Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học môn mỹ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 19 trang )

MỤC LỤC
TT
1
1.1
1.2
1.3
2
2.1
2.2
2.3
2.4
3
3.1
3.2
3.3

Nội dung
Mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng ngjhiên cứu
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lí luận của sang skiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
Hiệu qủa của sáng kiến kinh nghiệm.
Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị.
Tài liệu tham khảo


Trang
2
3
3
3
4
4
5
6
14
16
16
16
18

1.MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trong xã hội phát triển, nhu cầu thẩm mĩ ngày càng cao. Do vậy việc đào
tạo con người biết nhận thức, cảm thụ cái đẹp ngày càng quan trọng. Cũng chính
vì lí do đó mà môn học Mĩ thuật đã được đưa vào trong chương trình giáo dục
phổ thông. Là một môn học độc lập, môn Mĩ thuật có mục tiêu, chương trình,
1


sách giáo khoa, sách hướng dẫn, thiết bị riêng cho dạy và học, giáo viên được
đào tạo, kết quả học tập của học sinh được theo dõi và kiểm tra, đánh giá một
cách nghiêm túc.
Môn Mỹ thuật ở cấp phổ thông nói giúp học sinh hình thành và rèn luyện
tư duy phát triển trí thông minh, tính linh hoạt sáng tạo, làm việc theo phương
pháp khoa học, nhằm hình thành ở học sinh phẩm chất của con người lao động

mới, đáp ứng được đòi hỏi của một xã hội phát triển ngày càng cao.
Môn Mỹ thuật giáo dục thẩm mỹ cho học sinh, tạo điều kiện cho học sinh
tiếp xúc, làm quen và thưởng thức cái đẹp, biết tạo ra cái đẹp và biết vận dụng
cái đẹp vào sinh hoạt học tập hàng ngày,nhằm hướng các em sống và hoạt động
theo quy luật của cái đẹp. Qua đó giáo dục tình cảm, đào đức, lối sống cho học
sinh biết yêu qúy, giữ gìn và phát huy cái "đẹp". .Ngoài ra môn học Mỹ thuật
còn hỗ trợ học sinh học tốt các môn học khác như: Toán; Ngữ văn; Lịch sử...
Quan tâm tới chất lượng giáo dục, nâng cao hiệu quả đào tạo là nhiệm vụ
cấp thiết hiện nay. Việc đổi mới phương pháp dạy học vẫn là một vấn đề được
nhiều nhà nghiên cứu giáo dục quan tâm bàn bạc thống nhất. Cụ thể biện pháp
nhằm cải tiến phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá quá trình dạy học,
tăng cường khả năng tư duy của học sinh ở quá trình lĩnh hội tri thức, phát huy
tính độc lập, tính tích cực của học sinh được làm việc dưới nhiều hình thức và có
được hứng thú trong giờ học.
Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy môn Mỹ thuật bằng phương pháp trực
quan chưa thực sự được chú trọng. Đối với môn Mỹ thuật, đồ dùng dạy học càng
quan trọng hơn, nó làm tăng hiệu quả tiết dạy rất nhiều. Bên cạnh những thành
công bước đầu đạt được, việc dạy và học Mỹ thuật còn nhiều hạn chế và khó
khăn. Đồ dùng dạy học còn rất nghèo nàn, thiếu thốn, một số giáo viên chưa chú
ý đến việc chuẩn bị đồ dùng trực quan dẫn đến đồ dùng trực quan còn sơ sài,
thiếu chất lượng, trình bày thiếu khoa học, thiếu tính thẩm mỹ. Giáo viên còn
hạn chế về khả năng sử dụng các phương tiện dạy học, phương tiện nghe nhìn…
dẫn đến việc học sinh không có hứng thú khi học bài, thiếu sự sáng tạo.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của đồ dùng trực quan ( ĐDTQ) trong dạy
học môn Mĩ thuật, bản thân tôi là một giáo viên dạy môn Mĩ thuật tôi thấy cần
phải quan tâm, nghiên cứu sâu hơn về vấn đề sử dụng đồ dùng trực quan trong
dạy học Mĩ thuật . Tôi đã đọc và tìm hiểu một số bài sáng kiến kinh nghiệm viết
về vấn đề này nhưng tôi thấy những biện pháp mà họ đưa ra còn mang tính khái
quát chung, chưa đi sâu vào từng khía cạnh cụ thể của vấn đề. Chính vì lý do
trên tôi chọn đề tài “ Một số biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy

học môn Mỹ thuật ”
2


1.2. Mục đích nghiên cứu
Tôi nghiên cứu đề tài này để:
+ Mạnh dạn đưa ra một số biện pháp mang tính chất gợi mở giúp giáo
viên sử dụng đồ dùng trực quan một cách có hiệu quả.
+ Tạo sự lôi cuốn, hứng thú của học sinh đối với môn học Mĩ thuật.
+ Học sinh hiểu thêm những kiến thức cơ bản của mĩ thuật như bố cục,
hình dáng, đường nét, màu sắc…thông qua đồ dùng trực quan và vận dụng
chúng một cách linh hoạt vào phần thực hành của mình.
1.3.Đối tượng nghiên cứu.
+ Nghiên cứu phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan một cách có hiệu
quả trong dạy học mĩ thuật.
+ Góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn mĩ thuật trong trường
trung học cơ sở Hàm Rồng nói riêng và ngành giáo dục nói chung.
+ Góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục.
+Phương pháp nghiên cứu.
+ Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
+ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHỆM.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Mục đích dạy học môn Mĩ thuật trong nhà trường phổ thông nó không
nhằm đào tạo học sinh thành những hoạ sĩ hay những nhà nghiên cứu nghệ thuật
chuyên nghiệp mà là để giáo dục cho các em một thị hiếu thẩm mĩ cần thiết cho
việc hình thành và phát triển một nhân cách toàn diện, hài hoà: đó là khả năng

3



biết cảm nhận cái đẹp và tạo ra cái đẹp – trước hết là cho chính các em, sau là
cho gia đình và xã hội. Bên cạnh đó môn Mĩ thuật còn hỗ trợ các em ở các môn
học khác, giúp các em phát triển toàn diện, lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản góp phần hình thành con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Con đường đến với nghệ thuật của học sinh phải trải qua một quá trình
thẩm thấu, có sàng lọc tinh tế và giáo viên chính là người định hướng, dẫn dắt
các em khám phá thế giới Mĩ thuật. Muốn thực hiện được điều đó người giáo
viên phải nắm vững hệ thống các phương pháp dạy học môn MĨ thuật và vận
dụng linh hoạt sáng tạo trong mỗi giờ học, thông qua đó nhằm phát triển đúng
mức khả năng trí tuệ và thao tác tư duy quan trọng, bên cạnh đó hình thành tác
phong làm việc có suy nghĩ, có tinh thần hợp tác, độc lập và sáng tạo, có kế
hoạch, ý chí vượt khó khăn, kiên trì, tự tin.
Dạy học nói chung và dạy Mỹ thuật nói riêng thường dạy bằng trực quan
bao giờ cũng mang lại hiệu quả cao. Khi đồ dùng trực quan được chuẩn bị một
cách đầy đủ và sử dụng một cách có hiệu quả trong tiết giảng sẽ giúp học sinh
tìm hiểu, so sánh, nhận xét, phán đoán và ghi nhận sự vật dể dàng hiểu sự vật
qua con mắt quan sát bằng nét vẽ, hình vẽ, màu sắc một cách nhanh chóng, nhớ
sự vật lâu hơn. Chính vì thế khi nói đến phương pháp sử dụng trực quan trong
môn Mĩ thuật là ta phải nghĩ ngay đến một vấn đề có ý nghĩa quan trọng, vấn đề
đưa lên hàng đầu trong các phương pháp giảng dạy Mĩ thuật ở trung học.
Trong giảng dạy Mĩ thuật, việc sử dụng các bức tranh, ảnh, mô hình, hình
minh họa, mẫu vật thật... làm phương tiện dạy học được gọi chung là đồ dùng
trực quan. Phương pháp trực quan là phương pháp mà giáo viên sử dụng đồ dùng
trực quan tổ, chức điều khiển học sinh quan sát nhằm hình thành kỹ năng, kỹ xảo
cho học sinh. Thông qua đồ dùng trực quan người học tiến hành quan sát dưới vai
trò chủ đạo của giáo viên để chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và hoạt động
sáng tạo cho bản thân. Phương pháp này quan trọng đến mức mà đôi khi người ta

chỉ cần nhìn vào nó đã có thể đánh giá được tiết học đó “thành công” đến mức
nào.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
- Về phía nhà trường:
Trường THCS là ngôi trường nằm trong địa bàn phường Hàm Rồng
Thanh Hóa. Đây là một phường ít dân cư, trình độ dân trí chưa cao, hộ nghèo và
mồ côi nhiều…Những điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển giáo
dục của phường nhà. Nhà trường có rất ít học sinh (hơn 260 học sinh). Trong
4


những năm gần đây, được sự hỗ trợ của nhà trường và UBND Phường Hàm
Rồng nên cơ sở vật chất của trường dần được tạo dựng. Trang thiết bị phục vụ
cho việc dạy và hoc về cơ bản tương đối đầy đủ. Song víi bé m«n MÜ
thuËt th× trang thiết bị còn thiếu nhiều, Chưa có phòng chức năng dành riêng
cho môn Mĩ thuật; đồ dùng dạy häc đa phần giáo viên tự chuẩn bị sưu tầm; tài
liệu tham khảo có liªn quan còn hạn chế; tranh ảnh Mĩ thuật dù có nhưng còn
hạn chế và không được bảo quản cẩn thận nên đã có nhiều tranh, ảnh bị hoen ố.
Nhất là trong thư viện không có những vật mẫu thật phục vụ cho môn học Mĩ
thuật.
- Về phía giáo viên:
Do những năm trước đây, trường THCS Hàm Rồng có giáo viên chuyên
trách dạy môn Mĩ thuật. nhưng vi sức khỏe và tâm lý nên cũng chưa quan tâm
đến các em. Đặc biệt là chưa quan tâm đến việc chuẩn bị và sử dụng đồ dùng
trực quan cho môn học Mĩ thuật như: Đồ dùng trực quan còn quá sơ sài, sử dụng
đồ dùng trực quan còn hạn chế, chưa phù hợp với trình tự bài giảng ,…Hoặc có
sử dụng đồ dùng trực quan nhưng chỉ mang tính hình thức, không khai thác hết
được cái hay, cái đẹp của chúng. Điều này dẫn tới việc tiết học kém phần sôi
nổi, không tạo sự lôi cuốn hứng thú của học sinh đối với môn học, học sinh
nhận thức bài chưa sâu, chất lượng thực hành chưa cao.

Mặt khác, tôi là một giáo viên mới được chuyển về công tác giảng dạy
môn Mĩ thuật tại trường nên chưa có sự am hiểu nhiều về các đối tượng học
sinh. Đồ dùng trực quan dành cho môn học còn thiếu nhiều. chủ yếu giáo viên
phải tự mua, tự làm hoặc tự sưu tầm.
Do tuổi nghề còn ít nên bản thân tôi chưa có nhiều kinh nghiệm và do
chưa được tập huấn về những phương pháp dạy học mới của môn Mĩ thuật nên
chưa áp dụng được nhiều phương pháp vào trong dạy học.
- Về phía học sinh:
Qua thực tế giảng dạy môn Mĩ thuật tại trường THCS Hàm Rồng, tôi thấy
hầu hết học sinh ở đây rất thích học vẽ nhưng ngoài thời gian học trên lớp ra các
em ít có sự đầu tư cho môn học này mà chỉ chú trọng dành thời gian cho những
môn như khác như: môn Toán, môn Ngữ Văn, Tiếng Anh,..
Do gia đình phụ huynh học sinh còn nhiều khó khăn nên đồ dùng học tập
của học sinh còn thiếu thốn. Một số em không có sách giáo khoa, vở tập vẽ hoặc
giấy vẽ. Các em thường hay phải xé vở ô li ra để vẽ. Một số em thì có đủ đồ
dùng nhưng chất lượng không đảm bảo như màu vẽ thì ít màu hoặc màu vẽ bị
nhạt, bút chì hay bị gãy, tẩy thì cứng…Mặt khác, do thời buổi kinh tế thị trường,
5


một số phụ huynh học sinh chưa có cái nhìn tích cực về môn Mĩ thuật. Họ cho
rằng đó là môn học phụ nên chưa có sự quan tâm đến môn học Mĩ thuật của con
em mình.
Các em ít được tiếp xúc với các tác phẩm nghệ thuật nên sự am hiểu về
nghệ thuật nói chung và mĩ thuật nói riêng còn hạn chế. Kiến thức để các em tìm
hiểu cái đẹp, cái hay trong môn Mĩ thuật lại chủ yếu dựa vào nguồn tư liệu duy
nhất đó là sách giáo khoa và vở tập vẽ nên khả năng tư duy hiểu bài, nhớ bài
thông qua đồ dùng trực quan là rất thấp. Đặc biệt là trong phân môn “Vẽ theo
mẫu” không có những vật mẫu thật cho học sinh quan sát nên đa phần các em vẽ
theo kiểu sao chép lại các hình vẽ trong sách giáo khoa hơặc trong vở tập vẽ.

Điều này ảnh hưởng đến khả năng tư duy sáng tạo của các em..
Tất cả những thực trạng trên dẫn đến chất lượng môn học Mĩ thuật chưa
cao. Điều này được thể hiện thông qua kết qủa học tập của các em.
Dưới đây là thống kê trước khi tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
Khối

Sĩ số

K6
K7
K8
K9

51
63
74
49

Loại CĐ
SL
4
3
4
4

Loại Đ
%
8
5
6

9

SL
47
60
70
45

Ghi chú
%
92
95
94
91

2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề.
Chương trình môn Mĩ thuật ở tiểu học được chia thành 5 phân môn:
+ Thường thức mĩ thuật.
+ Vẽ tranh.
+ Vẽ trang trí.
+ Vẽ theo mẫu.
Mỗi lớp có 35 tiết bao trùm tất cả 4 phân môn.Các phân môn được xếp xen kẽ
nhau. Kiến thức được nâng dần từ lớp 6 đến lớp 9 và theo cấu trúc đồng tâm
(The: phân phối chương trình hiện hành của Bộ giáo dục đề ra; sách Âm nhạc
và Mĩ thuậ lớp 6, 7, 8, 9 Tài liệu bồi dưỡng giáo viên lớp 6,7, 8, 9), vì vậy việc
lựa chọn và sử dụng đồ dùng trực quan là cả một vấn đề cần được chú trọng của
người giáo viên.
- Vấn đề: chuẩn bị đồ dùng trực quan
Trước hết người giáo viên cần xác định rõ vai trò của ĐDTQ là quan
trọng và cần thiết. Có như vậy thì người giáo viên mới có ý thức trong việc

6


chuẩn bị và sử dụng chúng một cách có hiệu quả trong tiết dạy Mĩ thuật. Nhưng
trong thực tế hiện nay, đồ dùng trực quan còn thiếu thì người giáo viên cần có sự
linh hoạt và sang tạo trong việc chuẩn bị. Ngoài ĐDTQ có trong thư viện ra thì
giáo viên có thể tự làm (Ví dụ như làm các mô hình trực quan bằng gỗ, khối
hộp; vẽ hình minh họa cách vẽ trên giấy...) Ngày nay, với sự phát triển của khoa
học công nghệ thông tin thì nguồn tìm kiếm các tư liệu, đồ dùng trực quan càng
trở nên dễ dàng, phong phú (Ví dụ: giáo viên có thể sưu tầm in ấn tranh, ảnh,
tìm hiểu các tài liệu có liên quan ở trên mạng Internet; ...). Ngoài ra, người giáo
viên có thể sử dụng phương tiện trực quan là chính sản phẩm của học sinh trong
lớp học hoặc các lớp học trước đó. Đây là nguồn trực quan có giá trị mà dễ tìm
(kể cả các sản phẩm đẹp hay chưa đẹp, đúng hay sai đều có tác dụng dạy học
một khi giáo viên biết sử dụng đúng mục đích và có phương pháp nhận xét,
phân tích phù hợp).
Để chuẩn bị ĐDTQ đạt yêu cầu thì người giáo viên cần dựa vào 3 yếu tố
sau:
+ Yếu tố thứ nhất là yếu tố “đúng”: Đúng ở đây chỉ sự phù hợp với mục
tiêu, nội dung, tiến trình bài dạy và sự phù hợp với đặc diểm, trình độ nhận thức
của học sinh. Đây là yếu tố quan trọng bởi khi giáo viên chuẩn bị ĐDTQ phải
căn cứ vào nội dung và mục tiêu của bài dạy, phù hợp với khả năng nhận thức
tăng tiến để khi học sinh quan sát những đồ vật đó các em có thể nhận biết và vẽ
thực hành được.
Ví dụ: Trong chương trình Mĩ thuật lớp 7, có tới 4 bài “Vẽ theo mẫu: Mẫu
có hai hoặc ba vật “ thì giáo viên nên chọn những vật mẫu có hình dáng, đặc
điểm theo trình tự từ đơn giản đến phức tạp.
+ Yếu tố thứ hai là yếu tố “đủ”: Đủ ở đây chỉ mức độ phù hợp, sự cần
thiết cho một bài dạy. Kinh nghiệm cho thấy, việc có nhiều ĐDTQ phong phú đa
dạng đã đem lại cơ hội thuận lợi cho việc dạy và học. Tuy nhiên, trong thực tế

nếu quá lạm dụng việc sử dụng trực quan sẽ làm giảm đi hiệu quả của phương
pháp dạy học này. Bởi không phải cứ thật nhiều ĐDTQ thì học sinh sẽ hiểu và
cảm thụ hết được. Đồng thời, nó sẽ ảnh hưởng tới thời lượng của tiết học.
Nhưng mặt khác nếu sử dụng quá ít ĐDTQ thì học sinh không cảm nhận hết
được sự đa dạng và phong phú của các hình ảnh.
Ví dụ: Trong bài “ Tạo dáng và trang trí lọ hoa” thì giáo viên nên cho học
sinh quan sát khoảng 5 lọ hoa có hình dáng, màu sắc và cách trang trí khác nhau
để học sinh có thể nhận biết đươc sự đa dạng phong phú về chúng.

7


+ Yếu tố thứ ba là yếu tố “đẹp”: Cung cấp ĐDTQ cho học sinh quan sát
ngoài yêu cầu đúng và đủ ra thì cần yêu cầu đẹp. Đẹp ở đây là đẹp về hình dáng,
đường nét và màu sắc. ĐDTQ đẹp sẽ làm tăng thêm tính hấp dẫn và thuyết phục
của học sinh đối với tiết học. Nó có tác động quan trọng đến việc cảm nhận tác
phẩm, hình thành nên nhận thức thẩm mỹ của các em. Nó rèn luyện cho các em
một trực giác nhạy bén, khả năng quan sát và óc tư duy sáng tạo.
- Vấn đề: Sử dụng đồ dùng trực quan
Khi ĐDTQ được chuẩn bị đầy đủ, đạt yêu cầu thì người giáo viên phải
biết làm gì để sử dụng chúng một cách có hiệu qủa.
Trước hết giáo viên phải biết trình bày ĐDTQ một cách có khoa học để
học sinh dễ quan sát, dễ nhận biết. Mỗi loại ĐDTQ có cách trình bày khác nhau.
Ví dụ:
Đối với ĐDTQ là những đồ vật, mẫu vẽ thì giáo viên nên đặt chúng ở
trên bàn và nên kê bàn ở giữa phần bục giảng để cho tất cả học sinh có thể quan
sát được. Những đồ vật thấp hơn thường đặt ở phía trước và ngược lại đồ vật cao
hơn, lớn hơn đặt ở phía sau.
Đối với ĐDTQ là tranh, ảnh thì giáo viên nên treo ở trên bảng cho học
sinh quan sát.

Hoặc ĐDTQ là những bài vẽ thực hành của học sinh thì cho chính học
sinh đó cầm lên bảng và giơ cho các bạn trong lớp nhận xét.
Trong một bài dạy có nhiều phần mục và mỗi phần mục có nội dung, mục
tiêu khác nhau nên việc sử dụng ĐDTQ vào từng phần mục là khác nhau. Người
giáo viên phải biết sử dụng chúng một cách đúng lúc, đúng chỗ - khi nào sử
dụng và khi nào cất đi. Mục đích nhằm tránh sự phân tâm, hướng sự chú ý của
học sinh vào ĐDTQ cần khai thác; tránh biến tranh, ảnh minh hoạ thành đối
tượng để học sinh sao chép. Nó sẽ phản lại tác dụng của việc dạy học đó là
không phát huy được óc tư duy, sáng tạo trong học tập của các em.
Ví dụ: Sau khi vẽ minh họa các bước vẽ ở trên bảng thì giáo viên nên xóa
đi rồi mới cho học sinh vào phần vẽ thực hành.
ĐDTQ đều được sử dụng ở cả 4 phân môn của môn Mĩ thuật và ở khắp
hầu hết các nội dung của bài học. Cụ thể ở từng nội dung như sau:
* Trong phần nội dung “Xem tranh” (Nội dung này chỉ có trong phân
môn thường thức mĩ thuật ): ĐDTQ là những bức tranh, tượng hoặc ảnh chụp
lạị, phóng to những hình ảnh có trong sách giáo khoa, vở tập vẽ. Ngoài ra giáo
viên có thể sưu tầm thêm những tranh, ảnh khác có liên quan đến nội dung bài
học để học sinh xem thêm hiểu thêm về họa sĩ đó (hay mảng đề tài đó).
8


Ví dụ: Trong bài “Xem tranh Du kích tập bắn” giáo viên có thể cho học
sinh xem thêm một số tranh khác của họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung như tranh Công
nhân cơ khí; tranh Tan ca, mời chị em đi họp để thi thợ giỏi;...
Giáo viên cần lưu ý là những tranh, ảnh chụp lại phải gần nhất với nguyên
mẫu để tránh sự cảm nhận sai lệch về tác phẩm. Thực ra nếu một tác phẩm xa
rời với nguyên mẫu sẽ trở nên vô hồn, làm giảm đi chất nghệ thuật, thậm chí là
phản tác dụng.
* Trong phần nội dung “Tìm chọn nội dung đề tài ” (Nội dung này có
trong phân môn vẽ tranh) : ĐDTQ thường là những bức tranh, ảnh có liên quan

đến nội dung đề tài. Từ đó học sinh có thể tìm chọn cho mình một nội dung để
vẽ, hình thành trong đầu những hình ảnh có liên quan đến nội dung đã chọn.
Ví dụ: Trong bài “Vẽ tranh đề tài lễ hội ”, giáo viên có thể cho học sinh
xem một số ảnh chụp về lễ hội như: rước kiệu, múa rồng, múa lân, đấu vật, chọi
gà, chọi trâu,...Thông qua những hình ảnh này học sinh có thể nhận biết về các
hoạt động, hình ảnh, màu sắc có trong lễ hội.
* Trong phần nội dung “Quan sát, nhận xét” (Nội dung này có trong các
phân môn: Vẽ trang trí, vẽ theo mẫu, tập nặn tạo dáng): ĐDTQ là những mẫu
vật thật (chai, lọ, hoa, qủa, ấm, cốc, bát,...); mô hình (khối cầu, khối trụ, khối
hộp, mô hình người...) hoặc tranh, ảnh có liên quan đến nội dung bài học.
Nhưng những bài trong phân môn vẽ theo mẫu và tập nặn và tạo dáng thì ĐDTQ
nên là những mẫu vật thật. Vì mục tiêu của 2 phân môn này không chỉ là giúp
học sinh có thể quan sát và nhận biết về đặc điểm, hình dáng, màu sắc của vật
mẫu mà còn là sự cảm nhận về hình khối, độ đậm nhạt của chúng nên vật thật
bao giờ cũng mang lại hiệu quả cao, bài vẽ thực hành của các em sẽ trở nên có
hồn hơn.
* Trong phần nội dung “Cách vẽ” ( Nội dung này có trong các phân môn:
Vẽ tranh, vẽ trang trí, vẽ theo mẫu ) : ĐDTQ là hình minh họa các bước vẽ. Ở
phần nội dung này nếu giáo viên chỉ nói mà không có hình minh họa thì học
sinh rất khó hiểu bài, khó tiếp thu bài. Có 2 cách để giáo viên lựa chọn và sử
dụng: Cách 1 là giáo viên minh họa bàng hình vẽ trực tiếp lên bảng. Cách 2 là
giáo viên sử dụng hình minh họa có sẵn.
Mỗi cách có ưu điểm và nhược điểm khác nhau:
Cách 1 thì mang lại hiệu qủa hơn trong việc truyền đạt kiến thức vì thông
qua các nét vẽ trực tiếp trên bảng học sinh sẽ hiểu rõ hơn cách vẽ và nắm bắt
kiến thức một cách sâu hơn, nhanh hơn. Nhưng nếu giáo viên không chuẩn bị

9



các thao tác minh họa đó trước ở nhà thì khi thực hiện ở trên lớp sẽ lúng túng và
không đảm bảo về mặt thờii gian.
Cách 2 đảm bảo về mặt thời gian nhưng không hiệu qủa bằng cách 1.
Việc lựa chọn cách nào là phụ thuộc vào khả năng giáo viên và nội dung
yêu cầu từng bài nhưng hình minh họa đó phải thể hiện rõ được các bước vẽ.
* Trong phần nội dung “Thực hành” (Nội dung này có trong các phân
môn: Vẽ tranh, vẽ trang trí, vẽ theo mẫu) : ĐDTQ là những bài vẽ, bài xé dán
của học sinh các năm trước được đưa ra trước khi cho học sinh thực hành. Mục
đich là giúp học sinh cũng cố và khắc sâu kiến thức, tạo niềm tin cho học sinh vẽ
thực hành tốt. Có thể cho học sinh nhận xét cả bài đẹp, bài chưa đẹp để học sinh
nhận biết và rút kinh nghiệm cho bản thân.
* Trong phần nội dung “Đánh giá,nhận xét” (Nội dung này có trong các
phân môn: Vẽ tranh, vẽ trang trí, vẽ theo mẫu): ĐDTQ chính là những bài vẽ đã
hoàn thành của học sinh được được đưa ra học sinh cả lớp cùng giáo viên nhận
xét đánh giá. Đây là một biện pháp có ý nghĩa tích cực, giúp học sinh hoàn thiện
và nâng cao kiến thức.
Giáo viên chính là người định hướng và hướng dẫn học sinh khai thác hết
tác dụng của ĐDTQ. Muốn làm tốt diều này thì giáo viên phải kết hợp việc sử
dụng chúng với các phương pháp khác như phương pháp vấn đáp, phương pháp
thuyết trình, phương pháp đánh giá nhận xét...
Những câu hỏi mà giáo viên đưa ra mang tính chất gợi mở giúp học sinh
tìm hiểu, khám phá và khai thác có trọng tâm đối với ĐDTQ khi được đưa ra.
Mỗi loại ĐDTQ khác nhau thì hệ thống các câu hỏi đưa ra là khác nhau.
Ví dụ:
Đối với ĐDTQ là tranh vẽ thì có thể dùng câu hỏi như: Tranh vẽ nội dung
gì? Trong tranh có những hình ảnh nào? Đâu là hình ảnh chính, đâu là hình ảnh
phụ? Màu sắc trong tranh như thế nào?...
Đối với ĐDTQ là những đồ vật thì hệ thống câu hỏi đưa ra cho học sinh
nhận xét có dạng: Vật có dạng hình gì? Nêu đặc điểm của vật? So sánh tỉ lệ? Độ
đậm nhạt?...

Đối với ĐDTQ là tượng, phù điêu thì hệ thống câu hỏi đi kèm dạng:
Tượng (hoặc phù điêu) do ai sáng tác? Chất liệu làm bằng gì? Tượng (hoặc phù
điêu) thể hiện ai? (cái gì?) Em hãy mô phỏng lại hình dáng, tư thế của tượng?...
Những lời dẫn dắt, thuyết trình mà người giáo viên đưa ra phải có tính lô
rích, ngắn gọn, xúc tích, rõ ràng và phải dựa trên những kiến thức cơ bản của mĩ
thuật. Tránh giải thích viễn vông, xa rời thực tế.
10


Những lời nhận xét, đánh giá của giáo viên cần mang tính chất động viên,
khích lệ. Giáo viên phải có sự khéo léo khi đưa ra nhận xét, cố gắng tìm ra
những điểm tốt (dù nhỏ nhất) để khen những học sinh còn yếu kém, tránh sự chê
bai làm mất đi hứng thú của các em đối với môn học.
Ví dụ như: Bài vẽ của em đã thể hiện được ý tưởng của đề tài nhưng bố
cục, hình vẽ chưa được đẹp lắm lần sau em nhớ vẽ hình to, rõ ràng hơn thì bài
vẽ của em chắc là sẽ đẹp.
Tất cả những biện pháp để sử dụng ĐDTQ của tôi được minh họa trên
một giáo án Mĩ thuật lớp 6 như sau:
Bài 19:Vẽ tranh
ĐỀ TÀI: NGÀY TẾT VÀ MÙA XUÂN
I. MỤC TIÊU:
- HS hiểu đề tài Ngày tết, lễ hội và mùa xuân.
- HS biết cách vẽ tranh đề tài Ngày tết, lễ hội và mùa xuân.
- HS tập vẽ tranh về ngày lễ Tết, lễ hội và mùa xuân ở quê hương.
- HS thêm yêu quê hương đất nước.
II. CHUẨN BỊ:
*Giáo viên:
- SGK, SGV.
- Một số tranh ảnh về ngày lễ Tết, lễ hội và mùa xuân.
- Hình minh họa các bước vẽ.

- Bài vẽ của HS năm trước.
*Học sinh:
- SGK.
- Sưu tầm về ngày lễ Tết, lễ hội và mùa xuân ở quê hương.
- Giấy vẽ hoặc vở thực hành.
- Bút chì, tẩy, màu vẽ.
III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỦ YẾU:
- Ổn định lớp (1’)
- Giới thiệu bài (1’)
*Hoạt động 1: Tìm, chọn nội dung đề tài (5’)
- GV giới thiệu tranh ảnh về ngày Ngày tết, lễ hội và mùa xuân để HS nhớ lại:
+ Không khí ngày lễ Tết, lễ hội và mùa xuân?
+ Những hoạt động ngày lễ Tết, lễ hội và mùa xuân?
11


+ Những màu sắc trong ngày lễ Tết, lễ hội và mùa xuân

- HS quan sát và trả lời.
- GV nhận xét, bổ sung :
+ Không khí của ngày tết, lễ hội,mùa xuân thật đông vui, náo nhiệt.
+ Ngày tết, lễ hội và mùa xuân diễn ra rất nhiều các hoạt động như:
+ Màu sắc trong Ngày tết, lễ hội và mùa xuân rực rỡ, tươi vui.
Nấu bánh chưng, đi chơi tết, múa rồng, múa lân, chọi gà, chọi trâu, đấu
vật, đua thuyyền, rước kiệu…
- GV cho HS kể về ngày lễ Tết, những lễ hội và mùa xuân ở quê hương mình
- HS kể.
*Hoạt động 2: Cách vẽ (5’)
- GV cho HS nhắc lại các bước vẽ tranh.
- HS trả lời.

- GV hướng dẫn cách vẽ tranh trực tiếp lên bảng hoặc bằng bảng biểu minh họa
các bước vẽ:
+ Sắp xếp bố cục (phác mảng chính, mảng phụ)
+ Vẽ hình ảnh chính ,hình ảnh phụ (chú ý: các hình ảnh vẽ ở các dáng
khác nhau cho tranh thêm sinh động).
+ Vẽ màu cho từng hình ảnh (chú ý: chọn màu để thể hiện được không
khí của Này tết, lễ hội và mùa xuân).

12


- HS quan sát, lắng nghe.
*Hoạt động3: Thực hành (20’)
- GV cho HS xem một số tranh vẽ về đề tài Ngày tết, lễ hội và mùa xuân.

- GV cho HS vẽ thực hành.
- GV hướng dẫn thêm cho HS vẽ yếu.
- GV khuyến khích các em vẽ các màu tươi sáng, rực rỡ thể hiện được không khí
vui nhộn, phù hợp với nội dung.
*Hoạt động 4: Nhận xét, đánh giá (2’)
- GV chọn một số bài vẽ đẹp, nêu nhận xét và cho các HS nhận xét về bài vẽ của
các bạn
+ Cách chọn nội dung?
+ Cách sắp xếp hình vẽ?
+ Màu sắc thể hiện?
- GV nhận xét chung buổi học và chọn một số bài vẽ đẹp làm ĐDDH.
*Dặn dò:(1’)
- Yêu cầu học sinh chuẩn bị bài sau: Quan sát đồ vật và hoa quả
Nói tóm lạ: Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ dạy Mĩ thuật là
việc làm ban đầu, việc làm không thể thiếu đối với người giáo viên chuyên Mĩ

thuật khi đứng trên bục giảng. Giáo viên phải hết sức quan tâm chú trọng đến
13


sự chuẩn bị đồ dùng trước giờ lên lớp sao cho thật chu đáo, thật đầy đủ và sát
với yêu cầu, mục đích bài soạn. Ngoài ra, đồ dùng được chuẩn bị phải có tính
thẩm mĩ, phải có cái hồn của sự vật. Và giáo viên chính là người thổi hồn vào
những sự vật ấy rồi chuyển tải đến học sinh. Có như vậy thì đồ dùng trực quan
khi được đưa ra mới phát huy tác dụng và có sức thuyết phục đối với học sinh.
2.4. Hiệu qủa của sáng kiến kinh nghiệm
Tôi đã áp dụng những biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan như đã nêu
trên vào dạy thực nghiệm ở cả 4 khối lớp (từ lớp 6 đến lớp 9) và rải đều cả 4
phân môn (vẽ tranh; vẽ trang trí; vẽ theo mẫu; thường thức mĩ thuât) tại trường
THCS Hàm Rồng.Tôi thấy kết qủa đạt được như sau:
Giáo viên là người tổ chức, định hướng các hoạt động học tập của học
sinh; vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, đặc biệt là phát huy tốt
phương pháp sử dụng trực quan vào tiết học. Thông qua đồ dùng trực quan giáo
viên có thể dễ dàng hơn trong việc truyền đạt kiến thức cho học sinh. Tiết dạy
trở nên sôi động và đầy ắp tính nghệ thuật. Kích thích sự say sưa, hưng phấn
trong tiết dạy.
Đồ dùng trực quan được sử dụng trong tiết dạy đã tạo cho học sinh sự
say mê, cuốn hút với môn học Mĩ thuật. Thông qua đồ dùng trực quan các em
được tiếp xúc, làm quen với những tác phẩm nghệ thuật hội họa, điêu khắc của
các họa sĩ, nhà điêu khắc chuyên nghiệp; xem những bức tranh của các bạn thiếu
nhi trong nước và quốc tế. Các em có thể khám phá những điều mới lạ trong bài
học, theo cách nghĩ và cách hiểu của mình một cách độc lập tích cực, biết cảm
nhận được những cái hay, cái đẹp từ bài học. Từ đó các em vẽ được những gì
mà mình yêu thích, mình mơ ước và mình cảm nhận. Những hình vẽ của các em
đầy chất ngây thơ, ngộ nghĩnh và sáng tạo khiến chúng ta phải ngạc nhiên đến
cảm động. Đồ dùng trực quan được sử dụng đã phát huy được tác dụng: học sinh

hiểu bài một cách dễ dàng, tạo hứng thú học tập ở các em. Các em có thể vận
dụng kiến thức qua đồ dùng trực quan vào làm bài thực hành tốt. Đây là một số
là một số bài vẽ thực hành của các em:
+ Bài vẽ trang trí: Trang trí lọ hoa (Lớp7B)

14


Nguyễn Thị Duyên

Nguyễn Thị Thu Trang

Anh Thư

+ Bài vẽ theo mẫu: Mẫu có hai hoặc ba vật mẫu (Lóp 8A)

Lê Ngân Hà

Trần Thị Trang

Lê Hải Phong

Kết quả học tập của các em đã có sự chuyển biến rõ rệt. Điều này được minh
chứng cụ thể qua số liệu sau:
Khối

Sĩ số

K6
K7

K8
K9

51
63
74
49

Loại CĐ
SL
0
0
0
0

Loại Đ
%
0
0
0
0

SL
50
63
73
49

Ghi chú
%

100
100
100
100

Nhà trường THCS Hàm Rồng rất phấn khởi khi kết qủa học tập môn Mĩ
thuật được nâng lên rõ rệt. Nhà trường đã ghi nhận sáng kiến kinh nghiệm “
15


Một số biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học môn Mỹ thuật ”
của tôi đã có hiệu quả trong phạm vi của trường. Từ đó nhà trường đã và đang
có những áp dụng đối với một số môn học khác như môn: Lịch sử: Ngữ văn;
Âm nhạc…
3. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận.
Tôi đã nghiên cứu và thực hiện đổi mới phương pháp sö dông ®å
dïng trùc quan trong chương trình dạy học Mĩ thuật ở trường THCS Hàm
Rồng. Đó là một yêu cầu phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh, phù hợp
với mục tiêu giáo dục trong thời đại mới. Đồ dùng trực quan luôn luôn là
phương tiện chuyển tải kiến thức tới học sinh, giúp học sinh tiếp thu bài nhanh
chóng và dễ dàng hơn.
Đổi mới phương pháp sö dông ®å dïng dạy học cßn Học sinh đóng
vai trò chủ đạo tích cực trong hoạt động học tập.
Tiết dạy học môn Mĩ thuầt trở nên hấp dẫn, sinh động khi giáo viên có đầy
đủ đồ dùng dạy học và khai thác hết tiềm năng của nó. Qua nhiều năm thực tế
giảng dạy cùng với nghiên cứu các tài liệu nói về phương pháp sử dụng đồ dùng
trực quan. Tôi nhận thấy, sáng kiến kinh nghiệm này của tôi đã mang lại hiệu
quả rõ rệt. Vì vậy, tôi thiết nghĩ trong mỗi bài giảng, việc nghiên cứu áp dụng
phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan là vấn đề mà các giáo viên dạy Mĩ

thuật cần phải quan tâm.
3.2. Kiến nghị.
* Về phía các cấp quản lí:
- Cấp bổ sung thêm các trang thiết bị, đồ dùng trực quan cho các môn học đặc
biệt là môn Mĩ thuật.
- Cần tổ chức các lớp học chuyên đề dành cho giáo viên dạy Mĩ thuật; tổ chức
cho giáo viên tham gia dự giờ dạy theo những phương pháp dạy học mới của
môn Mĩ thuật để chúng tôi được học tập kinh nghiệm, trau dồi thêm kiến thức
giúp cho môn học đạt chất lượng tốt.
* Về phía các nhà trường:
- Xây dựng phòng học riêng cho môn Mĩ thuật đạt tiêu chuẩn, đảm bảo chất
lượng dạy và học của môn học.
- Trang bị ĐDTQ, sách tham khảo cần thiết phục vụ tốt cho môn học Mĩ thuật.

16


- Cần hướng giáo viên trong toàn trường nêu cao ý thức sử dụng ĐDTQ trong
giờ dạy học.
- Phát động phong trào giáo viên làm đồ dùng trực quan trong mỗi năm học.
Trên đây là một số biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan của tôi trong công
tác giảng dạy bộ môn Mĩ thuật. Với kinh nghiệm nhỏ này tôi hi vọng là sẽ phần
nào thúc đẩy quá trình học tập của học sinh ngày càng tốt hơn. Tôi xin chân
thành cảm ơn Ban giám hiệu trường THCS Hàm Rồng, quí thầy cô và các bạn
đồng nghiệp đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành tốt đề tài này.
Tôi rất mong sự góp ý của hội đồng khoa học đề đề tài của tôi được hoàn
chỉnh hơn.

Tôi cam đoan sáng kiến kinh nghiệm là của mình
không sao chép của người khác

Xác nhận của Hiệu trưởng

Thanh Hoá, ngày 15 tháng 04 năm 2017
Người thực hiện
Đỗ Thị Lê Tâm

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bộ giáo dục và đào tạo. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng
các môn học ở THCS. Nhà xuất bản Giáo dục, 2009.
2. Bộ giáo dục và đào tạo. Nội dung điều chỉnh giảm tải chương trình môn
Mĩ thuật. Nhà xuất bản giáo dục, 2010.
3. Bộ giáo dục và đào tạo. Phương pháp dạy học các môn học ở THCS.
Nhà xuất bản giáo dục, 2007
4. Chu Quang Chứ, Phạm Thị Chỉnh, Nguyễn Thái Lai. Lược sử Mĩ thuật
và Mĩ thuật học. Nhà xuất bản Giáo dục, 1998.
5. Phạm Viết Song. Tự học vẽ. Nhà xuất bản mĩ thuật, 1999.

18


19



×