Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tập tập làm văn tả con vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 32 trang )

MỤC LỤC
Phần
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.2.1. Giúp học sinh lớp 4
1.2.2. Giúp giáo viên
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
1.4.2. Phương pháp quan sát sư phạm
1.4.3. Phương pháp thống kê
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Các biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học tập làm văn tả
con vật cho học sinh lớp 4
2.3.1. Giáo viên cần hiểu được khái niệm đoạn văn, bài văn miêu tả
2.3.2. Giáo viên cần nắm vững nội dung chương trình phân môn
Tập làm văn miêu tả con vật lớp 4
2.3.3. Giáo viên cần nắm vững trình tự dạy phân môn Tập làm văn
miêu tả con vật lớp 4
2.3.4. Cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả
2.3.5. Hướng dẫn học sinh thực hành tốt các bước làm văn miêu tả
2.3.6. Phân loại các dạng bài trong phân môn Tập làm văn (Phần
văn miêu tả con vật lớp 4)
a) Cách viết đoạn văn miêu tả con vật (Luyện viết phần thân bài)
b) Cách viết đoạn văn mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả con vật
c) Cách liên kết đoạn văn
2.3.7. Trả bài và trả bài viết cho học sinh
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

Trang
1
1
2
2
2
2
2
2
2
2
3
3
3
5
5
6
7
8
8
14
14
15
18
19
20

20
20

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong chương trình Tiểu học, cùng với môn Toán thì môn Tiếng Việt
chiếm thời lượng nhiều nhất, gần bằng một nửa tổng thời lượng của các môn
học. Môn Tiếng Việt có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ
0


năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các
môi trường hoạt động của lứa tuổi; thông qua việc dạy và học Tiếng Việt, góp
phần rèn luyện các thao tác của tư duy. Môn Tiếng Việt cung cấp cho học sinh
những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự
nhiên và con người, về văn hóa, văn học Việt Nam và nước ngoài. Ngoài ra, nó
còn bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt; hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng,
giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Môn Tiếng việt gồm nhiều phân môn khác nhau như Tập đọc,
Luyện từ và câu, Kể chuyện, Chính tả, Tập làm văn. Song khó hơn cả đối với
người dạy cũng như đối với người học là phân môn Tập làm văn.
Tập làm văn là một phân môn rất quan trọng trong chương trình dạy học
Tiểu học. Tập làm văn giúp học sinh tạo ra được các ngôn bản nói và viết theo
các phong cách chức năng ngôn ngữ, hình thành và phát triển năng lực tạo lập
ngôn bản - một năng lực được tổng hợp từ các kĩ năng bộ phận như: xác định
mục đích nói, lập ý, triển khai ý thành lời (dạng nói, viết bằng câu, đoạn, bài).
Nhiệm vụ cụ thể của phân môn Tập làm văn bao gồm:
- Cung cấp kiến thức và hình thành, phát triển các kĩ năng bộ phận, góp
phần hình thành và phát triển năng lực tạo lập, sản sinh ngôn bản.
- Cung cấp tri thức về các dạng nghi thức lời nói, rèn kĩ năng nói theo các

nghi thức đó.
- Rèn kĩ năng nói, viết các ngôn bản thông thường và một số văn bản nghệ
thuật như kể chuyện, miêu tả.
- Rèn các kĩ năng đặc thù phù hợp với mỗi dạng bài, kiểu bài Tập làm văn
(kĩ năng quan sát trong văn tả, kể; kĩ năng xây dựng cốt truyện, chi tiết, tình tiết
trong văn kể chuyện...).
Ngoài ra, phân môn Tập làm văn cũng góp phần rèn luyện tư duy (tư duy
hình tượng, tư duy logic, kĩ năng phân tích - tổng hợp - phân loại - lựa chọn) và
hình thành nhân cách (lịch sự, khuôn mẫu trong giao tiếp; bồi dưỡng tình cảm
đẹp và vốn sống...) cho học sinh tiểu học.
Dạy tập làm văn là dạy học sinh cách nhìn nhận cuộc sống xung quanh
trong thực tế với cảm xúc thực của các em. Đồng thời cũng dạy các em cách ghi
lại sự nhìn nhận ấy qua các văn bản - còn gọi là đoạn văn, bài văn một cách
chính xác về đối tượng quan sát.
Tập làm văn lớp 4 gồm hai nội dung, một trong những nội dung chính của
chương trình Tập làm văn lớp 4 là văn miêu tả. Tả con vật là một kiểu bài khó vì
học sinh thiếu khả năng quan sát tinh tế. Mặt khác, mỗi con vật có hình dáng và
hoạt động khác nhau nên đôi khi các em không thể quan sát hết những nét riêng
biệt của nó, không cảm nhận được vẻ đẹp của con vật cũng như những thay đổi
về hoạt động của con vật nên không biết dựa vào cảm xúc thật của mình để làm
nó trở nên đẹp hơn, sinh động hơn, gần gũi hơn.
Dạy tốt phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn miêu tả nói riêng
là vấn đề được nhiều giáo viên Tiểu học quan tâm. Là giáo viên, nhất là giáo
viên dạy lớp 4 không ai tránh khỏi những trăn trở, băn khoăn là làm thế nào giúp
học sinh rèn luyện tốt kỹ năng và làm bài tập làm văn miêu tả có hiệu quả. Đi
1


tìm câu trả lời cho câu hỏi này là một quá trình và cũng là một lý do thúc đẩy tôi
nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tập có hiệu quả

tập làm văn tả con vật”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.2.1.Giúp học sinh lớp 4
- Nắm được bố cục ba phần (Mở bài, thân bài, kết bài) của bài văn miêu tả con
vật; trọng tâm miêu tả của từng bài trong SGK;
- Có kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý.
- Biết dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát, mạch lạc.
- Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, gắn bó, biết trân trọng những con vật thân quen,
gần gũi hàng ngày với các em.
- Có cách nhìn sự vật theo hướng tích cực, ham thích quan sát, tìm tòi khám phá.
- Có khả năng hoàn chỉnh một văn bản viết; yêu thích môn học.
1.2.2. Giúp giáo viên
- Tự tìm tòi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy Tập làm
văn nói chung và trong dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng.
- Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Tìm hiểu nội dung, phương pháp dạy học văn miêu tả lớp 4.
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tập có hiệu quả Tập làm văn tả con
vật (Học sinh lớp 4B trường Tiểu học Xuân Thắng, Thọ Xuân, Thanh Hóa).
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Đọc tài liệu liên quan đến đề tài
- Nghiên cứu nội dung chương trình Tập làm văn lớp 4, mạch kiến thức văn tả
con vật lớp 4.
1.4.2. Phương pháp quan sát sư phạm
- Quan sát tinh thần, thái độ, ý thức học Tập làm văn của học sinh lớp 4B (lớp tôi
chủ nhiệm và trực tiếp giảng dạy) và học sinh lớp 4A, 4C trong khi đi dự giờ.
1.4.3. Phương pháp thống kê
- Thống kê qua các bài kiểm tra của học sinh để đánh giá chất lượng làm bài văn
miêu tả của học sinh.


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Tập làm văn là một phân môn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng
hợp các kiến thức, kĩ năng từ phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ
và câu... để viết nên một bài Tập làm văn.
2


Theo quan điểm tích hợp, các phân môn được tập hợp lại xung quanh trục
chủ điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng gắn
bó chặt chẽ với nhau. Như vậy, muốn giúp học sinh làm bài văn miêu tả có hiệu
quả nhất thiết người giáo viên phải dạy tốt các phân môn Tập đọc, Kể chuyện,
Chính tả, Luyện từ và câu. Vì trong các bài đọc, trong các câu chuyện, trong các
bài tập Luyện từ và câu thường xuất hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội dung
miêu tả rất rõ về cảnh vật, thiên nhiên, con người...Bài Tập làm văn nếu không
sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khô cứng, góp nhặt của người khác, nội dung
bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới mẻ như tâm hồn của các tác giả nhỏ
tuổi. Chất lượng Tập làm văn là chất lượng của cảm thụ văn học, của các kĩ
năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng Việt.
Mục tiêu của việc dạy học Tập làm văn ở lớp bốn là: Cung cấp, hướng dẫn
cho học sinh biết lập dàn ý cho bài văn, viết được bài văn theo dàn ý đã lập có đủ
3 phần, lời văn trôi chảy, câu văn bước đầu có cảm xúc; biết nói, viết câu có dùng
phép so sánh, nhân hóa; biết kiểm tra, rà soát lại bài viết về nội dung, cách diễn
đạt, cách trình bày. (Theo chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt- QĐ số 16/2006/QĐBGDĐT ngày 5 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
Văn miêu tả là thể loại văn các em được làm quen từ giữa học kì I, lớp 4.
Như chúng ta đã biết, văn miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và
cảm xúc làm cho người nghe, người đọc hình dung một các rõ rệt, cụ thể về
người, vật, cảnh vật, sự việc như vốn có trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay
không những phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối tượng miêu tả mà

còn thể hiện được trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết đối với
đối tượng được miêu tả. Các bài văn miêu tả ở tiểu học chỉ yêu cầu tả những đối
tượng mà các em yêu thích. Vì vậy, qua bài làm của mình các em phải gửi gắm
được tình yêu thương của mình đối với những gì miêu tả.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Chúng ta đã tự hào Tiếng Việt ta phong phú, giàu hình ảnh, đa dạng về
nghĩa, có sức biểu cảm sâu sắc. Nhưng một thực tế làm buồn đó là số học sinh
làm văn hay lại rất ít. Khi chấm bài tập làm văn của các em, tôi nhận thấy nhiều
học sinh không trình bày rõ bố cục bài văn miêu tả. Học sinh miêu tả hời hợt,
chung chung, vốn từ còn nghèo nàn, bài văn trở thành một bảng liệt kê các đối
tượng miêu tả, không làm nổi bật được đối tượng đang tả. Bài văn học sinh làm
thường vay mượn, bắt chước các bài văn mẫu, các em thường sao chép những
bài văn mẫu thành bài văn của mình không kể đầu bài quy định như thế nào. Với
cách làm ấy, các em không cần biết đối tượng cần miêu tả gì, không chú ý tới
đặc điểm nổi bật tạo nên nét riêng của cảnh (của người) cũng như không có cảm
xúc về nó.
Mặt khác, nhiều giáo viên chỉ có một con đường duy nhất là hình thành các
hiểu biết về lí thuyết, thể loại tập làm văn, và kĩ năng làm văn... qua phân tích
các bài văn mẫu với lý thuyết khô khan, khó hiểu. Giáo viên chưa chủ động sáng
tạo trong dạy học, chưa gây hứng thú cho học sinh khi học tập làm văn. Đặc
biệt, khi học sinh đưa ra một câu văn dùng từ chưa chuẩn hay thiếu hình ảnh,
chưa hợp lí ....thì chưa được giáo viên chỉnh sửa kịp thời.

3


Dạy học Tập làm văn lớp 4 phần văn miêu tả con vật là sự tiếp nối của hai
kiểu bài văn tả đồ vật và tả cây cối các em đã được học. Chính vì vậy, dựa vào
kết quả kiểm tra cuối học kì I với đề bài nhà trường ra “Em hãy tả lại đồ vật mà
em thích”, kết quả lớp tôi đang giảng dạy đạt được như sau.

Bảng kết quả bài làm môn Tập làm văn của học sinh lớp 4B cuối học kì I
Kết quả đạt được
Số học sinh
Nội dung nhận xét
khảo sát
Số lượng
Tỉ lệ
Bài viết đúng thể loại, bố cục ba phần rõ
rệt; thể hiện rõ nội dung miêu tả, tả được
7
28%
những đặc điểm nổi bật; hành văn trôi chảy,
chữ viết và trình bày sạch đẹp.
25
Bài văn chưa thể hiện rõ rệt bố cục ba
phần; mắc nhiều lỗi chính tả; thường kể,
liệt kê, lặp từ, chưa biết dùng từ; hành văn
18
72%
lủng củng, rời rạc, chưa biết tả những đặc
điểm nổi bật.
Thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết Tập làm
văn trở thành một gánh nặng, một thách thức đối với giáo viên Tiểu học. Ý nghĩ
cho rằng Tập làm văn là một phân môn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu quả
cao đã là nhận thức chung của nhiều thầy, cô giáo dạy lớp 4. Qua quá trình giảng
dạy lớp 4, tôi nhận thấy có các nguyên nhân sau:
+ Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.
+ Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả.
+ Không biết hình dung bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật miêu
tả khi quan sát.

+ Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch
lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về một sự vật, cảnh
vật, về một con người cụ thể nào đó.
+ Nguyên nhân cuối cùng là trách nhiệm của người giáo viên. Phân môn
Tập làm văn là một môn học mang tính tổng hợp và sáng tạo nhưng lâu nay
người giáo viên (nhất là giáo viên lớp 4) chưa có cách phát huy tối đa năng lực
học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lòng
yêu quý Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt.
Đứng trước thực trạng dạy và học như trên yêu cầu đặt ra cấp thiết là phải
đổi mới phương pháp dạy học để học sinh đến với phân môn Tập làm văn thể
loại miêu tả một cách say mê, hứng thú để từ đó có cảm xúc viết văn. Để đạt
được mục tiêu trên thì cần phải tiến hành giải quyết các vấn đề chính sau:
+ Cung cấp, khuyến khích học sinh tích lũy vốn từ ngữ, vốn sống, vốn hiểu
biết khi học, đọc, viết các bài văn tả con vật hoặc khi tiếp xúc với một văn bản
mới tả con vật.
+ Hướng dẫn học sinh dùng từ, đặt câu, viết đoạn và hoàn chỉnh bài văn.
Chấm và chữa bài cho học sinh phải chu đáo, cẩn thận.
+ Các vấn đề được nêu ở trên cần được giải quyết đồng thời, xen lẫn vào
nhau một cách nhịp nhàng và linh động thì hiệu quả sẽ cao hơn rất nhiều.
4


Xuất phát từ thực trạng và nguyên nhân trên, đồng thời thấy rõ vai trò,
nhiệm vụ của một giáo viên, tôi mạnh dạn đưa ra cách giúp học sinh lớp 4B,
trường Tiểu học Xuân Thắng làm văn miêu tả có hiệu quả như sơ đồ sau:
Nắm được
cấu tạo bài
văn miêu tả
(Lý thuyết)


Quan sát, lập
dàn ý chi tiết.
(Theo đề bài)

Luyện tập viết
câu, đoạn văn
(Mở bài, thân
bài, kết bài)

Hoàn thiện
bài văn và
nhận xét bài

2.3. Các biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học tập làm văn tả con vật
cho học sinh lớp 4
Từ kinh nghiệm dạy học của mình, tôi xin đưa ra một số biện pháp để giải
quyết các vấn đề được nêu ở trên giúp học sinh làm tốt bài văn miêu tả như sau:
2.3.1. Giáo viên phải hiểu được khái niệm đoạn văn, bài văn miêu tả
- Văn miêu tả bao gồm những chi tiết lôi cuốn với năm giác quan: thị giác, vị
giác, xúc giác, khứu giác và thính giác. Trong một đoạn văn miêu tả, nhà văn phải
truyền tải thông tin lôi cuốn tới tất cả các giác quan để mang lại sự miêu tả hấp
dẫn nhất có thể tới độc giả. Văn miêu tả thường được sử dụng trong các cuốn tiểu
thuyết và những tác phẩm về người thật việc thật, để giúp độc giả đắm chìm trong
thế giới của nhà văn.
- Khái niệm: Miêu tả con vật là một thể loại văn bản mà trong đó, người
viết dùng ngôn ngữ có tính chất nghệ thuật của mình để tái hiện, sao chụp lại
hình ảnh con vật với những đặc điểm nổi bật cả về hình dáng bên ngoài lẫn
những hoạt động và thói quen sinh hoạt nhằm giúp người đọc, người nghe hình
dung, tưởng tượng ra con vật ấy thông qua các giác quan của mình.
- Đoạn văn, bài văn hay theo quan niệm của người viết là những đoạn văn,

bài văn hay, đúng, phong phú về nội dung và có cách diễn đạt phù hợp, sinh
động thể hiện được tình cảm của người viết. Nếu như viết đoạn văn, bài văn tả
con vật mà chính mình không trực tiếp quan sát con vật để có được cảm thụ thì nội
dung bài viết không những sai mà còn khiến người đọc không xúc cảm. Để câu chữ
chứa đựng tình cảm, người viết phải quan sát kĩ con vật bằng tình cảm, yêu quý
thực sự như vậy mới nhận biết được đặc điểm của nó rồi dung lời lẽ sinh động để
tả, sao cho có sự giao hoà tình cảm giữa người viết với con vật miêu tả như tâm
tình giữa con người với con người.
2.3.2. Giáo viên cần nắm vững nội dung chương trình phân môn Tập làm
văn miêu tả con vật lớp 4
a) Nội dung chương trình Tập làm văn tả con vật lớp 4
Số tiết quy định
TT
Nội dung
Ghi chú
Lí thuyết Luyện tập
1 Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật
1
Tuần 29
2 Luyện tập quan sát con vật
1
Tuần 30
3 Luyện tập miêu tả các bộ phận của
1
Tuần 31
con vật
4 Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu
2
Tuần 31, 32
tả con vật

5


5

Luyện tập xây dựng mở bài, kết bài
1
Tuần 32
trong bài văn miêu tả con vật
6 Kiểm tra miêu tả con vật
1
Tuần 33
7 Trả bài văn miêu tả con vật
1
Tuần 34
b) Về nội dung bài tập sách Tiếng Việt 4
- Nhìn chung các bài tập trong mỗi bài học của phân môn Tập làm văn là
phù hợp, vừa sức đối với học sinh. Trước hết, học sinh được trang bị những kiến
thức về văn miêu tả. Đó là một số hiểu biết ban đầu về đặc điểm chính của văn
miêu tả. Các kiến thức được cung cấp cho học sinh một cách có hệ thống và chỉ
dừng lại ở mức độ đơn giản. Các kiến thức được xây dựng từ hệ thống câu hỏi
bài tập học sinh thực hiện các hoạt động nhằm chiếm lĩnh kiến thức và phát triển
kĩ năng. Sau đó các kiến thức sẽ được củng cố và vận dụng ngay vào các bài tập
thực hành. Có thể nói việc chương trình đưa kiến thức lí luận về văn miêu tả vào
dạy cho học sinh là đúng đắn, cần thiết. Bởi vì đây là chỗ dựa, là điểm tựa giúp
học sinh làm đúng, làm tốt bài văn miêu tả.
- Sách Tiếng Việt 4 rèn luyện kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh trên cơ
sở, quy trình sản sinh ngôn bản. Mặt khác, nó tập trung rèn luyện kĩ năng viết
đoạn văn miêu tả cho học sinh tuỳ theo đối tượng miêu tả giúp học sinh chủ
động, tự tin khi tạo lập bài văn miêu tả hoàn chỉnh tránh tình trạng viết văn sơ

sài, viết theo cảm tính hoặc sao chép của người khác.
- Tiếng Việt 4 tiến hành luyện tập các kĩ năng viết văn miêu tả thông qua
hệ thống bài tập, các bài tập được sắp xếp từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, cách
giao nhiệm vụ rõ ràng: Ví dụ: Khi dạy bài “Luyện tập quan sát con vật” (Sách
Tiếng Việt 4, Tập hai, trang 119), hệ thống bài tập được biên soạn như sau:
+ Bài 1: Đọc bài văn “Đàn ngan mới nở” (Tô Hoài)
+ Bài 2: Để miêu tả đàn ngan, tác giả đã quan sát những bộ phận nào ? Ghi lại
những câu miêu tả mà em cho là hay.
+ Bài 3: Quan sát và miêu tả các đặc điểm ngoại hình của con mèo (hoặc con
chó) của nhà em hoặc của nhà hàng xóm.
+ Bài 4: Quan sát và miêu tả hoạt động thường xuyên của con mèo (hoặc con
chó) nói trên.
- Bên cạnh đó, đề văn miêu tả trong SGK cũng rất phong phú, gắn bó với
vốn sống, vốn hiểu biết của học sinh, gần gũi với các em. Nhiều đề bài còn mở
ra cho học sinh những khả năng lựa chọn tuỳ theo ý thích của mỗi em giúp các
em chủ động, sáng tạo, bộc lộ, thể hiện mình. Sản phẩm mà các em tạo ra sẽ là
những bài văn miêu tả chân thực, sinh động của chính các em. Ngoài ra rất
nhiều bài tập luyện từ và câu đã tạo cho học sinh ý thức sử dụng ngôn ngữ khi
viết văn miêu tả. Ví dụ: Viết một đoạn văn ngắn tả con vật mà em yêu thích,
trong đó có ít nhất một câu có trạng ngữ chỉ phương tiện. (Sách Tiếng Việt 4,
Tập hai, trang 160)
c) Văn miêu tả được bố trí dạy theo nguyên tắc đồng tâm, mục đích giúp học
sinh tạo lập những văn bản miêu tả hoàn chỉnh mang đậm dấu ấn cá nhân
Nội dung Tập làm văn trong sách giáo khoa lớp 4 đã kế thừa và mở rộng
nội dung, kĩ năng quan sát, miêu tả, viết câu văn, đoạn văn ở lớp 2, 3 tiến đến
làm bài văn hoàn chỉnh theo một trình tự hợp lý, bố cục rõ ràng, diễn đạt trôi
6


chảy, có hình ảnh và sinh động, cảm xúc chân thực. Đây cũng chính là những

kiến thức, kĩ năng chuẩn bị cho học sinh lên bậc trung học cơ sở học tốt các kiểu
bài trong thể loại văn miêu tả. Tuy nhiên trong các bài học, kĩ năng lập dàn bài,
viết đoạn văn đã được quan tâm đúng mức song kĩ năng viết bài văn hoàn chỉnh
và sửa lỗi thì lượng bài tập còn hạn chế (kể cả số tiết dành cho các dạng kĩ năng
này cũng còn ít).
2.3.3. Giáo viên cần nắm vững trình tự dạy phân môn Tập làm văn miêu tả
con vật lớp 4
Trong phần dạy bài mới, giáo viên phải nắm vững trình tự dạy đối với
hai loại bài Tập làm văn: loại bài dạy lý thuyết và loại bài dạy thực hành. Khi
dạy từng loại bài, giáo viên cần chú ý đến các đối tượng học sinh của lớp: có nội
dung, yêu cầu cho học sinh có năng khiếu và có nội dung, yêu cầu cụ thể cho
những học sinh còn hạn chế khi viết văn miêu tả.
a) Loại bài lý thuyết
Sau khi dạy bài lý thuyết, học sinh phải nắm được cấu tạo bài văn miêu tả
gồm ba phần (mở bài, thân bài và kết bài)
Hướng dẫn học sinh nắm cấu tạo (dàn ý bài văn): Xác định bố cục một bài
văn miêu tả cụ thể từ đó luyện tập xây dựng dàn ý chi tiết của một bài văn mới.
b) Loại bài thực hành
- Viết đoạn mở bài (trực tiếp, gián tiếp); viết đoạn kết bài (không mở rộng,
mở rộng).
- Về phần thân bài (làm trên thực tế bài cho sẵn để nhận ra và vận dụng
viết bài văn miêu tả theo từng đề bài):
+ Xác định đối tượng miêu tả.
+ Xác định trình tự miêu tả.
+ Tìm những chi tiết nổi bật, sự liên tưởng thú vị sẽ nêu trong đoạn theo
cảm nhận của người viết.
+ Tìm cách thể hiện tình cảm, cảm xúc.
+ Xác định nội dung/ý của câu mở đầu đoạn, câu kết đoạn.
2.3.4. Cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả
Việc cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả là giúp học sinh

có con đường đi đến bài văn đúng hướng, không bị sai lệch về cả nội dung và
hình thức.
Học sinh cần nắm được 4 yêu cầu khi làm văn miêu tả:
+ Cụ thể hóa sự vật (tả cái gì?)
+ Cá thể hóa sự vật (tả như thế nào?):
+ Mục đích hóa sự vật (tả với mục đích gì ?)
+ Cảm xúc hóa sự vật (tả với tư tưởng, tình cảm, thái độ ra sao?)
Học sinh cần lưu ý đến những yêu cầu cần thiết khi làm văn tả con vật như sau:
+ Yêu cầu 1: Chọn vị trí quan sát.
+ Yêu cầu 2: Quan sát nắm được đặc điểm riêng biệt của con vật.
+ Yêu cầu 3: Phải viết ra hình dáng, màu sắc, động thái của con vật cụ thể.
+ Yêu cầu 4: Câu chữ phải chứa đựng tình cảm chân thực; Dùng các biện
pháp nghệ thuật để tả (So sánh, nhân hoá…)
2.3.5. Hướng dẫn học sinh thực hành tốt các bước làm văn miêu tả
7


Khi hướng dẫn học sinh làm tập làm văn miêu tả, giáo viên cần chú ý vận
dụng linh hoạt các bước sau.
* Bước 1: Xác định đối tượng miêu tả (Tìm hiểu đề)
Con vật em định tả là con gì? Của ai? Nuôi đã được bao lâu?...
* Bước 2: Quan sát con vật
Quan sát con vật trong môi trường sống của nó. Chú ý ngoại hình với những
đặc điểm tiêu biểu về hình dáng, màu sắc, đường nét…
Quan sát những đặc tính bên trong của con vật, thể hiện qua tính nết, hành
động của con vật. Chọn những nét thể hiện rõ nhất đặc tính chung của giống loài
và những nét mang tính cá thể, riêng biệt của con vật.
Nhận xét về mối quan hệ giữa con vật với môi trường xung quanh và đời
sống con người.
* Bước 3: Lập dàn ý chi tiết, ghi rõ những nội dung cần miêu tả.

* Bước 4: Lựa chọn từ ngữ, hình ảnh để phát triển dàn ý thành một bài văn
tả loài vật hoàn chỉnh.
Tóm lại, thực hiện tốt các bước này là giải quyết được các nguyên nhân học
sinh và giáo viên gặp phải mà tôi đã nêu ở trên. Hiện nay, sách giáo khoa không
còn những tiết riêng cho việc tìm hiểu đề, quan sát tìm ý nhưng qua mỗi đề bài
cụ thể giáo viên phải hướng dẫn học sinh làm theo các bước kể trên. Để rèn cho
học sinh thói quen làm tuần tự theo các bước kể trên khi làm văn thì mỗi bước
làm giáo viên cũng phải hướng dẫn học sinh một cách tỉ mỉ về phương pháp
cũng như cách suy nghĩ, cách thực hiện bài làm.
a) Bước 1: Xác định đối tượng miêu tả (Tìm hiểu đề)
- Tác dụng: Giúp học sinh xác định được yêu cầu đề bài, tránh làm lạc đề. Đây
là cách để định hướng giúp học sinh nắm được:
+ Đề bài thuộc thể loại văn nào?
+ Đề bài đòi hỏi ta giải quyết những vấn đề gì?
+ Phạm vi bài làm đến đâu?
+ Trọng tâm đề bài ở chỗ nào?
- Cách thực hiện: Giúp học sinh phân tích đề bằng cách:
+ Gạch 1 gạch dưới các từ xác định thể loại bài văn.
+ Gạch 2 gạch dưới từ xác định đối tượng miêu tả.
- Ví dụ:
Đề bài: Hãy miêu tả ngoại hình của một con vật mà em yêu thích.
Với đề bài này cần chú ý cho học sinh:
+ Đề bài thuộc thể loại văn miêu tả con vật
+ Đề bài chỉ yêu cầu miêu tả ngoại hình của một con vật
+ Đặc biệt chú ý chỉ miêu tả một con vật để tránh nhầm lẫn giữa một con
vật và một đàn con vật (Miêu tả một con vịt chứ không phải cả đàn vịt)
b) Bước 2: Quan sát con vật
Muốn quan sát có hiệu quả, quan sát phải có tính mục đích, người quan sát
phải có cách nghĩ, cách cảm của riêng mình. Quan sát để làm văn nhằm phản
ánh một đối tượng cụ thể, vừa chi tiết, vừa có tính khái quát. Qua chi tiết, người

đọc phải thấy được bản chất của sự việc. Vì vậy, quan sát phải có lựa chọn các
8


chi tiết cụ thể nhưng đó không phải là những chi tiết rời rạc, tản mạn, mang tính
chất liệt kê. Chi tiết không cần nhiều mà phải chọn lọc, lựa chọn những điểm
riêng biệt, nổi bật, gây ấn tượng… Đó là những chi tiết lột tả được cái thần của
cảnh, của người. Khi quan sát, cần sử dụng đồng thời nhiều giác quan và điều
quan trọng là phải quan sát bằng cảm xúc. Quan sát phải luôn gắn với việc tìm ý
và tìm từ ngữ để diễn tả. Để giúp quan sát và tìm ý, với mỗi đề bài cần có một
hệ thống câu hỏi gợi ý nội dung quan sát và các ý cần xác lập.
Giáo viên phải tôn trọng ý kiến của các em, không phê phán vội vàng, chủ
quan, phải giúp học sinh tự tin trong học tập. Tuy nhiên, để miêu tả một đối
tượng nào đó, giáo viên cần giúp các em biết quan sát đối tượng theo từng góc
nhìn, từng thời điểm, biết cảm nhận và chọn “điểm nhấn” của đối tượng tạo ra
nét riêng biệt trong bài văn của mình. Do vậy, để đảm bảo tính chân thực của bài
miêu tả cần phải được bắt nguồn từ quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả, kết hợp
với kinh nghiệm sống, trí tưởng tượng của học sinh, thể hiện được tình cảm, cảm
xúc thực của các em trước đối tượng miêu tả. Tính chân thực đòi hỏi phải có chi
tiết thực, tả đúng bản chất của đối tượng miêu tả, thể hiện được những nét đẹp
đẽ, đúng đắn trong tư tưởng, tình cảm của người học sinh khi bộc lộ thái độ của
các em với đối tượng miêu tả.
Để thực hiện những yêu cầu trên, tôi thường hướng cho học sinh thực hiện
thật tốt từng bước:
+ Xác định cụ thể và chọn một đối tượng cần quan sát (đó là con vật gì?)
+ Quan sát sự vật bằng các giác quan như thị giác, thính giác, khứu giác và
cả xúc giác. Trước tiên là quan sát bao quát đối tượng và cảm nhận (nó đẹp, dễ
thương, oai phong hay dữ tợn...), rồi quan sát từng bộ phận của đối tượng theo
một trình tự nhất định (từ trên xuống dưới, từ trước ra sau; đầu, mình rối đến
chi…). Quan sát thật kĩ những bộ phận của sự vật mà em thích thú, ấn tượng.

Khi quan sát sự vật, các em cũng có thể trao đổi theo nhóm với nhau để tìm ra
những đặc điểm của đối tượng một cách tốt nhất.
+ Kết hợp quan sát là ghi chép (ghi chép những điều quan sát được) và liên
tưởng (liên tưởng để so sánh, nhân hóa sự vật)
- Ví dụ 1: Khi giúp các em giải quyết bài 3: Quan sát và miêu tả các đặc điểm
ngoại hình của con mèo (hoặc con chó) của nhà em hoặc của nhà hàng xóm.
(Tiết Luyện tập quan sát con vật, Sách Tiếng Việt 4, Tập hai, trang 120), tôi sẽ
hướng dẫn học sinh quan sát như sau:
Hoạt động của thầy
Hoạt động của trò
- Yêu cầu học sinh đọc bài tập 3. SGK
- 2HS đọc yêu cẩu bài tập
H: Em hiểu yêu cầu bài tập này như thế - Quan sát các đặc điểm ngoại hình
nào?
của con chó, con mèo.
- GV nhấn mạnh cho học sinh: Bài tập - HS lắng nghe.
yêu cầu các em quan sát các đặc điểm
ngoại hình (đặc điểm bên ngoài) mà
chúng ta có thể nhìn thấy được của các
con vật nuôi trong nhà rất gần gũi đó là
con chó và con mèo.
- Giáo viên yêu cầu HS nhớ lại những - HS hổi tưởng và thảo luận theo
9


bộ phận chủ yếu của con chó (mèo) nhà
em hoặc nhà hàng xóm. (Với HS địa
phương tôi đang dạy, hai con vật này rất
gần gũi với các em)
- Y/c HS kể tên những bộ phận của con

chó và con mèo mà em quan sát được.
- Y/c HS viết những điều các em quan
sát được vào phiếu học tập. TG 4’
- Y/c các nhóm trình bày kết quả quan
sát.
- GV nhận xét, bổ sung, đưa ra bảng kết quả
Các bộ phận
Tả con chó
Bộ lông
Toàn thân màu đen (màu
lông vàng mượt...)

nhóm đôi. Ghi kết quả vào phiếu. TG:
2’
- Bộ lông, đầu, hai tai, đôi mắt, bịa
ria, bốn chân, cái đuôi.
- HS làm bài theo nhóm 4

- Đại diện các nhóm trình bày, nhóm
khác nhận xét, bổ sung
- 2HS đọc lại.
Tả con mèo
xám, Hung hung vằn đen (màu vàng
nhạt, đen như gỗ mun, mèo
tam thể nhị thể...)
Cái đầu
Trông như yên xe đạp.
Tròn tròn như quả cam sành,
tròn như gáo dừa, tròn như quả
bóng...

Hai tai
Tai to, mỏng luôn cụp về phía Dong dỏng, dựng đứng rất
trước rất thính. Hai tai như hai thính. Hai tai như hình tam
lá mít dựng đứng
giác nhỏ luôn vểnh lên.
Đôi mắt
Trong xanh như nước biển, Tròng như hai hòn bi ve, long
mắt đen pha nâu
lanh luôn đưa đi đưa lại.
Bộ ria
Rất ngắn, cứng quanh mép.
Trứng như cước luôn vểnh lên.
Bốn chân
Chân cao gầy với những cái Thon nhỏ bước đi êm nhẹ như
móng đen, cong khoằm lại.
lướt trên mặt đất, ngắn chùn với
những chiếc móng sắc nhọn.
Cái đuôi
Đuôi dài cong như cây phất Dài, thướt tha, duyên dáng luôn
trần luôn phe phẩy.
ngoe nguẩy như con lươn.
- Ví dụ 2: Để giúp học sinh làm tốt bài tập 3 (Hãy viết một đoạn văn có chứa
câu mở đoạn như sau: Chú gà nhà em đã ra dáng một chú gà trống đẹp) (Tiết
Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật, sách Tiếng Việt 4, tập hai, trang
130), thì ở tiết học trước đó, tôi yêu cầu các em:
+ Chọn hoặc nhớ lại một con gà trống mà em đã gặp.
+ Quan sát (hoặc nhớ lại) và ghi lại các đặc điểm của từng bộ phận của nó.
Chú ý ghi thật chi tiết những bộ phận nổi bật của con gà đó.
- Ví dụ 3: Cũng tả về gà, nhà văn Võ Quảng lại đi vào tả cụ thể ba con gà. Mỗi
con một dáng vẻ, một đặc điểm sinh động về tính cách. Trình tự miêu tả đi từ

tiếng gáy (thính giác), đến màu sắc, hình dáng và hoạt động (thị giác), để từ đó
làm nổi bật lên tính cách của từng con (nội tâm): Con gà của anh Bốn
Linh: tiếng gáy dõng dạc, dáng đi oai vệ, kiêu hãnh, cái vẻ phớt lờ, thách
thức; Còn con gà của ông Bảy Hoá lại có: bộ mã khá đẹp, lông trắng, mỏ búp
chuối, mào có hai cánh như hai vỏ trai úp. Đặc điểm ngoại hình ấy tạo nên ưu
thế “láo toét”, thích “tán tỉnh” này. Cuối cùng là con gà của bà Kiến, một chú gà
10


trống tơ, không đẹp, không khoẻ: Lông đen, chân chì, bộ giò cao, cổ ngắn. Tính
nết bộc lộ rất rõ trong tư thế: Nó xoè cánh, nghển cổ, chuẩn bị chu đáo, nhưng
rốt cuộc chỉ rặn được ba tiếng éc, e, ê cụt ngủn.
c) Bước 3: Lập dàn ý chi tiết, ghi rõ những nội dung cần miêu tả
Sau khi quan sát và tìm ý, trước khi lập dàn bài chi tiết, học sinh cần xác
định trình tự miêu tả để sắp xếp các ý một cách hợp lí. Đối với bài văn tả loài
vật cần miêu tả ngoại hình rồi mới đến những thói quen sinh hoạt và những hoạt
động của con vật.
Có thể ví dàn bài của một bài văn giống như một cái khung nhà. Có dựng
được khung rồi mới thì mới có thể lợp mái, đóng vách, ráp cửa, tô quét,...
* Mở bài: Giới thiệu con vật (tên gọi). Con vật này của ai? Nuôi từ bao giờ?…
* Thân bài:
- Tả con vật (từ bao quát đến từng bộ phận cụ thể).
- Tả ngoại hình: Hình dáng, tầm vóc, màu sắc , đường nét cùng các bộ phận
đầu, tai, mũi, miệng, chân, đuôi,…
Chú ý: Tuỳ từng con vật mà hình dáng bề ngoài được nhấn mạnh vào những
chi tiết tiêu biểu nhất. Không nhất thiết phải tả tỉ mỉ từng bộ phận.
- Tả đặc tính và hoạt động của con vật: Chọn ra những điểm tiêu biểu nhất thể
hiện được đặc tính chung của giống loài (mèo khác chó, bò khác heo, gà khác
vịt,…) và đặc tính (tính nết) riêng của con vật trong ăn uống, hoạt động,…
- Tác dụng của con vật đối với đời sống con người.

* Kết bài: Cảm nghĩ của em đối với con vật được tả.
d) Bước 4: Lựa chọn từ ngữ, hình ảnh để phát triển dàn ý thành một bài
văn tả loài vật hoàn chỉnh.
Đây là giai đoạn quan trọng nhất và cũng là khâu khó nhất, đòi hỏi học sinh
phải linh hoạt vận dụng nhiều kiến thức để làm. Học sinh phải biết:
+ Dùng từ, đặt câu, dựng đoạn.
+ Vận dụng phong cách ngôn ngữ văn bản.
+ Bám sát dàn bài để viết thành bài văn hoàn chỉnh.
Muốn học sinh làm tốt bước này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực
hiện theo các yêu cầu sau:
* Bước 4.1: Dùng từ
- Dùng từ phải đảm bảo độ chính xác, đồng thời biểu hiện được tư tưởng,
tình cảm một cách rõ ràng.
- Phải tuân thủ các tiêu chuẩn chính tả, ngữ pháp.
- Dùng từ gợi cảm, gợi tả, giàu hình ảnh, âm thanh.
- Sử dụng từ cùng nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng nghĩa, các biện pháp tu từ so
sánh, nhân hóa, tương phản....
- Ví dụ:
+ Con lợn nhà em bằng quả dưa hấu nặng bốn tạ. - Câu sai nghĩa.
+ Vì luôn yêu mến em, cún con rất gầy gò. - Câu không có sự tương hợp về
nghĩa giữa các thành phần câu, giữa các vế câu.
+ Cùng miêu tả bộ lông của con mèo nhưng có hai học sinh viết hai câu văn như sau:
Con mèo nhà em có bộ lông màu trắng.
Chú mèo nhà em được khoác trên mình chiếc áo màu trắng như tuyết.
11


* Nhận xét: Cả hai câu văn đều miêu tả bộ lông con mèo, có cấu tạo đầy đủ các
bộ phận chủ ngữ và vị ngữ làm nòng cốt câu nhưng cách viết hai câu hoàn toàn
khác nhau. Ở câu văn thứ hai, học sinh đã biết sử dụng hình ảnh so sánh và nhân

hóa giúp cho câu văn hay hơn.
* Bước 4.2: Đặt câu
Trong khi làm văn, học sinh phải viết câu văn đúng ngữ pháp nghĩa là bản
thân em đó phải xác định được các kiểu câu đã học; xác định được chủ ngữ, vị
ngữ trong câu; biết đâu là các vế trong câu ghép.
Các em phải biết liên kết câu bằng cách lặp từ ngữ hoặc thay thế từ ngữ
hoặc bằng từ ngữ nối (tuy thế, vì thế.....). Tuy nhiên, khi viết các câu văn các em
thường mắc các lỗi cơ bản sau:
+ Thiếu dấu chấm, dấu phẩy trong từng câu hoặc cả bài. Hoặc sử dụng dấu
câu sai. Ví dụ: "Con chó rất ngoan. Không cắn trộm ai bao giờ".
+ Câu không đủ thành phần: Những chú gà đáng yêu.
+ Câu thừa thành phần hoặc không phân định được thành phần: Em thấy rất
có ích nuôi con mèo này.
+ Một số lỗi khác đó là: Viết sai lỗi chính tả dẫn đến sai nghĩa của từ, cách
sắp xếp ý chưa có trật tự lôgíc.
* Bước 4.3: Dựng đoạn
Nhiệm vụ của giáo viên là giúp các em biết cách viết các đoạn văn, biết
trình bày các đoạn văn theo cấu trúc của dàn ý. Các câu trong đoạn văn hay cả
bài văn có sự liên kết chặt chẽ, theo một trình tự nhất định.
2.3.6. Phân loại các dạng bài trong phân môn Tập làm văn (Phần văn miêu
tả con vật lớp 4)
a) Cách viết đoạn văn miêu tả con vật (Luyện viết phần thân bài)
Đoạn văn miêu tả con vật trong chương trình Tập làm văn lớp 4 được giảng
dạy trong ba tiết của tuần 31 và 32 gồm một tiết “Luyện tập miêu tả các bộ phận
của con vật” và hai tiết “Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật”. Khi viết
một đoạn văn miêu tả cần phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
* Yêu cầu 1: Đoạn văn hoàn chỉnh có đủ ba phần: mở đoạn, thân đoạn,
kết đoạn và gồm có:
+ Đoạn văn tả hình dáng con vật
+ Đoạn văn hoạt động và thói quen sinh hoạt của con vật

Đối với các đoạn văn tổng hợp tả hình dáng con vật kết hợp tả hoạt động
và thói quen sinh hoạt của con vật. Đoạn văn có thể được viết theo một trong ba
hình thức sau tùy theo khả năng của người viết: Đoạn văn diễn dịch, đoạn văn
quy nạp, đoạn văn tổng hợp.
* Yêu cầu 2: Nội dung đoạn văn, bài văn miêu tả con vật
Đối với văn miêu tả kiểu bài tả con vật: Khi miêu tả, phải nắm lấy cái đặc
điểm nổi bật nhất. Chẳng hạn: chim bay, thú chạy, sâu bò, cá bơi… là phương
thức động thường thấy ở loài vật, cũng là sự thể hiện sức sống của chúng và
những cái đó phải tả sao cho sinh động. Song chỉ miêu tả chung như vậy thì
chưa đủ, vì thế, cần phải quan sát kĩ, đi sâu tìm hiểu, nắm bắt những đặc điểm
riêng, nổi bật nhất của từng con vật thì mới tả được giống như thật.

12


Trên cơ sở miêu tả những đặc điểm nổi bật về hình thể, động tác bên ngoài
của một con vật còn phải nắm bắt được đặc điểm tập tính của nó nữa và cả quan
niệm, tình cảm của con người đối với chúng. Do vậy, con vật được hiện lên bằng
xương, bằng thịt, phải thổi hồn vào con vật định tả để đoạn văn thêm phần hấp
dẫn, sống động.
Ví dụ: Sư tử, hổ, báo… là những mãnh thú phải chú ý làm nổi bật cái đặc điểm
oai phong, mạnh mẽ. Do vậy phải tả tiếng gầm của chúng làm rung động đất trời,
rồi cả cái nanh, cái vuốt sắc nhọn để vồ, để cắn xé rồi cả đến cái cung cách
không chịu hàng, không chịu thua của chúng nữa. Đối với những loài vật nuôi
trong nhà như chó, mèo… khi miêu tả hoạt động của con vật, các em cần thể hiện
sự đối lập nhau giữa hai mối quan hệ: Khi có khách đến và khi chủ nhà về.
* Yêu cầu 3: Cách dùng từ đúng và hay
Để viết được đoạn văn, các em cần có vốn từ và biết cách sử dụng từ đúng lúc,
đúng chỗ, biết dựa vào từ để tạo ra cái mới, cái riêng, cái độc đáo trong những bài
mình viết. Chính vì vậy mà các em phải dùng từ đúng và dùng từ hay.

- Ví dụ:
+ Cách dùng từ miêu tả âm thanh của các con vật: “Rừng núi còn chìm đắm
trong màn đêm. Trong bầu không khí đấy hơi ẩm và lành lạnh, mọi người đang
ngon giấc trong những chiến chăn đơn. Bỗng một con gà trống vỗ cánh phành
phạch và cất tiếng gáy lanh lảnh ở đầu bản. Tiếp đó, rải rác khắp thung lũng, tiếng
gà gáy râm ran. Mấy con gà rừng trên núi cũng thức dậy gáy te te. Trên mấy cành
cây cao cạnh nhà, ve đua nhau kêu ra rả. Ngoài suối, tiếng chim cuốc vọng vào
đều đều. Bản làng đã thức giấc”. (Trích Buổi sáng mùa hè trong thung lũng)
+ Cách miêu tả các bộ phận, chi tiết nổi bật của con vật trong bài văn “Đàn
ngan mới nở” của nhà văn Tô Hoài (sách Tiếng Việt 4, tập hai, trang 120)
Những con ngan nhỏ mới nở được ba hôm chỉ to hơn cái trứng một tí.
Chúng có bộ lông vàng óng. Một màu vàng đáng yêu như màu của những con tơ
nõn mới guồng. Nhưng đẹp nhất là đôi mắt với cái mỏ. Đôi mắt chỉ bằng hột
cườm, đen nhánh hạt huyền, lúc nào cũng long lanh đưa đi đưa lại như có nước,
làm hoạt động hai con ngươi bóng mỡ. Một cái mỏ màu nhung hươu, vừa bằng
ngón tay đứa bé mới đẻ và có lẽ cũng mềm như thế, mọc ngăn ngắn đằng trước.
Cái đầu xinh xinh, vàng nuột và ở dưới bụng, lủn chủn hai cái chân bé tí màu đỏ
hồng.
* Yêu cầu 4: Viết câu đúng và viết câu hay
- Viết câu đúng: Viết câu đúng là viết câu biểu đạt, diễn đạt đúng nội dung,
đúng ý mà người viết muốn nói ra. Viết câu đảm bảo đúng về cấu trúc ngữ pháp
(Đủ thành phần kết cấu câu)
Ví dụ: Chú gà trống nhà em / đã ra dáng một chú gà trống đẹp.
CN
VN
- Viết câu hay: Viết câu hay là viết câu được mở rộng các thành phần
phụ, yếu tố phụ: trạng ngữ, định ngữ, bổ ngữ…, sử dụng câu ghép, cách diễn đạt
phức hợp. Bên cạnh đó còn sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá…
Ví dụ:
Để làm duyên với bọn gà mái, chú //còn trang điểm cho mình một chiếc đuôi rực rỡ.

TN
CN BN VN
BN
13


b) Cách viết đoạn văn mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả con vật
b.1) Luyện viết đoạn văn mở bài
Một bài văn hay là một bài văn phải có cách sắp xếp chặt chẽ. Mặc dù mở
bài, thân bài, kết bài là ba phần riêng rẽ song chúng phải có một sự thống nhất
về ý (đều nhằm giải quyết vấn đề được nêu ra ở phần đề bài). Phần mở bài giống
như một lời thân ái mời chào của chúng ta đối với người khách đến thăm “vườn
văn” của mình. Lời mời chào ấy phải hấp dẫn, gợi mở (cởi mở), gây được những
ấn tượng ban đầu và nêu được ý muốn diễn đạt ở phần thân bài (giới thiệu được
đối tượng cần nói đến ở thân bài).
Ta có thể dùng cách mở bài trực tiếp (giới thiệu ngay đối tượng) hoặc mở
bài gián tiếp (nói chuyện khác rồi liên tưởng nói, giới thiệu đối tượng được tả).
Khi dạy phần mở bài, tôi thường hướng dẫn học sinh cách mở bài gián tiếp bằng
các cách như: Dùng trích dẫn câu thơ, bài hát liên quan đến đối tượng định tả;
dùng những cảm xúc chân thật của bản thân học sinh để miêu tả.
Ví dụ:
Đề bài: Tả con vật mà em yêu quý.
Đối
- Mở bài trực tiếp:
- Mở bài gián tiếp:
tượng
(Dành cho HS đại trà)
(Dành cho HS có năng khiếu)
miêu tả
Giữa đàn gà mấy chục Khi phương đông vừa hé mở, những

con, chú gà trống tía là đám mây xám chỉ mới tan đi, những giọt
đáng yêu nhất.
sương đêm còn khẽ khàng đậu trên
ngọn cỏ non cũng là lúc chú gà trống tía
Tả con gà
Hoặc: Trong nhà em nhà em đã cất tiếng gáy vang “ò…ó…
nuôi rất nhiều con vật o…o…” báo hiệu cho một ngày mới bắt
nhưng em thích nhất là đầu. Như có phép lạ, cả xóm em đều
con gà trống tía.
bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài.
“ Meo! Meo! Meo!” Tuổi thơ của mỗi người đều gắn bó với
Vừa về tới nhà, chú những kỉ niệm êm đềm khác nhau. Từ
Bông Bông đã quấn lấy mái nhà – nơi ta sinh ra và lớn lên, từ
chân em mừng rỡ ra mặt góc phố, hàng cây... hàng ngày in dấu
Tả con
Đó là chú mèo ba xin chân ta đến lớp. Nhưng với tôi, hình ảnh
mèo
được ở nhà một người chú mèo Bông dường như vẫn còn in
bạn thân năm em tròn đậm trong tâm trí tôi bởi đó là món quà
tám tuổi.
cuối cùng cha tặng tôi trước khi cha đi
chuyến công tác dài cuối cùng.
Tả con
Mỗi lần nghe bài hát
Mùa hè năm ngoái, ba mẹ cho em ra
voi
“Chú voi con ở bản Đôn” Hà Nội chơi nhà cậu. Cậu đã dẫn em đi
em lại nhớ kỉ niệm một rất nhiều nơi nhưng kỉ niệm về lần đi
lần đi vườn bách thú thăm vườn bách thú là đáng nhớ nhất.
được gặp chú voi Ma Đến đây, em đã tận mắt chứng kiến

Mút.
hình ảnh một chú voi khổng lồ. Em mới
chỉ biết đến voi qua những bức ảnh,
những bài thơ, bài hát. Hôm nay, em đã
có thể ngắm nhìn nó một cách đầy
14


ngưỡng mộ như vậy.
Từ trước tới giờ, gia
Có lẽ, tuổi thơ của mỗi người đều
đình em nuôi cũng khá gắn bó với một loài vật đáng yêu, đó có
Tả con nhiều chú chó. Nhưng thể là chú rùa, chú chim hay chú
chó
Vàng là một chú chó mèo... Riêng với tôi, tuổi thơ của tôi
khôn ngoan và hiền lành gắn với chú chó Vàng dũng cảm –
hơn cả.
Người đã một lần cứu tôi thoát chết.
Trong vườn bách thú có
Đố bạn biết loài vật nào được gọi là
nhiều loài thú lạ, em xem
“Chúa sơn lâm”? Chà! Chà! Câu hỏi
Tả con hoài không chán. Nhưng
này thật đơn giản: Sư tử chứ còn ai
sư tử
thích nhất vẫn là con sư tử. nữa. Vâng! Hình ảnh chú sư tử em xem
trên chương trình Thế giới động vật đã
lưu lại cho em biết bao kỉ niệm.
Lưu ý: Với những đề văn có phần lời dẫn ở phần đề bài, các em có thể sử
dụng một phần đề làm phần mở cho bài văn.

Ví dụ: Đề bài: Mỗi buổi sáng mai thức dậy, khi ông mặt trời còn lấp ló sau
rặng tre đầu làng, khi những giọt sương đêm còn sót lại trên những ngọn cỏ
cũng là lúc chú gà trống nhà em cất tiếng gáy vang. Hãy tả lại con gà trống đó.
Với đề văn này, ta có thể mở bài như sau: Mỗi buổi sáng mai thức dậy, khi
ông mặt trời còn lấp ló sau rặng tre đầu làng, khi những giọt sương đêm còn sót
lại trên những ngọn cỏ cũng là lúc chú gà trống nhà em cất tiếng gáy vang chào
đón một ngày mới bắt đầu.
b.2) Luyện viết kết bài
Nếu như phần mở bài giống như một “lời mời chào thân ái” thì phần kết
bài giống như một “cuộc tiễn đưa” người khách vừa đến thăm “vườn văn” của
mình. Để tạo cho khách sự quyến luyến không muốn rời xa, cuộc tiễn đưa ấy
phải thật tình cảm và chân thành. Muốn vậy, khi viết phần kết bài, các em phải
viết thật cô đọng, ngắn gọn và súc tích, tránh kết thúc một cách đơn điệu, tẻ nhạt
và cộc lốc. Kết bài chính là kết lại, khép lại nội dung vừa trình bày ở phần thân
bài. Vì vậy, cần khép bài một cách khéo léo để nó đọng lại và mở ra trong lòng
người đọc những cảm xúc tràn trề, những hình ảnh đẹp đẽ mà chúng ta đã miêu
tả, đã kể trong bài văn của mình.
Mỗi một câu văn khi đọc lên đều tạo ra những âm hưởng cao thấp khác
nhau, lúc trầm lúc bổng. Với câu cuối cùng, các em lên tìm cách diễn đạt cho
câu văn của mình trùng xuống, nếu không tìm được cách diễn đạt trùng xuống
thì phải tìm cách diễn đạt cho âm hưởng của nó lướt lên, tạo cho câu văn có
tiếng vọng, không nên để giọng văn ngang ngang khi kết bài. Nếu không làm
được điều đó, âm thanh sẽ bị cụt, gây mất thiện cảm với người đọc.
Ta có thể dùng hai cách kết bài: Kết bài không mở rộng (cho biết kết thúc,
không có lời bình luận thêm) và kết bài mở rộng (nói lên tình cảm, cảm xúc của
mình, liên tưởng và có thêm lời bình luận).
Ví dụ: Đây là kết bài mở rộng cho bài văn tả con lợn “Nuôi lợn tuy vất vả
nhưng cả gia đình em ai cũng ham vì nó tăng thêm thu nhập cho gia đình. Mỗi
lần đi học về, cất xong cặp sách là em ra thăm chú ngay. Thấy em chú vẫy vẫy
15



cái đuôi lũn cũn, khịt khịt cái mũi đến gần. Cứ nghĩ đến việc phải bán chú đi,
em lại thấy tội nghiệp cho chú. Nhưng biết làm sao được."
* Lưu ý: Ta có thể sử dụng lối viết theo kiểu “Đầu cuối tương ứng” để viết
phần mở bài và kết bài
Ví dụ: Đề bài: Tả con vật mà em yêu quý.
Mở bài: Bạn thích con vật nào nhất? Con gà trống như một chiếc chuông
đồng hồ gọi bình minh thức giấc hay một chú sư tử oai phong lẫm liệt… Riêng
tôi, hình ảnh chú cún Vàng hiền lành, dễ thương là đáng yêu nhất.
Kết bài: Các bạn thích con vật nào nhất? Có thể các bạn thích sự oai phong
lẫm liệt hay tiếng gầm rú của chú sư tử, cũng có bạn thích tiếng gáy mỗi sáng
mai thức dậy của anh gà trống tía. Riêng tôi, tôi vẫn thích chú cún Vàng của
mình.
c) Cách liên kết đoạn văn
Khi trình bày bài văn thành nhiều đoạn khác nhau, các em cần phải biết cách
liên kết đoạn văn. Liên kết đoạn văn có thể dùng một số từ ngữ hoặc dùng câu để
liên kết các đoạn để tạo ra sự lôgic trong diễn đạt. Ngoài ra quan hệ giữa các đoạn
văn có thể là quan hệ giữa ý chính và ý diễn giải, giữa ý cụ thể với ý tổng quát...
2.3.7. Trả bài và trả bài viết cho học sinh
Chương trình Tập làm văn lớp 4, phần văn miêu tả con vật có 1 tiết trả bài
viết cho học sinh (Tuần 34). Tôi nhận thấy rằng, giáo viên chấm, chữa bài chu
đáo cho học sinh là đã góp một phần không nhỏ trong các biện pháp nâng cao
hiệu quả dạy Tập làm văn cho học sinh.
a) Chấm bài
Khi chấm bài Tập làm văn cho học sinh, mỗi bài tôi đọc qua một lượt để
có cái nhìn chung về bố cục, về diễn đạt của học sinh, xem học sinh đã làm bài
đúng thể loại, nội dung và trọng tâm bài viết chưa. Tôi ghi ra sổ chấm bài những
chỗ hay, chưa hay hoặc sai những lỗi gì...của từng học sinh.
Khi chấm xong cho cả lớp, tôi đánh giá chung kết quả bài làm của học sinh

và rút ra những tiến bộ cần phát huy, những thiếu sót cần sửa chữa bổ sung để
chuẩn bị cho tiết trả bài sắp tới…..
b) Trả bài viết
Nội dung, phương pháp lên lớp một tiết trả bài Tập làm văn viết lớp 4, theo
sách giáo khoa xác định có ba hoạt động chính:
Hoạt động 1: Nhận xét chung về bài làm của học sinh
Đánh giá việc nắm vững các yêu cầu của đề bài (xác định ba yêu cầu: thể
loại, nội dung và trọng tâm). Đánh giá tình hình chung chất lượng bài làm của
học sinh (số bài đã đạt ba yêu cầu của đề, số bài chưa đạt hoặc đạt chưa đủ ba
yêu cầu. Biểu dương cá nhân, cả lớp...).
Hoạt động 2: Chữa bài
Căn cứ vào kết quả bài làm của học sinh, giáo viên có thể tiến hành
hướng dẫn học sinh chữa bài sao cho linh hoạt và đạt hiệu quả thiết thực theo
các cách sau:
+ Trả bài làm cho học sinh, yêu cầu học sinh đọc thầm lại toàn bộ bài
làm, lời nhận xét chung và những lưu ý cụ thể của giáo viên trong bài viết.

16


+ Hướng dẫn học sinh chữa lỗi chung về nội dung (sai, thiếu ý hoặc chi
tiết, sự việc...) và hình thức (về bố cục, về cách dùng từ, đặt câu, lỗi chính tả...)
+ Tổ chức cho học sinh tự chữa bài làm của cá nhân sau đó đổi chéo bài
để kiểm tra, giúp đỡ nhau về việc chữa lỗi.
Ví dụ: Đây là đoạn văn tả hình dáng của con mèo (Bài làm của em Bùi
Thị Thư, lớp 4B).
Bài viết
Nhận xét của
GV chấm bài
Em đã biết tả

được các bộ
phận của con
mèo mà em
quan sát được.
Dấu câu em sử
dụng hợp lí.
Chữ viết rõ
ràng, sạch đẹp.
Tuy nhiên, các
bộ phận em tả
ở đây thiên về
kể hơn là tả,
chưa có những
câu văn có
hình ảnh.

Hoạt động 3: Học tập những đoạn văn hay
Học sinh tự chọn đoạn văn hay nhất của mình để đọc và chia sẻ với các
bạn. Giáo viên có thể đọc cho học sinh nghe những câu văn hay, đoạn văn hay,
bài văn hay để giúp các em vận dụng vào bài viết của mình. Từ đó giúp cho bài
viết của các em giàu hình ảnh, cô đọng, xúc tích; gợi ý học sinh nhận xét, trao
đổi để học tập những ưu điểm trong bài văn của bạn (về bố cục, sắp xếp ý, diễn
đạt, dùng từ đặt câu, sử dụng biện pháp nghệ thuật).
Hướng dẫn học sinh chọn viết một đoạn văn trong bài làm cho tốt hơn
(Đây là bước dành cho học sinh năng khiếu).
Sau khi tôi hướng dẫn các em chữa bài, em Thư đã viết lại đoạn văn như sau:

17



* Cũng là các bộ phận của con mèo mà em đã miêu tả ở trên nhưng đến đoạn
văn này em đã biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh và nhân hóa một
cách rõ nét giúp đoạn văn thêm sinh động hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua những biện pháp và các bước tôi đã vận dụng vào việc giúp học sinh
giải quyết các bài tập làm văn tả con vật có hiệu quả được nêu ở trên, đến cuối
học kì II năm học 2016 – 2017, kết quả học tập của học sinh học phân môn Tập
làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung đã có một sự chuyển biến nhất
định. Tuy chưa phải tất cả các em đều biết viết văn hay, giàu cảm xúc nhưng tất
cả các em đã nắm được một số vốn kiến thức nhất định để học có hiệu quả phân
18


môn Tập làm văn. Hầu hết học sinh đều ham thích môn học, không sợ sệt khi
đến tiết Tập làm văn như đầu năm học nữa. Phần đa số các em biết viết bài văn
miêu tả đúng thể loại; có bố cục ba phần rõ rệt, thể hiện rõ nội dung miêu tả,
dùng từ chính xác, viết câu văn trôi chảy, mạch lạc, tả được những đặc điểm nổi
bật; bước đầu có hình ảnh, cảm xúc. Nhiều học sinh bước đầu biết vận dụng các
biện pháp tu từ trong các bài tập làm văn của mình. Các em rất tự tin khi đến tiết
học Tập làm văn. Kết quả bài kiểm tra định kì như sau:
Bảng kết quả bài làm môn Tập làm văn của học sinh lớp 4B cuối học kì II
Kết quả đạt được
Số học sinh
Nội dung nhận xét
khảo sát
Số lượng
Tỉ lệ
Bài viết đúng thể loại, bố cục ba phần rõ
rệt; thể hiện rõ nội dung miêu tả, tả được
23

92%
những đặc điểm nổi bật; hành văn trôi chảy,
chữ viết và trình bày sạch đẹp.
25
Bài văn chưa thể hiện rõ rệt bố cục ba
phần; mắc nhiều lỗi chính tả; thường kể,
liệt kê, lặp từ, chưa biết dùng từ; hành văn
2
8%
lủng củng, rời rạc, chưa biết tả những đặc
điểm nổi bật.
Diễn biến chất lượng phân môn Tập làm văn sau khi áp dụng đề tài này
thật đáng phấn khởi. Đây là kết quả của một quá trình phấn đấu của cả giáo viên
và học sinh lớp 4B. Chất lượng phân môn Tập làm văn đi lên rõ rệt đã góp phần
quan trọng vào việc nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt của lớp và của tổ
chuyên môn. Cuối học kì II, lớp tôi đã có rất nhiều em viết được những bài hay,
giàu cảm xúc và đạt điểm cao so với hai lớp 4 còn lại của trường (Dẫn chứng
được minh họa ở phần Phụ lục).
Nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn cũng như bồi
dưỡng năng lực viết văn cho học sinh, tôi nhận thấy bản thân mình cần phải nỗ
lực hơn nữa để nâng cao trình độ, tay nghề. Từ đó giúp tôi có tiền đề, cơ sở để
tôi tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này.

19


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
- Việc tạo hứng thú học tập, yêu thích môn học Tập làm văn, và rèn kĩ năng học
tốt môn này là một việc tất cả giáo viên cần phải kiên trì, bền bỉ, không được

nóng vội. Bởi vì có những học sinh tiến bộ ngay trong vài tuần nhưng cũng có
những học sinh sự tiến bộ diễn ra rất chậm, không phải vài tuần, có khi vài
tháng, thậm chí cả một học kỳ. Nếu giáo viên không biết chờ đợi, nôn nóng thì
chắc chắn sẽ thất bại. Giáo viên cần thường xuyên học hỏi đồng nghiệp, tự bồi
dưỡng, đọc sách báo, truy cập Internet để nắm vững, để tìm hiểu thêm về nội
dung phân môn Tập làm văn; các phương pháp, phương tiện, đồ dùng để áp
dụng cho việc dạy học phân môn Tập làm văn.
- Nhìn chung trong quá trình thực hiện, tuy đã đạt hiệu quả đáng kể song vẫn
không tránh khỏi những hạn chế. Chính vì vậy, bản thân tôi rất mong sự đóng góp
của các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp để trong mỗi tiết dạy môn Tập làm văn đạt
hiệu quả hơn, lý thú hơn nữa đối với cả giáo viên và học sinh. Trong phạm vi sáng
kiến kinh nghiệm này, mặc dù đã rất cố gắng nhưng tôi không thể trình bày hết
những suy nghĩ, những cách làm của mình đồng thời cũng không tránh khỏi những
điểm chưa hợp lý, kính mong ban chuyên môn, bạn đồng nghiệp, các bạn độc giả
góp ý, xây dựng để sáng kiến của tôi có thể hoàn thiện và có tính khả thi hơn.
3.2. Kiến nghị
Để giúp giáo viên dạy tốt và học sinh học tốt phần văn miêu tả, theo tôi cần:
a) Về phía giáo viên, học sinh
- Giáo viên cần tìm hiểu kĩ, xác định, phân loại từng đối tượng học sinh, phân
nhóm theo học lực của học sinh để cân bằng giữa các nhóm khi học sinh tham
gia các hoạt động học tập.
- Bản thân thầy cô giáo cũng cần tích cực tham khảo thêm nhiều tài liệu dưới
nhiều hình thức, chịu khó đọc sách báo để tự làm giàu thêm vốn từ, chất văn, áp
dụng phù hợp vào từng ngữ cảnh cụ thể.
- Giáo viên cần chuẩn bị hệ thống câu hỏi chu đáo, tranh ảnh, video clip phong
phú nhưng gần gũi, phù hợp với học sinh.
- Thầy cô giáo cần hết sức tinh tế, nhạy bén, biết lắng nghe, kịp thời đưa ra
hướng để giúp học sinh sửa chữa, trau chuốt câu, lời, ý văn.
- Giáo viên cần giúp học sinh nâng cao tính tự giác, chịu khó học hỏi, cũng như
sẵn sàng chia sẽ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Vì vậy, thầy cô giáo phải thường

xuyên động viên, khích lệ và tổ chức nhiều phương pháp, hình thức dạy học,
phát huy tối đa năng lực của học sinh, nhất là học sinh hoàn thành tốt môn học.
- Quá trình thực hiện mất nhiều thời gian, đòi hỏi giáo viên phải có sự kiên
nhẫn, bền bỉ, cần phải thường xuyên lâu dài, kết hợp lồng ghép trong cả các
phân môn, môn học khác.
b) Về phía nhà trường, Phòng giáo dục và Sở giáo dục
- Tiếp tục hội thảo, chuyên đề về dạy học phân môn Tập làm văn để giáo viên
được tham dự, học hỏi một cách cụ thể, sát thực, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ.
- Hàng năm cần tổ chức các phong trào thi đua viết thơ văn, sáng tác nhỏ của
tuổi thơ để các em có điều kiện phát huy tài năng của mình.
20


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Xuân Thắng, ngày 29 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

Hoàng Thị Thu Hiền

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO

STT


Tên tài liệu

1

Nhà xuất
bản

Năm
xuất bản

SGK Tiếng Việt 4,
tập 1, tập 2.

NXB giáo dục

2016

2

Sách GV Tiếng việt 4

NXB giáo dục

2005

3

Sách thiết kế


Nguyễn Huyền Trang

NXB Hà Nội

2005

Nguyễn Thanh Lâm

NXB Đại học
sư phạm

2016

NXB Đại học
sư phạm

2005

Tiếng Việt 4
4

5

Luyện Tập làm văn 4

Tên tác giả

Cao Hòa Bình

Phương pháp


Lê Phương Nga

dạy học Tiếng Việt

Đặng Kim Nga

6

Tạ Đức Hiền
Những bài văn

Ngô Thu Yến

đạt giải quốc gia cấp Nguyễn Kim Sa
Tiểu học
Nguyễn Minh Hòa
Thái Thanh Vân
7

35 đề ôn luyện
Tiếng việt 4

Lê Phương Nga
Nguyễn Thị Thanh Hằng

NXB Đại học
sư phạm

NXB Giáo

dục Việt Nam

2012

2010

22


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:

HOÀNG THỊ THU HIỀN

Ngày sinh:

20/05/1985

Ngày vào ngành:

01/06/2008

Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, trường Tiểu học Xuân Thắng, Thọ
Xuân, Thanh Hóa

TT


Kết quả
Cấp đánh giá
đánh giá
xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Tên đề tài SKKN
Một số kinh nghiệm hướng dẫn

1.

học sinh sử dụng sơ đồ đoạn thẳng
trong giải toán về tìm số trung
bình cộng lớp 4
Một số biện pháp bồi dưỡng năng

2.

lực cảm thụ văn học cho học sinh
lớp 4

3.

Hướng dẫn học sinh lớp 5 tìm số
dư trong phép chia số thập phân
Một số biện pháp giúp học sinh


4.

lớp 4 học tập có hiệu quả Tập làm
văn tả con vật.

Phòng
GD&ĐT
huyện Thọ
Xuân
Phòng
GD&ĐT
huyện Thọ
Xuân
Phòng
GD&ĐT
huyện Thọ
Xuân
Phòng
GD&ĐT
huyện Thọ
Xuân

Năm học
đánh giá
xếp loại

B

2009 - 2010


C

2011 - 2012

C

2014 - 2015

A

2016 - 2017

PHỤ LỤC 2
23


24


×