Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Nâng cao hiệu quả trong dạy học tìm hiểu di tích lịch sử địa phương lớp 8 trường THCS nam ngạn thành phố thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (908.54 KB, 22 trang )

1. MỞ ĐẦU
Môn lịch sử vốn có vị trí, ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với giáo dục thế hệ
trẻ.Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc.Tự hào
với những thành tựu dựng nước của tổ tiên, xác định vị trí trong hiện tại, có thái độ
đúng với sự phát triển hợp qui luật của tương lai.Trong nghị quyết Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khoá 8 (tháng 2 năm 1997) đã khẳng định
rõvai trò của môn lịch sử cùng các môn khoa học khác trong công tác giáo dục.
Việc học tập lịch sử lại cần phát huy tính năng lực tích cực của học sinh.
Bởi lòng yêu quê hương là biểu hiện quan trọng nhất của lòng yêu nước
chân chính.Từ thuở bé thơ mỗi chúng ta đều biết về con người, cảnh vật, quá khứ
nơi chôn nhau, cắt rốn của mình. Những câu hát ru, những câu chuyện cổ tích của
bà, mẹ, chị mà một phần không nhỏ nói về quê hương, đã sớm in sâu vào tâm trí
trẻ em, làm tăng thêm lòng yêu quê da diết và là tri thức ban đầu về quê hương.
1.1. Lí do chọn đề tài
Chúng ta đều biết rằng, bất cứ một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào xảy ra đều
mang tính chất địa phương, vì nó gắn với một vị trí không gian cụ thể của một địa
phương nhất định dù rằng các sự kiện đó có tính chất, quy mô và mức độ ảnh
hưởng khác nhau.Có những sự kiện, hiện tượng chỉ có tác dụng ảnh hưởng ở một
phạm vi nhỏ hẹp nhưng cũng có những sự kiện, hiện tượng mà tác động của nó
vượt ra khỏi khung giới địa phương, mang ý nghĩa quốc gia, thậm chí là ý nghĩa
quốc tế. Mặt khác, tìm hiểu về lịch sử địa phương không chỉ là việc riêng của các
nhà nghiên cứu mà còn là nhu cầu của mỗi con người.
Làng Nam Ngạn nằm ở phía Đông Bắc thành phố Thanh Hóa. Nơi đây đã từng
chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử, nơi hội tụ của những chiến công lẫy lừng
ngày 3,4/4/1965. Đây cũng là nơi phản ánh sự kiện lớn của Việt Nam trong suốt
chiều dài lịch sử với những tên người tên đất đã ghi vào trang sử hào hùng của dân
tộc.
Nam Ngạn là một phường rộng lớn có bề dày lịch sử lâu đời và oanh liệt,
gắn liền với những trang sử hào hùng của Thanh Hóa, của dân tộc. Có biết bao thế
hệ đã ngã xuống, có biết bao máu và nước mắt đã đổ. Mỗi tấc đất của quê hương
Nam Ngạn đều là sự hòa trộn tinh khí của tổ tiên, của những khát vọng. Tất cả đã


tạo thành truyền thống lịch sử riêng của địa phương Nam Ngạn và đó còn là tư liệu
hết sức phong phú về lịch sử địa phương. Chúng ta có rất nhiều điều cần giảng dạy
cho các em và các em cũng có nhiều điều chưa biết về Nam Ngạn. Với truyền
thống lịch sử chung của Thanh Hoá, Nam Ngạn còn là một tư liệu hết sức phong
phú về lịch sử địa phương.Vì lẽ đó, không có lí do nào để chúng ta -những người
dạy lịch sử lại bỏ trống mảng này.
1


Làng Nam Ngạn nằm ở phía Đông Bắc thành phố Thanh Hóa, cách cầu
Hàm Rồng khoảng 800m, Nam Ngạn là một trong những làng Việt cổ ở Xứ Thanh,
mang đầy đủ nét đặc trưng tiêu biểu làng vùng đồng bằng Bắc Bộ, của nền văn
minh sông nước với cây đa, bến nước, sân đình...
Chùa và đình làng Nam Ngạn có từ thời Trần, đình làng Nam Ngạn thờ quan
đốc học liệt hầu đồng bình chương sự Chu Văn Lương- Người đã có công dạy chữ,
bốc thuốc chữa bệnh, khai phá đất đai và lập ra làng và tổ chức nhân dân nơi đây
đánh giặc giữ làng. Ông còn là một vị tướng có công trong công cuộc kháng chiến
chống Nguyên- Mông thời Trần. Chùa Mật Đa được xếp hạng di tích lịch sử cấp
Quốc gia, đây là một ngôi chùa đẹp và linh thiêng mang đậm dấu ấn của Tam giáo
đồng nguyên
Làng Nam Ngạn không chỉ có cảnh đẹp non nước “trên bến dưới thuyền”,
xóm làng cổ kính trù phú, cây lá xanh tươi mà còn là nơi chứng kiến biết bao sự
kiện lịch sử đã diễn ra trên mảnh đất này. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc
Mỹ xâm lược, người dân Nam Ngạn đã phát huy truyền thống yêu nước của cha
ông hăng hái tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Vùng đất lửa Nam Ngạn Hàm Rồng đã viết thêm thiên anh hùng ca, trở thành huyền thoại đánh Mỹ và
thắng Mỹ.
Thông qua việc giảng dạy Lịch sử địa phương, những giáo viên dạy lịch sử sẽ
góp phần giáo dục các em học sinh ở độ tuổi mới lớn lòng tự hào, tình yêu quê
hương xứ sở của mình, hiếu mối quan hệ giữa lịch sử địa phương với lịch sử dân
tộc.

Xuất phát từ tầm quan trọng của lịch sử địa phương mà đòi hỏi người giáo
viên phải dày công nghiên cứu, sưu tầm tài liệu và phải có phương pháp đổi mới để
nâng cao chất lượng dạy học. Việc giảng dạy lịch sử ở địa phương, mảnh đất Nam
Ngạn sẽ góp phần nâng cao sự hiểu biết của các em về nguồn kiến thức lịch sử địa
phương hết sức quý giá và phong phú, chính những kiến thức đó có xung quanh
các em. Là người con của mảnh đất Nam Ngạn và là người trực tiếp giảng dạy môn
lịch sử, tôi thiết nghĩ làm thế nào để nâng cao hiệu quả dạy- học tìm hiểu di tích
lịch sử địa phương lớp 8 trường THCS Nam ngạn- ngay trên mảnh đất quê hương
và trường học của các em mang tên “ Nam Ngạn”- anh hùng- chính là “ trận địa
pháo năm xưa bắn trăm tàu bay Mỹ, trận địa pháo bây giờ là ngôi trường Nam
Ngạn mến yêu” đó là việc làm hết sức cần thiết để giữ gìn truyền thống tốt đẹp của
quê hương; giáo dục các em lòng tự hào, tình yêu quê hương Nam Ngạn.
Vì vậy, tôi chọn đề tài: “ Nâng cao hiệu quả trong dạy- học tìm hiểu di tích lịch
sử địa phương lớp 8 ở trường THCS Nam Ngạn thành phố Thanh Hóa”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
2


- Nghiên cứu Di tích lịch sử cấp Quốc gia.
- Những người con Nam Ngạn làm nên chiến thắng Nam Ngạn- Hàm Rồng.
- Anh hùng trên mảnh đất Nam Ngạn.
- Thực trạng dạy học môn lịch sử địa phương. Qua đó giáo dục các em lòng tự hào,
tình yêu quê hương xứ sở của mình, hiếu mối quan hệ giữa lịch sử địa phương với
lịch sử dân tộc.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu : Học sinh lớp 8A trường THCS Nam Ngạn Thành phố
Thanh Hóa.
- Đơn vị nghiên cứu: Địa bàn phường Nam Ngạn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát

- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thống kê.
1.5. Những điểm mới của SKKN:Trò chơi đố kiến thức, trò chơi hướng dẫn viên
du lịch, thi vẽ tranh, đặt lời bình qua những hình ảnh phác hoạ về Nam Ngạn; đọc
thơ, ngâm thơ, kể chuyện, về nhân vật lịch sử ở địa phương.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của Sáng kiến kinh nghiệm
Theo di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh: “ Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”.
Các nhà sử học xưa đã nói: “ Sử để ghi chép việc mà việc thì hay hoặc dở đều
làm gương răn dạy cho đời sau. Các nước ngày xưa, nước nào cũng có sử
Với quan điểm lịch sử Việt Nam là lịch sử của cuộc đấu tranh nhân dân, mỗi một
chiến thắng là có sự đóng góp một phần to lớn công sức và quá trình đấu tranh của
lực lượng địa phương; do đó lịch sử Nam Ngạn là lịch sử của cả dân tộc Việt Nam,
mỗi một chiến thắng ở địa phương lại là tiền đề, là nhân tố quyết định đưa tới sự
thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam.
Khái niệm “Địa phương” trong điều kiện phát triển của đất nước hiện nay và
đối với học sinh trong đó có không ít em sinh trưởng trong các gia đình đã xa quê
từ lâu, đang sinh sống ở thành phố, thị xã, có thể hiểu “Quê hương” là “Quê cũ”
(cố hương),“Nguyên quán”... Cũng có thể hiểu là nơi đang sống, là “Trú quán”,
“Quê mới”... Có thể hiểu là xã, phường, huyện, khu phố, tỉnh, thành phố, thậm chí
trong trường hợp sưu tầm tài liệu khó khăn, có thể quan niệm là cả vùng, miền...
Như vậy, quan niệm về “chương trình địa phương” không chỉ thu hẹp trong
một xã, phường, một huyện mà hiểu rộng cả một vùng, miền. Nhưng tinh thần cơ
bản là làm cho học sinh biết hoà nhập với xã hội, biết vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, có ý thức và biết cách học hỏi trong thực tế cuộc sống.
3


Xuất phát từ thực tế trên, để khắc phục những mặt còn hạn chế trong việc

giảng dạy lịch sử địa phương ở trường THCS, trong suốt quá trình giảng dạy bản
thân tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu, gặp gỡ một số nhân chứng lịch sử để nâng
cao hiệu quả trong dạy – học lịch sử địa phương ở lớp 8 trường THCS Nam NgạnThành phố Thanh Hóa.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1.Khảo sát đối tượng học sinh trước khi áp dụng đề tài
Trước khi tiến hành áp dụng đề tài này, tôi khảo sát đối với học sinh lớp 8A
trường THCS Nam Ngạn, thu được kết quả như sau:

Lớp
8A

Tổng số
28

Học sinh hiểu biết
đầy đủ về LSĐP
SL
03

%
10,7%

Học sinh hiểu
Học sinh hiểu biết ít
Biết tương đối
về LSĐP
đầy đủ về LSĐP
SL
%
SL

%
10
35,7%
15
53,6%

Với số liệu này cho thấy rằng số học sinh hiểu biết ít về Lịch sử địa phương vẫn
còn nhiều.
2.2.2. Nguyên nhân đưa đến thực tiễn
* Nguyên nhân khách quan:
Trong xu thế hội nhập, sự hòa trộn giữa các nền văn hóa tất yếu dẫn đến nhiều
hệ quả khác nhau và cả những hậu quả khó tránh. Có một thực tế đáng buồn là
một bộ phận nhỏ học sinh đã quay lưng lại với quá khứ, với lịch sử thậm chí còn
sẵn sàng phủ nhận quá khứ, phủ nhận truyền thống bằng một lối sống hời hợt, a
dua, lệch lạc, sự hiểu biết về lịch sử địa phương còn rất hạn chế.Thậm chí ngôi
trường các em đang học mang tên Nam Ngạn nhưng các em lại hiểu rất ít hoặc
không hiểu gì về lịch sử Nam Ngạn.
Đa số các em học sinh lớp 8A đều sinh sống trên địa bàn phường Nam Ngạn
và phần lớn bố mẹ các em đều là lao động tự do nên ít có điều kiện quan tâm đến
việc học tập của con em mình. Hiện tại ở địa phương Nam Ngạn hệ thống các di
tích văn hoá - lịch sử được xây dựng, trùng tu rất nhiều nhưng tại sao chúng ta
không khai thác những di tích lịch sử đó để tiến hành một số tiết học lịch sử địa
phương có nội dung liên quan thay cho những tiết dạy thuyết trình trên lớp?
Như vậy việc giảng dạy và học tập lịch sử địa phương trong những năm qua
mới chỉ dừng lại ở mức độ chiếu lệ, chưa đạt hiệu quả cao trong việc giáo dục về
lòng yêu quê hương, yêu đất nước của thế hệ trẻ. Thậm chí có những giáo viên khi
hỏi tới lịch sử địa phương thường lắc đầu trả lời “không rõ lắm, mình có sinh ra ở

4



đây đâu mà biết”. Có nhiều giáo viên nắm chưa chắc kiến thức lịch sử địa phương,
kể cả địa phương nơi mình sinh ra và lớn lên.
Mặt khác, phương pháp tiến hành các tiết dạy lịch sử địa phương vẫn theo lối
dạy học trên lớp là chủ yếu nên chưa tạo được hứng thú cho học sinh trong các giờ
học lịch sử địa phương.
* Nguyên nhân chủ quan
Hiện nay, việc cung cấp những sự kiện, di tích lịch sử, nhân vật lịch sử gắn liền với
làng Nam Ngạn, phường Nam Ngạn - nơi mà học sinh đang sinh sống sẽ có tác
động mạnh mẽ đến tình cảm, tư tưởng của học sinh. Nhưng đối với một số học
sinh lớp 8A trường THCS Nam Ngạn có tình trạng lơ là đối với môn lịch sử. Trong
các giờ kiểm tra, có nhiều em chất lượng bài làm quá kém.
Một số em lại quan niệm tiết học lịch sử địa phương chỉ là tham khảo và
không quan trọng vì nó ít được kiểm tra cho nên biết cũng được, không biết cũng
không sao.
Hàng ngày các em bắt gặp, tiếp xúc thường xuyên (nữ anh hùng Ngô Thị
Tuyển, các em đi bộ trên cầu Hàm Rồng, các em đi chùa Mật Đa với mẹ với bà
hoặc nhà các em ở ngay sát đền thờ ông Chu Văn Lương) nhưng các em chưa hiểu
tường tận về nguồn gốc, nội dung cũng như ý nghĩa của từng sự kiện, hiện tượng
lịch sử, di tích lịch sử, nhân vật lịch sử trên quê hương Nam Ngạn. Ai cũng có nơi
chôn rau cắt rốn và ai cũng tự hào về nơi ấy. Đây là một thiệt thòi cho học sinh khi
các em thiếu kiến thức về lịch sử quê hương mình.
Những thực tế trên chính là nguyên nhân làm cho hiệu quả dạy - học lịch sử
địa phương ở lớp 8 trường THCS Nam Ngạn hiện nay chưa cao, việc giáo dục tư
tưởng, tình cảm, đạo đức thông qua lịch sử địa phương cũng chưa đạt kết quả như
mong muốn.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Hướng dẫn học sinh học ở nhà: Chuẩn bị tài liệu:
Muốn có một giờ học lịch sử địa phương đạt hiệu quả, ngoài phương pháp
thuyết trình, giáo viên cần tổ chức cho học sinh một số hoạt động phát huy tính

tích cực, hăng say, chủ động của các em. Giáo viên nên hướng dẫn, tổ chức cho
học sinh có thời gian chuẩn bị trước ở nhà ( Có thể khoảng một tuần, nửa tháng).
Các khoá học trước đây, HS ở các lớp khối lớp 6, 7, 8, 9 có tài liệu về lịch sử địa
phương, nhưng chỉ ở con số một lớp khoảng 15 đến 20 em là có sách để nghiên
cứu. Như vậy, việc chuẩn bị trước tư liệu rất quan trọng.
a. Giáo viên cho học sinh câu hỏi trước, hướng dẫn học sinh chuẩn bị ở nhà.
1. Trên địa bàn phường Nam Ngạn có những khu Di tích lịch sử- Văn hóa nào?

5


2. Nhân dân Thanh Hóa đã góp phần vào cuộc kháng chiến chống quân MôngNguyên của dân tộc như thế nào? Di tích lịch sử nào ở Nam Ngạn được Bộ Văn
hóa xếp hạng Quốc gia?
3. Sưu tầm tư liệu lịch sử về ông Chu Văn Lương?
4. Sưu tầm các tư liệu lịch sử về thành tích của quân và dân Nam Ngạn trong 2
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ?
5. Người anh hùng của Nam Ngạn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước?
Thuyết minh về người anh hùng này.
6. Thuyết minh về chùa Mật Đa.
7. Thuyết minh về cây cầu Hàm Rồng lịch sử.
8. Sưu tầm những bài hát ca ngợi những chiến công hiển hách của quân dân
Nam Ngạn.
b. Chuẩn bị màu, giấy để học sinh thể hiện năng khiếu hội họa.
c. Giáo vên phân công người dẫn chương trình: em Phạm Khánh Loan- Lớp phó
học tập.
2.3.2. Kết hợp các phương pháp và biện pháp dạy học
Giáo viên chia buổi học làm 3 phần
Phần 1: Đố kiến thức:
NDCT cho học sinh bắt thăm trả lời các câu hỏi về kiến thức liên quan đến
bài học lịch sử địa phương.


Người dẫn chương trình: Nêu hiểu biết về Di tích lịch sử này?(Các HS trong lớp
xung phong lên bảng và các bạn khác nhận xét)
Đáp án: Chùa Mật Đa - ngôi chùa cổ kính xứ Thanh nằm ngay làng Nam Ngạn

thuộc phường Nam Ngạn Thành phố Thanh Hóa. Nằm khép mình trầm mặc giữa
làng Nam Ngạn, cách cầu Hàm Rồng khoảng 500m về phía hữu ngạn sông Mã,
chùa Nam Ngạn – Mật Đa Tự mang hàm nghĩa là rừng cây thơm ngọt của đất Phật,
nhiều quả phúc, nhân kiệt địa linh. Chùa Nam Ngạn (Mật Đa tự) thuộc phường
Nam Ngạn, thành phố Thanh Hóa, đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch) ra Quyết định công nhận là Di tích lịch sử - Văn hóa số
6


1821 ngày 16 tháng 11 năm 1989.Ngôi chùa ban đầu tọa lạc ở ngoại đê sông Mã
thuộc ấp Hòa Bình, lúc đầu chùa lợp tranh, vách đất, tượng Phật tạo bằng đất sét
rất đẹp, cung kính, trang nghiên.

Chùa Mật Đa trong không gian cổ kính
Với kiến trúc hình chữ Đinh gồm nhà Tiền đường 5 gian và Hậu Cung chùa 2
gian. Chùa được xây dựng với kết cấu khung gỗ lim, có chạm trổ hoa văn, mái
cong lợp ngói. Bên trong chính diện là bức đại tự sơn son thếp vàng chạm 3 chữ
‘‘Mật Đa Tự ’’ và gian giữa là bức đại tự với dòng chữ ‘‘Pháp giới mông huân”.
Hậu cung chùa là nơi đặt tượng Phật. Ngoài hệ thống tượng pháp khá đầy đủ, chùa
Nam Ngạn còn có tượng Tổ và tượng Mẫu. Hai pho tượng Hộ pháp khuyến
thiện và trừ ác cao hơn 3m. Ở gian phía tả nơi chính diện còn lưu giữ được một
pho thổ tượng với đường nét uyển chuyển.
Chính điện chùa Nam Ngạn hôm nay với những bức cửa võng được chạm trổ hoa
văn: ‘‘Lưỡng long chầu nhật” với hai giải rũ mà mỗi giải tạo hình chim phượng
chầu vào. Đây là một ngôi chùa có bức cửa võng mang đậm nét nghệ thuật điêu

khắc thời Lê. Trong hậu cung chùa các pho tượng Phật uy nghiêm nơi Tam Bảo,
toát lên tinh thần ‘‘Hòa quang đồng trần” phụng sự cuộc sống xã hội và đời sống
tâm linh.
Trong những năm chiến tranh ác liệt, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ, chùa Nam Ngạn là chỉ huy Sở, là nơi tập kết lương thực, thực phẩm, đạn
dược, nơi cấp cứu và nuôi dưỡng ban đầu cho bồ đội, dân quân bị thương. Ni sư
Thích nữ Đàm Xuân đã không quản ngại gian khổ, dành trọn tình thương và lòng
nhiệt tình chăm sóc anh em bồ đội, dân quân. Cụ đã dỡ nhà làm hầm cho anh em
bồ đội, dân quân trú ẩn; lấy cánh cửa chùa để làm cáng cứu thương. Thương bồ
đội, trực chiến tại trận địa nắng khát cụ đã chặt dừa ở vườn chùa mang cho bồ đội
7


uống, chặt lá dứa làm ngụy trang. Việc làm của Ni sư Thích nữ Đàm Xuân đã để lại
tiếng thơm cho đời và các thế hệ mai sau.
NDCT: Tên của Di tích lịch sử này trên đất Nam Ngạn? Nêu hiểu biết của bạn về
đền thờ ấy? ( Chiếu lên màn hình)

Đền thờ
Chu Văn Lương
Đáp án: Một di tích trong cụm di tích được Bộ Văn Hoá xếp hạng của khối phố
Nam Ngạn 2, thuộc phường Nam Ngạn, thành phố Thanh Hoá. Cụm di tích chùa
Mật Đa - Đền thờ Chu Văn Lương chỉ cách cầu Hàm Rồng 3 km. Trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cầu Hàm Rồng là một trọng điểm bắn phá của
máy bay Mỹ; Các khu vực xung quanh cầu đều bị bọn Mỹ triệt phá, nhưng rất may
cụm di tích này vẫn còn nguyên và tấm bia khoán lệ của xã Nam Ngạn, tổng Thọ
Hạc, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hoá trước đây vẫn còn nguyên vẹn. Vì vậy dân
địa phương cho rằng đền, chùa ở đây rất linh thiêng.
NDCT: Nêu hiểu biết về ngài Chu Văn Lương?
Đáp án: Ngài Chu Văn Lương sinh ngày 18/02/ 1233 trong một gia đình danh thế

phiệt ở đất Long Biên, Hà Nội. Với chính sách quân điền của triều Trần, từ năm
1258 – 1278, ngài cùng các vương hầu, quan tước của triều đình đi mở nước – khai
hoang, chiêu dân lập ấp. Ngài Chu Văn Lương được nhà vua cử về Thanh Hóa.
Ngài đến huyện Đông Sơn thấy phong cảnh ở trại Nam Ngạn thật kỳ vĩ – sơn thủy
hữu tình, thuận tiện cho giao lưu thủy bộ; Người dân ở đây thì chất phác, cần cù
chịu khó, hăng hái với công việc nên ngài đã dừng lại ở đây để mở trường dạy học
cho dân ấp Nam Sơn, trại Nam Ngạn nhằm mở mang dân trí, biết cách gia tăng sản
xuất cải thiện đời sống. Đúng ngày sinh của mình 18/2 ngài thống lĩnh binh mã
tiến ra đạo Hải Dương đánh giặc. Qua 3 năm trận mạc với nhiều trận giao chiến ác
liệt với lòng dũng cảm, ý chí kiên cường và tài thao lược, đạo quân của ngài đã đại
8


thắng và bắt sống được tướng giặc. Đất nước an bình, ngài được vua Trần ban
thưởng và giữ lại làm quan trong triều. Nhưng vì quá gắn bó với nhân dân trại Nam
Ngạn nên ngài đã xin triều đình để được trở về Nam Ngạn tiếp tục dạy học cho
dân. Năm 1293 Ngài mất, hưởng thọ 61 tuổi, Vua Trần sai người về tổ chức an lễ
và sắc phong “ Thượng đẳng phúc thần” rồi y chuẩn cho trại Nam Ngạn giữ gìn
cúng tế. Y lệnh vua nhà Trần, nhân dân trại Nam Ngạn đã xây dựng ngôi đình làng
làm nơi cúng tế ngài và cũng là để thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân
tộc ta.
NDCT: Nêu nội dung bia khoán lệ ở đền thờ ông Chu VănLương?

Đáp án: Tấm bia được dựng ở bức tường bên trái của đền thờ. Đây là tấm bia chữ
Hán 1 mặt, có chiều cao là 0,89m và chiều rộng là 0,58m. Trên trán bia khắc hình
hổ phù, diềm bia khắc hình hoa lá cách điệu. Bia có tên là; “Thạch bi ký” (Bài ký
trên bia đá) được dựng vào ngày lành tháng 2 năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Tự Đức
35 (1883). Bia có 20 dòng, gồm 520 chữ Hán; kiểu chữ chân Phương, dễ đọc. Bia
do Lý trưởng Nguyễn Hữu Phác cùng tất cả trên dưới bản binh dựng và do Lê
Ngọc Lâm viết.

Bia ghi rằng: “Theo lệ của nhà nước, xã Nam Ngạn phải có 6 suất lính thường
xuyên tại ngũ; Nhưng vì có người đi lính chưa được 10 năm đã trốn về, bản xã
phải bổ sung nên gây phí tổn cho xã. Vì vậy bản xã họp lại lập 1 khoán thư”. Và để
tăng cường hiệu lực bản khoán thư đó được bản xã cho khắc vào bia đá để mọi
người cùng biết mà thi hành.
Để động viên những người đi lính đã từng có nhiều năm tham gia trong quân
ngũ, bản khoán thư ghi:

9


- “Nếu người nào đi lính được 15 năm trở về, theo lệ được miễn thuế thân một
nửa, theo lão hạng; Anh em ruột thịt của người đó được miễn đi lính một lần.
Người đi lính được 20 năm thì thuế thân, sưu sai đều được xét miễn theo hạng Lão
Nhiêu. Người đi lính được 30 năm thì thuế thân và các việc sai trái đều được xét
miễn theo hạng quan viên; Anh em ruột thịt của người đó vẫn được chuẩn cho
miễn như trên; Lại cho một người làm chức Nhiêu Nam suốt đời”.
Không chỉ động viên người lính an tâm làm tròn trách nhiệm, bảo đảm đủ
niên hạn bản khoán thư còn đặt ra những điều khoản nhằm động viên người lính
trong quân ngũ luôn cố gắng học hành, trau dồi kiến thức như:
- “Người đang tại ngũ may mắn thi đỗ khoa trường và người giữ chức Suất
đội thì ứng cho một suất đinh như lệ của người lính Kỵ mã đã đi lính 15, 20 năm”.
Khi những người lính đến lệ xin trở về quê thì khoán lệ quy định như sau:
- “Hễ người nào đến lệ xin về thì đem 100 miếng trầu, 1 vò rượu đến đình
trình với bản xã đễ điền [tên] cấp [thưởng] Và bản xã chia làm 2 hạng.
1- Người ứng lính lần thứ nhất bản xã thưởng tiền 2 quan.
2- Người ứng lính đầu tiên thì được thưởng tiền 6 quan”.
Nếu như với những người lính luôn luôn làm tròn nghĩa vụ của mình, những
người lĩnh hiếu học, những người cầm quân, bản khoán thư đã đặt ra những lệ đãi
ngộ phù hợp thì với những kẻ trốn lính, bản khoán thư ghi rằng:

- “Kẻ cố tình không theo khoán lệ, lại ỷ là cường hào, đem đơn tố cáo việc
thuận ứng lính của bản xã thì bản xã tước bỏ quyền lợi của cha con, anh em người
đó; Không cho phép họ được lãnh những công việc của hương hội mà coi họ là
người ngoại tịch. Nếu nhà ấy có việc hiếu hỉ gì đó mà trình xin để bản xã ưng
thuận thì bản xã không chiếu cố”.
Với những kẻ đảo ngũ, khoán thư quy định:
- “Nếu như tên nào đi lính chưa hết niên hạn đã bỏ trốn mà gia cảnh nghèo
túng, xin điền cấp thế người lính khác thì tiền phí tổn là bao nhiêu đều do anh em
tên ấy chịu. Nếu như người đó không thuận theo, sẽ bị tước bỏ như lệ người không
thuận đi lính”.
Với những người theo Vương sự ở những nơi xa xôi, khoán thư ghi:
- “Hễ người theo Vương sự ở những nơi xa xôi, không có gì độ nhật thì bản
xã đem ruộng công cấp cho binh lương để làm thu phí”.
Như vậy, thông qua bản khoán thư chúng ta thấy thêm một khía cạnh tích cực
của lệ làng, nó có tác dụng giúp người dân luông có ý thức chấp hành pháp pháp
luật của nhà nước. Ngoài ra nó còn thể hiện sự ưu ái với những ai bận tâm hoàn
thành nghĩa vụ quân sự, đồng thời tỏ rõ sự trừng phạt với những ai cố tình trốn
tránh nghĩa vụ của mình đối với quê hương đất nước. Đó là nét đẹp của lệ làng Việt
10


Nam, nó là cơ sở để góp phần giữ yên kỷ cương phép nước; Mà duy trì được kỷ
cương phép nước là xây dựng một xã hội có luật pháp thì dù một chính thể nào, ở
xã họi nào cũng cần đạt tới. Nhất là ngày nay, nhà nước ta đang xây dựng một nhà
nước pháp quyền; Mọi người dân đều phải sống và làm việc theo pháp luật thì
những khoán thư, hương ước xưa cũng vẫn có những đóng góp tích cực trong việc
xây dựng nề nếp “tôn trọng luật pháp nhà nước” ở mỗi làng quê Việt Nam.
NDCT: Nêu tên cây cầu và sự kiện lịch sử gì đã gắn với cây cầu?

Đáp án: Cầu Hàm Rồng cũ (ảnh thứ nhất) do Pháp xây dựng năm 1904 là cầu vòm

thép không có trụ ở giữa. Cầu này bị Việt Minh phá hủy năm 1946 trong chiến dịch
tiêu thổ kháng chiến. Cầu Hàm Rồng mới được khởi công xây dựng (Ảnh thứ hai)
khánh thành ngày 19 tháng 5 năm 1964, cầu gồm 2 nhịp dầm thép, ở giữa là đường
sắt, hai bên là đường ô tô và đường dành cho người đi bộ. Năm 1965, khi quyết
định mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc, giới
quân sự Mỹ đã coi cầu Hàm Rồng là “điểm tấn công lý tưởng” nhằm cắt đứt tuyến
đường giao thông huyết mạch chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam.
Vì vậy, chỉ trong 2 ngày 3 - 4/4/1965, Mỹ đã huy động tới 454 lượt máy bay, ném
hàng nghìn tấn bom xuống mảnh đất nhỏ bé chưa đầy 1km vuông này. Và trận
đánh trả máy bay Mỹ diễn ra trong 2 ngày lịch sử ấy, lưới lửa phòng không của
quân, dân Nam Ngạn - Hàm Rồng đã thiêu rụi 47 máy bay hiện đại của Mỹ, hai tên
giặc lái bị bắt sống, bảo vệ an toàn cầu Hàm Rồng. Chiến thắng này trở thành dấu
son chói lọi trong hành trình hàng nghìn ngày chống trả không lực Hoa Kỳ của cả
dân tộc Việt Nam.
NDCT: Đọc hai câu thơ ca ngợi chùa Mật Đa và sư cụ Đàm Xuân.
GV: Cố nhà thơ Huy Cận lúc đó đã đề thơ tặng chùa và sư cụ Đàm Xuân như
sau:
Cởi áo cà sa, ký lên Tam bảo
Xông pha chiến trường, giết giặc lập công.
11


NDCT: Những người con Nam Ngạn góp phần làm nên Hàm Rồng chiến
thắng?

Góp chung vào Hàm Rồng chiến thắng có rất nhiều lực lượng tham gia chiến
đấun và phục vụ chiến đấu, trong đó có Đại đội dân quân Tiểu khu Nam Ngạn, thị
xã Thanh Hóa. Đại đội được thành lập năm 1964 ngoài ra còn có 1 Trung đội nữ, 4
tiểu đội dân quân, xây dựng 3 trận địa quanh làng. Quân dân Nam Ngạn được cấp
trên giao nhiệm vụ hợp đồng chiến đấu với các đơn vị của bộ đội. Dân quân Nam

Ngạn xác định 3 nhiệm vụ rõ ràng là: phối hợp để đánh máy bay Mỹ bảo vệ dân và
các công trình như cầu Hàm Rồng, các nhà máy ở khu công nghiệp Hàm Rồng;
phục vụ đạn dược, hậu cần cho bộ đội, kể cả cứu thương khi chiến đấu xảy ra; bổ
sung thay thế pháo thủ cho các đơn vị pháo cao xạ.
Xác định được nhiệm vụ lâu dài đấu tranh chống đế quốc Mỹ, nhân dân trong
làng đã tham gia đào hầm, đào hào trú ẩn, đào đắp công sự, ụ pháo chuẩn bị cho
trận đánh mới bảo vệ cầu Hàm Rồng.

Dân quân làng Nam Ngạn luôn sẵn sàng chiến đấu đánh trả máy bay Mỹ, đào
đắp công sự, ụ pháo
Trận chiến đấu ngày 3-4/4/1965, lần đầu tiên đánh máy bay phản lực Mỹ, dân
quân tự vệ đã dùng súng bộ binh bắn trả quyết liệt. Mặc dù trận địa bị bom cày xới
nhưng dân quân Nam Ngạn vẫn anh dũng chiến đấu. Những đồng chí được phân
công phục vụ chiến đấu đã không sợ hy sinh, cứu chữa, vận chuyển thương binh,
tử sĩ, chuyển đạn cho bộ đội, thay thế pháo thủ, hướng dẫn nhân dân xuống hầm
trú ẩn, giữ vững an ninh trật tự. Làng Nam Ngạn đã phải hứng chịu nhiều cuộc tấn
12


công ném bom của máy bay Mỹ. Trong khói lửa bom đạn quân thù đã xuất hiện
nhiều tấm gương anh dũng, tiêu biểu là Nữ dân quân Ngô Thị Tuyển - Người con
gái ưu tú của quê hương Nam Ngạn, không quản thân gái nơi chiến trường đã tham
gia tiếp lương, tải đạn cho các chiến sĩ chiến đấu. Đặc biệt trong trận đánh lịch sử
ngày 26/5/1965, chị đã vác cùng lúc 2 hòm đạn nặng 98 kg vượt qua đê, chuyển ra
bờ sông tiếp viện kịp thời cho anh em bộ đội.
Nữ anh hùng trên mảnh đất Nam Ngạn

Ngô Thị Tuyển sinh năm 1946 tại làng Nam Ngạn (nay là phường Nam Ngạn,
thành phố Thanh Hóa).
Đầu năm 1965, đế quốc Mỹ thực thi kế hoạch “sấm rền” ném bom ồ ạt xuống

miền Bắc, đặc biệt là những tỉnh miền Trung, nhằm phá hoại chúng ta về mọi mặt
như: kinh tế, văn hoá, giáo dục và cắt đứt sự chi viện về sức người và sức của của
hậu phương lớn miền Bắc cho chiến trường miền Nam. Thanh Hoá là một trong
những tỉnh chịu nhiều bom Mỹ, vì nơi đây là một trong những huyết mạch giao
thông quan trọng để vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc men.
Trước tình hình nghiêm trọng đó, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt
Nam giao cho Bộ Tư lệnh Quân khu Ba phối hợp với địa phương, chỉ huy và tổ
chức chiến đấu tại khu vực Hàm Rồng.
Tình hình ngày một khẩn trương. Quân khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu Ba họp
bàn các phương án chuẩn bị đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân
và hải quân của đế quốc Mỹ. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đảm bảo cho địa
phương đánh thắng ngay từ đầu, bảo vệ mục tiêu, bảo vệ được tính mạng và tài sản
của nhân dân.
Uỷ ban hành chính tỉnh cùng với các đoàn thể, các ngành hướng về cơ sở, vận
động tuyên truyền giáo dục sâu rộng tình hình nhiệm vụ cách mạng, phát động
toàn dân tham gia xây dựng địa phương vững mạnh về mọi mặt: chính trị, quân sự,
kinh tế, văn hoá – xã hội… Trên cơ sở đó xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân,
xây dựng thế trận toàn dân đánh giặc.
13


Tại khu vực Hàm Rồng, rất nhiều lực lượng được huy động tham gia chiến đấu
bảo vệ cầu cùng với bộ đội chủ lực. Trong đó, góp một phần quan trọng trong cuộc
chiến đấu này là các đơn vị dân quân tự vệ, họ có nhiệm vụ giăng lưới lửa bắn máy
bay tầm thấp hất chúng lên cao để pháo cao xạ tiêu diệt. Dân quân tự vệ còn có
nhiệm vụ bám sát các trận địa của bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, làm nhiệm
vụ tiếp đạn tải lương, thay thế pháo thủ khi cần thiết.
Trên các trận địa bảo vệ Hàm Rồng, có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và
dân quân tự vệ; dưới sông, chúng ta có hải quân; trên trời lần đầu không quân ta
tham chiến. Sự phối hợp đó giặc chứng tỏ ý nghĩa, tầm quan trọng của trận chiến

đấu sắp xảy ra. Nhân dân Thanh Hoá sục sôi ý chí quyết đánh và quyết thắng Mỹ.
Đúng như nhận định của trên, trong hai ngày 3 và 4 tháng 4 năm 1965, đế
quốc Mỹ đã cho nhiều tốp máy bay đến bắn phá ác liệt khu vực Nam Ngạn - Hàm
Rồng nhằm cắt đứt “đầu mút của khu vực cán xoong” là đầu mối giao thông quan
trọng của hai miền Bắc .
Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng căng thẳng và ác liệt. Các mẹ, các chị trong thôn
xóm, các nhân viên mậu dịch quốc doanh tổ chức nấu cơm, đưa nước ra từng trận
địa cho bộ đội và dân quân, các em thiếu nhi tiếp lá nguỵ trang, sư bà Đàm Thị
Xuân dành nơi trụ trì nhà chùa Nam Ngạn làm nơi cấp cứu điều trị thương binh.
Khắp các ngả đường khu vực Hàm Rồng – Nam Ngạn, từng tốp dân quân toả đi
tiếp đạn, tải thương, nhiều anh chị em chèo thuyền đưa đạn, chở pháo thủ dự bị đến
từng trận địa. Có rất nhiều tấm gương sáng ngời về tinh thần chiến đấu và phục vụ
chiến đầu, trong đó có nữ dân quân Ngô Thị Tuyển.
Ngày 04/4/1965, vừa làm xong nhiệm vụ truy lùng bọn giặc lái Mỹ nhảy
dù, Ngô Thị Tuyển gặp 1 chiếc tàu Hải quân yêu cầu dân quân giúp vận chuyển vỏ
đạn lên bờ và tiếp tế đạn xuống tàu. Không một chút đắn đo, Ngô Thị Tuyển cùng
với các chiến sỹ dân quân tự vệ xuống sông, bơi ra tàu làm nhiệm vụ, mặc cho máy
bay địch đang quần lượn trên đầu. Với tinh thần hăng hái, nhiệt tình, không ngại
hiểm nguy, Ngô Thị Tuyển xung phong gánh cơm ra trận địa phục vụ các anh pháo
thủ. Khi có đoàn xe tiếp đạn vừa tới, chị lại xung phong đi vác đạn. Có lần gặp
phải 2 hòm đạn đai sắt móc chặt vào nhau, anh em dùng thuổng bật ra để vác
nhưng chưa được. Sợ chậm trễ ảnh hưởng đến chiến đấu, Ngô Thị Tuyển ghé vai
vác luôn 2 hòm đạn nặng 98 kg vượt qua đê, chuyển ra bờ sông tiếp viện kịp thời
cho anh em bộ đội chiến đấu.

của chị Ngô Thị Tuyển
chuyển đạn cho bộ đội

Mái chèo
Hòm đạn anh hùng

Ngô Thị Tuyển đã vác
14


Trong lúc chiến tranh ác liệt nhất, anh hùng Ngô Thị tuyển đã vác cùng một
lúc hai hòm đạn nặng gấp đôi so với trọng lượng cơ thể người chị, và chúng ta
cũng phải khẳng định rằng sức mạnh của con người quả là phi thường, phải có một
động lực, quyết tâm cao, hay yếu tố nào đó chúng ta mới có được một sức mạnh
lớn lao như vậy.
Với những thành tích xuất sắc trong chiến đấu, dũng cảm kiên cường, Bà hai
lần được nhận Huân chương Chiến công hạng ba, được Bác Hồ tặng huy hiệu của
Người và sáu lần được tặng bằng khen, giấy khen. Ngày 01/01/1967, Nhà nước
Việt Nam phong tặng bà danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Ngô Thị Tuyển- Nữ anh hùng lực lượng vũ trang mang quân hàm trung tá
Trong trận đánh ngày 26/5/1965, làng Nam Ngạn đã hợp đồng chặt chẽ với
bộ đội cao xạ và bộ đội hải quân của ta chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Hôm ấy cả
làng Nam Ngạn đều ra trận đã tạo ra một mô hình chiến tranh nhân dân chống cuộc
chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ.
Trong chiến tranh, mỗi người dân Nam Ngạn chỉ nghĩ đến sự trường tồn của
quê hương, của cây cầu Hàm Rồng mà quên đi sự khốc liệt của bom đạn quân thù.
ở Nam Ngạn, gia đình nào cũng có người tham gia chiến đấu, có gia đình có tới 4
người con tham gia, tiêu biểu như gia đình cụ Ngô Thọ Lạn có bốn người con trai
là Ngô Thọ Sắp, Ngô Thọ Xếp, Ngô Thọ Đặt, Ngô Thọ Sáu đã chiến đấu rất anh
dũng, nêu tấm gương chiến đấu quên mình, hy sinh quả cảm cho đất. Bốn người
con của cụ Lạn đã nhảy vào mâm pháo, thay thế pháo thủ bị hy sinh tiếp tục bắn
trả máy bay Mỹ. Anh Sáu bị thương đến lần thứ ba vẫn không rời mâm pháo,
nhưng đến lần thứ tư thì anh hy sinh. Gia đình cụ đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh
tặng bằng khen “Cả nhà quyết tâm chống Mỹ” cho mọi người noi theo.
Các chiến sĩ gái như Đại đội trưởng Nguyễn Thị Hằng bị thương vẫn không rời

vị trí chỉ huy.
15


Khu đội trưởng Nguyễn Thị Hằng đang
cùng đồng đội bắn trả máy bay Mỹ

Bác Hồ hỏi chuyện Trung đội trưởng
làng Nam Ngạn Nguyễn Thị Hằng

.
Nguyễn Thị Hằng - Nguyên Thứ trưởng Bộ Lao động TBXH
Đặc biệt nhà sư Đàm Xuân, trụ trì chùa Mật Đa đã cùng với bà con làng Nam
Ngạn tích cực tham gia nấu cơm, nấu nước đưa lên trận địa tiếp tế cho bộ đội. Sư
thầy còn trực tiếp tham gia vào việc chăm sóc thương binh, cho dân quân lấy cánh
cửa chùa ra làm cáng cứu thương, chặt dừa của chùa mang ra trận địa cho bộ đội.
Sân chùa vừa là Sở chỉ huy, vừa là nơi sơ cứu thương binh. Chùa Nam Ngạn còn là
nơi đi về của bộ đội Hàm Rồng trong những năm đánh Mỹ.
Với chiến công này, Nam Ngạn là làng đầu tiên trên miền Bắc sáng tạo ra mô
hình chiến tranh nhân dân, chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Mô hình "cả
làng ra trận”, “cả nhà ra trận”, xứng đáng được tuyên dương đơn vị anh hùng đợt
đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đại đội dân quân Tiểu khu
16


Nam Ngạn được Quốc hội và Nhà nước tặng hai Huân chương Chiến công Hạng
Nhất, 10 cá nhân được tặng thưởng Huân chương chiến công Hạng Nhất.

Chiến tranh đã lùi xa 52 năm, đến với Nam Ngạn hôm nay không còn những cánh
đồng dày đặc hố bom, đạn năm xưa, những ngôi nhà cháy đen, đổ sập. Thay vào

đó là những nhà máy, trường học, công sở, các công trình văn hóa đã và đang được
xây dựng, cuộc sống đã hồi sinh từ bàn tay lao động cần cù của người dân nơi đây.
Và cây cầu Hàm Rồng vẫn sừng sững hiên ngang nối đôi bờ sông Mã như một
minh chứng hùng hồn cho ý chí quật cường của người dân Nam Ngạn nói riêng và
người dân Thanh Hóa nói chung. Tiếp nối truyền thống cha ông, những người con
Nam Ngạn hôm nay đang ra sức thi đua, học tập, lao động sản xuất, xây dựng quê
hương Nam Ngạn ngày càng giàu mạnh xứng đáng với danh hiệu“Nam Ngạn Anh
hùng”.
Dựa vào kết quả đã chịu khó sưu tầm, chuẩn bị tài liệu có sẵn, giờ học lịch sử
địa phương sẽ rất sôi nổi và có hiệu quả.
Phần 2: Thi vẽ tranh, đặt lời bình qua những hình ảnh phác hoạ về Nam
Ngạn; đọc thơ, ngâm thơ, kể chuyện, tường thuật lại các cuộc khởi nghĩa ở
địa phương.
a) NDCT cho học sinh có năng khiếu hội hoạ lên vẽ hình ảnh nổi tiếng - cầu
Hàm Rồng; chân dung anh hùng Ngô Thị Tuyển ở Nam Ngạn, nhà truyền thống
Dân quân Nam Ngạn, tượng đài chiến thắng Nam Ngạn..vào giấy A4 và mời
những học sinh khác đặt lời bình hoặc làm thơ về những hình ảnh đó.

17


Nhà truyền thống
Dân quân Nam Ngạn

Hầm ẩn trú của Dân
quân Nam Ngạn

Tượng đài Nam Ngạn
chiến thắng


- Học sinh vẽ
Tiếp theo giáo viên cùng các bạn trong lớp nhận xét đánh giá về những lời
bình, những bài thơ, câu thơ hay, đặc sắc của các em.
- Cụ thể: HS ở các tổ( nhóm) cử đại diện tổ mình lên dự thi vẽ tranh, bức tranh
của tổ (nhóm) nào đẹp, đầy đủ chi tiết và bố cục, sẽ được đánh giá cao hơn các
nhóm khác.
b) NDCT cho học sinh thi ngâm thơ, đọc những câu thơ, bài thơ, bài hát viết ca
ngợi các anh hùng, chiến công hiển hách ở địa phương Nam Ngạn gắn với tiết lịch
sử mà cả lớp đang học.
Các tổ thi với nhau, tổ nào kể chuyện hay hấp dẫn, đầy đủ tình tiết thì tổ đó
được điểm cao.
c) Các em thi tường thuật lại trận chiến ác liệt ở địa phương Nam Ngạn Hàm
Rồng 3,4/4/1965.
d) Học sinh nghe bài hát “ Em nghe chuyện Hàm Rồng” và bài hát “Chào
sông Mã anh hùng”ca ngợi về chiến công Hàm Rồng- Nam Ngạn.
Từ những hình thức thi ở trên, giờ học sẽ cuốn hút HS và tạo nên sự hứng thú
nơi các em, tiết học sẽ sôi nổi và căn bản HS sẽ tiếp cận với kiến thức lịch sử địa
phương Nam Ngạn được tốt hơn.
Phần 3: Trò chơi hướng dẫn viên du lịch:
- Giáo viên tổ chức cho HS chơi trò chơi "Hướng dẫn viên du lịch" xen vào tiết
dạy lịch sử địa phương để các em có thêm "ngòi nổ" trong thảo luận, HS sẽ mạnh
dạn hơn trước đám đông để trình bày ý kiến. Đây là trò chơi mang tính sáng tạo
của giáo viên, nó không có trong bài giảng, trò chơi này giúp các em tự tin và hứng
thú hơn trong giờ học lịch sử.
18


Cụ thể giáo viên cho HS làm hướng dẫn viên du lịch cầu Hàm Rồng, di tích lịch
sử chùa Mật Đa, nghĩa trang liệt sỹ Hàm Rồng, đền thờ Chu Văn Lương, công viên
Hàm Rồng ...

Hình thức học tập hoạt động ngoại khoá có lợi tạo tâm lí thoải mái theo
phương châm “ Học mà chơi, chơi mà học”, tạo cho các em học sinh những kĩ
năng giao tiếp với môi trường bên ngoài, có năng lực quan sát, giúp học sinh phát
triển toàn diện hơn.
- HS về nhà sưu tầm tiếp các bài học về lịch sử của địa phương Nam Ngạn.
2.4. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm:
Sau khi áp dụng vào giảng dạy một số kinh nghiệm trên tôi nhận thấy các em
học sinh có nhiều tiến bộ rõ rệt khi tìm hiểu và khắc sâu kiến thức lịch sử địa
phương.Các em đã say sưa tìm tòi và thích thú học,còn ít hiện tượng ngại học giờ
lịch sử địa phương.
Kết quả đạt được sau khi thực hiện một số kinh nghiệm trên đối với học sinh
lớp 8A.

Lớp
8A

Tổng
số
28

Học sinh hiểu
biết đầy đủ về
LSĐP
SL
%
19
67,9%

Học sinh hiểu
Biết tương đối

đầy đủ về LSĐP
SL
%
7
25%

Học sinh hiểu biết ít
về LSĐP
SL
2

%
7,1%

- 100% học sinh sưu tầm tranh ảnh tư liệu về Lịch sử văn hóa cấp Quốc gia
trên địa bàn phường Nam Ngạn. Có nhiều bài sưu tầm công phu, chất lượng tốt.
- Qua buổi tham gia tìm hiểu Di tích lịch sử văn hóa, các em càng hiểu biết,
yêu mến tự hào và có trách nhiệm hơn trong việc giữ gìn, phát huy những giá trị
lịch sử của địa phương. Các em rất tự hào khi ngôi trường mang tên “Trường
THCS Nam Ngạn” trên mảnh đất anh hùng.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận: Trong giờ Lịch sử địa phương tôi đã sử dụng kết hợp các phương
pháp nói trên và tôi thấy đạt được hiệu quả. Đó là các em hào hứng sôi nổi học tập,
chăm chú và thích thú. Các em bớt đi sự rụt rè, nhút nhát, phát huy được năng lực
chủ động sáng tạo, ít nhiều bộc lộ được năng khiếu sở trường của chính mình. Học
sinh thích học môn lịch sử và phần lịch sử địa phương hơn. Các em cho rằng lịch
sử là môn học bổ ích, các em cảm thấy thích học và yêu thích môn lịch sử, thấy
yêu và tự hào về quê hương Nam Ngạn hơn.
Từ những kết quả trên, bản thân tôi trong thời gian thực hiện đề tài với thời gian
hạn hẹp mà khối lượng kiến thức lịch sử ở địa phương Nam Ngạn thì rộng lớn. Vì

vậy với sáng kiến nhỏ này, trong công việc dạy- học lịch sử địa phương lớp 8 của
tôi khó tránh khỏi những khiếm khuyết.Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của
19


Nhà trường và các bạn đồng nghiệp để rút kinh nghiệm cho bản thân.Tôi xin chân
thành cảm ơn!
3.2. Kiến nghị:
- Để dạy học lịch sử địa phương đạt được hiệu quả được tốt hơn, đề nghị nhà
trường hỗ trợ kinh phí cho HS đi thực địa, học tiết lịch sử ở ngoài trời.
- Địa phương nên tôn tạo các di tích lịch sử để tạo thành quần thể Di tích lịch sử
gắn với Di tích lịch sử sinh thái Hàm Rồng để nâng cao hơn nữa vị thế của phường
Nam Ngạn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nam Ngạn, ngày 14 tháng 4 năm 2017
CAM KẾT KHÔNG COPY

Người thực hiện

Hàn Thị Dung

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
20


1.Tư liệu Viện nghiên cứu Hán Nôm.
2.Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học môn Lịch sử ở trường
THCS-Bộ Giáo Dục và đào Tạo .
3.Một số tài liệu sách, báo phục vụ bài giảng : Di tích lịch sử chùa Mật Đa,

làng Nam Ngạn.
4. Tư liêu lịch sử cầu Hàm Rồng.
5. Tư liệu Bảo tàng Tỉnh Thanh Hóa.
6. Tư liệu Nhà truyền thống Nam Ngạn.

21


MỤC LỤC
Trang
1.MỞ ĐẦU

1

1.1. Lí do chọn đề tài

1

1.2. Mục đích nghiên cứu

1

1.3. Đối tượng nghiên cứu.

3

1.4. Phương pháp nghiên cứu.

3


1.5. Điểm mới của SKKN

3

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

3

2.1. Cơ sở lí luận của SKKN.

3

2.2. Thực trạng vấn đề.

4

2.3.Các giải pháp đã sử dụng

5

2.4. Hiệu qủa của SKKN.

19

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

19

3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị


19
20

22



×