Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số giải pháp huy động nguồn lực xã hội hóa giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.35 KB, 20 trang )

A. MỞ ĐẦU.
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đại hội lần thứ XI của Đảng ta đã xác định “Phát triển giáo dục là Quốc
sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng
chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế,...”. Như
vậy, “xã hội hoá” là một trong 5 hướng đổi mới của Đảng ta đối với sự nghiệp
giáo dục. Chính vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước đã thường xuyên có những chính
sách và giải pháp để thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển. Trong đó xã hội hóa
giáo dục là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục, một
con đường phát triển giáo dục, một tư tưởng chỉ đạo quá trình xây dựng và phát
triển giáo dục nhằm tạo sự chuyển biến sâu sắc, có tính cách mạng trong hoạt
động thực tiễn, trở thành một hoạt động học tập rộng lớn và sâu sắc bắt rễ vào
các lĩnh vực đời sống vật chất, tinh thần của xã hội để đảm bảo cho giáo dục là
sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội.
Mặt khác, xã hội hoá không phải là một hiện tượng mới đối với giáo dục.
Trước khi đặt ra chính sách xã hội hoá thì bản thân nó đã tồn tại trong thực tế
làm giáo dục ngay từ trong lịch sử xa xưa đến những năm đầu lập nước như
phong trào diệt giặc dốt, xoá nạn mù chữ, … và ngay cả trong chiến tranh, dưới
làn mưa bom bão đạn, chính quyền và người dân vẫn duy trì sự phát triển giáo
dục trong điều kiện hết sức khó khăn... Đến ngày nay, xã hội hóa giáo dục đã
thực sự trở thành một nội dung quan trọng của sự nghiệp đổi mới giáo dục.
Xã hội hóa giáo dục là vận động toàn xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo
dục, nhằm phát huy truyền thống hiếu học và tiềm năng con người trong quá
trình xây dựng nền giáo dục hiện đại dưới sự quản lý của nhà nước để phục vụ
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao mức hưởng thụ
từ giáo dục của nhân dân.
Xã hội hóa giáo dục là mọi người có nghĩa vụ chăm lo phát triển giáo dục,
đồng thời để giáo dục phục vụ cho mọi người. Đây là hai yêu cầu của xã hội hóa
giáo dục: Một là phải xã hội hóa trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi người đối với
giáo dục; Hai là xã hội hóa quyền lợi về giáo dục. Hai yêu cầu này có quan hệ
chặt chẽ, tác động lẫn nhau và thực hiện liên kết, hợp đồng với nhau. Trong đó


yêu cầu về xã hội hóa quyền lợi về giáo dục là đỉnh cao, là mục tiêu, cốt lõi của
xã hội hóa giáo dục; Tuy nhiên xã hội hóa trách nhiệm nghĩa vụ của mọi người
đối với giáo dục là điều kiện nền tảng để xã hội hóa quyền lợi về giáo dục.
Như vậy xã hội hóa công tác giáo dục còn là việc mở rộng các nguồn đầu
tư, khai thác tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội, phát huy và
sử dụng hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho giáo dục phát
triển. Đây không những là chính sách lâu dài trong việc thực hiện các chính sách
xã hội của Đảng ta mà còn là biện pháp cần thiết trong giai đoạn mà nhà nước
chưa có đủ kinh phí cần thiết cho các hoạt động giáo dục. Hiện nay, phần lớn
ngân sách giáo dục dùng để chi trả lương cho giáo viên (ước khoảng là 85%),
1


phần chi các hoạt động giáo dục khác còn lại quá ít (ước khoảng 15%), phần chi
cho xây dựng, tu bổ cơ sở vật chất hạn chế. Nguồn tài chính huy động qua cuộc
vận động xã hội hóa giáo dục là nguồn tài chính do các cơ quan nhà nước, tổ
chức phi chính phủ, tổ chức hội, đoàn thể, cá nhân có lòng hảo tâm…tự nguyện
đóng góp để phát triển giáo dục.
Trong những năm qua, công tác xã hội hoá giáo dục ở địa phương đã có
nhiều chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, trên thực tế chưa phát huy được hết thế
mạnh của nó, cá biệt còn có những người dân vẫn còn thờ ơ với giáo dục, còn
quan niệm, tư tưởng trông chờ, ỷ nại, còn cho rằng giáo dục là nhiệm vụ của các
thầy cô giáo, là sự nghiệp, là nhiệm vụ riêng của các nhà trường nên việc huy
động xã hội hóa giáo dục các nguồn lực nói chung và việc đầu tư tài chính, huy
động cơ sở vật chất là ngân sách của nhà trường, ngân sách của địa phương, của
nhà nước. Không những thế mà còn không ủng hộ, thiếu hợp tác trong xã hội
hóa giáo dục, còn có tình trạng đơn thư nặc danh khiếu nại, tố cáo vượt cấp gây
ảnh hưởng lớn đến uy tín của các nhà giáo dục, đồng thời làm ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng giáo dục. Đặc biệt tình trạng đơn thư nặc danh khiếu nại, tố
cáo vượt cấp là bước rào cản lớn, cản trở đến tiến độ và hiệu quả huy động công

tác xã hội hóa giáo dục, ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp phát triển của nhà
trường. Nguyên nhân của những tồn tại trên đó chính là việc tuyên truyền để
nâng cao nhận thức của toàn xã hội về xã hội hóa giáo dục còn nhiều hạn chế.
Công tác chỉ đạo xã hội hóa giáo dục cũng chưa thực sự có chiều sâu và đạt hiệu
quả cao. Tong đó việc một số cơ sở còn sảy ra tình trạng lạm thu, thu trái quy
định làm ảnh hưởng chung đến công tác xã hội hóa giáo dục cũng như sự nghiệp
giáo dục chung.
Để thực hiện chủ đề năm học “Đổi mới công tác quản lý để nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện”, tiếp tục hưởng ứng cuộc vận động "Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực", thực hiện mục tiêu “Giữ vững và
nâng cao chất lượng trường Chuẩn quốc gia, đơn vị đạt chuẩn văn
hóa”, đòi hỏi phải hoàn thiện đầy đủ các tiêu chuẩn, các hạng mục về cơ sở vật
chất, thiết bị dạy học yêu cầu bức thiết phải thực hiện công tác xã hội hóa giáo
dục. Để vượt qua những rào cản và thực hiện thành công công tác xã hội hóa
giáo dục ở nhà trường, tôi đã trăn trở, tìm tòi và nghiên cứu các giải pháp thực
hiện. “Một số giải pháp huy động nguồn lực xã hội hóa giáo dục” là đề tài
mà tôi lựa chọn để nghiên cứu. Đề tài đã có những bước tiến vững chắc và mang
lại nhiều chuyển biến đáng kể trong công tác xã hội hóa giáo dục, đã đóng góp
không nhỏ cho sự nghiệp giáo dục của địa phương.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Kết quả nghiên cứu, vận dụng đề tài của tôi trong thời gian qua về “Một số
giải pháp huy động nguồn lực xã hội hóa giáo dục” để nhằm đánh giá thực
trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục cơ bản những thực trạng khó
khăn, huy động tối đa các nguồn lực tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy
2


học cũng như tạo cảnh quan môi trường, góp phần thực hiện cuộc vận động
"Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" và tiếp tục thực hiện
mục tiêu “Giữ vững và nâng cao chất lượng trường Chuẩn quốc gia, đơn vị

đạt chuẩn văn hóa”.
Đề tài “Một số giải pháp huy động nguồn lực xã hội hóa giáo dục” sẽ
một phần giúp cho người cán bộ quản lý có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về
nhiệm vụ của mình để chỉ đạo công tác xã hội hóa giáo dục một cách linh hoạt,
nhạy bén và hiệu quả. Đồng thời đòi hỏi các trường học phải biết vận dụng chủ
trương xã hội hóa của nhà nước, đề ra biện pháp đúng đắn để thực hiện đạt hiệu
quả. Sau khi vận dụng đề tài, công tác xã hội hóa giáo dục của nhà trường nói
riêng, của địa phương nói chung sẽ được nâng lên góp phần xây dựng môi
trường giáo dục lành mạnh xanh-sạch-đẹp, chất lượng giáo dục phát triển bền
vững, góp phần xây dựng thành công chương trình nông thôn mới ở địa phương.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
Xã hội hóa giáo dục là vận động toàn xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo
dục, nhằm phát huy truyền thống hiếu học và tiềm năng con người trong quá
trình xây dựng nền giáo dục hiện đại dưới sự quản lý của nhà nước để phục vụ
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao mức hưởng thụ
giáo dục của nhân dân. Vì vậy xã hội hóa giáo dục gồm 2 thành phần chính, đó
là: Xây dựng một xã hội học tập trong đó mọi người học tập thường xuyên, học
tập suốt đời và Vận động toàn xã hội tham gia đóng góp cho giáo dục. Đề
tài “Một số giải pháp huy động nguồn lực xã hội hóa giáo dục” chỉ tập trung
nghiên cứu tại trường Tiểu học Hà Thanh với nội dung: Vận động toàn xã hội
tham gia đóng góp cho giáo dục. Để huy động xã hội hóa giáo dục có rất nhiều
giải pháp, phạm vi đề tài này tác giả chỉ đi sâu vào một số giải pháp trọng tâm
phù hợp với tình hình cụ thể trong nhà trường, chú trọng các giải pháp huy động
nguồn lực xã hội hóa giáo dục tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị tạo điều kiện
cho học sinh khi đến trường được an toàn, thân thiện và vui vẻ.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Đề tài “Một số giải pháp huy động nguồn lực xã hội hóa giáo dục” được
nghiên cứu trên cơ sở thu thập thông tin để xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu;
điều tra, khảo sát thực tế để nắm bắt về thực trạng vấn đề nghiên cứu; đồng thời
thống kê, xử lý số liệu để đánh giá hiệu quả của đề tài.

B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương II khoá VIII đã chỉ rõ: “Giáo
dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”.
Nghị quyết số 29-NQ/W ngày 14/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương
khóa XI của Đảng ta tiếp tục xác định “Phát triển giáo dục là Quốc sách hàng
đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá,
hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế,...”
3


Thực hiện chủ trương đường lối, các nghị quyết của Đảng, Bộ giáo dục &
Đào tạo quan tâm chỉ đạo phát triển và đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo,
trong đó đã có nhiều văn bản chỉ đạo xây dựng phát triển và đổi mới sự nghiệp
giáo dục và đào tạo Bậc tiểu học như: Quyết định số 1336/GD-ĐT ngày 26
tháng 4 năm 1997 Quyết định về việc ban hành Quy chế công nhận trường Tiểu
học Đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 1996-2000; Quyết định số 32/2005/QĐBGD&ĐT ngày 24 tháng 10 năm 2005 về việc ban hành Quy chế công nhận
trường Tiểu học đạt chuẩn quốc gia; Thông tư số 59/2012/TT-BGDĐT ngày 28
tháng 12 năm 2012 về việc Ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá, công
nhận trường tiểu học đạt mức chất lượng tối thiểu, trường tiểu học đạt chuẩn
quốc gia, với mục tiêu là căn cứ để xây dựng kế hoạch đầu tư các nguồn lực
cho giáo dục tiểu học, góp phần thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ
tuổi, tạo điều kiện đảm bảo cho trường tiểu học không ngừng nâng cao chất
lượng, hiệu quả giáo dục.
Cùng với thực hiện các cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi
cử và bệnh thành tích trong giáo dục”, “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo
đức, tự học và sáng tạo”, để tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác
giáo dục toàn diện cho học sinh, đồng thời xây dựng trường tiểu học đạt mức
chất lượng tối thiểu, trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia là thực hiện Chỉ thị số
40/2008/CT-BGD&ĐT ngày 22 tháng 7 năm 2008 về việc phát động phong trào

thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường
phổ thông nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài
nhà trường để xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù
hợp với điều kiện của địa phương và đáp ứng nhu cầu xã hội. Đồng thời phát
huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập và các hoạt
động xã hội một cách phù hợp và hiệu quả.
Yêu cầu của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” là tập trung các nguồn lực để giải quyết dứt điểm những yếu kém
về cơ sở vật chất, thiết bị trường học, tạo điều kiện cho học sinh khi đến trường
được an toàn, thân thiện, vui vẻ.
Trong công tác tham mưu của nhà trường với cấp ủy Đảng, chính quyền và
phối hợp với các tổ chức đoàn thể của địa phương phải huy động, sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực xã hội để xây dựng cơ sở vật chất, bổ sung phương tiện, thiết
bị dạy học (theo tiêu chuẩn 3- Tiểu chuẩn đánh giá trường Tiểu học đạt chuẩn
Quốc gia), khen thưởng học sinh học giỏi, hỗ trợ học sinh nghèo.
Trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế của đất nước còn gặp nhiều khó
khăn, ngân sách nhà nước chưa có điều kiện đầu tư để đáp ứng nhu cầu xây
dựng các trường học. Để đảm bảo các yêu cầu và tiêu chuẩn nói trên đồng thời
thực hiện hiệu quả các chủ trưởng chính sách của Đảng, Chính phủ, các Bộ
ngành đã có nhiều văn bản chỉ đạo, trong đó công tác Xã hội hóa được đặc biệt
quan tâm như: Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 về việc đẩy mạnh
4


công tác xã hội hoá giáo dục; Nghị định số 69/ 2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 về
chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo
giáo dục…; Công văn số 6890/BGDĐT-KHTC về việc hướng dẫn sử dụng các
khoản đóng góp tự nguyện cho các sơ sở giáo dục và Đào tạo; Điều này đòi hỏi
các trường học phải biết vận dụng chủ trương xã hội hóa của nhà nước, đề ra
biện pháp đúng đắn để thực hiện cho đơn vị đạt hiệu quả.

Mặt khác, khi bàn về công tác giáo dục, Hồ Chủ Tịch đã từng dạy: “Giáo
dục là sự nghiệp của quần chúng, cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ
nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy với thầy, giữa
thầy với trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường với
nhân dân để hoàn thành nhiệm vụ giáo dục…”
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: “Huy động toàn xã hội
làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân đóng góp sức người, sức của, xây
dựng nền giáo dục quốc dân phát triển dưới sự quản lí của Nhà nước”.
Như vậy, có thể nói xã hội hóa giáo dục là thực hiện mối liên hệ có tính
phổ biến, có tính qui luật giữa cộng đồng với xã hội. Thiết lập được mối quan hệ
này là làm cho giáo dục phù hợp với sự phát triển xã hội: “Mỗi người dân đều
nhận thấy đó là trách nhiệm của mình, nên đều tự nguyện và tích cực phối hợp
hành động, đồng thời chính họ là người hưởng thụ mọi thành quả của hoạt động
đó đem lại”.
Trong Báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng tại Đại hội Đảng
khóa X: “Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở mô hình xã hội học tập”. Chính vì thế, trong thực tiễn, cần phải phân biệt rõ tính
chất xã hội của giáo dục và xã hội hóa giáo dục. Nếu không có định hướng rõ
ràng thì tự thân hoạt động giáo dục vẫn có tính chất xã hội, nhưng không bao giờ
đạt được trình độ xã hội hóa đích thực, theo ý nghĩa xã hội và nhân văn của nó.
Như vậy, việc huy động sức mạnh tổng hợp của các ngành có liên quan,
các lực lượng của cộng đồng tham gia vào công tác giáo dục vào việc phát triển
sự nghiệp giáo dục là một trong những đặc điểm của cách làm giáo dục và xã
hội hóa giáo dục góp phần tạo điều kiện cho công tác giáo dục phát triển mạnh
mẽ hơn, thực hiện hiệu quả hơn nhiệm vụ: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài”.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM.
Trong thời gian giữ chức vụ hiệu trưởng của trường Tiểu học tôi nhận
thấy về cơ bản các đơn vị trường học đã thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục
tương đối hiệu quả đã đáp ứng cơ bản việc tổ chức các hoạt động giáo dục của

nhà trường góp phần từng bước cải tạo cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu nâng cao
chất lượng giáo dục. Nhất là cơ sở vật chất, điều kiện dạy - học đã được huy
động từ nhiều nguồn, đáp ứng ngày càng đầy đủ, khang trang và hiện đại. Nhiều
trường học kiên cố, đẹp được xây dựng thành công từ phong trào Xã hội hóa
5


giáo dục. Tuy nhiên, công tác xã hội hóa giáo dục đa số ở các đơn vị còn hết sức
khó khăn.
Đối với Bậc Tiểu học ở huyện Hà Trung, tỷ lệ trường Tiểu học đạt chuẩn
quốc gia là đơn vị đi đầu trong toàn tỉnh. Song tình trạng các nhà trường còn
“lưu ban” công nhận lại trường chuẩn vẫn còn đang khá cao, tỷ lệ trường thời
gian quá hạn công nhận lại chiếm 24/29 tỷ lệ 24,1% trong toàn bậc học Tiểu học
của huyện, trong đó có nhiều đơn vị quá hạn tới 3 năm, nguyên nhân chủ yếu
chưa đáp ứng tiêu chuẩn về cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học. Bên cạnh
đó, vì yêu cầu bức thiết về tăng cường cơ sở vật chất nên tình trạng lạm thu ở
một số nhà trường còn sảy ra. Dẫn đến tình trạng đơn thư nặc danh, khiếu kiện
vượt cấp về huy động nguồn lực tài chính vẫn còn nhiều ảnh hưởng đến uy tín
nhà trường, đến hiệu trưởng. Vì thế nhiều hiệu trưởng biểu hiện tư tưởng “bình
yên”, “an phận” không dám mạnh dạn thực hiện công tác huy động xã hội hóa
giáo dục để tăng cường cơ sở vật chất vì lo lại bị khiếu kiện.
Đối với xã Hà Thanh, huyện Hà Trung, công tác xã hội hóa giáo dục cũng
nằm trong thực trạng khó khăn chung. Trong đó, công tác xã hội hóa giáo dục
còn nhiều hạn chế về việc tuyên truyền, quán triệt chủ trương xã hội hóa giáo
dục chưa được thực hiện đúng mức dẫn tới một bộ phận không nhỏ quần chúng
nhân dân, cán bộ Đảng viên chưa nhận thức đúng đắn quan điểm của Đảng, Nhà
nước về Xã hội hóa giáo dục. Đảng ủy, chính quyền địa phương chưa có những
văn bản cụ thể về việc phát triển giáo dục, sức lan tỏa còn hạn chế. Vì vậy các tổ
chức đoàn thể và nhân dân trên địa bàn chưa có nhiều đóng góp lớn cho việc xây
dựng và phát triển giáo dục nói chung và trường Tiểu học nói riêng.

Đối với trường Tiểu học Hà Thanh, nhà trường được công nhận trường
chuẩn quốc gia giai đoạn 1996-2000 năm 2002 theo Quyết định số 1336/GDĐT; là một trong những đơn vị tốp đầu đạt tiêu chuẩn trường chuẩn quốc gia bởi
ngoài các tiêu chuẩn khác thì tiêu chuẩn về cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy
học được thừa hưởng dự án chương trình kiên cố hóa trường lớp học là một dãy
trường cao tầng và một số trang thiết bị được cấp khác. Sau khi được công nhận,
những năm sau, việc đầu tư cơ sở vật chất gần như “ngủ yên”, thậm chí nhiều
hạng mục xuống cấp, nhiều hạng mục lỗi thời không đảm bảo tiêu chuẩn, nhiều
hạng mục phải thanh lý bởi hết hạn sử dụng hoặc hư hỏng nặng. Trong tình hình
cắt giảm đầu tư công của Chính phủ, ngân sách nhà nước chi công tác xây dựng
cơ sở vật chất hạn chế. Chính quyền địa phương ít quan tâm với lý do “đã đạt
chuẩn rồi” nên không cần thiết phải đầu tư mà phải để lo công việc khác vì kinh
phí địa phượng cũng hết sức khó khăn. Phụ huynh đa số không đồng tình ủng hộ
việc huy động các nguồn lực cho giáo dục đặc biệt là nguồn lực tài chính cho
công tác tăng cường cơ sở vật chất thiết bị dạy học, coi vấn đề cơ sở vật chất là
của nhà nước, của địa phương, phổ biến có thái độ ỷ nại, trông chờ; Bên cạnh
đó, Hà Thanh là một xã thuần nông, người dân chủ yếu sống bằng nghề trồng
trọt, chăn nuôi manh mún, thu nhập thấp, các hộ kinh doanh chỉ nhỏ lẻ, tỷ lệ hộ
6


kinh doanh thấp, không có các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế đóng trên địa
bàn... Vì vậy, việc huy động các nguồn lực tài chính để tăng cường cơ sở vật
chất hết sức khó khăn. (Tham khảo kết quả huy động trước đây - PHỤ LỤC IV)
Tồn tại những thực trạng và khó khăn trong công tác xã hội hóa nói trên
bởi những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất: Chưa làm tốt công tác tuyên truyền những chủ trương của
Đảng, nhà nước, của ngành và những yêu cầu cần thiết của nhà trường trong
công tác xã hội hóa giáo dục đến với cán bộ, giáo viên, phụ huynh và nhân dân.
Thứ hai: Chưa làm tốt công tác tham mưu với lãnh đạo đảng, chính quyền
địa phương, lãnh đạo ngành trong công tác huy động xã hội hóa giáo dục.

Thứ ba: Lựa chọn nội dung để huy động xã hội hóa giáo dục chưa trọng
tâm, chưa phù hợp theo từng thời điểm, theo yêu cầu cần thiết của nhà trường.
Thứ tư: Ngân sách nhà nước đầu tư tăng cường cơ sở vật chất không có,
ngân sách địa phương hạn hẹp, địa phương là xã thuần nông, thu nhập của người
dân thấp nên việc huy động xã hội hóa giáo dục khó khăn.
Qua tìm hiểu, tôi được biết, nhân dân trong xã tuy đời sống kinh tế đa số
chưa phải là khá giả nhưng họ sẵn sàng đầu tư cho con em họ nếu thấy hiệu quả
và tin cậy. Nắm bắt tình hình thực tế của địa phương, của nhà trường, là một
hiệu trưởng, tôi suy nghĩ: nếu chỉ trông chờ vào ngân sách nhà nước trong thời
buổi kinh tế lạm phát toàn cầu như hiện nay thì chưa biết đến lúc nào nhà trường
mới có được một cơ ngơi khang trang cho thầy và trò dạy – học, mà phải biết
dựa vào dân, khai thác sự đóng góp của mọi tổ chức cá nhân và các nhà hảo tâm
trên địa bàn để tăng cường cơ sở vật chất, cải tạo cảnh quan nhà trường.
Để thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục trong nhà trường và khắc
phục những tồn tại trên, yêu cầu trước mắt phải làm tốt công tác tuyên truyền để
nâng cao nhận thức về những chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước cho cán
bộ, giáo viên, nhân viên phụ huynh và nhân dân về công tác xã hội hóa giáo dục.
Tham mưu tích cực cho lãnh đạo Đảng, chính quyền, ngành đúng đắn, kịp thời
về công tác xã hội hóa giáo dục. Phát huy cao nội lực, tạo uy tín, thương hiệu
trong công tác xã hội hóa giáo dục của nhà trường. Thực hiện triệt để, đúng đắn
các văn bản hướng dẫn để vận dụng những nội dung, nguyên tắc xã hội hóa giáo
dục trong từng thời kỳ, thời điểm cho phù hợp. Xã hội hóa giáo dục phải mang
tính đồng bộ các lực lượng, toàn diện về nội dung để phát huy tổng lực nâng cao
hiệu quả xã hội hóa giáo dục. Thực hiện tốt công tác công khai, minh bạch kết
quả xã hội hóa giáo dục. Hướng khắc phục thực trạng tồn tại trên cũng là những
giải pháp, biện pháp trọng tâm của tác giả trong phạm vi nghiên cứu đề tài “Một
số giải pháp huy động nguồn lực xã hội hóa giáo dục” mà tôi đã nghiên cứu
và vận dụng trong thời gian qua.
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.


7


1. Giải pháp 1. Tuyên truyền nâng cao nhận thức về chủ trương của Đảng,
nhà nước, của ngành về công tác xã hội hóa giáo dục đến với cán bộ, giáo
viên, phụ huynh và nhân dân.
Như Bác Hồ đã dạy: “Dễ trăm trăm lần không dân cũng chịu, khó vận lần
dân liệu cũng xong”.
Là một hiệu trưởng, tôi nhận thức được sâu sắc ý nghĩa, mục tiêu của việc
tuyên truyền phải làm sao để mọi người hiểu ra rằng: Nếu toàn xã hội và các gia
đình quan tâm với công tác xã hội hóa giáo dục thì con em họ được hưởng môi
trường giáo dục tốt hơn. Việc tuyên truyền phải là một chủ trương đúng đắn với
ý nghĩa tất cả những gì tốt đẹp nhất đều giành cho thế hệ trẻ, cải thiện điều kiện
học tập của học sinh, đổi mới cách dạy của thầy và cách học của trò.v.v…
Tuyên truyền sâu rộng đến tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà
trường để họ sẽ hiểu ra rằng nếu thiếu thốn trang thiết bị dạy học, môi trường sư
phạm không đảm bảo thì hiệu quả công tác giảng dạy sẽ không cao, chất lượng
giáo dục thấp, uy tín nhà trường sẽ bị giảm đi. Ngược lại, nếu nhà trường có
điều kiện tốt thì bản thân mỗi cán bộ giáo viên, nhân viên sẽ có nhiều thuận lợi
hơn trong công việc, hiệu quả công tác cao hơn, uy tín nhờ đó mà được nhân lên
trong lòng nhiều người và sẽ được cả cộng đồng đồng tình thống nhất giúp đỡ.
Nội dung tuyên truyền là chủ trương chính sách của Đảng, Nhà Nước,
Chính phủ của UBND tỉnh, huyện, xã về công tác xã hội hóa giáo dục, về huy
động cơ sở vật chất thiết bị đáp ứng yêu cầu giáo dục của nhà trường. Tuyên
truyền sâu sắc về ý nghĩa của công tác xã hội hóa giáo dục với toàn thể cán bộ
giáo viên, nhân viên, với phụ huynh học sinh và nhân dân để từ đó thấy được
tầm quan trọng của công tác xã hội hóa giáo dục đối với sự nghiệp giáo dục và
đào tạo nói chung và sự phát triển của nhà trường nói riêng. Để mọi người hiểu
rằng sự nghiệp giáo dục không chỉ là nhiệm vụ riêng của nhà trường mà đó là
nhiệm vụ chung của toàn xã hội (có trách nhiệm của cá nhân mình) trong đó

nhà trường có vai trò chính.
Đối với cán bộ giáo viên, nhân viên nhà trường, tuyên truyền thông qua
các kỳ họp hội đồng sư phạm đầu năm học (Hội nghị cán bộ công chức, viên
chức), sơ kết học kỳ, tổng kết năm học, cập nhật trong sơ kết và triển khai kế
hoạch hàng tháng, hàng tuần.
Đối với lực lượng phụ huynh tuyên truyền thông qua các kỳ họp phụ
huynh Ban thường trực, ban chấp hành, ban đại diện, phụ huynh các lớp vào các
kỳ họp thường kỳ đầu năm, cuối học kỳ I, cuối năm học, kỳ họp đột xuất khác.
Đối với nhân dân và các nhà hảo tâm tuyên truyền thông qua hệ thống
thông tin truyền thanh của xã bằng các bài tuyên truyền về công tác xã hội hóa
giáo dục, bằng thư kêu gọi ủng hộ nhân dịp đầu năm học mới, nhân dịp Tết
nguyên Đán, nhân dịp thực hiện kế hoạch xây dựng trường chuẩn, xây dựng đơn
vị đạt chuẩn văn hóa, xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực, xây
dựng thư viện chuẩn, (tham khảo PHỤ LỤC I); bằng thư cảm ơn nhân dịp ủng
8


hộ trao quà học sinh nghèo đầu năm, Tết nguyên đán, ủng hộ học sinh giỏi qua
các kỳ thi, ủng hộ cơ sở vật chất dịp xây dựng trường chuẩn, xây dựng đơn vị
đạt chuẩn văn hóa, ủng hộ các hạng mục, dịp cuối năm học (tham khảo PHỤ
LỤC II); bằng thư chúc Tết (tham khảo PHỤ LỤC III), gặp gỡ trực tiếp nhân dịp
chúc Tết, dịp về thăm quê, dịp gửi thư kêu gọi, dịp trao thư cảm ơn, dịp mời
giao lưu nhân dịp nhà trường tổ chức các sự kiện.
Đối với các ban ngành đoàn thể tuyên truyền bằng các nội dung chương
trình phối hợp như: Hội chữ thập đỏ trong công tác phối hợp hỗ trợ học sinh
nghèo, Hội người khuyết tật trong công tác phối hợp chăm sóc, hỗ trợ học sinh
khuyết tật, Hội Khuyến học trong công tác khuyến học, khuyến tài hỗ trợ cán
bộ, giáo viên, học sinh đạt thành tích cao.
Ngoài ra, công tác tuyên truyền xã hội hóa giáo dục tôi còn tổ chức cho
đại diện lãnh đạo địa phương, cán bộ cốt cán nhà trường, ban đại diện phụ

huynh tham quan, học tập kinh nghiệm ở các trường bạn trong huyện, trong tỉnh.
Qua tham quan học hỏi kinh nghiệm thấy được mô hình điển hình, từ đó có phép
so sánh (địa phương họ cũng khó khăn mà họ làm được), có cách nhìn rộng hơn,
học hỏi được cách làm hay, làm tốt, sáng tạo, học hỏi được những hạng mục, nội
dung, kinh nghiệm họ làm, đồng thời khơi dậy lòng quyết tâm, nảy sinh các ý
tưởng vận dụng cho địa phương, cho trường mình và từ đó sẽ có những mầm
chồi tư tưởng đúng đắn cho những chủ trương đồng thuận, thống nhất.
Bên cạnh đó, qua các kỳ họp Hội đồng nhân dân xã, hội nghị tiếp xúc cử
tri, hội nghị đảng bộ sơ kết, tổng kết năm, đại hội nhiệm kỳ, hội nghị liên tịch
của Ủy ban nhân dân xã… tôi luôn đề cập ý kiến thảo luận về công tác xã hội
hóa giáo dục tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học để tuyên truyền
đến mọi đảng viên, cử tri, nhân dân, đến đảng bộ, chi bộ, đến thôn, các đoàn thể.
Qua công tác tuyên truyền, mọi tầng lớp xã hội đã nhận thức sâu sắc về
quan điểm đường lối chủ trương của Đảng, nhà nước, của ngành về công tác xã
hội hóa giáo dục là đúng đắn; những chỉ thị, nghị quyết của tỉnh, huyện, xã là
phù hợp với tình hình hiện nay. Từ đó mỗi người đều thấy trách nhiệm của mình
và có quyền lợi, nghĩa vụ trong công tác xã hội hóa giáo dục. Mặt khác, qua
công tác tuyên truyền mỗi người đều thấy hình bóng thành quả đóng góp, ủng hộ
của mình đã được ghi nhận góp phần cho sự thành công của nhà trường.
2. Giải pháp 2. Xã hội hóa giáo dục từ công tác tham mưu chủ trương của
lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp:
Lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp là lực lượng quan trọng quyết định
sự đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường và cũng là lực lượng tạo cơ chế và tạo
điều kiện cho việc Xã hội hóa giáo dục triển khai thuận lợi. Chính quyền các cấp
với chức năng quản lý Nhà nước không chỉ huy động, khuyến khích mà còn tạo
cơ sở pháp lý cho việc huy động và tổ chức điều hành sự phối hợp các lực lượng
xã hội tham gia xây dựng và phát triển giáo dục. Tôi xác định nếu có sự nhất trí
của lãnh đạo địa phương sẽ giúp cho công việc của nhà trường được thuận lợi và
9



ngược lại lãnh đạo sẽ tin tưởng vào nhà trường. Làm tốt công tác tham mưu sẽ
giúp cho công tác Xã hội hóa của nhà trường có được cơ sở pháp lý trong quá
trình thực hiện và kế hoạch xã hội hóa giáo dục được tổ chức bài bản và có hiệu
quả hơn. Vì vậy, phải làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục từ công tác tham
mưu. Để tham mưu hiệu quả phải đảm bảo được tính kiên trì, không nóng vội,
thường xuyên nhưng đảm bảo lộ trình, đúng thời cơ, đầy đủ cơ sở pháp lý nhưng
phù hợp thực tiễn, kế hoạch chính xác, khoa học và thuyết phục.
Tôi thường xuyên cập nhật thông tin, nắm bắt quan điểm, đường lối, nghị
quyết của Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền về công tác xã hội hóa giáo
dục để vận dụng và tham mưu khả thi, chính xác, hiệu quả.
Tham mưu chi bộ chủ trương xây dựng phát triển cơ sở vật chất trang
thiết bị nhà trường trong các nhiệm kỳ: 2012- 2015, 2015- 2017.
Tham mưu Hội đồng trường nhiệm kỳ 2013-2018 quyết nghị về mục tiêu
xây dựng, phát triển cơ sở vật chất, thiết bị cho cả nhiệm kỳ và từng năm học.
Hàng năm, tham mưu chi bộ, Hội đồng trường về nhiệm vụ xây dựng phát
triển cơ sở vật chất trang thiết bị. Từ đó xây dựng lộ trình cho 5 năm, kế hoạch
cho từng năm về công tác xã hội hóa giáo dục một cách cụ thể, chi tiết.
Trên cơ sở đó, tôi đã tham mưu những chủ trương trước đại hội Đảng
Đảng bộ về các mục tiêu, chỉ tiêu như: Xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia,
Xây dựng đơn vị đạt chuẩn văn hóa, xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực ... cùng với giải pháp về công tác xã hội hóa giáo dục được quyết nghị
trong Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ. Trước các kỳ họp hội đồng nhân dân, đại
diện cử tri tôi đã tham mưu những nội dung bức thiết mà cử tri (giáo viên, phụ
huynh và nhân dân) quan tâm để kỳ họp biểu quyết các nội dung giải pháp đến
công tác xã hội hóa giáo dục tăng cường cơ sở vật chất cần thiết đáp ứng yêu
cầu tổ chức các hoạt động giáo dục của nhà trường. Trong các kỳ họp đảng bộ
sơ kết, tổng kết hay kỳ họp của UBND xã tôi thường xuyên cập nhật thảo luận
những mục tiêu, chỉ tiêu trong Nghị quyết Đại hội Đảng cũng như các quyết
sách trong các kỳ họp Hội đồng nhân dân để đảm bảo tiến độ thực hiện các mục

tiêu mà nghị quyết đã đề ra. Đồng thời có những văn bản về kế hoạch, tờ trình
để thực hiện các hạng mục đảm bảo tiến độ với Thường vụ, Ban chấp hành đảng
bộ, với thường trực Hội đồng nhân dân xã, với Ủy ban nhân dân xã trong công
tác xã hội hóa giáo dục tăng cường cơ sở vật chất.
Để thực hiện tốt chủ trương chủ trương xã hội hóa giáo dục, tôi đã tham
mưu cho lãnh đạo đảng, chính quyền, hội cha mẹ học sinh các văn bản quy định
về các khoản thu trong nhà trường như: Công văn số 6762/UBND-VX ngày
7/10/2011 của tịch UBND Tỉnh Thanh Hóa về việc về việc tiếp tục chấn chỉnh
lạm thu đối với các trường và cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá;
Thông tư số 29/2012/TT-BGD&ĐT ngày 10/9/2012 Quy định về tài trợ của các
tổ chức cá nhân trong và ngoài nước cho cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục
quốc dân; Chỉ thị số 25/CT-UBND ngày 14/9/2012 của Chủ tịch UBND Tỉnh
10


Thanh Hóa về việc chống lạm thu trong các cơ sở giáo dục; Công văn số
1521/SGDĐT- KHTC ngày 22/8/2014 của Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa,
công văn số 1217/SGDĐT-KHTC ngày 26/8/2014 của UBND Huyện Hà Trung
về việc hướng dẫn các khoản thu chi ngoài ngân sách; công văn số
1482/SGDĐT- KHTC ngày 11/8/2015 của Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa
về việc hướng dẫn và chấn chỉnh việc thực hiện các khoản thu chi trong các đơn
vị, trường học năm học 2015-2016, vv...
Mặt khác, trên cơ sở các văn bản hướng dẫn trên, tôi đã thực hiện các
bước để đề nghị UBND huyện cho đồng ý chủ trương thực hiện công tác
XHHGD trong trường học.
Vì đã thấm nhuần và nhận thức sâu sắc về các công văn hướng dẫn của
cấp trên, đồng thời yêu cầu về huy động nguồn lực tăng cường cơ sở vật chất
của nhà trường là thực tế, thiết thực, các bước tiến hành khoa học đúng quy định
nên việc huy động xã hội hóa giáo dục trở nên nhẹ nhàng, hiệu quả.
3. Giải pháp 3. Xã hội hóa giáo dục từ nội lực lực lượng Cán bộ giáo viên,

nhân viên nhà trường; Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm.
Bản thân ngành giáo dục đào tạo nói chung hay lực lượng Cán bộ giáo
viên, nhân viên của nhà trường nói riêng cũng là một đối tượng để xã hội hóa
giáo dục; Giáo viên vừa là người tuyên tuyền nhưng đồng thời cũng là người
gương mẫu trong thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục trong nhà trường mà
đứng đầu là hiệu trưởng.
Hàng năm, khi xây dựng kế hoạch huy động nguồn lực xã hội hóa giáo
dục, đội ngũ cán bộ giáo viên, nhân viên là là đối tượng đầu tiên được nắm bắt
về các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, quy định của ngành về công
tác xã hội hóa giáo dục, đồng thời đội ngũ cán bộ giáo viên, nhân viên cũng là
thành viên trong hội nghị đầu tiên bàn về kế hoạch thu chi trong năm học trong
đó có kế hoạch Công tác xã hội hóa giáo dục huy động tăng cường cơ sở vật
chất. Trong đội ngũ cán bộ giáo viên, nhân viên có thành phần là đảng viên đã
thống nhất về chủ trương xã hội hóa giáo dục trong nhiệm kỳ, trong năm học;
Trong Hội đồng trường có thành phần là thành viên hội đồng trường cũng đã có
biểu quyết những quyết sách về xã hội hóa giáo dục tăng cường cơ sở vật chất
trong nhiệm kỳ, trong từng năm học.
Mặt khác, làm tốt công tác huy động xã hội hóa giáo dục trong nhà trường
cũng là xây dựng một môi trường làm việc của nhà giáo thuận lợi hơn, làm việc
hiệu quả hơn, chất lượng tốt hơn và uy tín nhà trường nói chung và uy tín mỗi
nhà giáo nói riêng được tăng thêm; từ đó mỗi nhà giáo tự hào hơn về ngôi
trường mình đang công tác, gắn bó, thân thiện hơn và trách nhiệm hơn, tạo tâm
thế tinh thần “mỗi ngày đến trường là một ngày vui” không chỉ riêng cho học
sinh mà cho cả mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường.
Như vậy, việc tích cực tham gia công tác xã hội hóa giáo dục trong nhà
trường vừa là quyền lợi, là niềm tự hào nhưng đồng thời vừa là nghĩa vụ và trách
11


nhiệm của mỗi nhà giáo. Vì lẽ đó, mỗi nhà giáo là tấm gương, đi đầu trong công

tác xã hội hóa giáo dục ở nhà trường.
Hàng năm, khi bàn bạc kế hoạch xã hội hóa giáo dục, tôi luôn đề cập và
để cán bộ giáo viên dân chủ thảo luận bàn bạc và lựu chọn một hạng mục để
đóng góp trong công tác xã hội hóa giáo dục của nhà trường. Giá trị đóng góp
của mỗi nhà giáo tuy không cao (từ 200.000 đồng - 400.000 đồng) nhưng hàng
năm đã để lại những hạng mục vật chất có giá trị như: máy in, tủ đựng tài liệu,
gương soi, bình nước nóng lạnh, giá để tài liệu giáo viên vv...
Ngoài việc đi đầu trong công tác huy động xã hội hóa giáo dục tăng
cường cơ sở vật chất trang thiết bị mà đội ngũ nhà trường còn gương mẫu trong
công tác xã hội hóa về các phong trào nhân đạo, từ thiện như giúp đỡ học sinh
nghèo, học sinh khuyết tật, tặng quà cho học sinh nhân dịp tết, dịp khai giảng
đầu năm học, trong phong trào khuyến học như trao giải thưởng học sinh giỏi,
hỗ trợ đoàn học sinh giỏi báo công, động viên học sinh yếu tiến bộ vv...
Kết quả xã hội hóa từ nội lực đội ngũ mà dẫn đến có sức lan tỏa đến phụ
huynh và nhân dân. Sức lan tỏa đó là nhờ vai trò của đội ngũ giáo viên chủ
nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm có vai trò quan trọng trong việc kết hợp giữa phụ
huynh học sinh và nhà trường, là cầu nối giữa nhà trường với gia đình và xã hội.
Vì vậy, việc bố trí giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm, tạo uy tín cao đối với
phụ huynh học sinh là điều kiện thuận lợi để phụ huynh đóng góp và tham gia
xây dựng nhà trường. Giáo viên chủ nhiệm còn là người tham mưu trong thực
hiện công tác xã hội hóa giáo dục, đồng thời là người đứng ra phối hợp các lực
lượng xã hội nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục của trường.
Để làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, giáo viên chủ nhiệm phải nắm vững
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, của tỉnh, huyện, các kế hoạch của
nhà trường về công tác xã hội hóa giáo dục để làm tốt công tác tuyên truyền đến
phụ huynh và học sinh. Tăng cường hoạt động của hội đồng chủ nhiệm, thường
xuyên tổ chức sinh hoạt chuyên đề, chú trọng việc bồi dưỡng giáo viên làm công
tác chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm phải nắm vững những thông tin về gia đình
học sinh như: nơi ở, hoàn cảnh sống, lối sống, hoàn cảnh kinh tế gia đình, giáo
dục của gia đình, sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái, quan hệ của gia đình

láng giềng. Việc tìm hiểu này sẽ giúp giáo viên chủ nhiệm kết hợp tốt với gia
đình trong công tác giáo dục toàn diện cho học sinh góp phần thực hiện tốt công
tác xã hội hóa giáo dục.
Thực hiện tốt cam kết giữa nhà trường - gia đình - xã hội. Theo Luật Giáo
dục sửa đổi, bổ sung tại chương VII điều 47 quy định “Nhà trường phối hợp với
chính quyền, đoàn thể địa phương, Ban đại diện cha mẹ học sinh, các tổ chức
chính trị - xã hội và cá nhân có liên quan nhằm huy động mọi lực lượng và
nguồn lực của cộng đồng chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, góp phần xây dựng
cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục của nhà trường; xây dựng phong trào học tập và
môi trường giáo dục lành mạnh, an toàn, ngăn chặn những hoạt động có ảnh
12


hưởng xấu đến học sinh; tạo điều kiện để học sinh được vui chơi, hoạt động văn
hóa, thể dục, thể thao lành mạnh phù hợp với lứa tuổi”. Cần thực hiện tốt việc
phân công giáo viên chủ nhiệm, lựa chọn những người có phẩm chất và năng lực
tốt, nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, có kinh nghiệm
tham gia công tác chủ nhiệm. Thường xuyên kiểm tra công tác chủ nhiệm thông
qua hồ sơ, sổ sách, thông qua trao đổi thông tin với giáo viên bộ môn, học sinh
và phụ huynh để kịp thời điều chỉnh. Yêu cầu giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh
cần chọn lựa bầu được ban đại diện cha mẹ học sinh từ các lớp là những người
có uy tín, nhiệt tình để cùng xây dựng nhà trường, là những người phối kết hợp
tốt nhất trong việc thực hiện thông tin hai chiều giữa gia đình và nhà trường để
cùng giáo dục học sinh một cách tốt nhất và giúp nhà trường trong tuyên truyền
đến toàn thể phụ huynh về công tác xã hội hóa giáo dục. Đối với giáo viên chủ
nhiệm: chú trọng việc thường xuyên liên lạc phụ huynh học sinh thông qua sổ
liên lạc, trao đổi qua điện thoại, trao đổi trực tiếp. Tìm hiểu nguyện vọng phụ
huynh, chia sẻ với phụ huynh về tình hình học tập của học sinh, nêu rõ những cố
gắng của giáo viên và nhà trường đã giúp đỡ học sinh. Đưa ra những biện pháp
cụ thể đề nghị gia đình và nhà trường cùng quan tâm đồng bộ thực hiện đem lại

sự tiến bộ của học sinh. Từ đó tạo niềm tin cho phụ huynh và từ niềm tin đó phụ
huynh học sinh sẽ tích cực ủng hộ công tác xã hội hóa giáo dục để con em họ có
môi trường giáo dục tốt nhất để học tập và rèn luyện.
Hiệu trưởng thường xuyên, khuyến khích giáo viên chủ nhiệm báo cáo
những góp ý của phụ huynh về các vấn đề liên quan đến hoạt động giáo dục của
nhà trường để nhà trường nắm bắt kịp thời và điều chỉnh cho phù hợp nhằm phát
huy những mặt mạnh, hạn chế những mặt yếu. Ngoài ra, giáo viên phải thường
xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trao dồi đạo đức nhà
giáo để xứng đáng “Mỗi thầy cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”
cho học sinh noi theo, tạo niềm tin vững bền cho phụ huynh.
4. Giải pháp 4. Thực hiện triệt để, đúng đắn các văn bản hướng dẫn để vận
dụng những nội dung, tuân thủ các nguyên tắc xã hội hóa giáo dục trong
từng thời kỳ, thời điểm cho phù hợp.
Thực hiện Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 về việc đẩy
mạnh công tác xã hội hoá giáo dục; Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày
30/5/2008 về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong
lĩnh vực giáo giáo dục…; Công văn số 6890/BGDĐT-KHTC về việc hướng dẫn
sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện cho các sơ sở giáo dục và Đào tạo;
Đồng thời thực hiện Quyết định số 04/2000/QĐ-BGD&ĐT ngày
01/03/2000 của Bộ trưởng Bộ giáo dục & Đào tạo về việc Ban hành các quy chế
thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường; Công văn số 6762/UBNDVX ngày 7/10/2011 của tịch UBND Tỉnh Thanh Hóa về việc về việc tiếp tục
chấn chỉnh lạm thu đối với các trường và cơ sở giáo dục; Thông tư số
29/2012/TT-BGD&ĐT ngày 10/9/2012 Quy định về tài trợ của các tổ chức cá
13


nhân trong và ngoài nước cho cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân;
Chỉ thị số 25/CT-UBND ngày 14/9/2012 của Chủ tịch UBND Tỉnh Thanh Hóa
về việc chống lạm thu trong các cơ sở giáo dục ; Công văn số 1521/SGDĐTKHTC ngày 22/8/2014 của Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa, công văn số
1217/SGDĐT-KHTC ngày 26/8/2014 của UBND Huyện Hà Trung về việc

hướng dẫn các khoản thu chi ngoài ngân sách ; công văn số 1482/SGDĐTKHTC ngày 11/8/2015 của Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa về việc hướng
dẫn và chấn chỉnh việc thực hiện các khoản thu chi trong các đơn vị, trường học
năm học 2015-2016, vv...
Trên cơ sở đó thực hiện đầy đủ các bước huy động xã hội hóa giáo
dục tăng cường cơ sở vật chất như sau :
Bước 1: Thống nhất chủ trương và xây dựng kế hoạch công việc, dự trù
kinh phí thực hiện triển khai trong Ban Giám hiệu, Hội đồng nhà trường và các
tổ chức, cá nhân nhà tài trợ.
Bước 2: Lập Kế hoạch công việc và dự trù kinh phí chi tiết để thực hiện.
Niêm yết công khai để tiếp thu các ý kiến đóng góp, hoàn chỉnh kế hoạch công
việc và dự trù kinh phí.
Bước 3: Báo cáo UBND huyện để xin chủ trương thống nhất bằng văn bản.
Bước 4: Tổ chức triển khai, thực hiện việc huy động đóng góp tự nguyện.
Lập danh sách ký xác nhận tự nguyện tài trợ của các tổ chức, cá nhân nhà tài trợ.
Bước 5: Trong quá trình thực hiện phải có sự kiểm tra và giám sát của các tổ
chức, cá nhân đã tài trợ.
Bước 6: Niêm yết công khai và báo cáo quyết toán kinh phí đã huy động
và kết quả thực hiện với các tổ chức, cá nhân đã đóng góp kinh phí. Khoản thu
này phải đưa vào sổ sách kế toán và hạch toán, thanh quyết toán theo quy định.
Trong quá trình huy động xã hội hóa giáo dục cần thực hiện tốt một
số nguyên tắc sau đây:
Nguyên tắc lợi ích: Mỗi hoạt động xã hội hóa giáo dục, sự hợp tác, phối
hợp đều phải xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của cả hai phía: nhà trường và cộng
đồng, mỗi bên tham gia đều cần tìm thấy lợi ích riêng của cá nhân, và lợi ích
chung của tập thể cũng như của cả dân tộc.
Nguyên tắc chức năng nhiệm vụ: Nhà trường cũng như các lực lượng xã
hội, các tổ chức,... đều có những chức năng và trách nhiệm riêng. Để khai thác,
phát huy, khuyến khích họ tham gia vào một hoạt động nào đó thì phải phát hiện
và nhằm đúng chức năng, trách nhiệm của đối tác.
Nguyên tắc dân chủ: tạo môi trường công khai, bình đẳng để cộng đồng

hiểu đúng về giáo dục và nhà trường hơn, đồng thời góp phần thực hiện nguyên
tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” các hoạt động xã hội hóa giáo dục
để mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội phát triển toàn diện và mang
lại hiệu quả thiết thực.

14


Nguyên tắc luật pháp: Xã hội hóa giáo dục phải tuân thủ pháp luật Nhà
nước, có nghĩa là cần dựa trên cơ sở pháp lý. Ngược lại, các cơ quan đoàn thể,
các tổ chức xã hội,... cũng cần có những cơ sở pháp lý để triển khai cũng như để
tham gia huy động nguồn lực cho giáo dục.
Nguyên tắc phù hợp và thích ứng: Hiệu trưởng phải biết lựa chọn thời
gian thích hợp nhất để đưa ra một chủ trương xã hội hóa giáo dục. Tuy nhiên, để
thực hiện nguyên tắc này là phải xây dựng cho được kế hoạch cụ thể và kế
hoạch mang tính định hướng.
Nguyên tắc truyền thống, tình cảm: là sự khơi dậy và phát huy truyền
thống hiếu học, tôn trọng đạo lý, đề cao sự học, đề cao giá trị của học vấn... của
mỗi gia tộc, dòng họ; niềm tin của cá nhân vào sự nghiệp phát triển chung của
giáo dục, của từng nhà trường để có thể huy động nhiều nguồn lực khác nhau
chăm lo cho sự nghiệp giáo dục đào tạo.
Nguyên tắc kết hợp ngành - lãnh thổ: cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa
địa phương và ngành giáo dục, “nhà trường gắn liền với xã hội”.
Nguyên tắc giao tiếp: Có hai con đường giao tiếp đó là con đường chính
thức (các văn bản, công văn, đề nghị...) và con đường không chính thức (thông
qua nguyên tắc truyền thống và tình cảm).
Nguyên tắc kế hoạch hóa: kế hoạch hóa là một trong bốn chức năng quản
lý và là một chức năng mang tính chủ đạo trong quá trình quản lý của người
Hiệu trưởng. Kế hoạch xã hội hóa giáo dục được xây dựng trên một số yếu tố
sau: Mục tiêu của việc huy động; xác định đối tượng huy động; Kết quả dự kiến

đối với từng đối tượng; thời gian thích hợp nhất; Sự phân công một số thành
viên trong chủ thể huy động; Chi tiết hóa kế hoạch và hệ thống giải pháp cụ thể.
5. Giải pháp 5. Xã hội hóa giáo dục phải mang tính đồng bộ các lực lượng
để phát huy sức mạnh tổng lực nâng cao hiệu quả xã hội hóa giáo dục.
Như chúng ta đã biết “một cây không thể nên rừng” nên quan điểm
“nhiều, nhỏ góp lại thành to”, “năng nhặt chặt bị”, “góp gió thành bão”… thì
mới thực hiện hiệu quả huy động nguồn lực xã hội hóa giáo dục trong điều kiện
khó khăn như địa phương xã Hà Thanh. Vì vậy, tôi đã vận dụng kêu gọi xã hội
hóa giáo dục với tất cả các đối tượng trên địa bàn, đồng thời mở rộng đối tượng
ra ngoài địa phương với các hình thức vận động như sau:
Thứ nhất: Xã hội hóa giáo dục từ gia đình, cha mẹ học sinh, ban đại diện
cha mẹ học sinh. Gia đình, cha mẹ học sinh, ban đại diện cha mẹ học sinh là lực
lượng có nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích trực tiếp cùng chia sẻ với nhà trường và
cũng là lực lượng quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
đối với học sinh trong đó vai trò huy động nguồn lực tài chính đóng vai trò then
chốt, ổn định và bền vững.
Thứ hai: Xã hội hóa giáo dục từ các lớp. Để phục vụ hiệu quả hơn nhu
cầu của học sinh, đáp ứng nguyện vọng của các khối phụ huynh từng lớp, đồng
thời tăng thêm nguồn tài sản không nhỏ cho các lớp, cho nhà trường, tôi đã động
15


viên, khuyến khích, tạo cơ hội, tạo cơ chế thuận lợi cho phụ huynh các lớp bàn
bạc, thống nhất để mua sắm thêm những thiết bị phục vụ cho con em học (chính
là phục vụ học sinh của trường) như trang trí lớp học, mua sắm các thiết bị quạt
điện, tu sửa hệ thống điện... và các thiết bị phục vụ hoạt động giáo dục khác.
Thứ ba: Xã hội hóa giáo dục từ các cơ quan, ban ngành địa phương. Các
cơ quan, ban ngành trên địa bàn địa phương như như trạm y tế, công an, bảo vệ,
Ủy ban Bảo vệ chăm sóc trẻ em, các tổ chức đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc,
Hội Cựu chiến binh, Hội Khuyến học, các tổ chức tôn giáo, tổ chức từ thiện,…là

lực lượng có chức năng nhiệm vụ liên đới đến nhà trường, đến học sinh, có trách
đối với nhà trường. Đây là lực lượng không nhỏ bởi lẽ không chỉ phạm vị lực
lượng ở cấp xã mà còn sâu rộng, đông đảo ở dưới cấp thôn, xóm.
Thứ tư: Xã hội hóa giáo dục từ các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ.
Các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ là lực lượng tạo khả năng liên kết trong
việc huy động các nguồn lực vật chất. Huy động từ các sản phẩm kinh doanh
như: may áo đồng phục thì huy động áo quần hỗ trợ học sinh nghèo, cơ sở xây
dựng hỗ trợ ngày công xây dựng công trình, cơ sở san lấp hỗ trợ ca xe san lấp,
cơ sở bán vật liệu xây dựng hỗ trợ vật liệu, cơ sở bán thiết bị hỗ trợ thiết bị vv...
Thứ năm: Xã hội hóa giáo dục từ các cá nhân, đặc biệt là cá nhân có uy
tín, các “mạnh thường quân”. Các cá nhân có uy tín, các “mạnh thường quân” là
lực lượng không thể tách rời với sự nghiệp xã hội hóa giáo dục của nhà trường
bởi họ mang theo những tình cảm, tấm lòng, nhiệt huyết, tinh thần cao cả của
trái tim nhân ái đồng lòng, giúp sức cùng nhà trường để mang về những thắng
lợi, những thành quả, lợi ích thiết thực cho nhà trường. Họ là những người thấu
hiểu những khó khăn, sẵn sàng chia sẻ về mọi mặt như hỗ trợ học sinh nghèo,
khuyết tật, động viên học sinh giỏi, khuyến khích học sinh có nghị lực vượt qua
khó khăn, tài trợ nhà trường những tài sản, những thiết bị còn thiếu thốn vv...
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC.
Đề tài “Một số giải pháp huy động nguồn lực xã hội hóa giáo dục” mà
tôi đã nghiên cứu, vận dụng đã mang lại hiệu quả thiết thực trong công tác hoạt
động giáo dục của trường Tiểu học Hà Thanh. Đặc biệt, chỉ trong một thời gian
ngắn (3 năm học: năm học 2013-2014, 2014-2015, 2015-2016) nguồn lực huy
động xã hội hóa giáo dục đã thực hiện một cách toàn diện được đông đảo lực
lượng với phong phú các nguồn lực tham gia như: Kinh phí địa phương đầu tư
xây dựng, tu sửa cơ sở vật chất lên tới 356.800.000 đồng (tăng 6,5 lần so 3 năm
về trước) đã cơ bản khắc phụ được sự xuống cấp nghiêm trọng của các hạng
mục công trình nhà trường như khắc phục nhà tầng dột, tường nhà rêu phong,
nhà xe, nhà bảo vệ hư hỏng nặng vv…; Kinh phí xã hội hóa giáo dục được phụ
huynh đồng tình ủng hộ đạt mức kỷ lục là 128.575.000 đồng (tăng 4,4 lần so 3

năm về trước) và 245 ngày công lao động đã tu sửa, mua sắm trang thiết bị nhà
trường đảm bảo cơ bản khuôn viên nhà trường khang trang, sạch, đẹp, các trang
thiết bị cơ bản đáp ứng cho mọi hoạt động giáo dục của nhà trường; Trong đó,
16


kinh phí ủng hộ từ cán bộ giáo viên tuy chỉ con số ít ỏi là 8.500.000 đồng (tăng
7,4 lần so 3 năm về trước) nhưng cũng đã là nguồn động viên tinh thần chung
đáng khích lệ về tinh thần tiên phong, gương mẫu luôn đi đầu trong ủng hộ
phong trào xã hội hóa giáo dục của nhà trường, góp phần không nhỏ trong việc
cải thiện cơ sở vật chất thiết bị làm việc của tập thể sư phạm nhà trường; Đáng
kể hơn cả là đối với một địa phương số dân ít, chủ yếu nghề nông, không có
doanh nghiệp, đơn vị kinh tế đóng trên địa bàn nhưng nhà trường đã kêu gọi
được nhiều tấm lòng hảo tâm của nhân dân trong và ngoài địa phương, của bà
con cô bác từ Bắc vào Nam tài trợ, ủng hộ trong mọi hoạt động của nhà trường
như tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị, ủng hộ học sinh nghèo, học sinh khuyết
tật, học sinh mồ côi nhân dịp đầu năm học hay nhân dịp Tết nguyên đán, ủng hộ
các đội tuyển học sinh dự thi học sinh giỏi các cấp, khuyến khích học sinh đạt
thành tích cao vv… với số tiền tài trợ lên tới 81.800.000 đồng (tăng 12,1 lần so
3 năm về trước). Trong 3 năm qua, nguồn kinh phí được huy động từ xã hội hóa
giáo dục đạt 575.675.000 đồng (tăng 6,4 lần so 3 năm về trước) đã đáp ứng cơ
bản về cơ sở vật chất hạ tầng nhà trường, khuôn viên nhà trường khang trang,
sạch đẹp, trang thiết bị cho các hoạt động giáo dục của thầy và trò, các hoạt
động từ thiện, nhân đạo được phát huy cao … đảm bảo các tiêu chuẩn trường
chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn đơn vị đạt chuẩn văn hóa và tiêu chuẩn “Trường học
thân thiện, học sinh tích cực”. (Ví dụ: PHỤ LỤC V, PHỤ LỤC VI, PHỤ LỤC VII).
Kết quả huy động xã hội hóa giáo dục tăng cường cơ sở vật chất thiết bị
trong 3 năm học qua đã tạo khí thế mới cho phong trào xã hội hóa giáo dục nói
chung của nhà trường. Các cấp lãnh đạo, quản lý thực sự tin tưởng, luôn ủng hộ,
tạo điều kiện về chủ trương, cơ sở pháp lý; các ban ngành đoàn thể phối hợp

chặt chẽ, hiệu quả cùng nhà trường, các bậc phụ huynh và nhân dân đã nhận
thức sâu sắc về quyền lợi và nghĩa vụ, tin tưởng trong công tác xã hội hóa giáo
dục của nhà trường; Đặc biệt đã lan tỏa những tấm lòng hảo tâm luôn giành
những tình cảm tốt đẹp và tích cực tham gia tài trợ về mọi mặt hoạt động giáo
dục của nhà trường. Từ kết quả đó đã xây dựng nhà trường ngày càng khang
trang, sạch đẹp; tạo tâm thế của thầy và trò khi đến trường đúng như khẩu hiệu
“Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”; Vì vậy đã phấn khích phong trào thi
đua “Hai tốt” ngày càng phát triển, chất lượng đại trà ngày càng được nâng lên
bền vững, chất lượng mũi nhọn được khẳng định chắc chắn, chất lượng giáo dục
nhà trường luôn đạt tốp đầu trong huyện, nhà trường đã trở thành niềm tin vững
chắc cho các bậc phụ huynh và nhân dân. Những kết quả trên đã góp phần tạo
nên những trang lịch sử truyền thống, những thành tích được các cấp ghi nhận
trong 3 năm qua như một minh chứng đáng trân trọng và tự hào:
3 năm liên tục đạt danh hiệu Tập thể lao động tiên tiến, tập thể lao động
xuất sắc được UBND huyện, ủy ban nhân dân tỉnh tặng Giấy khen, Bằng khen.
Năm 2014 được Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa tặng Bằng công nhận
danh hiệu trường đạt chuẩn Quốc gia Mức độ I sau 5 năm (2008-2013); được
17


Liên đoàn Lao động tỉnh Thanh Hóa tặng Bằng công nhận danh hiệu Đơn vị đạt
chuẩn VH giai đoạn 2009-2014;
Năm 2015 được UBND xã tặng giấy khen Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
5 năm giai đoạn 2010-2015; được UBND huyện tặng giấy khen Đạt thành tích
xuất sắc trong Phong trào Thi đua "Dạy tốt- Học tốt" giai đoạn 2010-2015;
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN:
“Một số giải pháp huy động nguồn lực xã hội hóa giáo dục” là đề tài
mà tôi đã bắt tay nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng trong công tác quản lý của
người hiệu trưởng từ năm học 2013-2014. Gần 3 năm nghiên cứu, đúc rút kinh

nghiệm, bản thân tôi đã rút ra được những bài học quý báu:
Thứ nhất: Đúng như lời dạy của Bác Hồ “Dễ trăm trăm lần không dân
cũng chịu, khó vận lần dân liệu cũng xong”. Phải lấy dân làm gốc, ở đây bao
hàm “dân” là nhân dân địa phương, phụ huynh học sinh kể cả bà con xa quê;
Phải tuyên truyền để mọi người, mọi nhà nhận thức được sâu sắc quyền lợi và
nghĩa vụ kể cả trực tiếp hay gián tiếp trong công tác huy động xã hội hóa giáo
dục; Tuyên truyền phải đúng chủ trương, tuyên truyền phải kiên trì, bền bỉ;
tuyên truyền phải lấy chữ tín làm đầu, phải đúng thời cơ, đúng đối tượng vv…
Công tác tuyên truyền chỉ cần thiếu đi một trong những nguyên tắc trên thì công
tác tuyên truyền vận động xem như thất bại. Đặc biệt công tác tuyên truyền vận
động nguồn lực tài chính (là vấn đề kinh tế nên rất nhạy cảm) không những thất
bại (không được việc) mà còn ảnh hưởng đến uy tín của hiệu trưởng, của nhà
giáo, của nhà trường.
Thứ hai: Công tác tham mưu, tranh thủ chủ trương của các cáp lãnh đạo
phải đảm bảo khoa học, chính xác và hiệu quả. Nội dung tham mưu phải chắt
lọc, trọng tâm, không ôm đồm; Tham mưu từ cấp dưới lên cấp trên, từ bước này
tới bước khác, không nóng vội, không “đốt cháy giai đoạn”; Tham mưu bằng tư
tưởng tinh thần và đầy đủ cơ sở pháp lý; Lựa chọn thời cơ để lựu chọn nội dung
để tham mưu; Tham mưu phải mang tính vừa sức, khả thi (có cơ sở thành công).
Thứ ba: Phát huy cao nội lực đội ngũ, tiên phong gương mẫu; thực hiện
tốt quy chế dân chủ, xây dựng được mối đoàn kết nhất trí cao trong đơn vị; xây
dựng lực lượng nòng cốt trong công tác tuyên truyền vận động; tạo nền tảng
niềm tin vững chắc cho nhà trường, lan tỏa uy tín trong xã hội, trong nhân dân.
Thứ tư: Nghiêm túc thực hiện các văn bản hướng dẫn đồng thời vận dụng
sáng tạo, phù hợp với tình hình địa phương, nhà trường về công tác huy động
nguồn lực xã hội hóa giáo dục. Sử dụng nguồn huy động đúng mục đích đạt hiệu
quả cao, tài chính minh bạch, công khai.
Thứ năm: Hiệu trưởng phải có tầm nhìn chiến lược, có giải pháp lâu dài
nhưng cũng phải có những giải pháp tình thế; năng động sáng tạo, dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm, sẵn sàng hy sinh vì tập thể; gương mẫu trong

mọi lĩnh vực hoạt động.
18


Đề tài “Một số giải pháp huy động nguồn lực xã hội hóa giáo dục” đã
được vận dụng tại trường Tiểu học Hà Thanh bước đầu đạt kết quả rất khả quan
như đã trình bày phần trên. Những năm học tiếp theo thời cơ thuận lợi là cơ bản:
Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2015-2020 có nhiều chủ trương,
chính sách về xã hội hóa trong thời kỳ hội nhập trong đó công tác xã hội hóa
giáo dục được Đảng ta đặc biệt quan tâm; Bên cạnh đó nghị quyết Hội đồng
nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 sẽ có nhiều quyết sách, tạo thời cơ thuận
lợi mới, vận hội mới, tạo cơ chế mới, cơ chế mở cho công tác xã hội hóa giáo
dục đáp ứng nhu cầu giáo dục trong thời kỳ mới, thời kỳ “Đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh phát
triển, ứng dụng khoa học - công nghệ; phát huy vai trò quốc sách hàng đầu của
giáo dục - đào tạo và khoa học-công nghệ đối với sự nghiệp đổi mới và phát
triển của đất nước” như Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đã khẳng định;
Với công tác xã hội hóa hiện nay đang phát triển mạnh mẽ và phong phú về mọi
lĩnh vực trong cuộc sống thì nhận thức về công tác xã hội hóa giáo dục của mọi
tầng lớp nhân dân càng được nâng lên một cách sâu sắc hơn. Cùng với sự quan
tâm của các cấp, các ngành, sự phối hợp ngày càng hiệu quả của các tổ chức
chính trị xã hội … thì chắc chắn đề tài “Một số giải pháp huy động nguồn lực
xã hội hóa giáo dục” sẽ có nhiều thuận lợi để được phát huy hơn nữa, được
khẳng định hiệu quả hơn nữa đối với trường tiểu học Hà Thanh trong những
năm sau.
Thiết nghĩ, trường Tiểu học Hà Thanh với quy mô trường lớp nhỏ (xếp
thứ 3/29 trường có quy mô từ nhỏ đến lớn, chỉ sau Trường Tiểu học Hà Lĩnh 2,
Hà Toại), thì công tác xã hội hóa huy động nguồn lực tài chính từ phụ huynh
chắc chắn sẽ khó khăn hơn nhiều lần so với những đơn vị có quy mô trường lớp
lớn hơn. Mặt khác, địa phương Hà Thanh số dân ít, người dân chủ yếu sống

bằng nghề nông thu nhập thấp ảnh hưởng nhiều đến công tác xã hội hóa huy
động nguồn lực tài chính từ nhân dân. Bên cạnh đó, địa phương Hà Thanh
không có các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế đóng trên địa bàn… nên công tác
xã hội hóa huy động nguồn lực tài chính từ các doanh nghiệp quá khó khăn vv…
Thế nhưng đề tài “Một số giải pháp huy động nguồn lực xã hội hóa giáo dục”
đã thành công tại trường Tiểu học Hà Thanh thì chắc chắn sẽ đạt hiệu quả cao
hơn nếu được vận dụng ở các đơn vị khác trong huyện Hà Trung. Đề tài không
những chỉ vận dụng hiệu quả ở bậc học Tiểu học mà có thể vận dụng rộng rãi ở
tất cả các bậc học trong ngành giáo dục & đào tạo.
II. KIẾN NGHỊ:
Để đề tài “Một số giải pháp huy động nguồn lực xã hội hóa giáo dục”
tiếp tục được vận dụng hiệu quả không chỉ ở phạm vi trường tiểu học Hà Thanh
mà còn áp dụng đạt kết quả cao với các trường trong huyện, tác giả xin được
mạnh dạn kiến nghị một số nội dung sau:
1. Đối với Phòng giáo dục & Đào tạo:
19


Hàng năm, phòng Giáo dục & Đào tạo tổ chức chuyên đề phổ biến Sáng
kiến kinh nghiệm với quy mô toàn ngành để đề tài “Một số giải pháp huy động
nguồn lực xã hội hóa giáo dục” có cơ hội được vận dụng rộng rãi hơn, đồng
thời sẽ có nhiều ý kiến đóng góp bổ sung quý báu giúp cho đề tài hoàn thiện hơn
và hiệu quả vận dụng cao hơn.
2. Đối với các nhà trường:
Đề tài “Một số giải pháp huy động nguồn lực xã hội hóa giáo dục” có
khả năng vận dụng rộng rãi ở tất cả các cấp học, tất cả các nhà trường. Tuy
nhiên, “Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”, việc vận dụng đề tài phải mang
tính sáng tạo để phù hợp với tình hình ở mỗi nhà trường, với mỗi nội dung mà
nhà trường cần thiết phải vận động, huy động nguồn lực xã hội hóa giáo dục,
đặc biệt phải xây dựng lộ trình huy động nguồn lực xã hội hóa giáo dục cho cả

giai đoạn gắn với kế hoạch phát triển của nhà trường. Có như vậy đề tài mới
phát huy cao được hiệu quả và phát huy hiệu quả một cách bền vững lâu dài.
3. Đối với Hiệu trưởng các nhà trường:
Đề tài “Một số giải pháp huy động nguồn lực xã hội hóa giáo dục” là
một lĩnh vực “nhạy cảm” bởi liên quan đến vấn đề kinh tế, tài chính. Vì vậy,
người hiệu trưởng khi thực hiện nhiệm vụ huy động nguồn lực xã hội hóa giáo
dục ngoài đức tính kiên trì, dán nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hy
sinh… còn phải tiên phong, gương mẫu, biết tranh thủ được các ý kiến tham
mưu, ý kiến xây dựng từ giáo viên, từ phụ huynh, từ nhân dân… đồng thời biết
tận dụng được các ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo các cấp.
Trên đây là kết quả nghiên cứu, vận dụng đề tài “Một số giải pháp huy
động nguồn lực xã hội hóa giáo dục” của tôi tại trường Tiểu học Hà Thanh
trong những năm qua. Đề tài đã đắc lực giúp tôi thực hiện hiệu quả và thành
công công tác huy động nguồn lực xã hội hóa giáo dục xây dựng trường chuẩn
quốc gia, xây dựng đơn vị đạt chuẩn văn hóa, xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực theo Nghị quyết Hội đồng trường nhiệm kỳ 2013-2018, Nghị
quyết chi bộ nhiệm kỳ 2012-2015, nghị quyết Đảng bộ nhiệm kỳ 2010-2015 và
Nghị quyết Hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ 2011-2016. Tuy nhiên, với vốn kinh
nghiệm chưa nhiều, khả năng bản thân còn hạn chế chắc chắn đề tài sẽ còn nhiều
thiếu sót. Tôi rất mong đồng nghiệp, hội đồng khoa học các cấp đánh giá và bổ
sung những kinh nghiệm quý báu để đề tài được hoàn thiện, được ứng dụng rộng
rãi và hiệu quả hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Hà Thanh, ngày 12 tháng 3 năm 2016
CAM KẾT KHÔNG COPY.
TÁC GIẢ

Trương Trọng Ái
20




×