Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Kinh nghiệm trong việc sử dụng có hiệu quả một số kỹ thuật dạy học trong phương pháp dạy học theo nhóm môn hóa học 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 25 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT CẨM THỦY

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
KINH NGHIỆM TRONG VIỆC SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ
MỘT SỐ KỸ THUẬT DẠY HỌC TRONG
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO NHÓM MÔN HÓA HỌC 8

Người thực hiện: ĐINH TIẾN CÔNG
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Trương Công Man
SKKN thuộc lĩnh mực: Hóa học

THANH HOÁ NĂM 2019
0


Stt
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10


11
12
13
14

PHẦN
I
1
2
3
4
II
1
2
3
4
III
1
2

MỤC LỤC
NỘI DUNG
Đặt vấn đề
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lí luận
Mô tả thực trạng

Các giải pháp cho vấn đề trên
Kết quả đạt được sau khi áp dụng skkn  Tiểu kết
Kết luận
Kết luận
Đề xuất
Tài liệu tham khảo

TRANG
2-3
3
3
3
4-6
6-8
8-18
18
19
19
20

1


PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1/ Lí do chọn đề tài:
Đã từ lâu nhiều Quốc gia trên thế giới đã xác định: Giáo dục là nền tảng của
xã hội, là cơ sở quan trọng quyết định sự phồn vinh của đất nước. Giáo dục cung
cấp cho người học những hiểu biết cơ bản, cần thiết về khoa học và cuộc sống
trong kho tàng tri thức vô cùng phong phú của nhân loại. Đồng thời giáo dục còn
góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách tốt đẹp cho học sinh.

Vậy để hoạt động giáo dục có hiệu quả và đạt chất lượng cao thì việc đổi mới
nội dung và phương pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh là rất cần thiết.
Ở Việt Nam định hướng đổi mới phương pháp dạy và học được xác định rõ
trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (01/1993) và Nghị quyết Trung ương 2
khóa VIII (12/1996) và đã được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (2005).
Thấy rõ được vai trò của việc đổi mới phương pháp dạy học, trong những
năm gần đây Sở giáo dục và đào tạo Thanh Hóa đã tổ chức nhiều lớp tập huấn
chuyên đề về "Đổi mới phương pháp dạy học" cho giáo viên. Một trong những
phương pháp dạy học tích cực đang được các trường trung học cơ sở (THCS) đánh
giá mang lại hiệu quả cao là phương pháp thảo luận nhóm (hay còn có tên khác là
dạy học hợp tác hoặc dạy học theo nhóm).
Hiện nay, học tập theo nhóm vừa là một yêu cầu vừa là một phương pháp học
được khuyến khích áp dụng rộng rãi. Trong xu thế hội nhập của đất nước, vai trò
của phương pháp học này càng trở nên quan trọng trong việc góp phần nâng cao
hiệu quả học tập của người học và phát triển năng lực giao tiếp, làm việc hợp tác...
Dạy học theo nhóm là một phương pháp giảng dạy trong đó người dạy sẽ tổ
chức người học thành những nhóm nhỏ để thực hiện các hoạt động như: thảo luận,
đóng vai, giải quyết vấn đề,... Mỗi thành viên không chỉ có trách nhiệm thực hiện
các hoạt động của nhóm mà còn phải có trách nhiệm hợp tác, giúp đỡ các thành
viên trong nhóm hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Đây là một phương pháp
giảng dạy khá ưu việt (sẽ được đề cập đầy đủ trong phần cơ sở lí luận), cho phép
rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm cho học sinh hiện đang được áp dụng rộng rãi
cho nhiều môn học và trong nhiều trường, không chỉ ở cấp THCS mà còn được áp
dụng ở nhiều cấp học khác...
Thế nhưng trong thưc tế giảng dạy khi áp dụng phương pháp này cũng gặp
không ít những hạn chế đó là:
- Trong mỗi nhóm còn có một số học sinh có tâm lí ỷ lại vào những người
giỏi hơn, vì nghĩ họ sẽ giúp mình hoàn thành công việc được giao mà không cần
tham gia hoạt động.

- Có thể đi lệch hướng thảo luận do tác động của một vài cá nhân
- Có một số HS khá, giỏi quyết định quá trình, kết quả thảo luận nhóm nên
chưa đề cao sự tương tác bình đẳng và tầm quan trọng của từng thành viên trong
nhóm.
2


- Nếu lấy kết quả thảo luận chung của nhóm làm kết quả học tập cho từng cá
nhân thì chưa công bằng và chưa đánh giá đúng thực chất được sự nỗ lực của từng
cá nhân trong nhóm.
- Sự áp dụng cứng nhắc và quá thường xuyên, thiếu sáng tạo của GV sẽ gây
nhàm chán và giảm hiệu quả trong hoạt động học tập của các em.
- Điều hành không tốt dễ dẫn đến mất trật tự trong học tập, mất thời gian
không cần thiết
Vậy làm thế nào để vẫn áp dung phương pháp hoạt động nhóm nhưng phải
khắc phục được cơ bản những hạn chế nêu trên. Suy nghĩ như vậy tôi đã có ý tưởng
sử dụng một số kỹ thuật day học (tôi được tiếp thu trên “trường học kết nối” năm
2018 theo yêu cầu và hướng dẫn của Phòng giáo dục Cẩm Thủy) trong phương
pháp dạy học theo nhóm. Từ ý tưởng đó tôi tiến hành nghiên cứu và áp dụng thành
công đề tài "Kinh nghiệm trong việc sử dụng có hiệu quả một số Kỹ thuật dạy
học trong Phương pháp dạy học theo nhóm môn Hóa học 8" Xin được chia sẻ
với các đồng nghiệp. Với mong muốn góp một phần nhỏ công sức của mình vào
việc nâng cao chất lượng giáo dục... rất mong được sự chia sẻ và góp ý của đồng
nghiệp.
2/ Mục đích nghiên cứu:
Tìm ra giải pháp tối ưu để khắc phục những hạn chế của phương pháp dạy
học theo nhóm thông thường
3/ Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu hiệu quả của việc sử dụng một số Kỹ thuật dạy học trong
Phương pháp day học theo nhóm môn Hóa học 8, nhằm khắc phục những hạn chế

vốn có của phương pháp dạy học theo nhóm theo kiểu truyêng thống.
4/ Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu tài liệu để hiểu rõ vấn đề về mặt lý luận
Điều tra thực tế thông qua các bài kiểm tra môn hóa học 8
Thống kê và sử lí số liều để rút ra các kế luận cho vấn đề đặt ra

3


PHẦN II: NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI.
1.1. Phương pháp dạy học
Phương pháp dạy học theo quan niệm hiện nay là cách thức hướng dẫn và
chỉ đạo của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và hoạt động thực hành
của học sinh, dẫn tới việc học sinh lĩnh hội vững chắc nội dung học vấn, hình thành
thế giới quan và phát triển năng lực nhận thức. Theo đó vai trò của học sinh trong
quá trình dạy học là quá trình chủ động. Như vậy việc dạy học theo những phương
pháp dạy học tích cực là vấn đề thật cần thiết.
Phương pháp dạy học tích cực là một hệ thống những phương pháp sau:
Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề; Phương pháp hoạt động nhóm (hay Phương
pháp dạy học hợp tác); Phương pháp kích thích tư duy; Phương pháp thí nghiệm
nghiên cứu; Phương pháp giao tiếp; Phương pháp phỏng vấn hay Phương pháp vấn
đáp; Phương pháp trực quan; Ngoài ra còn có một số phương pháp hiện đại khác...
Trong lí luận về phương pháp day học thì không có phương pháp nào là tối ưu, mỗi
phương pháp có ưu và nhược điểm riêng và phù hợp với từng kiểu bài khác nhau...
Nhưng trong thực tế day học tôi thường hay sử dụng nhất là Phương pháp hoạt
động nhóm.
1.2. Phương pháp dạy học theo nhóm
1.2.1. Khái niệm phương pháp dạy học theo nhóm
Theo tài liệu dạy và học tích cực (trang 92) thì dạy và học hợp tác là: Giáo

viên tổ chức cho học sinh hoạt động trong những nhóm nhỏ để hoc sinh cùng thực
hiện một nhiệm vụ nhất định. Trong nhóm, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của nhóm
trưởng học sinh kết hợp giữa làm việc cá nhân, làm việc theo cặp, chia sẽ kinh
nghiệm và hợp tác cùng nhau để giải quyết nhiệm vụ được giao...
Theo đó khi học theo nhóm mỗi thành viên trong nhóm không chỉ có trách
nhiệm tự học tập, mà còn có trách nhiệm giúp đỡ các thành viên trong nhóm để
cùng hoàn thành mục đích học tập chung của cả nhóm.
1.2. 2. Đặc điểm dạy học theo nhóm
Dạy học theo nhóm có một số đặc điểm sau
- Hoạt động dạy học vẫn được tiến hành trên quy mô cả lớp, như mô hình
dạy học truyền thống.
- Việc phân chia nhóm học sinh vừa tuân theo đặc điểm tâm lý lứa tuổi, nhận
thức của học sinh, vừa phụ thuộc vào nhiệm vụ học tập học sinh cần phải giải
quyết.
- Trong mỗi nhóm phải có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng thành
viên, phải cùng hợp tác, trao đổi giải quyết nhiệm vụ chung của nhóm.
- Học sinh phải trực tiếp tham gia các hoạt động, giải quyết các nhiệm vụ học
tập được đặt ra cho mỗi nhóm.

4


- Giáo viên là người thiết kế các nhiệm vụ học tập và đưa ra các hoạt động cụ
thể cho từng nhóm. Giáo viên chỉ đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn chứ không làm
thay.
- Học sinh là chủ thể tích cực chủ động sáng tạo của hoạt động học tập. Dạy
học theo nhóm có sự tương tác trực tiếp giữa học sinh với nhau, cùng nhau thảo
luận và cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ học tập. Mỗi cá nhân phải có ý thức tự
hoàn thành nhiệm vụ của mình. Thành công của cá nhân là thành công chung của
cả nhóm.

- Giáo viên là người thức tỉnh tổ chức và đạo diễn. Trong giờ học theo
nhóm, giáo viên dẫn dắt học sinh khám phá, lĩnh hội kiến thức qua từng bước. Các
nhóm học sinh tự tiến hành các hoạt động, qua đó có thể rút ra các tri thức, kiến
thức cần thiết cho mình. Giáo viên là người tổ chức, điều khiển học sinh tự tiến
hành các hoạt động nghiên cứu, tìm tòi kiến thức
1.2. 3. Ưu và nhươc điểm của dạy học theo nhóm
a. Ưu điểm :
- Tăng cường sự tham gia tích cực của học sinh. Học sinh được chủ động
tham gia, được bày tỏ ý kiến quan điểm của mình và được tôn trọng....
- Nâng cao kết quả học tập
- Ngoài ra còn phát triển năng lực lãnh đạo, tổ chức, năng lực hợp tác của
học sinh, tăng cường đánh giá đồng đẳng và tự đánh giá trong nhóm.
b. Nhược điểm:
- Có một số thành viên ỷ lại không làm việc vì nghĩ có những người giỏi hơn
sẽ giúp mình hoàn thành công việc được giao mà không tham gia hoạt động.
- Việc thảo luận có thể đi lệch hướng do tác động của một vài cá nhân (hiện
tượng chi phối, tách nhóm).
- Có một số HS khá, giỏi quyết định kết quả thảo luận nhóm nên chưa đề cao
sự tương tác bình đẳng và tầm quan trọng của từng thành viên trong nhóm.
- Nếu lấy kết quả thảo luận chung của nhóm làm kết quả học tập cho từng cá
nhân thì chưa công bằng và chưa đánh giá đúng thực chất được sự nỗ lực của từng
cá nhân trong nhóm.
- Sự áp dụng cứng nhắc và quá thường xuyên, thiếu sáng tạo của giáo viên sẽ
gây nhàm chán và giảm hiệu quả trong hoạt động học tập của các em.
Như đã nói ở trên phương pháp này tuy còn một số nhược điểm nhưng vẫn là
phương pháp mà được tôi và rất nhiều đồng nghiệp khác sử dụng thường xuyên
nhất trong các phương pháp dạy học tích cực. Để khắc phục căn bản những hạn chế
nêu trên, tôi đã sử dụng kết hợp phương pháp hoạt động nhóm với một số kỹ thuật
dạy học trong quá trình tổ chức dạy học. Kết quả: đã có những chuyển biến tích cực
đến bất ngờ trong nhận thức và tư duy của học sinh (sẽ được chứng minh ở phần

thực trạng và kết quả).
Vậy kỹ thuật dạy học là gì? Những kỹ thuật dạy học nào có thể kết hợp
thường xuyên và có hiệu quả nhất với Phương pháp dạy học theo nhóm?
5


1.3. Kĩ thuật dạy học
Kỹ thuật dạy học là biện pháp, cách thức tiến hành các hoạt động dạy học
dựa vào các phương tiện thiết bị nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả giảng dạy
hay có thể nói cách khác đó là cách thức hoạt động dạy học, tổ chức hoạt động giáo
dục để bảo đảm hiệu quả, chất lượng giảng dạy.
Kỹ thuật dạy học tích cực là những kỹ thuật dạy học có ý nghĩa đặc biệt
trong việc phát huy sự tham gia tích cực của học sinh vào quá trình dạy học, kích
thích tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc của học sinh.
Có nhiều kỹ thuật dạy học khác nhau mà giáo viên có thẻ áp dụng trong quá
trình dạy học. Có thể kể tới 19 kỹ thuật dạy học tiêu biểu, có ưu thế cao trong việc
phát huy tính tích cực của học sinh gồm: Kĩ thuật động não; Kĩ thuật chia nhóm; Kĩ
thuật giao nhiệm vụ; Kĩ thuật đặt câu hỏi; Kĩ thuật “khăn trải bàn”; Kĩ thuật “phòng
tranh”; Kĩ thuật “công đoạn”; Kĩ thuật các “mảnh ghép”; Kĩ thuật “trình bày một
phút”; Kĩ thuật “chúng em biết 3”; Kĩ thuật “hỏi và trả lời”; Kĩ thuật “hỏi chuyên
gia”; Kĩ thuật “bản đồ tư duy”; Kĩ thuật “hoàn tất một nhiệm vụ” ; Kĩ thuật “viết
tích cực”; Kĩ thuật “đọc hợp tác”; Kĩ thuật “nói cách khác”; Kĩ thuật “phân tích
phim”; Kĩ thuật “tóm tắt nội dung tài liệu theo nhóm”.....
Trong phạm vi đề tài này, Tôi chỉ đề cập đến ba kỹ thuật dạy học tích cực mà
tôi thường xuyên sử dụng và có hiệu quả nhất trong dạy học hợp tác môn Hóa hoc
8, đó là: Kỹ thật mảnh ghép, kỹ thuật khăn phủ bàn và kỹ thuật bản đồ tư duy.
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
2.1 Thuận lợi:
Trong những năm gần đây cùng với sự quan tâm phát triền kinh tế của đất
nước thì giáo dục cũng đang được sự quan tâm lớn của chính phủ và toàn xã hội.

Vậy để nâng cao chất lượng giáo dục, thì việc đổi mới về nội dung, phương pháp
dạy học, trong đó đổi mới phương pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng
tạo của học sinh là rất cần thiết. điều này đã được xác định rõ trong Nghị quyết
Trung ương 4 khóa VII (01/1993) và Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII
(12/1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (2005)
- Các giáo viên được Sở GD & ĐT và Phòng GD & ĐT cho đi tập huấn về
đổi mới phương pháp và kỹ thuật dạy học. Do vây nhiều giáo viên đã tích cực vận
dụng phương pháp học tập theo nhóm cho học sinh trong quá trình giảng dạy tạo ra
sự đồng bộ trong dạy học của nhiều môn học.
- Được sự quan tâm tạo điều kiện tối đa của Ban giám hiêu và địa phương:
đã mua 2 ti vi có màn hình cỡ lớn, thay thế cho 2 máy chiếu cũ và mờ. Đây là
phương tiện dạy học rất cần thiết cho việc tổ chức dạy học tích cực, nhất là hoạt
động nhóm.
- Phần lớn học sinh đã nhận thấy được vai trò và ý nghĩa của phương pháp
học tập theo nhóm đối với việc học tập của học sinh.
2.2. Khó khăn
6


- Do tay nghề của giáo viên không đồng đều nên hiệu quả của hoạt động
nhóm đôi lúc còn chưa cao. Học sinh còn chú trọng tạo ra sản phẩm để nộp thầy cô
mà ít chú trọng đến quá trình hợp tác nhóm để tạo ra sản phẩm nhóm đúng nghĩa.
- Nhiều học sinh còn thiếu và yếu về các kỹ năng làm việc nhóm, đặc biệt là
kỹ năng chia sẻ trách nhiệm, kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá hoạt động nhóm...
- Ý thức tham gia, đóng góp ý kiến của một bộ phận học sinh còn chưa cao,
còn mang tâm lý trông chờ, ỷ lại...
- Đa số nhóm trưởng còn thiếu kỹ năng trong điều hành hoạt động của nhóm.
- Dạy học tích cực cần nhiều thời gian chuẩn bị và còn tốn kém, trong khi
lương giáo viên còn thấp và phải tham gia rất nhiều hoạt động giáo dục khác, số
loại hồ sơ giáo viên ngày càng nhiều,...

Bản thân xác định còn những khó khăn trên là do những nguyên nhân
chủ yếu sau:
* Nguyên nhân khách quan:
- Một số thầy cô giáo cũng chưa thường xuyên trao đổi, hướng dẫn, cung
cấp cho học sinh những kỹ năng và phương pháp làm việc nhóm cho học sinh. Học
sinh chỉ biết nhận nhiệm vụ là hoàn thành bài tập bằng cách làm việc nhóm mà
chưa biết phải làm việc nhóm như thế nào để hoàn thành bài tập một cách tốt nhất.
- .Thời gian cho mỗi tiết học là 45 phút nhưng thời gian để hoat động nhóm
lại dài, gây khó khăn cho giáo viên trong tổ chức và chọn nội dung hoạt động nhóm
một cách triệt để, đúng tiến độ và hiệu quả.
- Ngành giáo dục đang trong quá trình đổi mới nên còn nhiều bất cập...
- Đồ dùng dạy học chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp
- Việc xây dựng một tiết dạy của giáo viên bây giờ phải dựa trên nhiều căn
cứ: PPCT, Chuẩn kiến thức kỹ năng, định hướng phát triển năng lực, hướng dẫn nội
dung giảm tải, sách giáo khoa, mẫu giáo án của Phòng giáo dục Cẩm Thủy...
* Nguyên nhân chủ quan:
- Một số học sinh chưa hình thành cho mình ý thức tích cực và tự giác trong
học tập, làm việc nhóm, chưa chịu khó tìm hiểu để có thể tự trang bị cho mình
những kĩ năng và phương pháp học nhóm có hiệu quả. Từ đó dẫn đến học sinh
thiếu và yếu về phương pháp, kỹ năng học nhóm như: Phương pháp tiến hành hoạt
động nhóm của các nhóm chưa khoa học, chưa hợp lý, thiếu mục tiêu cụ thể, thiếu
kế hoạch, thiếu nội quy- nguyên tắc nhóm, phân công nhiệm vụ chưa phù hợp v.v...
- Nhiều nhóm chưa lắng nghe, chưa tạo cơ hội cho các thành viên được thể
hiện, khẳng định mình, được thảo luận và phát biểu ý kiến. Từ đó dẫn đến tình
trạng một số thành viên chán nản, buông xuôi, phó mặc chỉ tham gia một cách
chiếu lệ, đối phó. Vì vậy chưa thực sự phát huy hết năng lực của mình.
- Nhóm trưởng chưa thực sự phát huy được vai trò của mình, chưa có năng
lực và kỹ năng trong việc điều hành nhóm.
- Năm 2018 Phòng giáo dục Cẩm Thủy yêu cầu các nhà trường cho giáo viên
học chuyên đề trên trường học kết nối, nội dung giới thiệu một số phương pháp và

7


kỹ thuật dạy học tích cực (gồm 4 bài). Tuy nhiên việc áp dụng các kỹ thuật dạy học
này để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh còn hạn chế. Giáo viên chưa
thực sự linh hoạt trong việc vận dụng và phối hợp các phương pháp và kỹ thuật dạy
học với nhau để phát huy hết điểm mạnh và hạn chế điểm yếu của mỗi phương
pháp hay kỹ thuật dạy học cụ thể.
2.3. Kết quả khảo sát thực tế:
Trong những năm trước đây tôi thường chỉ áp dụng phương pháp dạy học
nhóm theo kiểu truyền thống, mà chưa có sự kết hợp với kỹ thuật dạy học. Dẫn đến
trong các giờ học thường chỉ có học sinh khá - giỏi tham gia học tập tích cực, số
học sinh yếu ít có cơ hội tham gia hoạt động. Chính vì thế nên việc học tập thường
ít hứng thú, nội dung đơn điệu, việc quan tâm đến phát triển năng lực cá nhân còn
hạn chế.
Kết quả khảo sát thực tế về mức độ tham gia hoạt động nhóm của học
sinh khối 8 môn Hóa học đầu năm hoc 2018 - 2019 trường THCS Trương Công
Man
Sĩ số
Tích cực, chủ động Chỉ tham gia đối phó
Gần như không tham
tham gia
vì sợ GV nhắc nhở
gia
59
18
29
12
Qua kết quả kiểm tra trên cho thấy: Số học sinh tích cực, chủ động tham gia
hoat động nhóm còn thất, chủ yếu là đố phó và ngồi vào nhóm cho có ngồi, không

tham gia vào hoạt động. Có nhiều nguyên nhân cho số liệu trên nhưng nguyên nhân
chủ yếu vẫn là do ý thức của học sính và phương pháp giáo dục của giáo viên còn
nhàm chán, chưa lôi cuốn được học sinh.
Đồng thời kết quả khảo sát đầu năm môn Hóa học khối 8 cũng chưa cao, số
học sinh có học lực thuộc loại trung bình và yếu chiếm tỉ lệ khá cao, số học sinh có
học lực khá, giỏi còn chiếm tỉ lệ thấp. Cụ thể như sau:
Tổng số học sinh
Loại giỏi
Loại khá
Loại TB
Loại yếu
Số HS
59
4
13
33
9
Tỉ lệ (%)
100%
6.8%
22.0%
55.9%
15.3%
3. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Trong quá trình giảng dạy Hóa 8 bản thân tôi đã tích cực sử dụng Phương
pháp hoạt động nhóm có sử dụng các kỹ thuật dạy học tích cực nhằm nâng cao chất
lượng giảng dạy. Các kỹ thuật dạy học chủ yếu được tôi áp dụng trong tổ chức dạy
học nhóm là: Kỹ thuật mảnh ghép, kỹ thuật khăn phủ bàn và kỹ thuật sử dụng sơ đồ
tư duy.
Từ thực tế dạy học tôi nhận thấy gần như tất cả các bài trong chương trình

hóa học 8 đều có thể áp dung cách này để dạy. Cụ thể là:
3.1. Sử dụng linh hoạt kỹ thuật mảnh ghép trong phương dạy học nhóm:
* Muốn làm tốt việc này, tôi xác định trước hêt phải hiểu rõ kỹ thuật mảnh
ghép là gì và cách tiến hành ra sao?
8


Kỹ thuật mảnh ghép là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập hợp tác kết hợp
giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm mục tiêu: Giải quyết một
nhiệm vụ phức hợp; Kích thích sự tham gia tích cực của học sinh trong hoạt động
nhóm; Nâng cao vai trò và tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân trong quá trình
hợp tác (Không chỉ nhận thức hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 1 mà còn phải truyền
đạt kết quả và hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 2)
Kỹ thuật mảnh ghép được tiến hành qua 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: “Nhóm chuyên sâu”: Lớp học được chia thành các nhóm, mỗi
nhóm được giao nhiệm vụ tìm hiểu sâu một vấn đề. Sau một thời gian nhất định
thảo luận, mỗi thành viên trong nhóm đều nắm vững và trình bày được kết quả của
nhóm.
Giai đoạn 2: “Nhóm mảnh ghép”: Sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở giai đoạn
1, mỗi học sinh ở các nhóm chuyên sâu khác nhau lại tập hợp lại thành nhóm mới
là nhóm mảnh ghép. “Nhóm mảnh ghép” nhận được một nhiệm vụ mới, nhiệm vụ
này mang tính khái quát, tổng hợp toàn bộ nội dung đã được tìm hiểu từ các “nhóm
chuyên sâu”
* Cách vận dụng kỹ thuật “mảnh ghép” trong dạy học hợp tác khi ở bộ
môn Hóa học 8:
Trong điều kiện giảng dạy trên lớp, trong thời gian một tiết học, kỹ thuật
mảnh ghép thích hợp nhất là vào những phần mà nội thảo luận bao gồm 2, 3 hoặc 4
nội dung chính. Cách tiến hành như sau:
Đối với bài có 4 nội dung thảo luận:
Giai đoạn 1: giáo viên chia lớp thành 8 đến 10 nhóm (thường là 8 nhóm,

4HS/ nhóm) 2 bàn một nhóm, mỗi học sinh trong nhóm được mã hóa bởi các số
1,2,3,4. GV chọn các nhóm 1,2,3,4 làm một nhóm lớn I, mỗi nhóm nhỏ thảo luận 1
một dung. Sau thời gian 2 đến 3 phút các thành viên trong nhóm đã nắm vững nội
dung thảo luận của nhóm mình.
Sang giai đoạn 2: giáo viên yêu cầu học sinh mang các số 1 ở mỗi nhóm
ghép lại thành nhóm mới (A), các số 2 ghép lại thành nhóm mới (B), các số 3 ghép
lại thành nhóm mới (C), các số 4 ghép lại thành nhóm mới (D). Như vậy ở vòng 2
này mỗi học sinh là người truyền đạt nội dung đã nắm được "trao đổi" với các
thành viên khác, sau đó điền kết quả thảo luận vào bảng phụ để trình bày trước lớp.
Làm tương tự với các nhóm còn lại (nhóm 5,6,7,8)
Đối với bài học có 3 nôi dung: Lớp có 3 tổ, mỗi tổ chia làm 3 nhóm (2 bàn
= 4HS / nhóm) mỗi học sinh được mã hóa bằng các số 1,2,3,4.
Giai đoạn 1: GV yêu cầu: Các nhóm 1 trong mỗi tổ thảo luận một nội dung;
Các nhóm 2 trong mỗi tổ thảo luận một nội dung; Các nhóm 3 trong mỗi tổ thảo
luận một nội dung.
Giai đoạn 2: Giáo viên yêu cầu: Trong mỗi tổ mỗi HS mang các số 1 trong
các nhóm nhỏ ghép lại thành nhóm mới (A) (ngồi ở vị trí của nhóm 1 cũ), các số 2
ghép lại thành nhóm mới (B) (ngồi ở vị trí của nhóm 2 cũ), các số 3 ghép lại thành
9


nhóm (C) (ngồi ở vị trí của nhóm 3 cũ), các só 4 giữ nguyên tại chỗ và ghép vào
nhóm mới tương ứng. Sau khi ghép xong nhóm mới sẽ thảo luận và hoàn thành cả
3 câu hỏi vào bảng nhóm và trình bày kết quả (Chỉ yêu cầu 1 hoặc 2 nhóm trình
bày các nhóm khác chú ý và nhận xét, bổ sung)
Đối với bài có 2 nội dung thì: Giai đoạn 1: GV cho các nhóm lẻ thảo luận
một nội dung, nhóm chẵn một nội dung; Giai đoạn 2: GV cho ghép 2 HS của nhóm
chẵn với 2 HS cua nhóm lẻ để tạo thanh nhóm mới rồi thảo luận tất cả các câu hỏi.
* Ví dụ cụ thể: đối với kiểu bài có hai nội dung câu hỏi
Tiết 18 – Bài 13:


PHẢN ỨNG HÓA HỌC (Lớp dạy 8A - sĩ số 30)

Hoạt động 2: Tìm hiểu diễn biến của phản ứng hóa học
1. Mục tiêu:
a. Kiến thức: HS nắm được diễn biến của phản ứng hoá học.
b. Kĩ năng: Tiếp tục rèn kĩ năng hoạt động nhóm theo kỹ thuật “mảnh ghép”
c. Thái độ: HS có ý thức nghiêm túc và yêu thích môn học.
d. Định hướng phát triển năng lưc: Tiếp tục hình thành cho học sinh các năng lực
giao tiếp, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tổng hợp kiến thức....
2. Thời gian: 14 phút
3. Hình thức: Học sinh nắm được kiến thức thông qua hệ thống câu hỏi và thảo
luận nhóm
4. Đặt vấn đề: Phản ứng hóa hoc diễn biến như thế nào? Các em sẽ được tìm
hiểu ngay sau đây.
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
NỘI DUNG
II. Diễn biến của phản ứng
hoá học:
GV: Em có nhận xét gì về lượng chất tham gia và
* Kết luận: “Trong PƯHH
sản phẩm trong quá trình phản ứng?
chỉ có liên kết giữa các
HS: Lượng chất phản ứng giảm dần, lượng chất sản nguyên tử thay đổi làm phân
phẩm tăng dần.
tử này biến đổi thành phân tử
GV yêu cầu HS đọc thông tin mục II và quan sát khác”.
hình 2.5, sau đó hoạt động nhóm theo kỹ thuật
mảnh ghép như sau: Lớp chia làm 8 nhóm (2 bàn =
4HS / nhóm) mỗi học sinh được mã hóa bằng các

số 1,2,3,4.
Giai đoạn 1: GV yêu cầu
Các nhóm lẻ thảo luận nội dung câu hỏi 1.
Các nhóm chẵn thảo luận nội câu hỏi 2.
Câu 1. Trước phản ứng những nguyên tử nào liên
kết với nhau? Sau phản ứng, những nguyên tử nào
liên kết với nhau?
10


Câu 2. Trong qua trình phản ứng, số nguyên tử H
cũng như số nguyên tử O có giữ nguyên không?
Các phân tử trước và sau phản ứng có khác nhau
không?
Câu 3. Từ đó ta rút ra kết luận gì?
--> Thảo luận trong thời gian 2 phút
Giai đoạn 2: Giáo viên yêu cầu
Trong 2 nhóm liền nhau: ví dụ nhóm 1 và
nhóm 2, mỗi nhóm giữ lại 2 thành viên và đổi 2
thành còn lại cho nhau để hình thành 2 nhóm mới là
A và B. làm tương tự với các nhóm còn lại. Sau khi
ghép xong nhóm mới sẽ thảo luận và hoàn thành cả
3 câu hỏi vào bảng nhóm (4 phút) và trình bày kết
quả (Chỉ yêu cầu 1 hoặc 2 nhóm trình bày, các
nhóm khác chú ý và nhận xét, bổ sung) (3phút)
Giáo viên chuẩn kiến thức, phân tích và nhận
xét hoạt động của các nhóm (Có thể cho điểm
nhóm làm tốt nhất) (2phút)
* Tích hợp ứng phó với BĐKH: Trong công
nghiệp, khi sử dụng các PƯHH để sản xuất các

chất cần thiết cho cuộc sống đôi khi tạo ra các sản
phẩm không mong muốn gây hại cho môi trường
như CO2, SO2.... Vì vậy cần giảm thiểu các chất
thải này (1phút)
(thời gian cho các hoạt động chuẩn bị.... 2 phút)
Một số hình ảnh áp dụng kỹ thuật “mảnh ghép” trong giảng dạy Hóa hoc 8

Nhóm chuyên sâu

Nhóm mảnh ghép
11


Học sinh trình bày kết quả
Học sinh trình bày kết quả
* Đánh giá hiệu quả và một số kinh nghiệm của cá nhân khi áp dụng
cách này:
Qua áp dụng kỹ thuật mảnh ghép trong chương trình hóa học 8 có thể thấy
rõ việc sử dụng kỹ thuật này trong dạy học theo nhóm đã tạo ra hoạt động đa dạng,
phong phú, học sinh được tham gia vào các nhiệm vụ khác nhau và các mức độ yêu
cầu khác nhau. Trong kỹ thuật mảnh ghép đòi hỏi học sinh phải tích cực nỗ lực
tham gia và bị cuốn hút vào các hoạt động để hoàn thành vai trò, trách nhiệm của
mỗi cá nhân từ đó khắc phục được những hạn chế của phương pháp dạy học nhóm
truyền thống (như đã nêu). Thông qua hoạt động này hình thành ở học sinh tính chủ
động, năng động, linh hoạt, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm cao trong học tập.
Đồng thời phát triển ở học sinh các năng lực giao tiếp, trình bày, hợp tác, giải quyết
vấn đề…
Tuy nhiên để hoạt động nhóm có hiệu quả giáo viên cần hình thành ở học
sinh thói quen học tập hợp tác và những kỹ năng xã hội, tính chủ động, tinh thần
trách nhiệm trong học tập. Muốn vậy giáo viên cần phải kiên trì vì lúc mới làm các

em chưa quen nên rất dễ thất bại nhưng sau vài lầm bỡ ngỡ các em sẽ quen và hoạt
động rất có hiêu quả. Mặt khác giáo viên cũng phải lựa chọn nội dung, chủ đề phù
hợp. Từ đó xác định một nhiệm vụ phức hợp để giải quyết ở vòng 2 dựa trên kết
quả các nhiệm vụ khác nhau đã được thực hiện ở vòng 1. Đồng thời giáo viên cần
theo dõi quá trình hoạt động của các nhóm để đảm bảo tất cả mọi học sinh ở các
nhóm đều hiểu nhiệm vụ và hoàn thành nhiệm vụ được giao
3.2. Sử dụng kỹ thuật “khăn phủ bàn” trong phương dạy học nhóm:
* Cũng với mục tiêu khắc phục những hạnh chế của phương pháp hoạt động
nhóm theo kiểu truyền thống. Tôi dạy học hợp tác theo kỹ thuật "khăn phủ bàn"
Kỹ thuật khăn phủ bàn là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập mang tính hợp
tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và nhóm nhằm: Kích thích, thúc đẩy sự tham
gia tích cực; Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân học sinh; Phát triển
mô hình có sự tương tác giữa học sinh với học sinh
Kỹ thuật này được tiến hành như sau:
12


- Chia học sinh thành các nhóm và phát cho mỗi nhóm một tờ giấy A0
- Trên giấy A0 chia thành các phần gồm phần chính giữa và các phần xung
quanh. Phần xung quanh được chia theo số thành viên của nhóm. Mỗi người ngồi
vào vị trí tương ứng với phần xung quanh.
- Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, tập trung suy nghĩ trả
lời câu hỏi theo cách hiểu riêng của mỗi cá nhân và viết vào phần giấy của mình
trên tờ A0.
- Trên cơ sở ý kiến của mỗi cá nhân học sinh thảo luận nhóm, thống nhất ý
kiến và viết vào phần chính giữa của tờ giấy A0 “khăn phủ bàn”
* Ví dụ cụ thể vận dụng kỹ thuật “khăn phủ bàn” trong tổ chức dạy
học hợp tác vào chương trình hóa học 8
Trong chương trình hóa học 8 có thể sử dụng kĩ thuật khăn phủ bàn ở hầu
hết các bài. Ở đây tôi trình bày một ví vụ cụ thể là:

Tiết 42 – Bài 28 :
KHÔNG KHÍ – SỰ CHÁY (T1)
Lớp dạy : 8B, Sĩ số 29 (vắng: 1)
Hoạt động 2:
Ngoài khí oxi và khí nitơ, không khí còn chứa những chất nào khác?
1. Mục tiêu:
a. Kiến thức: HS biết được Ngoài khí oxi và khí nitơ, không khí còn chứa 1% các
khí khác.
b. Kĩ năng: Tiếp tục rèn kĩ năng hoạt động nhóm thoe kỹ thuật khăn phủ bàn
c. Thái độ: HS có ý thức nghiêm túc trong khi học bài.
d. Định hướng phát triển năng lưc: Tiếp tục hình thành cho học sinh các năng lực
giao tiếp, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tổng hợp kiến thức....
2. Thời gian: 10 phút
3. Hình thức: Học sinh nắm được kiến thức thông qua hệ thống câu hỏi thảo luận.
4. Đặt vấn đề: Ngoài khí oxi và khí nitơ, không khí còn chứa những chất nào khác?
Các em sẽ tìm hiều trong phần 2 của bài.
HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY VÀ TRÒ
NỘI DUNG
2. Ngoài khí oxi và khí nitơ,
không khí còn chứa những
chất nào khác?
- GV: Chia lớp thành 7 nhóm (4HS/nhóm) và * Kết luận:
phát cho mỗi nhóm một 1/2 tờ giấy A 0 và yêu Trong không khí ngoài khí oxi và
cầu các em hoạt động nhóm theo kỹ thuật "khăn khí nitơ; còn có hơi nước, khí
phủ bàn" để hoàn thành phiếu học tập sau:
cacbonic, một số khí hiếm như
PHIẾU HỌC TẬP
Ne, Ar, bụi khói...cá chất này
Hãy trả lời các câu hỏi sau:
chiếm khoảng 1% thể tích không

1. Hãy tìm những dẫn chứng nêu rõ trong
khí.
không khí có chứa một ít hơi nước?
13


2. Khi quan sát lớp nước trên mặt hố vôi tôi,
thấy có màng trắng mỏng do khí cacbonic CO2
đã tác dụng với nước vôi. Khí CO2 ở đâu ra?
3. Các khí khác, ngoài nitơ và oxi, chiếm tỉ lệ
thể tích là bao nhiêu trong không khí?
- HS bàn trên quay xuống bàn dưới và thực hiện
theo yêu cầu của giáo viên:
HS 1

HS 2

Kết quả sau khi thảo
luận và thống nhất

HS3

HS 4
- HS hoạt động cá nhân để hoàn thành các câu
hỏi vào phần giấy của mình trong thời gian
3phút. Sau đó thảo luận nhóm, thống nhất kết
quả và trình bày vào phần giấy ở giữa (3phút)
- GV: thu kết quả và yêu cầu 2 nhóm lên trình
bày kết quả của nhóm mình.
- HS nạp bài, đại diện 2 nhóm trình bày --> các

nhóm khác chú ý và nhận xét. (2phút)
- GV: Chuẩn kiến thức (2phút)
* Một số hình ảnh hoạt động của học sinh:

Học sinh thảo luận nhóm

Đại diện các nhóm trình bày trước lớp
14


* Đánh giá hiệu quả và một số kinh nghiệm của cá nhân khi áp dụng
cách này:
Kỹ thuật “khăn phủ bàn” là một kỹ thuật đơn giản, dễ thực hiện, có thể tổ
chức trong hầu hết các bài trong chương trinh hóa hoc 8. Trong kỹ thuật “khăn phủ
bàn” đòi hỏi tất cả các thành viên phải làm việc cá nhân, suy nghĩ, viết ra ý kiến
của mình trước khi thảo luận nhóm. Như vậy có sự kết hợp giữa hoạt động cá nhân
và hoạt động nhóm. Từ đó các cuộc thảo luận thường có sự tham gia của tất cả các
thành viên và các thành viên có cơ hội chia sẻ ý kiến, kinh nghiệm của mình, tự
đánh giá và điều chỉnh nhận thức của mình một cách tích cực. Nhờ vậy mà khắc
phục được những hạn chế của dạy học theo nhóm theo kiểu truyền thống (Có một
số thành viên ỷ lại vào những người giỏi hơn sẽ giúp họ hoàn thành công việc được
giao mà không tham gia hoạt động; Có thể đi lệch hướng thảo luận do tác động của
một vài cá nhân; Có một số HS khá, giỏi quyết định quá trình, kết quả thảo luận
nhóm nên chưa đề cao sự tương tác bình đẳng và tầm quan trọng của từng thành
viên trong nhóm). Từ đó nâng cao hiệu quả học tập và phát triển các kỹ năng sống
cho học sinh.
--> Từ thực tế giảng dạy tôi thấy: nếu sau khi thảo luận nhóm, thống nhất ý
kiến và viết vào phần chính giữa của tờ bảng nhóm “khăn phủ bàn” sẽ rất mất thời
gian cho việc viết lại nội dung vào chính giữa, như vậy sẽ ảnh hưởng đến việc tổi
chức các hoạt động khác. Mặt khác sau khi đã thảo luận xong chỉ có một em viết

vào giữa còn các em còn lại trong nhóm không biết làm gì (đôi khi còn nói chuyện
riêng gây mất trật tự). Do vậy để hạn chế các vấn đề này tôi thường yêu cầu nhóm
chọn ra một kết quả đúng nhất của một các nhân trong nhóm theo kết quả đã thảo
luận làm đáp án và chỉ ghi những nội dung bổ sung và điều chinh ở phần giữa bảng
nhóm.
Ngoài ra nếu bàn hẹp không đủ đề cho các thành viên trong nhóm cùng viết
ý kiến cá nhân. Có thể khắc phục hạn chế này bằng cách phát cho học sinh những
mảnh giấy nhỏ để học sinh ghi ý kiến cá nhân, sau đó đính vào phần xung quanh
“khăn phủ bàn”.
3.3. Sử dụng sơ đồ tư duy trong phương pháp dạy học hợp tác:
* Hiểu biết chung về sơ đồ tư duy:
Sơ đồ tư duy là một hình thức ghi chép có thể sử dụng màu sắc và hình ảnh
để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Nhờ sự kết nối giữa các nhánh, các ý tưởng
được liên kết với nhau khiến sơ đồ tư duy có thể bao quát được các ý tưởng trên
phạm vi sâu rộng. Tính hấp dẫn của hình ảnh gây ra những kích thích mạnh trên hệ
thống rìa của não giúp cho việc ghi nhớ được lâu bền.
Sơ đồ tư duy sử dụng trong dạy học mang lại hiệu quả cao, phát triển tư duy
lôgic, khả năng phân tích tổng hợp, học sinh hiểu bài, nhớ lâu, thay cho ghi nhớ
dưới dạng thuộc lòng, học “vẹt”. Đồng thời sơ đồ tư duy phù hợp với tâm sinh lí
học sinh, đơn giản, dễ hiểu thay cho việc ghi nhớ lí thuyết bằng ghi nhớ dưới dạng
sơ đồ hóa kiến thức.
15


Cách tiến hành
- Ở vị trí trung tâm sơ đồ là một hình ảnh hay một từ khóa thể hiện một ý
tưởng hay chủ đề, nội dung chính.
- Từ chủ đề lớn, tìm ra các chủ đề nhỏ liên quan.
- Từ mỗi chủ đề nhỏ lại tìm ra những yếu tố, nội dung liên quan.
- Sự phân nhánh cứ tiếp tục và các yếu tố nội dung luôn được kết nối với

nhau. Sự liên kết này sẽ tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả về chủ đề lớn một
cách đầy đủ và rõ ràng.
* Dạy học hợp tác có sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy Hóa học 8
Sơ đồ tư duy có thể sử dụng ở tất cả các bài học với các mức độ và nội dung
khác nhau. Về mức độ sử dụng, có thể là một phần hoặc toàn phần. Về hoạt động
sử dụng, có thể sử dụng trong phần kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới, hướng dẫn
học sinh tìm hiểu bài, luyện tập củng cố và cả hoạt động chuẩn bị bài ở nhà của học
sinh, trong kiểm tra thường xuyên định kì và các bài luyện tập…
Trong quá trình giảng dạy hóa 8, bản thân tôi thường sử dụng sơ đồ tư duy
trong phần củng cố bài và các bài luyện tập để hệ thống những nôi dung cơ bản cho
học sinh. Ngay khi bắt đầu giảng dạy bài đầu tiên của chương trình, tôi đã hướng
dẫn học sinh cách vẽ sơ đồ tư duy. Sau đó yêu cầu mỗi học sinh phải có 1 quyển vở
riêng để vẽ sơ đồ tư duy sau mỗi bài học đồng thời trả lời câu hỏi cuối bài học SGK
(coi như vở bài tập). Mỗi khi kiểm tra miệng, học sinh sẽ phải mang vở này cho
giáo viên kiểm tra. Cuối kỳ giáo viên sẽ thu vở này lại để chấm lấy điểm kiểm tra
thường xuyên.
* Ví dụ cụ thể:
Tiết 33 – Bài 23:
BÀI LUYỆN TẬP 4
Lớp dạy : 8A, Sĩ số 30, vắng 0.
Hoạt động 1: Kiến thức cần nhớ
1. Mục tiêu:
a. Kiến thức: Học sinh hệ thống lại kiến thức đã học trong chương 3 và đưa kiến
thức đó vào hệ thống kiến thức của cá nhân.
b. Kĩ năng: Tiếp tục rèn kĩ năng hoạt động nhóm.
c. Thái độ: HS có ý thức nghiêm túc trong khi học bài.
d. Định hướng phát triển năng lưc: Tiếp tục hình thành cho học sinh các năng lực
giao tiếp, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tổng hợp kiến thức....
2. Thời gian: 10 phút
3. Hình thức: Học sinh nắm được kiến thức thông qua việc hoàn thành 1 sơ đồ tư

duy – làm việc theo nhóm.
4. Đặt vấn đề: Những kiến thức nào cần nhớ trong chương 3? Các em sẽ tiềm
hiểu trong phần I....
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
- GV: Chia lớp thành 8 nhóm I/ Kiến thức cần nhớ
16


(4HS/nhóm) và phát cho mỗi nhóm một
1/2 tờ giấy A0 và yêu cầu các em hoạt Kết luận: (sơ đồ tư duy)
động nhóm để hoàn thành sơ đồ tư duy
với từ khóa là:
Kiến thức
Cơ bản trong
Chương 3
- HS bàn trên quay xuống bàn dưới và
thực hiện theo yêu cầu của giáo viên: HS
hoạt động và hoàn thành sơ đồ tư duy
theo từ khóa mà giáo viên đã cho (4phút)
- GV: thu kết quả và yêu cầu 2 nhóm lên
trình bày kết quả của nhóm mình.
- HS nạp bài, đại diện 2 nhóm trình bày
 các nhóm khác chú ý và nhận xét
kết luận.
- GV: Chuẩn kiến thức
Dưới đây là một số sản phẩm về sơ đồ tư duy mà học sinh đã vẽ theo yêu
cầu của giáo viên

HS trình bày kết quả làm việc nhóm


Vở bài tập của học sinh

* Đánh giá hiệu quả và một số kinh nghiệm của cá nhân khi áp dụng
cách này:
Qua thực tế giảng dạy, bản thân thấy tâm đắc vì kỹ thuật này giúp cho học
sinh phát huy được sự tự tin, sáng tạo và phát triển được khả năng tư duy,… Ngoài
ra, dạy học bằng sơ đồ tư duy giúp cho học sinh thuộc bài ngay tại lớp, nhớ nhanh
17


và chính xác nội dung bài học. Đặc biệt, phương pháp này còn giúp cho học sinh
không nhàm chán mà luôn sôi nổi và hào hứng trong tiết học, từ đó tạo được điều
kiện cho học sinh tập trung thảo luận và cùng tìm ra vấn đề cốt lõi trong nội dung
của bài học.
4. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Trong quá trình giảng dạy môn Hóa học 8 ở trường THCS Trương Công
Man. Bản thân giáo viên đã cố gắng vận dụng tốt phương pháp dạy học nhóm bằng
cách kết hợp linh hoạt với các kỹ thuật dạy học tích cực.
Kết quả khảo sát thực tế về mức độ tham gia hoạt động nhóm của học sinh
khối 8 môn hóa học thời điểm cuối học kỳ 2 năm hoc 2018 - 2019:
sĩ số
Tích cực, chủ động Chỉ tham gia đối phó
Gần như không tham
tham gia
vì sợ GV nhắc nhở
gia
59
52
6

1
Kết quả khảo sát chất lượng học kì II cũng khá cao: Cụ thể như sau:
Tổng số học sinh
Loại giỏi
Loại khá
Loại TB
Loại yếu
Số HS
59
11
20
27
1
Tỉ lệ (%)
100%
18.6%
33.9%
45.8%
1.7%
Từ kết quả trên đối chiếu với các thống kê trước khi áp đề tài. Tôi thấy học
sinh đã làm quen với các thao tác của các kỹ thuật dạy học, trong giờ học đã chú ý
học hơn, số học sinh tham gia hoạt động đông hơn làm cho tiết học sôi nổi, hào
hứng, cởi mở và đạt kết quả cao hơn. Đồng thời khắc phục được tình trạng: một số
thành viên ỷ lại vào những người giỏi hơn, hạn chế đi lệch hướng do tác động của
một vài cá nhân; việc lấy kết quả thảo luận chung của nhóm làm kết quả học tập
cho từng cá nhân trở nên sát đúng hơn.
Mặt khác khi áp dụng các kỹ thuật dạy học tích cực vào giảng dạy tôi nhận
thấy học sinh yêu thích môn học hơn, số học sinh đăng kí thi học sinh giỏi môn hóa
8 đông hơn. Đây là tiền đề để có những kết quả cao trong các kì thi học sinh giỏi do
PGD và SGD tổ chức sắp tới. Kết quả trên cũng cho thấy hiệu quả rất lớn mà việc

áp dụng đề tài này mang lại cho học sinh.

18


Phần III: KẾT LUẬN
1. Kết Luận:
* Qua quá trình nghiên cứu, điều tra, thử nghiệm, khảo sát thực tế và thực
hiện đề tài này không những giúp tôi hiểu biết sâu hơn về các phương pháp và các
kỹ thuật dạy học tích cực mà còn góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn sinh
học lên một cách rõ rệt (chất lượng HS đại trà luôn đạt và vượt chỉ tiêu đã đề ra,
chất lượng mũi nhọn cũng đã có những chuyển biến tích cực. Trong điều kiện HS
trường THCS … đa số là người dân tộc thiểu số, trình độ dân trí và kinh tế ở địa
phương còn chưa cao điều kiện chăm sóc cho con cái học hành còn thiếu nhiều.
* Việc áp dụng hiệu quả đề tài này là cơ sở để tôi tiếp tục áp dụng đề tài này
cho tất cả các khối lớp ở cấp trung học cơ sở, đồng thời chia sẽ cùng các đồng
nghiệp để cùng thực hiện, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường nói
riêng và của huyện nói chung.
* Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ quá trình áp dụng SKKN:
- Mỗi giáo viên cần không ngừng học tập để nâng cao trình độ không chỉ
những kiến thức chuyên môn mà cả về phương pháp và kỹ thuật dạy học.
- Trong dạy học cần kiên nhẫn chịu khó, không nản trí khi gặp khó khăn hoặc
thất bại trước một bài cụ thể.
- Giáo viên phải áp dụng thường xuyên để hình thành kỹ năng cho học sinh.
- Không có phương pháp hay kỹ thuật dạy học nào là tuyệt đối vì vậy trong
dạy học cần vận dụng linh hoạt các phương pháp và kỹ thuật dạy học để đạt được
hiêu quả tốt nhất với từng bài cụ thể.
2. Những ý kiến đề xuất để áp dụng SKKN có hiệu quả:
- Khi vận dụng các kỹ thuật dạy học cần có sự hỗ trợ tích cực về cơ sở vật
chất từ phía nhà trường để hỗ trợ cho việc dạy học.

- Cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các giáo viên để học sinh có thể nắm
vững các thao tác của các kỹ thuật dạy học.
Trong quá trình thực hiện đề tài, do trình độ và thời gian nghiên cứu còn hạn
nên không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những đóng góp của
đồng nghiệp để đề tài hoàn thiện hơn.
Bản thân tôi hy vọng các đồng nghiệp cùng nghiên cứu, ứng dụng rộng rãi
sáng kiến kinh nghiệm này vào trong quá trình giảng dạy để nâng cao hơn nữa chất
lượng dạy và học, để cùng góp phần vào sự nghiệp phát triển toàn diện giáo dục và
đào tạo.
XÁC NHẬN CỦA
Người thực hiện
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

19


TÀI LIÊU THAM KHẢO
1. Dạy và học tích cực - Một số Phương pháp và Kỹ thuật dạy học - nhà xuất bản
Đại học sư phạm.
2. Tài liệu tập huấn: Dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập theo định hướng
phát triển năng lực học sinh, Môn Hóa học cấp THCS - Bộ giáo dục và đào tạo.
3. Hướng dẫn chuẩn kiến thức kỹ năng môn Hóa học THCS - Nhà xuất bản giáo
dục Việt Nam
4. Sách giáo khoa Hóa học 8 - Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
5. Sách giáo viên Hóa học 8 - Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
6. Hướng dẫn giảm tải chương trình
7. Phân phối chương trình Hóa học 8 - Sở giáo dục và đào tạo Thanh hóa
8. PPCT của nhà trường đã được phê duyệt của PGD huyện Cẩm Thủy năm học
2018 - 2019.
9. Báo Dạy và Học ngày nay.

10. Tài liệu BDTX dành cho GV THCS - mạng intơnet.
11. Các kiến thức trên trang “Trường học kết nối”

20


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Đinh Tiến Công
Chức vụ và đơn vị công tác: trường THCS Trương Công Man – xã Cẩm Phú –
huyện Cẩm Thủy

TT

1

2

3

4

5

Tên đề tài SKKN
Một số kinh nghiệm dạy học
hoá học theo phương pháp
đổi mới ở trường THCS

Trương Công Man
Một số giải pháp rèn kỹ năng
quan sát cấu tạo ngoài thích
nghi với đời sống của các loài
động vật
Phát huy có hiệu quả các
tranh, ảnh, mô hình và mẫu
vật trong giảng dạy sinh học
ở trường THCS Trương Công
Man
Một số kinh nghiệm trong
việc đổi mới Phương pháp
day học môn sinh học 9 ở
trường THCS Trương Công
Man
Một số kinh nghiệm trong
việc đổi mới Phương pháp
day học môn sinh học 9 ở
trường THCS Trương Công
Man

Cấp đánh giá
xếp loại

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học đánh
giá xếp loại


(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

(A, B, hoặc C)

Cấp huyện

B

2008 - 2009

Cấp huyện

C

2009 - 2010

Cấp huyện

A

2011 - 2012

Cấp huyện

A

Cấp tỉnh


C

2014 - 2015

2015 - 2016

21


NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

22


NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

23


NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC SỞ GÁO DỤC & ĐÀO TẠO

24


×