BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
----- -----
NGUYỄN MINH NGỌC
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
CÔNG TÁC XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC
Ở TỈNH ĐỒNG THÁP
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ 60.14.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐINH XUÂN KHOA
Nghệ An, 2012
LỜI CẢM ƠN
Hồn thành Luận văn này, tơi xin bày tỏ tình cảm chân thành và lịng biết
ơn sâu sắc đối với:
- Ban Giám hiệu và Khoa Sau đại học - Trường Đại học Vinh.
- Các thầy giáo, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy tôi trong suốt thời gian học
tập ở Lớp Cao học Quản lý Giáo dục khóa XVIII.
- PGS. TS Đinh Xuân Khoa, Tỉnh uỷ viên, Bí thư Đảng uỷ, Hiệu trưởng
Trường Đại học Vinh - Người thầy, người hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ
bảo và động viên tơi trong suốt q trình nghiên cứu để hồn thành Luận văn
này.
* Đồng thời, tơi xin trân trọng cảm ơn:
- Đồng chí Huỳnh Minh Đồn, Phó trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ,
nguyên Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ
Đồng Tháp; đồng chí Nguyễn Văn Hoa, nguyên Tỉnh uỷ viên, nguyên Chánh
Văn phòng Tỉnh uỷ Đồng Tháp; Ban Lãnh đạo Văn phịng Tỉnh uỷ Đồng
Tháp.
- TS Nguyễn Văn Đệ, Bí thư Đảng uỷ, Hiệu trưởng Trường Đại học Đồng
Tháp; Phòng Quản lý Khoa học và Sau đại học - Đại học Đồng Tháp.
- Ban Giám đốc và các phòng, ban chuyên môn Sở GD & ĐT Đồng Tháp.
Ban Giám đốc một số sở, ban, ngành, đoàn thể Tỉnh; tập thể lãnh đạo Văn phịng
Hội đồng nhân dân và Đồn đại biểu Quốc hội Tỉnh, Văn phòng Uỷ ban nhân
dân Tỉnh. Các đồng chí Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân nhân dân phụ trách văn
hoá - xã hội huyện, thị xã, thành phố; các đồng chí giám đốc trung tâm giáo dục
thường xuyên, cán bộ quản lý, giáo viên các trường THPT, THCS, TH, MN
trong Tỉnh.
- Gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên, đóng góp ý kiến, cung
cấp tài liệu và tận tình giúp đỡ tơi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
2
Bản thân đã hết sức cố gắng, nhưng chắc chắn Luận văn cũng khơng thể
tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được nhiều ý kiến chỉ dẫn và góp ý.
BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
ĐBSCL:
Đồng bằng sông Cửu Long
GD:
Giáo dục
GD & ĐT:
Giáo dục và Đào tạo
GD - ĐT:
Giáo dục - Đào tạo
GDTX:
Giáo dục thường xuyên
GS.TS:
Giáo sư Tiến sĩ
GS.VS:
Giáo sư Viện sĩ
HĐND:
Hội đồng nhân dân
MN:
Mầm non
NXB:
Nhà xuất bản
PGS.TS:
Phó Giáo sư Tiến sĩ
TH:
Tiểu học
THCS:
Trung học cơ sở
THPT:
Trung học phổ thông
TTGDTX:
Trung tâm giáo dục thường xuyên
TTHTCĐ:
Trung tâm học tập cộng đồng
UBND:
Uỷ ban nhân dân
XHH:
Xã hội hoá
XHHGD:
Xã hội hoá giáo dục
XHHT:
Xã hội học tập
3
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
Bảng ký hiệu viết tắt
Mục lục
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề xã hội hoá giáo dục
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề xã hội hoá giáo dục
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.3. Các nội dung cơ bản về xã hội hoá giáo dục
1.4. Quản lý cơng tác xã hội hố giáo dục
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của vấn đề xã hội hoá giáo dục ở tỉnh
01
07
07
12
18
32
38
Đồng Tháp
2.1. Khái quát về tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Tháp
2.2. Thực trạng quản lý cơng tác xã hội hố giáo dục ở tỉnh Đồng Tháp
2.3. Đánh giá chung về thực trạng
Chương 3: Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hoá giáo dục
38
41
64
67
ở tỉnh Đồng Tháp.
3.1. Quan điểm xã hội hoá giáo dục của tỉnh Đồng Tháp trong thời
67
gian tới
3.2. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về xã hội hoá giáo dục
3.3. Một số nguyên tắc đề xuất các giải pháp
3.4. Một số giải pháp quản lý cơng tác xã hội hố giáo dục ở tỉnh
67
68
69
Đồng Tháp
3.5. Đánh giá các giải pháp
Kết luận và kiến nghị
CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC NGHIÊN CỨU
91
96
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Xã hội hóa giáo dục (XHHGD) là một trong những tư tưởng cốt lõi về
giáo dục (GD) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời là chủ trương, quan điểm
xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta từ thời lập quốc đến nay.
Từ ngày có Đảng, nhất là từ sau khi Cách mạng tháng Tám thành cơng, tư
tưởng Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của sự học, xem học tập là nhu cầu của cuộc
sống đã được thể hiện một cách nhất quán trong đường lối, chủ trương của Đảng và
Nhà nước. Ngay từ những ngày đầu mới giành được độc lập, khi vận mệnh nước
nhà đang như ngàn cân treo sợi tóc, Đảng và Bác Hồ đã chủ trương huy động tối đa
các nguồn lực để cùng một lúc chống ba thứ giặc "giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại
xâm", xem chống giặc dốt cũng quan trọng, cấp bách như chống giặc đói để dân
được ấm no và chống giặc ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập nước nhà.
Giáo dục và Đào tạo (GD & ĐT) ngày nay là yếu tố quyết định tương lai
của mỗi dân tộc, sự phát triển của mỗi quốc gia, trong bối cảnh tồn cầu hố
phát triển rộng khắp, cách mạng khoa học - công nghệ đạt những bước tiến thần
kỳ, cách mạng thông tin bùng nổ, tri thức của nhân loại có sự tiến bộ không
ngừng. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng công tác GD & ĐT,
phát triển GD & ĐT cùng với khoa học công nghệ được xác định là quốc sách
hàng đầu, đầu tư cho GD là đầu tư cho phát triển. Phát triển GD & ĐT là một
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều
kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Sự nghiệp GD là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình,
của các lực lượng xã hội. Chỉ có sự kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố này mới tạo
thành sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp trồng người thắng lợi.
Nội dung cơ bản của XHHGD bao gồm hai khía cạnh song hành có quan
hệ mật thiết và tác động lẫn nhau một cách biện chứng: Một là, mọi tổ chức, mọi
5
tập thể, mọi cá nhân theo khả năng của mình đều có thể đóng góp cơ hội học tập
cho cộng đồng. Hai là, mọi người dân trong cộng đồng đều có thể tận dụng cơ
hội để học tập và tham gia phát triển GD, học tập để lập thân, lập nghiệp, nâng
cao chất lượng cuộc sống.
XHHGD là chủ trương, quan điểm cơ bản, xuyên suốt của Đảng và Nhà
nước ta; là sự đúc kết bài học kinh nghiệm xây dựng nền GD cách mạng và
truyền thống hiếu học của nhân dân ta; là sự tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm xây
dựng và phát triển GD của các nước tiên tiến trên thế giới; là xu thế mới, có tính
tất yếu trong q trình phát triển của lồi người đương đại. Định hướng XHHGD
được thể hiện rõ qua các chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta:
Văn kiện Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII khẳng định: “Giáo dục - Đào
tạo (GD - ĐT) là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân” [31, tr
7].
Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã xác định: "Thực hiện chủ trương
XHHGD, phát triển đa dạng các hình thức đào tạo, đẩy mạnh việc xây dựng các
quỹ khuyến khích tài năng, các tổ chức khuyến học, bảo trợ GD" [32, 111].
Văn kiện Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: "… thực hiện "chuẩn hoá, hiện
đại hoá, xã hội hoá (XHH)", chấn hưng nền GD Việt Nam" [35, tr 95]. Văn kiện
Đại hội XI của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển chủ trương XHHGD là: "Hoàn
thiện cơ chế, chính sách XHHGD, đào tạo trên cả ba phương diện: động viên
các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trị giám sát của cộng đồng; khuyến
khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập (XHHT),
tạo điều kiện để người dân được học tập suốt đời" [37, tr 132 ].
Ngày 18 tháng 4 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị quyết số
05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh XHH các hoạt động GD, y tế, văn hoá và thể dục
thể thao; ngày 30 tháng 5 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định 69/2008/NĐCP về chính sách khuyến khích XHH đối với các hoạt động trong lĩnh vực GD,
dạy nghề, y tế, văn hố, thể thao, mơi trường. Nghị quyết số 05 của Chính phủ
6
xác định: "Qua 7 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 90/1997/NQ-CP và 5 năm
thực hiện Nghị định 73/1999/NĐ-CP, công tác XHH các hoạt động GD, y tế, văn
hoá và thể dục thể thao đã thu được những kết quả quan trọng… Tuy nhiên, trong
quá trình thực hiện XHH đã bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập. Hạn chế lớn nhất
là tốc độ XHH còn chậm so với tiềm năng và chỉ tiêu định hướng của Nghị quyết
90; mức độ phát triển XHH không đồng đều giữa các vùng miền và cả giữa các
tỉnh, thành phố, địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội như nhau". "Công tác
quản lý còn bất cập cả trong định hướng phát triển, quy hoạch và chỉ đạo thực
hiện. Việc triển khai thực hiện còn chậm và nhiều lúng túng. Quản lý nhà nước
vừa gị bó, vừa bng lỏng; cơ chế chính sách chưa cụ thể, rõ ràng, thiếu đồng
bộ, còn chưa phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các lực
lượng xã hội chưa được tổ chức và phối hợp tốt để chủ động, tích cực tham gia
vào quá trình XHH...". "Nguyên nhân của những hạn chế trước hết là do nhận
thức còn chưa đầy đủ, xem XHH chỉ là biện pháp huy động sự đóng góp của
nhân dân trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp. Tư tưởng và thói quen
bao cấp vẫn cịn khá nặng nề" [20, tr 1, 2].
Đồng Tháp là một tỉnh ở miền Tây Nam Bộ với đặc điểm tình hình kinh tế
- xã hội cịn nhiều khó khăn, thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai; cơ cấu
kinh tế chuyển dịch chậm, nơng nghiệp cịn chiếm tỷ trọng lớn; kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội chưa đồng bộ; việc cụ thể hố Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP cịn
nhiều khó khăn, thiếu sót: nhận thức về XHHGD khơng đồng đều; chưa có cơ
chế, chính sách cụ thể tạo thuận lợi cho công tác XHHGD; kết quả huy động các
nguồn lực xã hội cho sự nghiệp GD còn khiêm tốn... Hiện nay, ở Đồng Tháp chưa
có cơng trình nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống về vấn đề XHHGD. Để
góp phần phát triển kinh tế - xã hội, huy động có hiệu quả các nguồn lực xã hội
cho sự nghiệp GD, tạo sự chuyển biến quan trọng về chất lượng nguồn nhân lực
tỉnh Đồng Tháp đến năm 2015 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX Đảng bộ
Tỉnh và Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày 23 tháng 5 năm 2011 của Ban Chấp hành
Đảng bộ Tỉnh khoá IX (nhiệm kỳ 2010 - 2015), chúng tôi chọn định hướng
7
nghiên cứu “Một số giải pháp quản lý công tác XHHGD ở tỉnh Đồng Tháp”
làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp quản
lý công tác XHHGD ở tỉnh Đồng Tháp.
3. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác XHHGD ở tỉnh Đồng Tháp.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Một số giải pháp quản lý công tác XHHGD ở
tỉnh Đồng Tháp.
3.3. Phạm vi nghiên cứu:
Để việc nghiên cứu có tập trung, luận văn chỉ giới hạn trong phạm vi
nghiên cứu một số hoạt động XHHGD ở tỉnh Đồng Tháp đến năm 2015. Chúng
tôi chỉ tổ chức thăm dị, đánh giá các vấn đề chứ khơng tổ chức khảo nghiệm.
4. Giả thuyết khoa học:
Nếu đề xuất được các giải pháp có cơ sở khoa học và có tính khả thi thì có
thể nâng cao chất lượng cơng tác XHHGD ở tỉnh Đồng Tháp.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề XHHGD.
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề XHHGD ở tỉnh Đồng Tháp.
- Đề xuất một số giải pháp quản lý công tác XHHGD ở tỉnh Đồng Tháp.
6. Phương pháp nghiên cứu:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Nhóm phương pháp này nhằm
thu thập các thông tin lý luận để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. Thuộc nhóm
phương pháp nghiên cứu lý luận có các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
+ Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu;
+ Phương pháp khái quát hoá các nhận định độc lập.
8
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Nhóm phương pháp này nhằm
thu thập các thông tin thực tiễn để xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài. Thuộc
nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn có các phương pháp nghiên cứu cụ thể
sau đây:
+ Phương pháp điều tra xã hội học;
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm GD;
+ Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia;
- Phương pháp thống kê toán học để xử lý các kết quả nghiên cứu.
7. Đóng góp của luận văn:
7.1. Về lý luận:
- Khẳng định tầm quan trọng của XHHGD trong sự nghiệp GD, từ đó,
nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường cơng tác quản lý XHHGD trên địa bàn
tỉnh Đồng Tháp.
- Xác định cụ thể các yếu tố của quản lý XHHGD cần phải thay đổi để
thích ứng với thực tiễn, hướng cơng tác quản lý XHHGD đáp ứng yêu cầu nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng GD của tỉnh Đồng Tháp.
7.2. Về thực tiễn:
- Chỉ ra những hạn chế, khiếm khuyết về nhận thức và hành động của các
cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân về XHHGD; về công tác quản lý
XHHGD trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.
- Đề xuất được một số giải pháp khoa học, khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả công tác quản lý XHHGD, góp phần nâng cao chất lượng GD của tỉnh Đồng
Tháp đến năm 2015.
8. Cấu trúc nội dung luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục nghiên cứu,
đề tài cịn có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề xã hội hoá giáo dục.
9
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của vấn đề xã hội hoá giáo dục ở tỉnh Đồng Tháp.
Chương 3: Một số giải pháp quản lý cơng tác xã hội hố giáo dục ở tỉnh
Đồng Tháp.
10
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề xã hội hoá giáo dục:
1.1.1. Những nghiên cứu trong nước:
XHHGD là một truyền thống quý báu từ xa xưa của dân tộc Việt Nam,
trải qua lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, truyền thống đó ln ln
được giữ gìn và nhân rộng.
Vào thế kỷ XI (1070), Nhà Lý cho xây dựng Văn Miếu - Quốc Tử Giám;
năm 1075, vua Lý Thánh Tông cho mở khoa thi đầu tiên để lựa chọn nhân tài.
Sang thời nhà Hồ, Hồ Quý Ly thể hiện sự quan tâm đến công việc học hành qua
chủ trương mở rộng trường học ở các lộ, châu, phủ. Vào những năm 1420, nhà Lê
mở rộng chế độ GD, thi cử so với các triều đại trước, con em mọi tầng lớp nhân
dân đều được tham gia dự thi. Vào thế kỷ XVIII (năm 1788), triều đại Tây Sơn
chủ trương mở rộng nền GD đến tận thơn, xóm. Với câu nói bất hủ: “Dựng nước,
trước tiên phải lo việc học”, vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) đã ban hành Chiếu
lập học, các xã phải lập ra nhà xã học, chọn người hay chữ và có đức hạnh phụ
trách việc giảng dạy (gọi là xã giảng dụ), cho phép một số địa phương mở một số
đền, chùa làm trường học. Những chính sách nêu trên chứng tỏ vua Quang Trung
có hoài bão muốn xây dựng nền học thuật, GD dân tộc, nâng cao ý thức tự lực, tự
cường, thoát khỏi những ràng buộc của nền GD khuôn sáo cũ [38, tr 107, 165].
Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam mới ra đời. Với
sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền
GD Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, hạn chế, thiếu thốn để
chuyển mình sang giai đoạn mới: Phát triển "nền GD của dân, do dân, vì dân".
Trong giai đoạn sau khi thống nhất đất nước đến trước đổi mới (trước năm
1986), với cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, đất nước nói chung và nền GD
nước ta nói riêng rơi vào khủng hoảng, sự nghiệp GD tồn dân có lúc chưa được
coi trọng, bản chất xã hội của GD không quan tâm đầu tư đúng mức, không thu
11
hút được các nguồn lực của toàn xã hội tham gia vào các hoạt động GD. Cơ sở
vật chất GD xuống cấp, lạc hậu, nền GD nước ta rơi vào tụt hậu nghiêm trọng,
không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và xu thế
phát triển chung của thời đại.
Trước yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập ngày càng sâu rộng vào các
thể chế kinh tế - xã hội toàn cầu, Đảng ta đã kịp thời ban hành những chủ trương,
quyết sách đúng đắn về GD & ĐT. Từ Đại hội VII đến Đại hội XI của Đảng,
Đảng ta luôn xác định "GD & ĐT là quốc sách hàng đầu", ''XHH'' là một trong
những quan điểm, chủ trương lớn để hoạch định hệ thống các chính sách xã hội.
Bàn về vấn đề XHHGD, các nhà nghiên cứu, nhà quản lý GD đều có
chung nhận định về vai trị, vị trí, ý nghĩa chiến lược của công tác XHHGD
trong sự nghiệp GD & ĐT ở nước ta.
Giáo sư Viện sĩ (GS.VS) Phạm Minh Hạc khẳng định: “XHH công tác
GD, một con đường phát triển GD nước ta” [39, tr 16].
Giáo sư cho rằng, XHHGD là "Làm cho xã hội nhận rõ trách nhiệm đối
với GD, GD phục vụ đắc lực cho phát triển KT - XH, thực hiện việc kết hợp GD
trong nhà trường và ngoài nhà trường, tạo điều kiện để GD kết hợp với lao
động, học đi đôi với hành; XHHGD có quan hệ hữu cơ với dân chủ hố GD".
“XHH công tác GD là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối
chiến lược, một con đường phát triển GD của nước ta… Sự nghiệp GD không
chỉ là của Nhà nước mà là của toàn xã hội, mọi người cùng làm GD, nhà nước
và xã hội, Trung ương và địa phương cùng làm GD” [40].
Theo Giáo sư Tiến sĩ (GS.TS) Phạm Tất Dong: “Trong thực tiễn đấu
tranh cách mạng Việt Nam, khái niệm XHHGD ngày càng được mở rộng và
phong phú hơn. Đây không phải là giải pháp tình thế nhằm tháo gỡ khó khăn
của nước nghèo. Ngay khi chúng ta đạt được mức tăng trưởng nhiều lần so với
hiện nay thì tư tưởng XHHGD vẫn giữ được giá trị chủ đạo cơ bản” [45].
12
Phó Giáo sư Tiến sĩ (PGS.TS) Đặng Quốc Bảo quan niệm: “XHHGD
phản ánh bản chất của luận đề: GD cho tất cả mọi người, tất cả cho sự nghiệp
GD”. Vậy, huy động toàn xã hội làm GD, động viên các tầng lớp nhân dân góp
sức xây dựng nền GD quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước không phải là
một ý tưởng mới lạ. PGS.TS Đặng Quốc Bảo nhấn mạnh: “Khơng có xã hội nào
có thể tồn tại nếu khơng có sự GD và mọi sự GD đều hướng tới sự tiến bộ của
xã hội. Như vậy là luôn luôn tồn tại nền GD xã hội” [11, tr 6].
PGS.TS Vũ Văn Phúc (Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản) khẳng định:
"Đẩy mạnh XHHGD, huy động mọi nguồn lực để phát triển sự nghiệp GD và
xây dựng XHHT… XHHGD vừa là mục tiêu vừa là một trong những giải pháp
chủ yếu để phát triển GD & ĐT" [50].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Trần Bạt (Chủ tịch, Tổng giám đốc, Invest
Consult Group) cho rằng: "XHHGD là tinh thần, là nội dung quan trọng nhất
của cải cách GD, bảo đảm sự thành công của cải cách GD". Ơng cũng cho
rằng: "XHHGD có ý nghĩa là nhà nước phải tạo ra không gian xã hội, luật pháp
và chính trị cho việc hình thành một khu vực GD mà ở đấy ai cũng có quyền
đóng góp vì sự nghiệp GD, thực hiện sự cạnh tranh về chất lượng GD, tức là
GD phải thuộc về xã hội" và "XHHGD khơng chỉ là đa dạng hố hình thức và
các nguồn đầu tư cho GD & ĐT, mà quan trọng nhất là đa dạng hoá nội dung
hay đa dạng hố, hiện đại hố chương trình GD thích ứng với những đòi hỏi
của xã hội" [13].
Nguyên Bộ trưởng Bộ Thơng tin và Truyền thơng Lê Dỗn Hợp cho rằng:
"Sức mạnh tổng hợp của ngành GD & ĐT được đo bằng thước đo XHH… XHH
cũng là con đường tốt nhất để tiếp cận các bài học thành công của nền GD các
quốc gia tiên tiến trên thế giới để vận dụng sáng tạo, đúng đắn, sát thực vào
thực tiễn Việt Nam, theo hướng đi tắt, đón đầu, bứt phá nhanh hơn với hiệu quả
cao nhất" [43].
13
Trong những năm gần đây, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu như
GS.TS Nguyễn Mậu Bành, PGS.TS Trần Quang Nhiếp, Tiến sĩ Hồ Thiệu
Hùng… có nhiều bài viết về XHHGD. Bộ GD & ĐT, Viện Khoa học GD Việt
Nam đã và đang tiến hành hệ thống hoá các đề tài nghiên cứu về XHHGD, đúc
kết kinh nghiệm từ thực tiễn quản lý để phát triển lý luận và đề xuất chính sách
nhằm hồn thiện hệ thống cơ sở lý luận, ban hành các văn bản hướng dẫn địa
phương, các đơn vị GD thực hiện nhiệm vụ công tác XHHGD. Trên cơ sở kết
quả công tác XHHGD giai đoạn 2006 - 2010, Bộ GD & ĐT đã đề xuất với
Chính phủ ban hành Đề án đẩy mạnh công tác XHHGD và đào tạo giai đoạn
2012 - 2016 [61].
Ngoài ra, được sự hướng dẫn của các nhà khoa học, nhiều luận văn thạc
sĩ, luận văn tiến sĩ trong nước đã đề cập đến vấn đề XHHGD ở nhiều khía cạnh
khác nhau. Trên địa bàn Tỉnh, cũng có nhiều nghiên cứu về vấn đề XHHGD ở
cấp huyện. Trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn công tác XHHGD của địa
phương, hầu hết các nghiên cứu đã đề xuất được giải pháp quan trọng, có tính
khả thi để đẩy mạnh cơng tác quản lý XHHGD ở địa phương mình, song, hạn
chế chung nhất của các nghiên cứu này là chưa tập trung đề xuất vấn đề mấu
chốt, cốt lõi, có tính chi phối hiệu quả công tác quản lý XHHGD: Đề xuất cơ
chế, chính sách đẩy mạnh cơng tác XHHGD.
1.1.2. Những nghiên cứu ở nước ngoài:
Cũng như nước ta, các nước phát triển trên thế giới đều coi trọng chính
sách XHHGD, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho GD phát triển và quan tâm sâu
sắc đến hiệu quả GD mang lại cho nền kinh tế - xã hội. Nhiều quốc gia chú
trọng phát huy sức mạnh tổng hợp của xã hội trong cải cách GD để bảo đảm ai
cũng học tập, ai cũng được hưởng thụ GD, ai cũng tham gia phát triển GD.
Năm 1947, Nhật Bản đặt GD vào vị trí hàng đầu của các chính sách quốc
gia. Nhật Bản đẩy mạnh cải tổ hệ thống GD nhằm tạo ra một hệ thống GD mở
với mục đích tạo cho học sinh lòng ham học, tự chủ trong suy nghĩ, phát triển
14
những năng lực khác nhau nhằm tạo cơ hội thích hợp với nhu cầu học tập và
nghề nghiệp của học sinh, luôn dành cho địa phương và nhà trường quyền tự
chủ. Năm 1971, Nhật Bản thành lập Bộ GD, đề ra chính sách: Đối với các
trường TH bắt buộc thì "sự bình đẳng'' là ngun tắc tối cao. Cịn đối với các
trường sơ trung và cao trung thì nguyên tắc "tài năng" là cao nhất. Quan điểm
này khơng những xố bỏ sự bất bình đẳng trong xã hội về GD, mà còn tạo ra cơ
hội cho sự phát triển tiềm năng của con người.
Để xây dựng XHHT, Chính phủ Nhật Bản đã lập ra Uỷ ban Quốc gia về
GD suốt đời. Ở Nhật Bản có hai hệ GD: GD nhà trường và GD xã hội. GD nhà
trường chính là hệ GD ban đầu, gồm trường mẫu giáo, trường phổ thông và các
loại hình trường đào tạo nghề từ trung cấp đến đại học. Nhật Bản rất quan tâm
đến hệ GD xã hội (GD tiếp tục) vì đây là hệ GD có tác dụng quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đối với Hàn Quốc, vai trò tư nhân trong GD là nhân tố quan trọng thúc
đẩy nền GD phát triển mạnh mẽ, tạo ra sự công bằng, dân chủ trong thụ hưởng
chính sách GD. Hàn Quốc tập trung mạnh các nguồn lực xã hội cho GD dựa trên
đầu tư của nhà nước kết hợp với nguồn lực của tư nhân.
Chính phủ Hoa Kỳ đầu tư mạnh cho hiện đại hoá GD, thực hiện mục tiêu
học tập suốt đời và đề cao việc học để đạt trình độ học vấn cao. Để đạt được
điều này, một trong những giải pháp quan trọng là Chính phủ chủ trương đa
dạng hố các loại hình trường học nhằm thực hiện tốt chiến lược phát triển GD
dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, đón đầu sự phát triển của nền kinh tế thế
giới trong thế kỷ XXI.
Ở Inđơnêxia, ngồi hệ thống GD nhà trường, cịn coi trọng các loại hình
GD ngồi nhà trường: ở gia đình, xã hội, các doanh nghiệp, các trường đại học
mở, phục vụ nhu cầu học tập đa dạng của nhân dân.
Chính phủ Vương quốc Thái Lan đã và đang thực hiện chính sách đa
dạng hố các loại hình đào tạo, đào tạo nghề nghiệp - kỹ thuật, tổ chức nhiều
15
loại hình nghề nghiệp chính quy và phi chính quy để thích ứng với nhu cầu nhân
lực của thị trường lao động trong quá trình phát triển đất nước.
Như vậy, chúng ta thấy rằng các nước có đặc điểm riêng về kinh tế - xã
hội nhưng đều có điểm chung trong phương thức XHHGD: Đó là huy động mọi
tiềm lực của cộng đồng cho GD. Ở nhiều quốc gia, XHHGD là sự lựa chọn ưu
tiên, có tính chất quyết định cho mơ hình phát triển GD của riêng mình.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài:
1.2.1. Quản lý và quản lý giáo dục:
a) Quản lý:
Từ khi xã hội loài người xuất hiện, con người có sự hợp tác với nhau thì
hoạt động quản lý đã được hình thành. Ở đâu có nhóm xã hội thì ở đó cần đến
hoạt động quản lý. Từ xa xưa, con người đã biết sử dụng quản lý vào trong việc
tổ chức hoạt động của mình.
Quản lý là một khái niệm được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội. Do đối tượng quản lý phong phú, đa dạng, tuỳ thuộc vào từng
lĩnh vực hoạt động cụ thể, từng giai đoạn phát triển của xã hội mà có những
cách hiểu khác nhau về quản lý.
Theo Từ điển Tiếng Việt “Quản lý là trơng coi và giữ gìn theo những u
cầu nhất định” [62, tr 800].
Frederics William Taylor (1856 - 1915) cho rằng: “Quản lý là nghệ thuật
biết rõ ràng, chính xác cái gì cần phải làm và làm cái đó như thế nào, bằng
phương pháp tốt nhất, rẻ nhất” [26, tr 89].
Các Mác khẳng định: “Bất cứ lao động xã hội hay cộng đồng trực tiếp
nào được thực hiện ở quy mô tương đối lớn đều cần ở chừng mực nhất định đến
sự quản lý. Quản lý là xác lập sự tương hợp giữa các công việc cá nhân và hình
thành những chức năng chung, xuất hiện trong tồn bộ cơ chế sản xuất, khác
với sự vận động của bộ phận riêng lẻ của nó” [46, tr 199].
16
Có tác giả lại hiểu quản lý là q trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng
cách vận dụng và thực hiện một cách sáng tạo các chức năng kế hoạch hoá, tổ
chức, chỉ đạo, kiểm tra. Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho
rằng: “Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý
(người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức
nhằm làm cho tổ chức đó vận hành và đạt được mục đích của mình” [16, tr 6].
Tóm lại, quản lý là tổ chức, điều khiển hoạt động của một nhóm (hay
nhiều nhóm xã hội) cùng nhau thực hiện những nhiệm vụ và mục đích chung.
Quản lý có vai trị rất quan trọng đối với mọi hoạt động của xã hội.
b) Quản lý GD:
Quản lý GD là một bộ phận của quản lý xã hội, là sự tác động có ý thức
của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ
thống GD đạt tới kết quả mong muốn.
Quản lý GD là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp
quy luật của chủ thể quản lý nhằm tổ chức, điều khiển và quản lý hoạt động GD
của những người làm cơng tác GD.
Quản lý GD cũng có các chức năng cơ bản: kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ
đạo, kiểm tra và đánh giá quá trình GD. Các chức năng của quản lý tạo thành
quá trình quản lý và chu trình quản lý (Xem hình 1.1.)
Hình 1.1. Chức năng quản lý và chu trình quản lý
Kế hoạch
Kiểm tra
Chu trình
quản lý
Chỉ đạo
17
Tổ chức
Nội dung của quản lý GD là quản lý các yếu tố cấu thành quá trình GD
tổng thể, bao gồm: mục tiêu GD, nội dung GD, phương pháp GD, nhà GD,
người được GD, kết quả GD, đồng thời quản lý các cơ sở vật chất, thiết bị dạy
học, GD, môi trường GD, các lực lượng GD.
Như vậy, quản lý GD là quản lý quá trình sư phạm, quá trình dạy học GD
diễn ra ở tất cả các cấp học, bậc học và cơ sở GD, làm cho q trình đó vận hành
đúng đường lối, quan điểm GD của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
1.2.2. Xã hội hoá và xã hội hố giáo dục:
a) Xã hội hố:
Có nhiều cách hiểu, định nghĩa XHH khác nhau:
- XHH là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội.
- XHH là sự tương tác, mối liên hệ, thuộc tính vốn có của con người, của
cộng đồng nhằm đáp ứng lại xã hội và chịu ảnh hưởng của xã hội.
- Theo Từ điển Tiếng Việt, khái niệm XHH được hiểu là "Làm cho một
việc gì, một cái gì đó thành của chung xã hội”.
Kể từ khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện chủ trương cải cách tổ chức bộ
máy Nhà nước theo hướng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, thì thuật ngữ "XHH" được sử dụng khá phổ biến trong các văn kiện,
hội nghị, hội thảo…
Nhiều cơng trình nghiên cứu khác nhau về XHH có các cách lý giải khác
nhau, song, tựu trung lại có thể khẳng định: Bản chất của XHH là cách làm,
cách thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng bằng con đường tuyên truyền,
huy động và tổ chức sự tham gia của cộng đồng, mọi lực lượng xã hội; tạo ra sự
phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp một cách có kế hoạch dưới sự chỉ đạo
và quản lý thống nhất của Nhà nước, làm cho việc giải quyết các vấn đề xã hội
mang lại lợi ích cho nhân dân, thực sự "của dân, do dân và vì dân".
b) Xã hội hoá giáo dục:
18
XHHGD được hiểu trên phương diện rộng là toàn thể nhân dân, toàn thể
xã hội tham gia vào sự nghiệp GD. XHHGD là làm cho hoạt động GD trở thành
hoạt động chung của toàn xã hội. XHHGD là việc thực hiện mối liên hệ phổ
biến giữa hoạt động GD và cộng đồng xã hội, là làm cho GD phù hợp với sự
phát triển của xã hội, thích ứng với xã hội. XHHGD là duy trì sự cân bằng động
giữa hoạt động GD và xã hội sẽ tạo động lực cho việc huy động cộng đồng tham
gia xây dựng và phát triển GD.
XHHGD là cách nói gọn của "XHH cơng tác GD" với nội hàm là phương
thức, cách thức, phương châm, cách làm GD, tổ chức và quản lý GD. Đảng và
Nhà nước ta chủ trương XHHGD là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận quan
trọng trong đường lối, chính sách GD.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng xác định: “Đẩy mạnh XHH GD & ĐT. Rà
soát, sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề. Đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng trường cơng
lập; bổ sung chính sách ưu đãi để phát triển các trường ngồi cơng lập và các
trung tâm GD cộng đồng” [35, tr 208].
Nghị quyết số 90/1997/NQ-CP của Chính phủ xác định khái niệm
XHHGD là: "Vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn
xã hội vào sự phát triển sự nghiệp GD" [17].
Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng 8 năm 1999 về chính sách
khuyến khích XHH đối với các hoạt động trong lĩnh vực GD, y tế, văn hoá, thể
thao ghi rõ: X
" HH hoạt động GD là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi
của nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển sự nghiệp GD nhằm từng bước
nâng cao mức hưởng thụ về GD trong sự phát triển về vật chất và tinh thần của
nhân dân"[18].
Theo GS.VS Phạm Minh Hạc, XHHGD là: "Làm cho xã hội nhận rõ trách
nhiệm đối với GD, GD phục vụ đắc lực cho phát triển KT - XH, thực hiện việc
kết hợp GD trong nhà trường và ngoài nhà trường, tạo điều kiện để GD kết hợp
19
với lao động, học đi đơi với hành; XHHGD có quan hệ hữu cơ với dân chủ hoá
GD"[40].
PGS.TS Trần Quang Nhiếp đưa ra một hệ thống các khái niệm về
XHHGD:
"XHHGD là làm cho các hoạt động mang tính GD của xã hội được huy
động vào quá trình GD một cách tích cực, có hiệu quả; là xã hội tham gia giải
quyết một cách phù hợp những vấn đề GD đang đặt ra; là đa dạng hố các loại
hình GD; là mở rộng quy mô đáp ứng yêu cầu GD của xã hội; là xây dựng cơ
cấu ngành học, cấp học hợp lý; là kiểm soát được chất lượng đào tạo toàn diện
và ngày càng nâng lên; là hướng tới đáp ứng các yêu cầu phát triển xã hội; là
quá trình tiếp thu có chọn lọc những tri thức, những thành tựu văn minh, tiến bộ của
thời đại, của thế giới làm cho GD cập nhật với xã hội hiện đại... XHHGD là phát
huy vai trò của các chủ thể trọng yếu mà nền GD nước nhà đã tổng kết thành
phương châm: GD nhà trường kết hợp với GD gia đình và GD xã hội"[48].
XHHGD, theo chúng tôi phải được hiểu trên phương diện rộng là toàn thể
xã hội tham gia vào sự nghiệp GD, làm cho hoạt động GD trở thành hoạt động
chung của toàn xã hội.
1.2.3. Chất lượng và chất lượng giáo dục:
a) Chất lượng:
Xung quanh khái niệm chất lượng có nhiều quan niệm khác nhau:
- Theo Từ điển Tiếng Việt, chất lượng là “cái tạo nên phẩm chất, giá trị
của một con người, một sự vật, sự việc”.
- Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng, chất lượng là “cái làm nên phẩm
chất, giá trị của sự vật hoặc là cái tạo nên bản chất của sự vật, làm cho sự vật
này khác với sự vật kia”.
- Theo tiêu chuẩn Pháp - NFX 50 - 109, chất lượng là “tiềm năng của
một sản phẩm hay dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu người sử dụng”.
20