái niệm đúng về
đối tượng.
Ví dụ: Khi dạy bài: Trung du Bắc Bộ
Sau khi các nhóm đọc đoạn hội thoại (HĐ2- HĐ cơ bản) chuyển sang HĐ
cả lớp điều đầu tiên tôi cho học sinh xác định các tỉnh ở vùng trung du trên bản
đồ Địa lí Việt Nam (tỉnh: Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên). Sau
đó tôi cho học sinh quan sát vùng Trung du qua tranh ảnh và băng hình, rồi tôi
khai thác kinh nghiệm sống của các em bằng những câu hỏi sau :

 Trong lớp ta, em nào đã nhìn thấy vùng Trung du chưa ? Khi nào ? Ở đâu ?
 Em hãy mô tả hoặc vẽ lại vùng Trung du mà em đã thấy.
Tiếp đến tôi yêu cầu học sinh tiếp tục thực hiện hoạt động 3: Làm bài tập
cá nhân vào vở: Viết câu trả lời đúng vào vở
- Vùng đồi với các đỉnh nhọn, sườn thoải xếp cạnh nhau như bát úp.
- Vùng núi với các đỉnh tròn, sườn thoải xếp cạnh nhau như bát úp.
- Vùng đồi với các đỉnh tròn, sườn thoải xếp cạnh nhau như bát úp.
- Vùng núi với các đỉnh nhọn, sườn thoải xếp cạnh nhau như bát úp.
Qua bài tập này các em sẽ phát hiện ra dấu hiệu chung và bản chất của
vùng Trung du (vùng đồi) là: Nằm giữa vùng núi và đồng bằng là một vùng
đồi với các đỉnh tròn, sườn thoải, xếp cạnh nhau như bát úp, nơi đó được gọi
là vùng Trung du.
9


Sau khi hình thành khái niệm Địa lí chung cho học sinh, tôi dựa vào
trình độ của lớp để soạn ra một hệ thống câu hỏi, bài tập nhằm hướng dẫn các
em phát hiện ra dấu hiệu riêng của đối tượng địa lí.
Ví dụ : Khi dạy bài: Dãy núi Hoàng Liên Sơn
Khi học bài này học sinh đã hiểu sơ lược thế nào là dãy núi ở lớp 3, nên
khái niệm về dãy núi Hoàng Liên Sơn có thể hoàn thành bằng cách bổ sung
thêm những đặc điểm riêng như sau:
 Quan sát “Lược đồ các dãy núi chính ở Bắc Bộ” trang 62-SHDH tập 1, tìm
vị trí dãy núi Hoàng Liên Sơn
+ Dãy núi Hoàng Liên Sơn nằm giữa sông Hồng và sông Đà. Các nhóm
cặp đôi dựa vào bản đồ tự nhiên Việt Nam để nhận xét về chiều dài, độ cao của
dãy núi, tìm vị trí và nêu đỉnh cao nhất ở dãy núi Hoàng Liên Sơn, đồng thời so
sánh với độ cao của các dãy núi khác ở nước ta trên bản đồ.
+ Dãy Hoàng Liên Sơn cao đồ sộ, có đỉnh Phan-xi-păng là đỉnh cao
nhất nước ta (3143m)

Quan sát dãy núi Hoàng Liên Sơn qua tranh, nêu các đặc điểm của đỉnh,
sườn, thung lũng.( HĐ4 trang 65)
+ Đỉnh núi nhọn như răng cưa.
+ Sườn rất dốc.
+ Thung lũng hẹp và sâu
Từ kết quả trên, tôi yêu cầu học sinh đưa ra khái niệm về dãy núi
Hoàng Liên Sơn: “Dãy núi Hoàng Liên Sơn là dãy núi nằm giữa sông Hồng
và sông Đà, cao, đồ sộ, có nhiều đỉnh nhọn, sườn dốc, thung lũng hẹp, sâu.
Đỉnh Phan – xi – păng cao nhất nước ta”. Sau khi hình thành khái niệm Địa lí
cho học sinh, tôi yêu cầu các em tìm tòi, phát hiện và nêu những thắc mắc ra
trước lớp để cùng thảo luận và tìm ra câu trả lời hoàn thiện:
Ví dụ: Khi dạy bài: Tây Nguyên.
Qua thảo luận trao đổi nhóm ở phần HĐ cơ bản 1,2,3 SHDH tập 1 học
sinh nêu được khái nịêm về cao nguyên là: Những vùng đất cao, có bề mặt
tương đối bằng phẳng.
Hoặc: Khi dạy bài: Biển, đảo và quần đảo.
Qua thảo luận nhóm và liên hệ thực tế , đọc thông tin (HĐ2- HĐ cơ bản
SHDH tập 2) học sinh tự nêu, giải thích và đưa ra được khái niệm về đảo và
quần đảo.
+ Đảo: Là bộ phận đất nổi, nhỏ hơn lục địa xung quanh, có nước biển
và đại dương bao bọc.
+ Quần đảo: Là nơi tập trung nhiều đảo
Biện pháp 3.4. Giải thích hiện tượng Địa lí
Trong quá trình dạy Địa lí, tôi không để học sinh tiếp nhận suông các
hiện tượng địa lí mà tôi tập cho các em phải biết quan sát sự vật, hiện tượng,
tìm kiếm, thu thập tư liệu về địa lí từ các nguồn khác nhau để tự mình giải
thích được các hiện tượng địa lí gần gũi, đơn giản bằng vốn hiểu biết của các
em. Trong quá trình quan sát sự vật, hiện tượng, tìm kiếm, thu thập tư liệu, tôi
tạo điều kiện cho các em nêu thắc mắc, đặt câu hỏi để các em giải thích, nhận
biết đúng các hiện tượng địa lí. Sau đó tôi tổ chức cho các em trình bày kết

10


quả làm việc của mình. Nếu làm được điều này, tức là đã gây hứng thú, phát
huy được tính tích cực học tập của các em.
Ví dụ: Khi dạy bài: Đồng bằng Bắc Bộ
Tôi tổ chức cho học sinh quan sát tranh “Sông Hồng” kết hợp hướng
dẫn gợi mở để các em tự tìm thông tin và giải thích được:
 Tại sao lại có tên gọi là sông Hồng ?
- Đây là con sông lớn nhất miền Bắc, bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua
Đồng bằng Bắc Bộ rồi đổ ra biển, khi chảy qua Đồng bằng Bắc Bộ, sông chia
thành nhiều nhánh đổ sang sông Thái Bình. Trong quá trình chảy từ thượng
nguồn đến Đồng bằng Bắc Bộ, nước sông quấn theo nhiều phù sa (cát, bùn)
làm cho nước sông có màu đỏ quanh năm. Do đó sông có tên là sông Hồng.
 Tại sao lại có sự chênh lệch nhiệt độ giữa vùng thấp và vùng cao?
- Mặt trời là nguồn cung cấp ánh sáng và nhiệt độ cho trái đất, khi tia sáng
xuyên qua khí quyển rồi đến mặt đất thì lớp không khí đầy bụi bặm ở sát mặt
đất sẽ thu nhiệt nhiều hơn so với lớp không khí trong và loãng ở trên cao.
Nhìn trung cứ lên cao 1000m thì nhiệt độ không khí giảm từ 5 đến 6 độ C, nên
vào mùa hè ở vùng núi thường rất mát mẻ.
Ví dụ: Ở Đà Lạt vào mùa đông cũng lạnh nhưng không chịu ảnh hưởng
của gió mùa Đông bắc, nên không rét buốt như ở miền Bắc. Đà Lạt, Sa Pa là
vùng miền núi, có khí hậu mát mẻ quanh năm nên rất thích hợp cho việc trồng
các loại rau xứ lạnh, rừng thông hai lá.
Khi dạy bài: Đồng bằng Nam Bộ.
Tôi yêu cầu học sinh tìm kiếm, thu thập tài liệu, cộng với vốn kiến thức
của giáo viên gợi mở cho các em để giải thích được:
 Tại sao hệ thống sông ngòi ở Đồng bằng Nam Bộ và Đồng bằng Bắc Bộ lại
có nhiều phù sa ?
Để giải thích được điều này, học sinh phải biết vận dụng những kiến thức

đã học ở bài Đồng bằng Bắc Bộ và Đồng bằng Nam Bộ để phân tích và rút ra
kết luận: do miền đồi, núi chiếm 3/4 diện tích, độ dốc lớn và do có mưa nhiều,
mưa tập chung theo mùa nên đã làm cho rất nhiều lớp đất trên mặt đất bị bào
mòn rồi đưa xuống dòng sông chính. Điều này làm cho sông có nhiều phù sa.
 Nước sông lên xuống theo mùa có ảnh hưởng gì đến đời sống và sản xuất
của người dân? (ảnh hưởng đến giao thông trên sông, tới hoạt động của các
nhà máy thuỷ điện, nước lũ đe doạ đời sống, mùa màng của người dân sống ở
ven sông).
 Tại sao lại có sự khác biệt giữa khí hậu ở miền Bắc với khí hậu ở miền
Nam, hãy nói rõ hơn là tại sao miền Nam ít chịu ảnh hưởng của bão và gió
mùa Đông Bắc?
 Do địa hình trải dài từ Bắc xuống Nam và do có dãy Trường sơn Nam ngăn
cản nên gió mùa Đông Bắc khi thổi tới gặp dãy Trường Sơn Nam ngăn cản (bị
chăn lại).Vì thế miền Nam (phía Nam) không có gió lạnh và không có mùa đông.
Khi dạy bài: Dải đồng bằng duyên hải miền Trung
Tôi yêu cầu học sinh phải tự mình giải thích được các hiện tượng Địa lí mà
các em tìm được. Chẳng hạn như:
11


 Tại sao lại có tên gọi là dải đồng bằng duyên hải miền Trung ?
- Do các đồng bằng nhỏ hẹp ở ven biển chạy dọc theo biển khu vực miền
Trung nên mới gọi là Dải đồng bằng duyên hải miền Trung.
 Tại sao hệ thống sông ngòi ở miền Trung thường nhỏ và ngắn ?
- Do ở miền Trung có nhiều đồi núi và nơi đây chủ yếu là dãy đất hẹp.
 Tại sao vào mùa hạ ở nước ta thường có gió thổi từ Lào sang (còn gọi là
gió Lào)?
Khi gặp dãy núi Trường Sơn, gió bị chặn lại, trút hết mưa ở sườn tây, khi thổi
sang sườn bên kia chỉ còn hơi khô, nóng. Do đó ở đồng bằng duyên hải miền
Trung vào mùa hạ, gió rất khô và nóng. Vào mùa đông ở đây có gió thổi từ biển

vào mang theo nhiều hơi nước gây mưa nhiều. Do sông ở đây ngắn và nhỏ nên
thường có lụt, nước từ núi đổ xuống đồng bằng thường gây ra lũ lụt đột ngột.
HOẶC
 Tại sao lại có tên gọi là Bán đảo Sơn Trà ?( khi học bài: Thành phố Huế
và Thành phố Đà Nẵng)
- Sơn Trà trước vốn là một đảo lớn ngoài khơi. Dần dần nước biển đông
đem phù sa ở cửa sông bồi đắp vào đảo Sơn Trà thành một dải đất chạy từ đảo
vào đất liền.Vùng đảo Sơn Trà từ đó có một phần nối với đất liền, còn lại phần
tiếp xúc với biển, do đó được gọi là bán đảo Sơi Trà.
 Tại sao nói biển có vai trò quan trọng đối với khí hậu nước ta?
- Biển là nguồn cung cấp hơi nước thường xuyên cho những cơn mưa ở
nước ta. Nhờ có gió biển mà khí hậu ở nước ta trở nên mát mẻ ẩm vào mùa
hạ, đỡ hanh khô vào mùa đông. Sở dĩ khí hậu nước ta không khắc nghiệt,
không có hoang mạc, sa mạc như các nước khác, vì lãnh thổ nước ta tiếp giáp
với biển nhiều và có biển ăn sâu vào đất liền.
Biện pháp 3.5. Phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố Địa lí
Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố Địa lí là một bước rất quan trọng. Nó
không thể thiếu được trong quá trình giảng dạy Địa lí. Vì thế tôi luôn hướng
dẫn học sinh biết xác lập mối quan hệ giữa các hiện tượng Địa lí tự nhiên với
Tự nhiên, Tự nhiên với Kinh tế - Xã hội, để các em thấy được sự tương quan,
hỗ trợ giữa các yếu tố Địa lí. Mặt khác, các em sẽ làm quen với cách tìm
nguyên nhận khi biết kết quả.
Ví dụ:
Khi dạy bài: Hoạt động sản xuất của người dân ở Đồng bằng Bắc Bộ
Ở tiết 2 phần HĐ thực hành tôi lập sơ đồ, rồi yêu cầu học sinh điền vào sơ
đồ để rèn kỹ năng xác lập mối quan hệ Địa lí cho học sinh .
 Tìm 3 nguồn lực chính giúp Đồng bằng Bắc Bộ trở thành vựa lúa thứ hai
của cả nước vào sơ đồ.
Đất phù sa màu mỡ
Đồng bằng Bắc Bộ

vựa lúa thứ hai

Nguồn nước dồi dào
Người dân có nhiều kinh nghiệm
12


Tiếp đến tôi yêu cầu học sinh dựa vào trên sơ đồ trên rồi phân tích mối
liên hệ giữa điều kiện tự nhiên – tài nguyên – dân cư – kinh tế. Sông Hồng và
sông Thái Bình là hai con sông lớn ở miền Bắc. Khi đổ ra gần biển, nước sông
chảy chậm đã làm cho phù sa lắng đọng thành các lớp dày. Qua hàng vạn
năm, các lớp phù sa đó đã tạo nên Đồng bằng Bắc Bộ, đây là Đồng bằng lớn
thứ hai của nước ta, có địa hình khá bằng phẳng. Nơi này thuận lợi cho việc
phát triển các vùng chuyên canh cây công nghiệp, xây dựng các đô thị và khu
công nghiệp.
+ Về tự nhiên, đây là nơi có thời tiết diễn ra bất thường, gây trở ngại
cho hoạt động giao thông vận tải cũng như tổ chức sản xuất và đời sống nhất
là ở vùng cao và biên giới.
+ Về tài nguyên, thì do việc chặt phá rừng bừa bãi, dẫn tới xói mòn, sạc
lở đất, lũ quét, làm cho chất lượng bị giảm sút nghiêm trọng, tuy nhiên điều
kiện khí hậu và nguồn nước thuận lợi cho việc thâm canh tăng vụ trong sản
xuất nông nghiệp.Vào mùa đông, thời tiết rất phù hợp cho việc trồng một số
cây ưa lạnh.
+ Về dân cư, thì Đồng bằng Bắc Bộ có số dân sống tập chung ở sông
Hồng. mật độ dân số trung bình là 1179 người/km2. Mặc dù tỉ lệ gia tăng tự
nhiên của dân số trong vùng giảm mạnh nhưng mật độ dân số vẫn cao.Vì thế
dẫn đến đời sống nhân dân còn khó khăn do dân số quá đông.
+ Về diện tích và sản lượng lúa thì Đồng bằng sông Hồng đứng sau
Đồng bằng sông Cửu Long.
Hầu hết ở đây họ trồng lúa, ngô và cây lương thực chính. Đây cũng là

sản phẩm đem lại kinh tế cao. Ngoài ra họ còn trồng cây su hào, bắp cải, cà
chua,….Chăn nuôi trâu, bò, gia cầm, nuôi trồng thuỷ sản đang được phát triển
mạnh.
- Thủ đô Hà Nội là đầu mối giao thông vận tải quan trọng. Thành phố này
là trung tâm du lịch lớn ở phía Bắc nước ta. Ở Đồng bằng sông Hồng có nhiểu
địa danh du lịch hấp dẫn, nổi tiếng như: Chùa Hương, Tam Cốc, Côn Sơn…
Hà Nội, Haûi Phòng và Vịnh Hạ Long tạo thành tam giác kinh tế trọng điểm
ở Bắc Bộ.
- Từ những ý trên tôi yêu cầu các nhóm thảo luận rồi hoàn thành sơ đồ sau:

Điều
kiện
tự
nhiên

Mùa
Đông
Đất
đai
màu
mỡ

Rau
xứ
lạnh
Vựa
lúa
thứ 2

Chăn

nuôi
lợn,
gia
cầm

Vựa lúa thứ 2
13


Khi dạy bài: Thành phố Huế và Thành phố Đà Nẵng
Tôi yêu cầu các nhóm hoàn thành sơ đồ ở phiếu bài tập sau: Đọc phần
HĐ cơ bản của sách hướng dẫn học rồi điền thông tin vào các ô: các ô ở bên
trái là các hàng hoá đưa đến Đà nẵng, các ô ở bên phải là hàng hoá đưa từ Đà
Nẵng đi.
Vật liệu xây
dựng (đá mĩ
nghệ)

Ô tô, thiết
bị máy
móc

Hàng may
mặc

Vải may
quần áo

TP Đà
Nẵng


Đồ dùng
sinh hoạt

Hải sản
(đông
lạnh, khô)

Bằng hoạt động nhóm kết hợp với hình ảnh về các hoạt động sản xuất ở Đà
Nẵng mà các em sưu tầm được thì các em sẽ hiểu và phân tích được: Sản phẩm
của Đà Nẵng chở đến các nơi khác chủ yếu là nguyên liệu chưa chế biến như: cá,
tôm đông lạnh để cung cấp cho các nhà máy chế biến, vật liệu thô như: đá để xây
dựng. Nếu các sản phẩm đông lạnh được chế biến sẽ có giá trị cao hơn rất nhiều.
Đà Nẵng có các cơ sở sản xuất hàng tiêu dùng, dệt chế biến thực phẩm, đóng tàu,
sản xuất viật liệu xây dựng. Hiện nay Đà Nẵng đã xuất hiện những khu công
nghiệp lớn thu hút nhiều nhà đầu tư. Đà Nẵng trở thành trung tâm công nghiệp lớn
và quan trọng của miền Trung.
Khi dạy bài: Biển, đảo và quần đảo
Ở ngay hoạt động 5, hoạt động 6 (HĐ cơ bản), tôi yêu cầu các nhóm đôi
hoàn thiện bảng kiến thức tổng hợp dưới đây.
Vùng biển Việt Nam
Khai thác khoáng
sản

Sản phẩm:
Dầu mỏ và
khí đốt

Sản phẩm:
Cát trắng


Đánh bắt và nuôi
trồng thuỷ sản

Sản phẩm: Cá

Sản phẩm:
Tôm, bào
14


Khi đã hoàn thành sơ đồ trên, tôi yêu cầu các nhóm trình bày nội dung
kiến thức vừa học: Về việc khái thác dầu mỏ và khí đốt, tính tới nay, nước ta
đã khai thác được hơn 100 triệu tấn dầu và hàng tỉ mét khối khí phục vụ cả
trong nước và xuất khẩu. Hiện nay đang tiến hành xây dựng nhà máy lọc hoá
dầu Nghi Sơn thưộc huyện Tỉnh Gia, tỉnh Thanh Hoá. Ngoài dầu khí, nước ta
còn khai thác cát trắng để làm nguyên liệu cho công nghiệp thuỷ tinh ở ven
biển Khánh Hoà, Quảng Ninh. Vùng biển nước ta rất giàu hải sản, có hàng
nghìn loài cá, có hàng trăm loài tôm, những loài cá, loài tôm ngon, nổi tiếng
có giá trị như cá chim, cá thu, tôm hùm, tôm he…Hoạt động đánh bắt và khai
thác hải sản nước ta diễn ra khắp vùng biển kể từ Bắc vào Nam, nhiều nhất là
ở các tỉnh ven biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang.
Từ những ý trên, tôi yêu cầu mỗi cá nhân học sinh điền vào sơ đồ để
các em thấy được nguồn hải sản không phải là vô tận, vì thế ta phải có biện
pháp bảo vệ nguồn hải sản của nước ta.
Ba biện pháp bảo vệ nguồn
hải sản của nước ta
Giữ vệ sinh
môi trường
biển


Không xả
rác, dầu
xuống biển

Đánh bắt, khai
thác hải sản theo
quy trình, hợp lý

Biện pháp 3.6. Liên hệ thực tế để khắc sâu kiến thức cho học sinh
Để tiết học Địa lí được sinh động, hấp dẫn, phát huy được tình tích cực
của học sinh, không những tôi cung cấp kiến thức Địa lí ở sách học mà còn
cung cấp cho các em kiến thức từ cuộc sống, ngoài thực tế xã hội, để các em
có được vốn kiến thức khá đầy đủ vừa ở sách vừa ở cuộc sống thực tế. Muốn
làm được điều này, tôi phải học hỏi, thu thập những kiến thức về Địa lí qua
các nguồi tài liệu, để làm giàu thêm vốn hiểu biết của các em bằng việc tổ
chức cho các em đi khảo sát thực tế, tổ chức các giờ học ngoài lớp, đi tham
quan các cảnh đẹp, di tích văn hoá… nhằm làm cho tiết học Địa lí trở nên sinh
động, thiết thực và hấp dẫn hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài: Tây Nguyên
Ở hoạt động 5 (HĐ cơ bản, SHDH tập 1) tôi cho lớp quan sát bộ cồng
chiêng qua tranh rồi tôi liên hệ để học sinh thấy được: Các lễ hội ở Tây
Nguyên thường được tổ chức vào mùa xuân hoặc sau mỗi vụ thu hoạch. Có
những lễ hội như hội đua voi, lễ hội cồng chiêng, hội đâm trâu….Các hoạt
động của các lễ hội thường là nhảy múa, uống rượu cần, đánh cồng chiêng.
Hiện nay, bộ cồng chiêng của người dân Tây Nguyên được UNETCO công
nhận là di sản văn hoá. Đây là nhạc cụ đặc biệt quan trọng với người dân nơi
này.
15



Khi dạy bài : Hoạt động sản xuất của người dân ở Tây Nguyên (HĐ
5- Tìm hiểu rừng và khai thác rừng) Tôi yêu cầu các em dựa vào tranh đã sưu
tầm để tìm thông tin và trình bày khai thác rừng và những nguyên dẫn đến
diện tích rừng bị giảm. Sau đó tôi giảng thêm rằng: Rừng Tây Nguyên cho ta
nhiều sản vật nhất là gỗ. Ngoài gỗ, rừng còn có tre, nứa, mây, các loại cây làm
thuốc và nhiều thú quý. Tuy nhiên hiện nay do phong trào di dân tự do từ các
nơi khác đến Tây Nguyên để phá rừng, lấy đất trồng cây cộng nghiệp (cà phê,
cao su, tiêu…), nên rừng ở Tây Nguyên bị chặt phá bừa bãi, dẫn đến diện tích
rừng giảm mạnh, môi trường bị huỷ hoại, gây nhiều thiệt hại cho sản xuất và
đồi sống của con người. Vì thế chúng ta phải bảo vệ rừng bằng nhiều cách:
+ Khai thác rừng hợp lý.
+ Tạo điều kiện để đồng bào định canh định cư.
+ Không đốt phá rừng.
+ Mở rộng diện tích trồng cây.
+…
Khi dạy bài: Biển, đảo và quần đảo
Để cho tiết học được sinh động, thu hút học sinh, tôi tổ chức cho lớp
thăm cảnh biển qua tranh ảnh, kết hợp với việc xem băng hình về các đảo và
quần đảo ở nước ta để học sinh thấy được: Chúng ta đã lợi dụng thuỷ triều lên
xuống để đánh bắt cá và làm muối. Biến nước ta có trên 2000 loài cá, hơn 100
loài tôm có giá trị xuất khẩu cao, và nhiều hải sản quý khác như: hải sâm, bào
ngư, đồi mồi,… Dọc bãi biển có nhiều bãi cát chứa ô xít, tital có giá trị xuất
khẩu. Biển nước ta là nguồn muối vô tận. Nghề làm muối được phát triển từ
lâu đời ở vùng ven biển từ Bắc vào Nam. Đặc biệt là ven biển Nam Trung Bộ
ở Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Cà Ná (Ninh Thuận) Việt Nam có nguồn tài
nguyên du lịch phong phú. Dọc bờ biền nước ta, suốt từ Bắc vào Nam có
nhiều bãi cát rộng, dài, phong cảnh đẹp, thuận lợi cho việc xây dựng các khu
du lịch. Nhiều đảo ven bờ có phong cảnh kỳ thú hấp dẫn khách du lịch. Đặc
biệt Vịnh Hạ Long được UNETCO công nhận là di sản thiên nhiên thế

giới.Tuy nhiên trong những năm gần đây diện tích rừng ngập mặn nước ta
giảm nhanh. Nguồn lợi hải sản cũng giảm đáng kể, khiến cho lượng cá đánh
bắt hàng năm giảm, một số loài hải sản có nguy cơ tuyệt chủng như: có mòi,
cá cháy…
Ô nhiễm môi trường có xu hướng gia tăng rõ rệt làm cho chất lượng
nhiều vùng biển của nước ta giảm sút. Hậu quả là làm giảm nguồn tài nguyên
sinh vật biển, ảnh hưởng xấu tới chất lượng của khu du lịch biển.Vì vậy chúng
ta phải bào vệ giống loài, không đánh bắt cá bừa bãi, giữ vệ sinh môi trường
biển, lập khu bảo tồn động vật biển.
Qua tìm hiểu xong phần hoạt động cơ bản của bài. Tôi hướng dẫn học
sinh thấy được nước ta có nhiều loại khoáng sản nhưng nguồn dự trữ của từng
mỏ không lớn. Nếu khai thác không có kế hoạch thì nguồn khoáng sản sẽ cạn
kiệt nhanh chóng.
Biện pháp 3.7. Tổ chức thi đua khen thưởng qua những trò chơi
Trong những yếu tố quyết định cho phần kiểm tra, củng cố kiến thức
sau bài học đạt chất lượng cao đó là “Tổ chức thi đua khen thưởng qua những
16


trò chơi ”. Muốn làm tốt bước này tôi phải luôn thay đổi trò chơi với nhiều
hình thức mới lạ nhằm tạo hứng thú cho học sinh đẻ thu hút các em học tập.
Ví dụ: Khi dạy bài:
+ Tôi tổ chức cho học sinh chơi trò: “Ô CHỮ BÍ ẨN ”
+ Luật chơi :
+ Tôi chuẩn bị sẵn các ô chữ với các nội dung khác nhau, có kèm theo
những lời gợi ý.
+ Các nhóm có nhiệm vụ giải các ô chữ đó, dựa vào lời gợi ý .
+ Nhóm nào giải được ô chữ nhanh và đúng nhất, sẽ nhận được một
phần thưởng.
+ Nội dung ô chữ:

1. Nơi đặt phần lớn hoặc tất cả các cơ quan quyền lực chính của một
quốc gia gọi là gì? ( 5 chữ cái)
2. Tên các phố cổ Hà Nội thường bắt đầu bằng từ gì? ( 4 chữ cái)
3. Tên con sông lớn chảy qua Hà Nội ( 8 chữ cái)
4. Tên sân bay quốc tế lớn ở Hà Nội ( 6 chữ cái)
5. Một trong số các tên gọi trước đây của Hà Nội ( 5 chữ cái)
T H Ủ Đ Ô
H À N G
S Ô N G H Ồ N G
N Ộ I
B À I
Đ Ạ I
L A
Tổ chức trò chơi " Ai nhanh, ai đúng" ở một số các bài sau:
Bài Dãy núi Hoàng Liên Sơn về quy trình sản xuất phân lân.
Bài Trung du Bắc Bộ về quy trình chế biến chè.
Bài Tây Nguyên về nối tên một số dân tộc ở Tây Nguyên.
Bài Hoạt động sản xuất của người dân đồng bằng Bắc Bộ về các công việc
trong việc sản xuất lúa gạo.
Ví dụ: Bài
+ Luật chơi :
+ Tôi chuẩn bị sẵn các thẻ chữ sau: Tuốt lúa, gặt lúa, phơi thóc, xếp gạo
lên tàu để xuất khẩu, xay xát gạo và đóng bao.
+ Các nhóm xếp các cụm từ trên vào sơ đồ

+ Nhóm nào xếp nhanh và đúng nhất, sẽ nhận một tràng vỗ tay.
Hoặc có thể tổ chức trò chơi " Giải ô chữ"
+ Luật chơi :
17



+ Tôi chuẩn bị sẵn các ô chữ với các nội dung khác nhau, có kèm theo
những lời gợi ý.
+ Học sinh cả lớp có nhiệm vụ giải các ô chữ đó, dựa vào lời gợi ý của
giáo viên.
+ Học sinh nào giải được ô chữ nhanh và đúng nhất, sẽ nhận được một
phần thưởng.
+ Nội dung ô chữ:
1. Đây là khoáng sản được khai thác chủ yếu ở Đồng bằng Nam Bộ
D

U
M

2. Nét văn hoá độc đáo của người dân Nam Bộ thường diễn ra ở đây.
S
Ô
N
G
3. Đây là một hoạt động sản xuất của người dân đối với lương thực, thực
phẩm, đem lại hiệu quả lớn.
C
H

B
I

N
4. Đồng bằng Nam Bộ được mệnh danh là …….. phát triển nhất của nước ta
V

Ù
N
G
C
Ô
N
G
N
G
H
I

P
Khi dạy bài Biển, đảo và quần đảo
Tổ chức trò chơi " Chỉ nhanh, chỉ đúng"
Luật chơi:
- Trên bảng treo lược đồ hoặc bản đồ. Từng cặp học sinh lên bảng.
- Nghe theo yêu cầu của giáo viên để thực hiện. Ví dụ
+ Hãy chỉ vịnh Bắc Bộ
+ Hãy chỉ quần đảo Trường sa
+ Hãy chỉ đảo Phú Quốc.
+ ....
- Nhóm nào có các cặp chỉ đúng và nhiều nhất sẽ thắng cuộc và được
nhận phần thưởng.
Khi dạy bài Thành phố Huế và thành phố Đà Nằng hoặc bài Thành phố
Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ hướng dẫn học sinh làm “HƯỚNG DẪN
VIÊN DU LỊCH”
- Hãy đóng vai là một hướng dẫn viên du lịch, giới thiệu về một địa
danh trên đất nước Việt Nam (ví dụ theo chủ đề danh lam thắng cảnh, trung
tâm công nghiệp, thiên nhiên, dân tộc, lễ hội....).

Khi dạy phần hoạt động thực hành ở một số bài
Có thể tổ chức cho học sinh những trò chơi sau:
a. Trò chơi: “AI CHỈ ĐÚNG”
Tôi chuẩn bị sẵn các băng giấy ghi tên các địa danh: dãy núi Hoàng
Liên Sơn, đỉnh Phan – xi – păng, Đồng bằng Bắc Bộ, Đồng bằng Nam Bộ, các
Đồng Bằng duyên hải Miền Trung, các cao nguyên ở Tây Nguyên, Hà Nội,
Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Biển Đông, quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa, Cát Bà, Côn Đảo, Phú Quốc.

18


Nhiệm vụ của các đội chơi: Lần lượt lên bốc thăm, trúng địa danh nào,
đội đó phải xác định đúng vị trí và dán tên địa danh đó vào bản đồ trống Địa
Lí tự nhiên Việt Nam.
- Nếu chỉ đúng và gián đúng vị trí : Đội ghi được 10 điểm
- Nếu chỉ sai: Đội không ghi được điểm nào.
b. Trò chơi: “AI KỂ ĐÚNG”
- Tôi chuẩn bị sẵn các bông hoa, trong đó ghi: dãy núi Hoàng Liên Sơn,
Tây Nguyên, đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng Nam Bộ, Duyên hải miền Trung.
- Tôi yêu cầu nhiệm vụ các đội chơi: lần lượt lên bốc thăm, trúng địa danh
nào, phải kể tên được các dân tộc và một số đặc điểm về trang phục, lễ hội của
dân tộc đó.
- Nêu đúng tên các dân tộc và kể được những đặc điểm chính: đội ghi
được 10 điểm.
- Nếu sai: đội không ghi được điểm.
c. Trò chơi: “AI NÓI ĐÚNG”
- Tôi chuẩn bị các băng giấy: Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, TP HCM, Cần Thơ.
- Nhiệm vụ các đội chơi: Lần lượt các đội chơi lên bốc thăm, trúng thành
phố nào, phải nêu được một số đặc điểm tiêu biểu về thành phố đó.

- Nếu đúng các đặc điểm về thành phố: đội ghi được 5 điểm.
- Nếu sai: đội không ghi được điểm.
* Sau khi kết thúc trò chơi, có tổng kết và dành ra một số phần quà nhỏ
như: bút chì, nhãn vở,… trao cho các đội thắng để khuyên khích tinh thần
hăng say học tập của các em.
Biện pháp 3.8. Giáo dục lòng yêu thích môn Địa lí
Qua những bài học, những hoạt động cơ bản và hoạt động thực hành trên
bản đồ, học sinh sẽ tự mình giải thích được các hiện tượng Địa lí đơn giản
bằng những kiến thức mà mình đã học, và tự mình tìm hiểu các vùng, miền
trên đất nước về điều kiện tự nhiên, về đặc điểm kinh tế của từng nơi, biết
phân tích các mối liên hệ giữa các hiện tượng Địa lí. Trong quá trình học, các
em biết được các vùng, miền, thành phố…. nằm ở phía nào (phần nào) của
bản đồ; Địa hình khí hậu, sông ngòi, thực vật, động vật nơi đó ra sao? Tóm lại
các em có thể du lịch vòng quanh đất nước Việt Nam bằng tấm bản đồ. Từ đó
các em sẽ biết tôn trọng, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và văn hoá gần gũi với
các em.
Qua phần tìm hiểu những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ở các bài Địa
lí học sinh sẽ biết nhân dân ở mỗi khu vực sinh sống và hoạt động như thế
nào? khai thác và sử dụng điều kiện tự nhiên ở nơi đó ra sao? Qua đó các em
hiểu biết hơn về đời sống của nhân dân ta ở từng nơi, từng vùng. Từ đây, HS
sinh sẽ hãnh diện về tinh thần vượt khó, cần cù lao động của người Việt Nam,
về những nét văn hoá độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc, đồng thời thêm lòng
yêu hiện nhiên, con người, quê hương, đất nước. Vậy sau khi học xong phần
Địa lí các em thấy rằng: Đất nước ta rất giàu về tài nguyên như tài nguyên
khoáng sản, động, thực vật….Thông qua phần Địa lí các em thấy tự hào về đất
nước của mình. Muốn sử dụng các nguồn tài nguyên đó để làm giàu cho đất
19


nước thì điều đó còn phụ thuộc vào tinh thần, khả năng học tập của mỗi chúng

ta.
 Ngoài những biện pháp trên. Khi dạy Địa lí lớp 4 tôi còn phải:
+ Trong quá trình dạy học tôi sử dụng bản đồ thường xuyên, triệt để ở mọi
khâu: ở các phần hoạt động cũng như kiểm tra….
+ Khi chỉ bản đồ, lược đồ, cần rèn luyện cho các em thói quen dùng thước kẻ
nhỏ hoặc que dài để chỉ.
+ Vận dụng tối đa những điều kiện cụ thể ở lớp, ở địa phương để tổ chức các
giờ học ngoài lớp như tham quan cảnh đẹp, nhà văn hoá,…
+ Không yêu cầu học sinh phải học thuộc lòng các câu các chữ trong sách
hướng dẫn học hay trong vở ghi mà yêu cầu các em trình bày các khái niệm
các hiện tượng Địa lí… bằng chính ngôn ngữ của mình một cách chính xác,
sinh động dưới nhiều hình thức: nói, vẽ, viết….
+ Phần trắc nghiệm của đề kiểm tra thì phải có nhiều lựa chọn để đề kiểm tra
được toàn diện và khách quan.
+ Bên cạnh việc giáo viên đánh giá học sinh, học sinh được đánh giá lẫn nhau
và tự đánh giá bản thân.
Tóm lại khi dạy học Địa lí, thầy cô giáo cần trang bị các biểu tượng địa lí,
giáo dục lòng yêu thích địa lí, tổ chức nhiều hình thức phong phú nhất là trò
chơi học tập để tạo hứng thú cho học sinh. Và như chúng ta đã biết tâm lý học
sinh Tiểu học là rất thích khen. Vì vậy, các thầy cô đừng quên khen để động
viên khích lệ các em học tập. Đồng thời mỗi bài học địa lí phải gắn với đời
sống thực tiễn của các em như thế nào, các em liên hệ được gì nơi các em sinh
sống. Có như vậy tiết học địa lí mới mang lại hiệu quả cao.
IV. KIỂM NGHIỆM :

Sau gần một năm áp dụng các biện pháp tôi đưa ra ở trên. Tôi nhận thấy,
học sinh khối lớp 4 đã hăng say học Địa lí, các em rất tích cực chủ động học
tập. Đa phần học sinh đã biết ứng dụng bản đồ, lược đồ Địa lí phục vụ cho
việc học tập. Quan trọng hơn qua môn học các em đã thấy yêu quê hương, đất
nước mình, tự hào về quê hương đất nước mình hơn.

C. KÕt luËn VÀ ĐỀ XUẤT :

Qua quá trình thực hiện các biện pháp trên, tôi thấy các em học sinh có
sự chuyển biến rõ rệt về môn Địa lí và các môn học khác như Lịch sử, Khoa
học…, nhất là các em đã yêu thích , hứng thú học các tiết Địa lí. Bên cạnh đó
kỹ năng đọc, chỉ bản đồ, phân tích bảng số liệu, các mối quan hệ Địa lí đơn
giản…thành thạo, nên trong các tiết Hoạt động thực hành được tiến hành tốt
và đạt kết qủa cao, lớp học rất sôi động thông qua hoạt động nhóm, cặp đôi, cá
nhân… Có bài Địa lí các em không cần phải học thuộc lòng mà thông qua các
lược đồ, bản đồ của tiết học đó thì các em có thể hiểu được toàn bộ nội dung
bài học đầy đủ, chính xác. Điều đáng mừng hơn nữa là các em rất có ý thức tự
giác trong học tập. Nhờ học tốt môn Địa lí mà các em biết vận dụng các kiến
thức đã học vào cuộc sống trong việc yêu thiên nhiên, con người, quê hương,
đất nước, tôn trọng, bảo vệ, môi trường và di sản văn hoá. Cũng qua thực tiễn
20


tôi thấy các biện pháp tôi đưa ra là rất hiệu quả. Vì vậy, muốn giúp học sinh
học tốt môn Địa lí lớp 4 giáo viên cần phải:
- Rèn kỹ năng đọc, chỉ bản đồ, lược đồ, phân tích bảng số liệu một cách
thành thạo.
- Hình thành biểu tượng và khái niệm Địa lí cho học sinh.
- Tập cho các em biết giải thích các hiện tượng Địa lí, biết xác lập và
phân tích được các mối liên hệ giữa các yếu tố Địa lí đơn giản.
- Trong quá trình dạy, phải thường xuyên liên hệ những kiến thức có
liên quan đến thực tế, đồi sống xã hội.
- Tổ chức thi đua khen thưởng cho học sinh qua những trò chơi.
- Giáo dục học sinh lòng yêu thích bộ môn Địa lí
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ. Tôi hy vọng kinh nghiệm này sẽ
góp phần nâng cao chất lượng học sinh trong môn Địa lí. Tôi mong nhận được

sự đóng góp ý kiến cho sáng kiến kinh nghiệm này thêm hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan trên đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác

Lê Thị Hà

21



×