Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 học tốt phân môn kể chuyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.95 KB, 19 trang )

1. Mở đầu:
1.1 lý do chọn đề tài.
Học Tiếng Việt học sinh được trang bị những kiến thức cơ bản và tối thiểu
cần thiết giúp các em hòa nhập với cộng đồng và phát triển của xã hội. Cùng với
môn Toán và một số môn học khác, những kiến thức của môn Tiếng Việt sẽ là
những hành trang trên bước đường đưa các em đi khám phá, tìm hiểu, nghiên cứu
thế giới xung quanh và kho tàng tri thức vô tận của loài người, giúp các em tiếp cận
với vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, giúp các em có cơ hội bộc lộ cảm xúc của
mình, mở rộng tâm hồn. Trong đó phân môn Kể chuyện là một trong những phân
môn Tiếng Việt số 1 có nhiệm vụ: Bồi dưỡng tâm hồn trẻ, góp phần hình thành cảm
xúc và thẩm mĩ lành mạnh, làm giàu thêm vốn sống và vốn hiểu biết, phát triển tư
duy và nâng cao trình độ Tiếng Việt lớp 1 nói riêng, học tốt Kể chuyện không
những giúp học sinh rèn luyện kĩ năng nghe – nói (kể ) mà còn tạo điều kiện cho
học sinh tự tin để học tốt các môn học khác và giúp các em tự nhiên hơn trong giao
tiếp. Tiếng Việt là một trong những môn học có số tiết dạy ở bậc tiểu học nhiếu
nhất và cũng là môn học then chốt của cấp học. Thế nhưng làm thế nào để đạt được
mục tiêu trên lại là cả một vấn đề phải lưu tâm. Đặc biệt xuất phát từ tình hình thực
tế ở trường Tiểu học Minh Sơn I. Phần lớn học sinh chủ yếu là dân tộc Mường, vốn
sống, ngôn ngữ giao tiếp Tiếng Việt còn hạn chế, Bản thân mỗi giáo viên cần phải
tăng cường dạy học Tiếng Việt rất nhiều cho học sinh.
Trong quá trình trực tiếp giảng dạy, tôi còn thấy một số điều tồn tại và
vướng mắc trong phân môn Kể chuyện, học sinh nhìn chung còn ít học và việc
chuẩn bị trước cũng chưa được chu đáo, chỉ nhìn bài qua loa, chiếu lệ, chưa biết
cách kể. Đến lớp, nhiều em chưa phát huy tốt vai trò của cá nhân trong quá trình kể
chuyện, nhất là kể cho nhau trong nhóm (vì kể cho nhau trong nhóm yêu cầu là tính
tự giác là chủ yếu), Trong khi bạn bè kể thì một số em chưa có ý thức theo dõi, quá
trình học tập của bạn là thời gian nghỉ ngơi của một số em khác. Mặt khác các em
mới làm quen với phân môn này nên còn rất nhiều bỡ ngỡ, chưa có phương pháp
học hợp lí.
Từ những hạn chế và vướng mắc trong quá trình giảng dạy. Bản thân tôi đã
suy nghĩ, trăn trở để tìm ra nhiều phương pháp mới, tối ưu nhất để giúp cho học


sinh dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuộc chuyện theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy, tôi đã
mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1A trường Tiểu
học Minh Sơn I, học tốt phân môn Kể chuyện” nhằm nâng cao chất lượng dạy
học phân môn Kể chuyện .
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao chất lượng học phân môn kể chuyện cho học sinh lớp 1 ở
trường Tiểu học Minh Sơn 1. Giúp các em hình thành nhân cách, hình thành những
kĩ năng cơ bản ban đầu về đạo đức, tri thức, thể, mĩ…và cho cả sự phát triển các kĩ
năng giao tiếp, ứng sử rõ ràng, liên kết câu từ chặt chẽ, diễn đạt mạch lạc nội dung
cần kể. Ngoài ra còn rèn cho các em sự tự tin, phong cách chuẩn mực khi trình bày,
giúp các em tiếp tục học tốt phân môn này ở các lớp trên.
1


1.3. Đối tượng nghiên cứu
Trọng tâm nghiên cứu sáng kiến của tôi là xác định một số nguyên nhân dẫn
đến học sinh chưa học tốt phân môn kể chuyện lớp 1 và đề xuất một số biện pháp
giúp học sinh học lớp 1 học tốt phân môn kể chuyện .
1.4. Phương pháp nghiên cứu :
Phương pháp trực quan
Phương pháp quan sát
Phương pháp giao tiếp.
Phương pháp luyện tập theo mẫu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
2.1. Cơ sở lý luận:
Trong mục tiêu giáo dục và giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học, phân môn kể
chuyện có vị trí, vai trò rất quan trọng, góp phần tích cực vào việc bồi dưỡng tâm
hồn, tình cảm, trau dồi những tri thức về cuộc sống và bồi dưỡng vốn văn học cho
học sinh. Ngoài ra nó còn nhằm nâng cao năng lực trí tuệ, đồng thời rèn luyện cho
các em khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ. Bên cạnh đó phân môn kể chuyện còn

giúp các em phát triển các năng lực tư duy cơ bản như: Trí tưởng tượng, óc phán
đoán, khả năng ghi nhớ, năng khiếu thẫm mỹ, hình thành ở các em nhiều phẩn chất
tốt đẹp cần thiết cho nhu cầu phát triển ở độ tuổi này.
Cùng với các môn học khác, phân môn kể chuyện góp phần hình thành nhân
cách rất lớn cho học sinh, nó mở mang sự hiểu biết cho các em. Các em được học
hỏi những điều hay, lẽ phải từ rất nhiều các câu chuyện, phản ánh đa dạng cuộc
sống. Chính vì vậy tiết Kể chuyện đòi hỏi giáo viên vừa biết kể chuyện hấp dẫn,
vừa biết dạy cho học sinh tập nói, tập kể chuyện và phát triển ngôn ngữ. tập dùng
ngôn ngữ của bản thân để diễn tả kể chuyện. Qua mỗi tiết kể chuyện học sinh được
tiếp xúc với một văn bản hay. Nhưng điều quan trọng hơn các em học được cách
dùng vốn từ ngữ của mình để kể lại chuyện.
Như vậy nhiệm vụ giáo dục của phân môn Kể chuyện được trở nên đa dạng
và phong phú. Dạy tốt tiết Kể chuyện giáo viên sẽ tạo điều kiện tốt cho việc phát
triển năng khiếu ở nhiều học sinh, tạo điều kiện ươm mầm cho nhân tài mai sau. Đó
cũng là một mặt trong việc xây dựng nhân cách con người mới, con người của thời
kì công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước.
2.2. Thực trạng.
Trong quá trình giảng dạy phân môn kể chuyện là một nội dung khó. Thực tế
sự tiếp thu bài của các em rất chậm, cảm giác như ngại học phân môn này. Do các
em học sinh lớp 1 đa số có vốn sống còn ít. vốn hiểu biết về Tiếng Việt còn rất sơ
sài, chưa định hình rõ trong giao tiếp. Mặt khác, học sinh mới được làm quen với
phân môn Kể chuyện ở lớp 1 nên các em còn nhiều bỡ ngỡ, chưa có phương pháp
học tập một cách khoa học và hợp lý. Lực học của các em không đồng đều. Khả
năng giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với học sinh còn nhiều
hạn chế. Cho nên ngay đầu năm học tôi đã tiến hành theo dõi và khảo sát chất
lượng như sau:
2


Đề bài: Kể lại câu chuyện: Khỉ và Rùa

*Kết quả :
Tổng số
Kể chuyện hay
Kể đúng nội dung
học sinh
chuyện
33 em Số lượng Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
3
9.1
18
54.6

Chưa biết kể
Số lượng Tỉ lệ %
12
36,3

Qua quá trình khảo sát đứng trước thực trạng như vậy tôi trăn trở và tìm ra
một số nguyên nhân dẫn đến kết quả như trên:
2.2.1 Đối với học sinh
Nguyên nhân 1: Chưa chuẩn bị bài trước khi đến lớp:
Hầu hết học sinh là con em nông thôn, bố mẹ đi làm ăn xa để con ở với ông,
bà, nên sự chuẩn bị bài chưa có mà vốn từ giao tiếp của các em còn hạn chế, chưa
mạnh dạn, chưa biết dùng lời lẽ của mình thể hiện giọng của nhân vật trong mỗi
câu chuyện, chưa sáng tạo giọng kể, chưa nắm được nội dung cốt chuyện. Hầu như
các em chỉ đọc chuyện là chính, định hướng các hoạt động và nhớ được nội dung
câu chuyện là rất khó khăn.
Nguyên nhân 2: Học sinh chưa phát triển ngôn ngữ nói theo tranh.

Học sinh chưa mạnh dạn, tự tin trong việc phân tích sử lý tình huống. Nếu
được gọi kể chuyện thì hầu như các em chỉ đọc theo gợi ý của chuyện sau mỗi
tranh. Các em chưa biết liên kết được các bức tranh để thành một đoạn chuyện, một
câu chuyện, chưa hiểu được nội dung từng tranh.
Nguyên nhân 3: Kĩ năng nghe kể của học sinh còn nhiều hạn chế.
Nhiều học sinh chưa chú ý lắng nghe cô kể, bạn kể, tự mình kể dẫn đến việc
đánh giá nhận xét kĩ các năng nghe, kể diễn đạt đúng, sai còn rất nhiều hạn chế
trong tiết kể chuyện. Chưa biết dùng lời của mình thể hiện giọng của từng nhân vật
trong mỗi.
Nguyên nhân 4: Chưa sáng tạo trong kể chuyện.
Do học sinh chưa nắm vững cốt chuyện, chưa kể lại câu chuyên đó bằng lời
của mình, giọng kể, điệu bộ chưa sinh động, chưa có sức thuyết phục người nghe,
chưa biết nhập vai trong khi kể gần như là đọc chuyện, dẫn đến tính sáng tạo trong
kể chuyện chưa cao .
2.2.2. Đối với giáo viên.
Nguyên nhân 1: Chuẩn bị bài chưa chu đáo.
Việc chuẩn bị bài hầu như giáo viên còn phụ thuộc nhiều vào sách giáo viên
và bài soạn. Chính vì thế mà bài dạy trên lớp còn mang tính áp đặt, đơn điệu chưa
phù hợp với đối tượng học sinh, làm cho học sinh nắm nội dung chuyện còn chàng
màng, máy móc coi phân môn Kể chuyện chỉ là giải trí, các môn học khác quan
trọng hơn. Do sự chuẩn bị của giáo viên chưa chu đáo dẫn đến tiết day, giờ dạy
không mang lại hiệu quả.
Chưa có tranh phóng to minh họa các bài kể chuyện. Giáo viên sử dụng tranh
thì chỉ dùng tranh pô tô ở SGK cho nên không có tính khoa học và tính thẫm mỹ.
3


Nguyên nhân 2: Kể chuyện chưa hấp dẫn.
Một số giáo viên rất ngại dạy Kể chuyện, nhất là vào dịp thao giảng, dự giờ
thăm lớp vì sợ khả năng kể chuyện chưa hay, không thu hút được sự chú ý của học

sinh, giọng kể, điệu bộ còn áp đặt, đơn điệu chưa sát với nội dung chuyện mà chuẩn
bị cho một giờ kể chuyện lại mất nhiều công sức và thời gian, như tranh vẽ, trang
phục…
Nguyên nhân 3: Chưa khích lệ động viên học sinh kịp thời.
Đây là khâu quan trọng nhất trong tiết dạy kể chuyên vì rất ít học sinh biết kể
một cách trôi chảy mạch lạc, rõ ràng, bởi kĩ năng nói, diễn đạt của các em còn kém.
Mà giáo viên lại chưa động viên khuyến khích, tuyên dương học sinh kịp thời đặc
biệt là những học sinh chậm. chưa có năng khiếu kể chuyện, chưa mạnh dạn tự tin
khi kể trước cô và bạn .
Nguyên nhân 4: Chưa lồng ghép dạy kể chuyện trong các môn học khác.
Giáo viên chưa lồng ghép dạy kể chuyện trong môn học khác. Để học tốt môn
kể chuyện thì người giáo viên cần biết kết hợp, lồng ghép vào một số phân môn
khác như: phân môn học vần tập đọc phần luyện tập nói sau mỗi bài đọc, nếu giáo
viên chú ý luyện kĩ đến phần này sẽ giúp học sinh mạnh dạn hơn, tự nhiên hơn, biết
diễn đạt lời nói của mình đủ câu hơn, rõ ràng hơn.
2.2.3. Đối với phụ huynh học sinh.
Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm và đầu tư thích đáng đến việc học
tập của con em. Phần lớn phụ huynh không đủ khả năng để dạy ở nhà cho các em.
Do nhận thức của phụ huynh về các môn học còn lệch lạc, nhiều phụ huynh
chỉ quan tâm chú trọng cho con em học thêm nhiều về môn toán, còn phân môn kể
chuyện thì bị phụ huynh xem nhẹ hơn. Đối với phân môn kể chuyện không mấy
phụ huynh kiên trì hướng dẫn cho con em tập kể ở nhà trước, ít có được học sinh kể
hoàn chỉnh một câu chuyện. Vì thế dẫn đến kết quả kể chuyện của các em còn rất
thấp, chưa mang lại hiệu quả cao.
Từ những nguyên nhân trên tôi đã tìm ra một số biện pháp thực hiện như sau:
2.3. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 học tốt phân môn Kể chuyện.
2.3.1. Đối với học sinh.
Biện pháp 1: Giúp học sinh chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
Học sinh muốn nhớ được nội dung truyện nhanh khi đến lớp các em nên
quan sát trước nội dung từng tranh để phỏng đoán nội dung truyện.

Ví dụ: truyện Thỏ và Sư Tử (TV1 – Tập 1 trang 45).
Khi đọc đến truyện này học sinh ở nhà quan sát kĩ tranh để phỏng đoán nội
dung truyện như sau:
Tranh 1: Sư Tử đang nằm chờ Thỏ đến.
Tranh 2: Thỏ đang nói chuyện với Sư Tử và Sư Tử đang tức giận với Thỏ.
Tranh 3: Thỏ và Sư Tử đang đứng trên thành một cái giếng.
Tranh 4: Sư Tử lao xuống giếng còn Thỏ đang nhảy múa trên thành giếng.
Sau khi quan sát phỏng đoán như vậy thì đến lớp nghe cô giáo kể chuyện các
em dễ nhớ được nội dung câu chuyện.
4


Ví dụ 2: Truyện Rùa và Thỏ (TV1 – Tập 2 trang 54).
Khi học đến truyện Rùa và Thỏ học sinh quan sát trả lời trước các câu hỏi sau
mỗi tranh như (Rùa đang làm gì ?. Thỏ nói gì với Rùa? ) thì đến lớp nghe cô kể
câu chuyện các em dễ nhớ được nội dung truyện.
Ví dụ 3: Truyện trí khôn (TV1 – Tập 2 trang 72) .
Khi dạy xong bài “Rùa và Thỏ” giáo viên yêu cầu học sinh về nhà chuẩn bị
trước câu chuyện tuần sau có tên “ Trí khôn” Học sinh đã quan sát các tranh trong
sách giáo khoa và đọc câu hỏi dưới mỗi tranh để có thể phỏng đoán nội dung câu
chuyện qua từng tranh như: Hổ nhìn thấy gì? Hổ và Trâu nói gì với nhau?...Nhưng
học sinh có sự chuẩn bị bài trước thì khi đến lớp nghe thầy cô kể các em tiếp thu
bài rất nhanh và nhớ nội dung câu chuyện ngay ở lớp và thể hiện kể trước lớp rất tự
nhiên, đối với những học sinh không có sự chuẩn bị bài trước thì đến lớp việc nhớ
nội dung câu chuyện chậm hơn, chính vì thế mà việc nhập vai nhân vật chưa chính
xác còn kém.
Biện pháp 2: Phát triển ngôn ngữ nói theo tranh.
Với học sinh lớp 1, tư duy bằng trực quan là chủ yếu. Chính vì vậy ngôn ngữ
của các em phụ thuộc vào trực quan (tranh vẽ) là rất nhiều. Nêu thiếu yếu tố này thì
ngôn ngữ của các em phát triển chậm bởi vốn sống thực tế, vốn từ, sự trau rồi ngôn

ngữ của các em còn hạn chế. Đặc biệt với câu chuyện có lời nhân vật thì một mình
các em phải thể hiện nhiều vai (khác với nhập một vai) cùng đồng nghĩa với giọng
kể, cử chỉ, điệu bộ phải thay đổi.
Ví dụ: Truyện: Trí khôn (TV1 – Tập 2 trang72).

5


Đoạn 2: Tranh 3: Sự tò mò của Hổ.
Khi giáo viên treo tranh phóng to lên cho học sinh quan sát thì đã lôi cuốn sự
tò mò của học sinh, sự tò mò ấy các được tăng lên khi kết hợp với lời kể hấp dẫn
của giáo viên. Đến phần học sinh kể chuyện theo tranh, đoạn giáo viên yêu cầu học
sinh quan sát trang để mô tả sự tồ mò của Hổ khi gặp bác nông dân“ Hổ lân la tới
gần bác nông dân, mắt tròn xoe, râu vễnh lên, vẻ tò mò, hỏi bác nông dân: người
kia! Trí khôn đâu cho ta xem. Bác nông dân thì điềm tĩnh khôn ngoan chăm chú
nhìn vào Hổ, tay chỉ về phía xa để trả lời; Trí khôn ta để ở nhà …”
Trong khi đó giáo viên chỉ kể “Hổ lân la tới gần bác nông dân bác nông dân
hỏi: người kia! Trí khôn đâu cho ta xem. Bác nông dân đáp: Trí khôn ta để ở nhà”
Như vậy việc quan sát tranh không chỉ những phát triển làm giàu vốn từ, khả
năng diễn đạt sự làm chủ về ngôn ngữ của các em mà còn kích thích gây hứng thú c
Biện pháp 3: Rèn kĩ năng nghe kể, nhận xét.
Kĩ năng nghe kể là rất quan trọng đối với học sinh, câu chuyện đó có hay, có
hấp dẫn hay không thì điều đầu tiên phải giúp các em biết nghe cô kể, bạn kể để
cảm nhận, từ đó biết đánh giá, nhận xét. Kể thì có nhiều hình thức như: Thi kể giữa
các nhóm với nhau, kể theo tranh( giáoviên chỉ từng tranh, đại diện nhóm chỉ vào
tranh và kể lại chuyện. Nhóm nào có tất cả 4 lần kể đúng thì nhóm ấy thắng cuộc);
kể lại tóm tắt câu chuyện và nêu ý nghĩa câu chuyện …
Ví dụ 1: Truyện: Niềm vui bất ngờ (TV1 – Tập 2 trang 98).

6



Trước hết giáo viên yêu cầu học sinh quan sát tranh nghe cô kể lại toàn bộ câu
chuyện theo tranh minh họa, sau đó yêu cầu học sinh kể được từng đoạn,tiếp theo
một học sinh năng khiếu kể lại toàn bộ câu chuyện. Biết thay đổi giọng kể để phân
biệt lời các nhân vật ( Lời Bác: cởi mở, âu yếm: Lời các cháu mẫu giáo: phấn khởi,
hồn nhiên) và lời người dẫn chuyện: lúc khoan thai hồi hộp, khi lưu luyến, tùy theo
sự phát triển của nội dung câu chuyện. Học sinh kể chuyện từng đoạn theo tranh
trong nhóm lớn, nhóm đôi.Một học sinh có năng khiếu kể lại toàn bộ câu chuyện
trước lớp và nêu ý nghĩa của chuyện…
Ngoài việc yêu cầu học sinh quan sát từng tranh và câu hỏi gợi ý dưới mỗi
tranh để kể lại nội dung câu chuyện giáo viên còn đưa ra một số gợi ý cơ bản lên
bảng để học sinh nhớ lại được cốt truyện tốt hơn như:
+ Cô ơi cho chúng con về thăm Bác Hồ đi.
+ Bác Hồ râu tóc bạc phơ, tươi cười đón các cháu.
+ Bây giờ các cháu thích gì nào?
+ Các cháu xúm xít theo Bác ra vườn.
+ Đã đến giờ Bác phải chia tay các cháu.
Chính những yếu tố ở trên mà học sinh kể cảm thấy tự tin hơn, thể hiện nhập
vai nhân vật tốt hơn và nhớ nội dung truyện.
Ví dụ 2: Truyện: Dê con nghe lời mẹ (TV1 – tập 2 trang 117).
Yêu cầu học sinh kể cho nhau nghe theo nhóm đôi, mỗi em kể hai tranh. Học
sinh này kể học sinh kia lắng nghe và giáo viên là người theo dõi chỉ đạo, học sinh
tham gia chơi trò chơi “ kể chuyện tiếp sức” (theo đoạn), kể chuyện phân vai, đóng
vai,….bạn còn lại có nhiệm vụ nhận xét bạn kể theo các yêu cầu:
Nội dung chuyện bạn kể đầy đủ chưa ? Lời nói của các nhân vật phù hợp chưa?
Bạn thể hiện cử chỉ, đánh giá theo nhóm: kể tốt với kể tốt; biết kể với biết kể.
Vì vậy, khi hướng dẫn học sinh nhận xét, việc đánh giá học sinh cần chú ý:
Nhóm kể tốt yêu cầu cao hơn. Ngoài thuộc chuyện yêu cầu phải thuộc được giọng
của nhân vật, kể đúng ngữ điệu …

Nhóm biết kể chỉ yêu cầu học sinh kể đúng nội dung câu chuyện một cách tóm
tắt (một đoạn, hai đoạn hoặc cả truyện) cũng đã được tuyên dương vì đó cũng là sự
cố gắng rất lớn cho dù kết quả không bằng nhóm kể tốt…
Khi tập kể chuyện thì giáo viên phải cho học sinh nắm được cốt truyện (không
bỏ qua tình tiết, chi tiết cơ bản). Vì vậy, giáo viên yêu cầu học sinh thi kể phải bám
sát nội dung tranh minh họa và những câu hỏi gợi ý, ngoài ra giáo viên còn nêu
viết tắt nội dung cốt truyện với tình tiết cơ bản nhất lên bảng lớp (vì lúc này học
sinh đã biết đọc ). Như thế học sinh sẽ nhớ nội dung câu chuyện hơn và khi bạn kể,
học sinh cũng nhận xét một cách chính xác hơn.
Tóm lại: Hiệu quả giờ học sẽ cao hơn khi các em chú ý nghe cô kể, bạn kể sẽ
giúp cho việc đánh giá, nhận xét bạn biết đúng, biết sai, biết được hoặc chưa biết
được để tránh cho mình không bị mắc lỗi, ngoài ra còn khích lệ, giúp các em thích
thú hơn, tự tin hơn trong giờ Kể chuyện.
Biện pháp 4: Giúp học sinh kể chuyện sáng tạo.
7


Kể chuyện sáng tạo tức là không phải thay thế lời lẽ, là văn bản không chính
xác hay các em kể nguyên bản truyện, mà sáng tạo là câu chuyện kể hồn nhiên làm
cho người nghe cảm nhận sự thuyết phục, hấp dẫn, ấn tượng đó mới là sáng tạo.
Có nhiều mức độ khác nhau gắn với kiểu bài tập khác nhau, nhung bản chất
của kể chuyện sáng tạo không phải là kể khác nguyên văn câu chuyện mà là kể tự
nhiên như sống với câu chuyện, kể bằng ngôn ngữ giọng điệu của mình, thể hiện
được cảm nhận của mình về câu chuyện đó, muốn làm được như vậy bắt buộc học
sinh phải nắm vững nội dung cốt truyện. Đối với lớp 1, yêu cầu kể sáng tạo không
cao như lớp 2,3,4,5, mà chỉ cần kể hồn nhiên bằng giọng điệu, cảm xúc của mình,
học sinh có thêm cào câu chuyện một số câu chữ của mình (nhưng không làm thay
đổi nội dung câu chuyện), cũng có thể diễn lại nguyên văn câu chuyện một cách tự
nhiên, trôi chảy, nhẹ nhàng làm cho người nghe thấy được nội dung cốt truyện liền
mạch, nếu cao hơn còn biết nhập vai nhân vật, ngữ điệu, cử chỉ, nét mặt, điệu bộ .

Ví dụ 1: Truyện: Bông hoa cúc trắng (TV1 – tập 2 trang 90).

8


Tình huống: Người mẹ tỉnh dậy nói với con: “Mẹ thấy trong người mệt lắm.
Con mời thầy thuốc về đây cho mẹ”.
Khi nhập vai học sinh cần chú ý:
Lời nhân vật: giọng mệt mỏi, yếu ớt thể hiện người ốm nặng.
Cử chỉ, điệu bộ: nét mặt buồn rầu pha chút gắng sức.
Ví dụ 2: truyện: Sói và Sóc (TV1 – tập 2 trang 108).
Tình huống: Sóc bị Sói chồm định chén thịt, Sóc van nài: “Hãy thả tôi ra nào”
Khi kể cần chú ý:
+ Lời kể của Sóc: Giọng mềm mỏng, nhẹ nhàng thể hiện sự ân cần.
+ Cử chỉ điệu bộ, nét mặt lo âu, sợ sệt…
Như vậy phần kể chuyện sáng tạo là phần mà học sinh háo hứng nhát, gây sự
hứng thú trong mỗi học sinh. Nên hướng dẫn học sinh nhập vai sống với nhân vật
câu truyện là cả một nghệ thuật của giáo viên.
2.3.2. Đối với giáo viên
Biện pháp 1: Chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp.
Đọc kĩ nội dung cốt truyện, hiểu rõ tính cách từng nhân vật, định hướng các
hoạt động dạy học chủ yếu.
Lập kế hoạch bài học chi tiết, giáo viên nắm vững các bước và hình thức tổ
chức dạy học. Một trong những yếu tố quan trọng nữa giúp cho giờ học thành công
là chuẩn bị đồ dùng, (tranh phóng to bằng giấy, bằng đèn chiếu màn hình, trang
phục, diễn kịch, đóng vai…)
Ví dụ 1: Truyện: Khỉ và Rùa (TV1 – Tập 1 trang 65)

9



Tôi đã vẽ phóng to 4 tranh trong sách giáo khoa (sử dụng đèn chiếu). Giúp học
sinh cả lớp cùng quan sát, gây hứng thú cao trong giờ học để học sinh dễ nhớ ngay
từ lần đầu.
Về trang phục: Để gây hứng thú cho học sinh học tốt giáo viên có thể chuẩn bị
như sau:
+ Vai Khỉ: Mặt nạ Khỉ.
+ Vai Rùa: Mặt nạ Rùa.
+ Vai Sói: Mặt nạ Sói.
+ Vai Cừu: Mặt nạ Cừu.
Khi kể, giáo viên có thể sử dụng trang phục hoặc các em có thể nhập vai
nhân vật hóa trang bằng những trang phục đó.
Như vậy: Sự chuẩn bị kĩ về một nội dung truyện và chuẩn bị chu đáo về đồ
dùng của giáo viên đã kích thích, gây hứng thú cao cho cả học sinh và giáo viên,
góp phần nâng cao hiệu quả giờ dạy.
Ví dụ 2: Truyện: Sói và Cừu(TV1–Tập1 T 89).
Tôi đã sử dụng tranh minh họa trong bộ đồ dùng dạy học, giúp học sinh cùng
quan sát và nhận xét.
Về trang phục: Tôi đã chuẩn bị mặt nạ Sói, mặt nạ Cừu…
Khi kể, tôi đã vừa kể vừa diễn xuất các vai qua các trang phục của từng nhân
vật. Chính nhờ sự chuẩn bị kĩ về nội dung chuyện, chu đáo về trang phụ mà tiết dạy
trở nên sôi nổi, gây hứng thú học tập cho các em và học đạt kết quả cao …
Biện pháp 2: Giáo viên kể mẫu đóng vai trò quan trọng.
Tiết kể chuyện có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào giáo viên kể
mẫu, khi kể mẫu giáo viên cần đặt câu hỏi liên quan đến tình huống mở làm cho
học sinh bị lôi cuốn bởi sức hấp dẫn của truyện. Sự kết hợp giữa giọng điệu và cử
chỉ, sử dụng từ ngữ có chọn lọc giúp các em có cảm giác như các nhân vật trong
truyện là có sự thật đang hiện lên sinh động trong từng ngôn từ và sống động trong
từng cử chỉ, điệu bộ của cô.
Ví dụ : Truyện Sư Tử và Chuột Nhắt (TV1 – Tập 2 trang 81)

Để thu hút sự chú ý và gây sự hứng thú cho học sinh giáo viên có thể giới thiệu
như sau: “ Các em đều biết Sư Tử là con vật to, khỏe được xem là chúa tể rừng
xanh, còn con Chuật Nhắt là con vật bé tí xíu. Thế mà con Chuột Nhắt trong truyện
này một lần được con Sư Tử tha mạng mà lại dám nói Sư Tử sẽ có ngày đền ơn,
khiến vị chúa rừng xanh phải phì cười, sự thật thì Chuật Nhắt có ba hoa không, có
làm được điều mình nói không? Các em hãy lắng nghe câu chuyện để hiểu được
điều đó” .
Khi kể, giáo viên cần chú ý thể hiện giọng của từng nhân vật để tăng sức lôi
cuấn học sinh như.
Lời nói của Chuột Nhắt khi còn trong tay Sư Tử: mềm mỏng, khiêm tốn (van
lậy xin tha, bé nhỏ, chả bỏ dính răng).
Lời của Sư Tử: Tỏ thái độ coi thường Chuột Nhắt hứa có ngày sẽ giúp Sư Tử.

10


Ví dụ : Truyện Sói và Sóc (TV1 – Tập 2 trang 108)

Ở tranh 2, khi kể lời của Sóc thì giáo viên kể với giọng mềm mỏng, cầu
khẩn…Qua câu nói như: “hãy thả tôi ra nào”Đến đây giáo viên dùng câu hỏi gợi
mở: Theo các em Sói có tha cho Sóc không? Để học sinh phán đoán và suy nghĩ.
Muốn làm được điều đó thì giáo viên phải thuộc truyện và tập kể trước khi lên
lớp để việc kể mẫu thật sự gây ấn tượng, vì chúng ta đã biết học sinh lớp 1 thuộc
và nhớ truyện là chủ yếu, ở lời kể của cô trước lớp (kể lần 1,2,3 vừa kể vừa kết hợp
với chỉ tranh cho học sinh quan sát).
Tóm lai: Trong tiết kể chuyện học sinh có thuộc được truyện, có kể hay được
hay không là phụ thuộc rất nhiều vào giáo viên kể mẫu, vì học sinh Tiểu học đặc
biệt là học sinh lớp 1 sẽ rất hay bắt trước và làm theo lời cô. Chính vì thế đòi hỏi
người giáo viên kể phải luyện giọng của mình thật chuẩn, hấp dẫn đúng ngữ điệu
và thể hiện được các cử chỉ, điệu bộ của từng nhân vật, có như vậy thì mới thu hút

được sự chú ý của học sinh và học sinh sẽ bắt trước kể được giống cô để việc kể
mẫu của cô thật sự gây ấn tượng cho các em.
11


Biện pháp 3: Khích lệ động viên kịp thời giúp học sinh tự tin.
Với học sinh Tiểu học, việc giúp các em tự tin trước đông người, không phải
dễ dàng, đặc biệt đối với học sinh tiếp thu bài còn chậm, các em luôn mặc cảm và
tự ti vì vậy, việc khích lệ động viên cùng cần phù hợp với từng đối tượng.
Với học sinh có khả năng tiếp thu bài tốt thì giáo viên nên yêu cầu kể chuyện
của các em cao hơn, ngoài việc thuộc chuyện các em còn biết kết hợp với một số cử
chỉ điệu bộ, giọng diễn đạt như: mắt, tay, khuôn mặt để phù hợp với từng nhân vật
trong chuyện.
Ví dụ 1: truyện Rùa và Thỏ (TV1 – Tập 2 trang 54)
Đối với học sinh có khả năng tiếp thu bài tốt giáo viên có thể yêu cầu học sinh
kể thuộc đúng nội dung của truyện và kết hợp với giọng nói cử chỉ, điệu bộ của
Rùa và Thỏ.
Đoạn1: (Tranh 1,2) khi giáo viên kể cần căn cứ đánh giá như sau: Lời vào
truyện: Giọng kể khoan thai, nhấn giọng ở một số từ ngữ thể hiện sự chăm chỉ, cố
gắng của Rùa“ đang cố sức tập chạy” .
Lời củaThỏ đầy kiêu căng: “ Chậm như Rùa (dài giọng mỉa mai ) mà cũng tập
chạy à?” .
Lời Rùa chậm rải, khiêm tốn nhưng đầy tự tin, dám thách. Thỏ: “ anh đừng
giễu tôi! Anh với tôi thử thi coi ai chạy nhanh hơn?”.
Nhưng đối với học sinh tiếp thu bài còn chậm chỉ cần yêu cầu học sinh nhìn
tranh kể từng đoạn hoặc nhớ để kể, Các em chỉ cần kể nội dung chậm, chưa đúng
lời nhân vật và không thể hiện được giọng điệu, cử chỉ cũng cần tuyên dương, động
viển khích lệ, như vậy các em sẽ thấy tự tin trước bạn, trước cô hơn và thấy mình
cũng có sự tiến bộ, từ đó các em có hướng phân đấu kể tốt hơn và cảm thấy mình
đã thành công.

Ví dụ 2: Đoạn1: Học sinh chỉ kể chuyện “Rùa tập chạy. Thỏ nói Rùa chậm
như mày mà cũng tập chạy à ? Rùa trả lời: Anh đừng có giễu tôi. Anh với tôi thử
thi coi ai hơn” thì giáo viên cũng nên tuyên dương, khích lệ học sinh để các em
thấy tự tin hơn khi kể chuyện.
Như vậy, giáo viên khen khi học sinh chỉ cần vượt bậc tuy ít nhưng có sự biến
chuyển để các em có động lực phấn đấu. Còn khi học sinh chưa kể được thì giáo
viên cũng không nên chê trực tiếp là “ em kể kém” mà chỉ nói là “ em cần cố gắng
tập trung hơn để biết cách kể” hoặc học sinh làm sai thì chỉ nói là “em làm chưa
đúng”.
Bởi vì chính những lời khen kịp thời đó là động lực khích lệ cho học sinh cố
gắng hơn và sẽ làm cho các em thêm tự tin có ý chí phấn đấu và cảm thấy chủ động
hơn trước bạn bè, trước mọi người. qua đó rèn được kĩ năng giao tiếp cho các em.
Tóm lại: khi học sinh kể chuyện, các em chỉ cần có sự tiến bộ mặc dù rất nhỏ
nên ta cũng nên cổ vũ, động viên các em một cách kịp thời để giúp các em có niềm
tin và tự tin hơn trước thầy cô và trước các bạn hơn, từ đó các em có ý chí phân đấu
hơn trong học tập đặc biệt là đối với những học sinh tiếp thu bài chậm và chưa biết
kể chuyện.
12


Biện pháp 4: Lồng ghép phân môn kể chuyện với các môn khác.
* Lồng ghép phân môn: Học vần – Tập đọc.
Để học tốt môn kể chuyện thì người giáo viên cần biết kết hợp, lồng ghép vào
một số phân môn khác như: phân môn học vần tập đọc phần luyện tập nói sau mỗi
bài đọc, nếu giáo viên chú ý luyện kĩ đến phần này sẽ giúp học sinh mạnh dạn hơn,
tự nhiên hơn, biết diễn đạt lời nói của mình đủ câu hơn, rõ ràng hơn.
a. Đối với tiết Học vần, Ví dụ: Chủ đề luyện nói: Nặn đồ chơi bài 45 Tiếng
Việt tập 1.
Sau khi các em được giáo viên hướng dẫn luyện nói trong nhóm thì đại diện
một số nhóm trình bày (nói) trước lớp một cách tự tin, thể hiện được cử chỉ, điệu

bộ, những sở thích của mình khi nói về những đồ chơi, những món quà mà mình đã
nặn để tặng người mà mình yêu quý, ý nghĩa của những đồ vật mà mình đã nặn ,…
Ví dụ: Học sinh có thể nói với bạn mình rằng:“Tôi thường nặn đồ chơi bằng đất
hoặc đất sét. Tôi đã nặn được rất nhiều đồ chơi: quả đu đủ, quả cam, quả ớt, con
trâu. Đồ chơi mà tôi yêu thích nhất đó chính là hình ảnh chú Bộ đội tôi nặn bằng
đất nặn, vì hình ảnh chú bộ đội chí là hình ảnh của người cha tôi yêu quý nhất” .
b. Đối với tiết tập đọc.
Trong tiết Tập đọc nếu như hướng dẫn học sinh đọc trôi chảy, không ngắc ngứ,
không đánh vần, ngắt hơi đúng chỗ thì đã thể hiện được nội dung bài học.
Ví dụ 1: Tập đọc bài: Trường em (TV1 – tập 2 trang 46).
Để giúp học sinh thể hiện được nội dung bài học được đúng, hay, thì ở phần
luyện đọc lại giáo viên có thể tổ chức học sinh thi đọc đúng đọc hay. Khi học sinh
thể hiện đọc chôi chảy, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ thì đã thể hiện được nội dung của
bài đọc, từ đó giúp học sinh tự tin hơn trước đông người.
Ví dụ 2: Tập đọc bài: Vì bây giờ mẹ mới về (TV1 – tập 2 trang 88).
Để giúp cho tiết Kể chuyện được tốt hơn thì phần luyện đọc lại là hết sức quan
trọng. Bởi biết đọc trôi chảy, không ngắc ngứ, không đánh vần thể hiện cảm xúc
với đoạn, bài tốt hơn và từ đó các em có thể nhập vai nhân vật tốt hơn. Ví dụ như
thể hiện giọng của các nhân vật:
Người dẫn chuyện: Giọng kể chậm rãi, nhẹ nhàng,
Mẹ: Giọng hoảng hốt khi thấy con khóc, cao giọng sau mỗi câu hỏi (Con làm
sao thế? Đứt tay khi nào thế?…)
Cậu bé: Giọng thì uốn éo khi làm nũng mẹ (Con bị đứt tay. Lúc nãy ạ).
* Lồng ghép môn đạo đức.
Ví dụ 1: Bài 4: Gia đình em.
Bài tập 1: Kể về gia đình mình.
Sau khi nghe các em kể cho nhau nghe trong nhóm về gia đình, nghe xong đến
phần kể trước lớp, giáo viên cần gợi ý giúp học sinh kể về gia đình của mình một
cách thật rõ ràng, chính xác, khi kể giáo viên cần hướng dẫn học sinh thể hiện niềm
tự hào, tình cảm trân trọng, kinh yêu và biết ơn những người trong gia đình của

mình. Khi kể cử chỉ, điệu bộ phải phù hợp với tình cảm mà em dành cho mỗi người
trong gia đình.
13


Ví dụ 2: Bài 7: Đi học đều đúng giờ .
Bài tập 2: Đóng vai theo tình huống “ trước giờ học”.
Sau khi cho học sinh thảo luận nhóm để chuẩn bị đóng vai tình huống thì đến
phần trình bày trước lớp, giáo viên giúp học sinh thể hiện tình huống một cách tự
tin về cử chỉ, điệu bộ phù hợp vớí lời nhân vật (tùy thuộc khả năng diễn xuất từng
nhóm) như:
Người mẹ: Giọng ấm áp, trìu mến “ Con ơi, dạy đi học kẻo muộn!”
Người con ngoan ngoãn, lễ phép: “ Vâng, con sẽ dậy ngay mẹ ạ!”.
Mỗi lần thể hiện như giáo viên đã giúp học sinh cách diễn đạt trước đông
người từ đó làm cho các em tự tin hơn, diễn đạt tốt hơn và mang lại hiệu quả cao
trong các tiết học khác..
* Lồng ghép trong tiết: Hoạt động ngoài giờ lên lớp:
Ví dụ 1: Ở chủ điểm “ Uống nước nhớ nguồn” giáo viên có thể tổ chức cho
học sinh thi kể chuyện, đóng kịch phân vai về các anh hùng, liệt sĩ trẻ tuổi như:
Trần Quốc Toản; Kim Đồng; Vừ A Dính;…mà các em biết hoặc cho các em đọc
các bài thơ về chủ đề: “uống nước nhớ nguồn” .
Phần thi của các em là phần mà học sinh có thể hiện trước đông người hoặc
hoá thân mình vào trong câu chuyện, vai diễn….
Ví dụ 2: Trong tiết sinh hoạt 15 phút đầu giờ tôi có thể tổ chức cho các em “thi
hát các bài hát mà các em thích”. Khi học sinh thể hiện bài hát mà mình thích trước
lớp thì cũng đã giúp các em tự tin trước đông người, biết hòa mình vào trong lời
của bài hát và biết cách thể hiện bài hát bằng cử chỉ điệu bộ, nét mặt hoặc điệu múa
phù hợp với bài hát đó.
Ví dụ 3: Trong tiết mục hoạt động ngoài giờ lên lớp về chủ đề “yêu quý mẹ và
cô giáo” tôi có thể yêu cầu học sinh: hãy kể cho cô và các bạn nghe những công

việc hằng ngày mẹ đã làm và tình cảm của em đối với mẹ như thế nào. Đến phần
học sinh kể trước lớp, giáo viên cần giúp học sinh nói một cách tự tin để kể về mẹ
của mình với niềm tự hào, với tình cảm trân trọng, kính yêu …thể hiện cử chỉ, nét
mặt và tình cảm đó.
Các hội thi nhà trường tổ chức như: Múa hát tập thể, thi văn nghệ, kể chuyện,
giới thiệu tranh do học sinh sưu tầm…để chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20 –
11, ngày 8 – 3…lớp tôi đã tham gia và có một học sinh đạt giải toàn trường. Đạt
giải như vậy chính là nhờ sự tự tin trong giao tiếp của các em qua giờ kể chuyện
trên lớp.
Ngoài những môn ở trên ra chúng ta còn có thể lồng ghép ở một số môn học
khác như: Tự nhiên – Xã hội, Toán, Các hoạt động giáo dục vui chơi ngoài giờ lên
lớp bằng cách phân công nhóm trưởng quản lí và điều khiển các thành viên trong
nhóm của mình tham gia tổ chức…Từ đó, có thể giúp học sinh tự tin hơn trước
đông người, diễn đạt tốt hơn.
Như vậy, các phân môn này đã góp phần không nhỏ vào việc rèn kĩ năng nghe,
nói, kể , diễn đạt của các em trong các môn học khác mà các em đã được tham gia
học tập..
14


2.3.3. Đối với phụ huynh học sinh.
Ba nhân tố không thể thiếu được trong giáo dục là” Gia đình – Nhà trường –
Xã hội”. Đặc biệt là đối với học sinh lớp 1 như chúng ta thường nói “ cô và mẹ là
hai cô giáo”. Thật đúng như vậy, ở trường là thầy cô, về nhà là cha mẹ. Vì vậy, tôi
đã gặp gỡ trực tiếp với phụ huynh qua các kì họp. Tôi đã dành một thời gian nhất
định để hướng dẫn phụ huynh cách dạy học sinh kể chuyện, cách khuyến khích
động viên các em kể ở nhà hoặc gặp gỡ phụ huynh qua những lần đưa con đi học
hay đón con về, cũng có khi đến tận nhà các em hoặc trao đổi gián tiếp thông qua
điện thoại…Nhằm giúp phụ huynh hiểu rõ tầm quan trọng của phân môn kể chuyện
trong môn Tiếng Việt, bởi không ít phụ huynh vẫn còn coi trọng kiến thức như

đọc, viết, tính toán nhiều hơn. Hơn nữa, phải cho phụ huynh nhận thấy được phân
môn Kể chuyện, ngoài việc giáo dục cuộc sống còn giúp các em phát triển ngôn
ngữ, khả năng diễn đạt và sự tự tin giúp các em học tốt các môn học khác. Khi phụ
huynh đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của phân môn này thì tôi đã đưa ra một
số hướng dẫn giúp phụ huynh học sinh hướng dẫn con em tập kể ở nhà.
Ví dụ: Hướng dẫn kể chuyện: Rùa và Thỏ (TV1 – tập 2 trang 54).
Bước 1: Hướng dẫn con quan sát tranh kể theo tranh.
Tranh 1: Tranh vẽ gì ?
Rùa đang làm gì ?
Thỏ nói gì với Rùa?
Bước 2: Hướng dẫn con kể sáng tạo.
Một mình con đóng cả 3 vai: Người dẫn truyện. Thỏ, Rùa (cần lưu ý giọng
điệu của nhân vật ).
Mẹ đóng vai cùng con.
Lưu ý: Phụ huynh nên để con mình tự nhận vai con thích nhất, tất cả những gì
hướng dẫn cụ thể ở trên với phụ huynh đã cùng tôi giúp học sinh kể chuyện tốt hơn
và hăng say hơn, tự tin thích học giờ kể chuyện hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong quá trình nghiên cứu và thực nghiệm ở lớp 1A trường Tiểu học Minh
Sơn I, Tôi thấy rằng, sau một thời gian học tập và rèn luyện, chất lượng học tập của
học sinh lớp tôi dạy đã được nâng lên rõ rệt. Học sinh đã biết cách ứng xử, biết kể
với tình huống của chuyện, biết diễn đạt nét mặt, cử chỉ, điệu bộ phù hợp với
chuyện. Học sinh không thấy sợ học phân môn này nữa mà rất thích kể chuyện.
Tôi đã tiến hành kiểm tra chất lượng cuối năm như sau:
Đề bài: Kể lại câu chuyện: Bông hoa cúc trắng
*Kết quả :
Tổng số
học sinh
33 em


Kể chuyện hay
SL
12 em

%
36,3

Kể đúng nội dung
chuyện
SL
%
21 em
63,7

Chưa biết kể
chuyện
SL
%
0 em
0

15


Đặc biệt trong các hội thi do nhà trường tổ chức như ngày 20/11, 8/3,… lớp
tôi đã có học sinh thi hát, kể chuyện,…đạt giải cao .
3. Kết luận và kiến nghị:
3.1.Kết luận:
Qua thời gian nghiên cứu đề tài cùng với sự quan tâm giúp đỡ tận tình của Ban
giám hiệu và đồng nghiệp cho đến nay đề tài của tôi đã hoàn thành.

Những biện pháp tôi đưa ra ở trên chưa đạt được kết quả như mong muốn,
nhưng nó cũng giúp tôi phần nào thấy được những thuận lợi, khó khăn mà giáo
viên và học sinh gặp phải. Trong suốt quá trình giảng dạy và thực hiện đề tài, tôi
đưa ra một số kinh nghiệm như sau:
- Muốn có một tiết học kể chuyện hay, trước hết giáo viên phải chuyên tâm với
nghề, yêu trẻ.
- Cần phải chuẩn bị tiết dạy cho chu đáo ( Lập kế hoạch bài học, chuẩn bị trang
phục cho học sinh, tranh ảnh…)
- Sử dụng đồ dùng được cấp và đồ dùng tự làm, sưu tầm vật mẫu một cách triệt
để, tranh ảnh phóng to bằng đèn chiếu…
- Rèn ngôn ngữ kể chuyện, phong cách kể chuyện hấp dẫn để lôi cuốn và thu
hút người nghe.
- Động viên, khuyến khích học sinh kịp thời đặc biệt là học sinh tiếp thu còn
chậm, giáo viên giúp các em vượt bậc dù là tiến bộ rất nhỏ nhưng đây là khâu quan
trọng trong tiết dạy .
- Chú ý nhân rộng điển hình và động viên, khuyến khích học sinh vì “ học thầy
không tày học bạn”.
- Nên kết hợp với phụ huynh bằng nhiều hình thức để giúp học sinh học được
tốt hơn,
- Nên dạy lồng ghép với các môn học khác hoặc các hoạt động khác như; sinh
hoạt tập thể, sinh hoạt 15 phút đầu giờ,…
- Phân loại học sinh để có biện pháp kịp thời.
- Rèn các em tính tự tin trước đông người (học trên lớp, học nhóm học ở nhà….).
- Có đầy đủ sách giáo khoa môn Tiếng Việt.
- Chuẩn bị bài chu đáo trước ở nhà.
- Về nhà thường xuyên kể các chuyện đã được nghe hoặc học ở lớp cho ông. bà,
bố, me, anh, chị em nghe (chú ý kể tự nhiên ) cứ như thế khi đến lớp các em sẽ tự
tin hơn trước đông người.
Nếu thực hiện tốt những điều trên tôi tin rằng kể chuyện sẽ được học sinh yêu
thích và hứng thú học giờ này.

3.2. Kiến nghị:
Hàng năm cần tổ chức các cuộc hội thảo về chuyên môn tạo điều kiện cho giáo
viên giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giữa các trường.
Cần phối hợp với Đội TNTP xây dựng và bổ sung sách báo, truyện đọc nữa để
các em tham gia định kì đọc sách báo, ở thư viện.

16


Trên đây là một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 Trường tiểu học Minh Sơn1
học tốt phân môn kể chuyện, nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn kể
chuyện lớp 1 nói riêng và môn Tiếng Việt lớp 1 nói chung. Tuy nhiên để đạt được
kết quả như mong muốn, mỗi giáo viên chúng ta cần thường xuyên học tập, học hỏi
trao đổi cùng đồng nghiệp để tìm ra những cách dạy hay nhất để tạo nên lớp học
luôn sôi nổi, học sinh luôn hứng thú học tập. Kính mong được sự góp ý và giúp đỡ
chân thành của hội đồng khoa học các cấp để sáng kiến của tôi được hoàn thiện
hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Minh Sơn, ngày 18 tháng 4 năm 2018
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh
nghiệm này là do tôi viết. không sao
chép của người khác.
Người thực hiện

Nguyễn Thị Huê

17


NỘI DUNG THAM KHẢO

STT
Tên sách
1
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1(tập 1) – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam,
năm 1014
2
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1(tập 2) – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam,
năm 1010
3
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1(tập 1- 2) – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam,
năm 2002
4
Vở bài tập Đạo đức lớp 1 - Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, năm 2016
5
Sách giáo viên Đạo đức lớp 1 - Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, năm 2016
6
Sách hướng dẫn tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh lớp 1Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, năm 1010

18


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Huê
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Minh Sơn1

TT


Tên đề tài SKKN

Một số biện pháp giúp học sinh

1.

lớp 1 học tốt phân môn Tập đọc
2.
3.
4.

5

Một số biện pháp Rèn chữ viết
cho học sinh lớp 1
Một số biện pháp giúp học sinh
lớp 1 học tốt phân môn Đạo đức
Một số biện pháp giúp học sinh
lớp 1 học tốt phân môn Đạo đức
Một số biện pháp giúp học sinh
lớp 1 học tốt phân môn Kể

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá

xếp loại
(A, B, hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

Cấp huyện

C

2007 - 2008

Cấp huyện

B

2010 - 2011

Cấp huyện

C

2013 - 2014

Cấp huyện

B

2015– 2016


Cấp huyện

A

2017– 2018

chuyện

19



×