Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp nhằm phát huy năng lực thẩm mĩ cho học sinh qua dạy học văn bản hai cây phong ngữ văn 8 – tập 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.59 KB, 20 trang )

1. Mở đầu
1.1.Lí do chọn đề tài
Nghị Quyết 29, Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, về đổi mới căn bản giáo dục
toàn diện nêu rõ: "Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo
dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học….
Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa
đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. ... Tập trung vào những giá trị cơ
bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị
cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh."[1]. Có thể
nói phát triển năng lực thẩm mĩ là một yêu cầu quan trọng trong quá trình đổi mới nội dung,
phương pháp dạy học và phương pháp kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
Goroki nói:" Con người về bản chất là một nghệ sĩ, ở đâu con người cũng
mong muốn mang cái đẹp vào cuộc của mình"[2]. Sống và sáng tạo theo quy luật của
cái đẹp, là bản chất của con người. Nhưng cuộc sống vốn đa dạng và phức tạp. Do đó,
cái khó là làm sao hướng dẫn và phát triển đúng đắn con đường đi đến cái đẹp đích
thực, giúp con người có khả năng lựa chọn, đánh giá đặc biệt nhạy cảm trước cái
đẹp, từ đó biết sáng tạo ra cái đẹp muôn màu trong mọi hoạt động sống của mình.
Chính vì vậy việc phát triển năng lực thẩm mĩ cho học sinh trở thành nhiệm vụ quan
trọng trong công tác giáo dục của nhà trường.
Qua các giá trị thẩm mĩ độc đáo, văn học đã làm thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ,
phát triển năng lực và thị hiếu thẩm mĩ của con người. Với học sinh Trung học cơ sở
nhờ tiếp xúc với các tác phẩm văn học, tâm hồn của các em cũng trở nên nhạy cảm
hơn, có khả năng cảm thụ tốt hơn các tác phẩm văn học. Để có thể cảm nhận ra cái
hay, cái đẹp của tác phẩm văn học, biết khám phá ra cái đẹp của thế giới xung quanh,
chính vì vậy mà các em có thể cảm nhận cuộc sống một cách nhạy cảm, tinh tế hơn.
Có thể nói về phương diện này văn học chính là nơi nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ của
con người, nơi giữ gìn và phát triển chất nghệ sĩ vố có trong mỗi tâm hồn.
Với tính chất hai mặt: vừa là môn học vừa là môn nghệ thuật, môn Ngữ văn
chính là cơ hội tốt nhất để phát triển năng lực thẩm mĩ cho học sinh, khi các em được
tiếp xúc với vẻ đẹp của tác phẩm văn chương. Trong năng lực thẩm mĩ có cả yếu tố
cảm xúc (rung động thẩm mĩ) và yếu tố lí trí (nhận xét, đánh giá,…); hai yếu tố này


thường gắn bó, hòa quyện với nhau trong quá trình người học tiếp xúc với vẻ đẹp của
tác phẩm. Phát triển năng lực thẩm mĩ ở đây chính là bồi dưỡng cho học sinh về cả hai mặt
cảm xúc và lí trí qua các khâu phát hiện cái đẹp, cảm thụ cái đẹp, đánh giá cái đẹp, sáng tạo cái đẹp….
Năng lực cảm thụ thẩm mĩ là năng lực đặc thù của môn học Ngữ văn, gắn với
tư duy hình tượng trong việc tiếp nhận văn bản văn học. Quá trình tiếp xúc với tác
phẩm văn chương là quá trình người đọc bước vào thế giới hình tượng của tác phẩm
và thế giới tâm hồn của tác giả từ chính cánh cửa tâm hồn của mình. Từ việc tiếp xúc
với các văn bản văn học, HS sẽ biết rung động trước cái đẹp, biết sống và hành động
vì cái đẹp, nhận ra cái xấu và phê phán những hình tượng, biểu hiện không đẹp trong cuộc
sống, biết đam mê và mơ ước cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
Văn bản "Hai cây phong" trích tác phẩm "Người thầy đầu tiên" của Ai-ma-tôp
ở môn Ngữ văn lớp 8 đã thể hiện sự gắn bó máu thịt, tình yêu hai cây phong, yêu làng
quê Ku-ku-rêu tha thiết của người họa sĩ. Qua đó, bộc lộ tâm hồn nhạy cảm, tinh tế,
tình yêu thiên nhiên, làng quê, lòng biết ơn người thầy đầu tiên, thầy Đuy-sen người
1


đã trồng hai cây phong cũng là người đem lại tương lai cho lũ trẻ làng quê nghèo Kuku-rêu,... Từ đó giúp các em thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên, bức tranh làng quê, vẻ
đẹp của tình thầy trò để bồi đắp trong các em tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, lòng biết
ơn người thầy. Văn bản giúp các em biết rung cảm với những gì gần gũi, thân thuộc với con người, để
các em có mơ ước, có khát vọng vươn tới những giá trị nhân văn cao đẹp trong cuộc sống.
Thế nhưng, trên thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy chưa thực sự đáp ứng được
những điều đã nói trên. Có một điểm chung đó là nhiều giáo viên còn lúng túng khi
tiếp cận văn bản, chưa thực sự khơi dậy được năng lực thẩm mĩ cho học sinh. Tâm lí
chung của học sinh là ngại học văn bản văn học nước ngoài, đặc biệt là những văn
bản khó như văn bản: "Hai cây phong". Những nguyên nhân trên dẫn đến chất lượng
giờ dạy của văn học nước ngoài nói chung, văn bản: "Hai cây phong" nói riêng chưa
cao, chưa đáp ứng được yêu cầu.... Cụ thể học sinh vẫn chưa thấy hết được, vẻ đẹp
của thiên nhiên, vẻ đẹp của làng Ku-ku-rêu, của hai cây phong, vẻ đẹp của tình thầy trò, để phân
tích, cảm nhận, đánh giá,... những vẻ đẹp đó nên các em chưa tiếp cận tới bức thông điệp

mà nhà văn muốn gửi gắm cho thế hệ trẻ là tình yêu quê hương đất nước và lòng biết ơn người thầy.
Phải thừa nhận một thực tế là đa số học sinh hiện nay không thích học môn
Ngữ văn, không có hứng thú trong việc tiếp thu kiến thức văn chương. Do tính đặc
thù môn học, là một môn học mang tính cảm xúc, tư duy trừu tượng, chịu chi phối rất
nhiều bởi yếu tố văn hóa, tâm lí, cảm xúc, đòi hỏi người học phải có trí tưởng tượng
phong phú. Đây cũng là môn học mà nội dung không chỉ hiện ra trên dạng câu từ mà
nó còn bao hàm, ẩn chứa nhiều tầng nghĩa sâu xa (đặc biệt phần văn bản), vì thế việc
tiếp nhận môn học này đối với học sinh là rất khó khăn. Mà học sinh nhiều em rất thiếu
lòng quyết tâm học tập, cứ khó khăn là nản, bỏ, không học,… dẫn đến yếu kém rồi chán môn học đó.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi đi sâu tìm hiểu và thực hiện đề tài " Một số
biện pháp nhằm phát huy năng lực thẩm mĩ cho học sinh qua dạy học văn bản
"Hai cây phong" - Ngữ văn 8 tập 1"
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu về: các khái niệm năng lực thẩm mĩ nói chung,
về phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh và việc phát triển
năng lực thẩm mĩ cho học sinh trong dạy học Ngữ văn, qua đề tài này tôi muốn:
- Đưa ra các giải pháp, biện pháp nhằm phát triển năng lực thẩm mĩ cho học
sinh qua dạy học văn bản: "Hai cây phong" - Ngữ văn 8, tập 1.
- Góp phần đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra
đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
- Đúc rút kinh nghiệm dạy học để nâng cao chất lượng bộ môn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: "Một số biện pháp nhằm phát triển năng
lực thẩm mĩ cho học sinh qua tiết dạy văn bản "Hai cây phong" trích tác phẩm
"Người thầy đầu tiên" của Ai-ma-tôp - Ngữ văn 8, Tập1".
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài nghiên cứu này tôi sử dụng các phương pháp nghIên cứu sau
đây:
- Phương pháp quan sát, trực quan
- Phương pháp khảo sát, thống kê.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
2


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Để có cơ sở lí luận vững chắc cho việc nghiên cứu đề tài, bản thân tôi đã dựa
trên những lí thuyết cơ bản như sau:
2.1.1. Những hiểu biết chung về năng lực thẩm mĩ. [ 3]
Năng lực: Là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kĩ năng
với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân...nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu
cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định.
Năng lực thẩm mĩ là tổng thể các thuộc tính tâm lí, sinh lí cùng những
phẩm chất đặc biệt về thể chất tinh thần giúp cá nhân có khả năng phát hiện, cảm
thụ, đánh giá, sáng tạo các giá trị thẩm mĩ trong cuộc sống. Mỗi con người đều có
một năng lực thẩm mĩ nhất định và phát triển ở trình độ khác nhau, tùy thuộc vào
năng khiếu bẩm sinh và điều quyết định hơn cả là quá trình tu dưỡng, học tập, rèn
luyện trong các hoạt động thực tiễn. Năng lực này được thể hiện qua các mặt: nhu cầu
thẩm mĩ, tình cảm thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ .
Nhu cầu thẩm mĩ của con người là một mặt quan trọng của năng lực thẩm mĩ,
là cơ sở để phát triển năng lực thẩm mĩ. Nếu nhu cầu thẩm mĩ chính đáng cao đẹp,
khi được thỏa mãn không những làm phát triển mà còn thúc đẩy nhân cách của con
người. Một nhân cách cao đẹp trước hết phải là con người không ngừng vươn tới
những giá trị chân - thiện - mĩ của cuộc sống.
Tình cảm thẩm mĩ cũng như các loại tình cảm khác, vốn là một thuộc tính tâm
lí tương đối ổn định, nó được hình thành từ khi con người tri giác thẩm mĩ và được
bộc lộ ra bằng cảm xúc. Nếu tình cảm thẩm mĩ thường lắng đọng sâu kín thì cảm xúc
thẩm mĩ thường được phơi bày trong các sắc thái diễn cảm của nét mặt, điệu bộ, ngữ
điệu lời nói…Tình cảm thẩm mĩ của mỗi người, bắt đầu từ xúc cảm thẩm mĩ, được ổn

định ở thị hiếu và hoàn chỉnh ở lí tưởng thẩm mĩ.
Thị hiếu thẩm mĩ là một biểu hiện quan trọng của năng lực thẩm mĩ. Thị hiếu
thẩm mĩ giúp con người tiến sâu hơn vào thế giới thẩm mĩ bằng những mẫn cảm đặc
biệt và đạt được thói quen trong thưởng thức sáng tạo, không có thị hiếu thì không có
cuộc sống đẹp, vì vậy thị hiếu thẩm mĩ được coi là một phần tiềm năng sáng tạo của
con người. Một thị hiếu phát triển ở một trình độ nhất định bao giờ cũng thấm nhuần
một lí tưởng thẩm mĩ cụ thể. Lí tưởng thẩm mĩ đóng vai trò quan trọng trong đánh giá
thẩm mĩ theo chuẩn mực xã hội. Thị hiếu thẩm mĩ vừa là biểu hiện của năng lực, tình
cảm vừa là biểu hiện của trình độ trí tuệ.
2.1.2. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. [ 4 ]
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học được xem như một nội
dung giáo dục, phương pháp giáo dục hiện đại trong xu thế đổi mới căn bản và toàn
diện Giáo dục và Đào tạo hiện nay. Điểm khác nhau giữa cách dạy này so với các
phương pháp dạy học trước đây là ở chỗ dạy học phát triển phẩm chất, năng lực
người học có yêu cầu cao hơn, mức độ khó hơn, đòi hỏi người dạy phải có phẩm chất,
năng lực giảng dạy nói chung cao hơn trước đây. Điều quan trọng hơn cả là nếu so
sánh với các quan niệm dạy học trước đây, việc dạy học phát triển phẩm chất, năng
lực sẽ làm cho việc dạy và việc học được tiếp cận gần hơn, sát hơn với mục tiêu.

3


2.1.3. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở môn Ngữ văn.
Môn Ngữ văn được coi là môn học công cụ, nó mang đặc thù riêng của môn
học, do đó các năng lực chuyên biệt: năng lực tiếp nhận văn bản và năng lực tạo lập
văn bản - năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mĩ là những năng lực đóng vai
trò quan trọng hình thành và phát triển nhân cách con người trong việc xác định các
nội dung dạy học của môn học .
Quá trình dạy học Ngữ văn đồng thời giúp học sinh hình thành và phát triển
các năng lực, đáp ứng với các yêu cầu phát triển của xã hội, thông qua việc rèn luyện

và phát triển các kỹ năng đọc, viết, nghe, nói. Với đặc trưng của môn học, môn Ngữ
văn triển khai các mạch nội dung bao gồm các phân môn Văn bản, Tiếng Việt, Tập
làm văn, nhằm hướng dẫn học sinh đọc hiểu các văn bản và tạo lập được các văn bản
theo các kiểu loại khác nhau.
Trong quá trình hướng dẫn học sinh tiếp xúc với văn bản, môn Ngữ văn giúp
học sinh từng bước hình thành và nâng cao các năng lực học tập của môn học, cụ thể
là năng lực tiếp nhận văn bản (gồm kĩ năng nghe, đọc) và năng lực tạo lập văn bản
(gồm kỹ năng nói và viết). Năng lực đọc - hiểu văn bản của học sinh thể hiện ở khả
năng vận dụng tổng hợp các kiến thức về tiếng Việt, về các loại hình văn bản và kỹ
năng, phương pháp đọc, khả năng thu thập các thông tin, cảm thụ cái đẹp và giá trị
của tác phẩm văn chương nghệ thuật.
2.1.4. Phát triển năng lực thẩm mĩ cho học sinh qua môn Ngữ văn.
Ở môn Ngữ văn, năng lực thẩm mĩ gồm các năng lực nối tiếp nhau trong quá
trình tiếp xúc với vẻ đẹp của tác phẩm văn chương và tiếng Việt: Năng lực khám phá
cái đẹp và năng lực sáng tạo cái đẹp.
Năng lực khám phá cái đẹp lại gồm hai năng lực phát hiện cái đẹp và những
rung động thẩm mĩ. Cái đẹp nghệ thuật thường không bộc lộ ngay, nên phải có con
mắt tinh tường trên cơ sở những rung động thẩm mĩ mạnh mẽ thì mới phát hiện được.
Còn năng lực thưởng thức cái đẹp chính là năng lực cảm thụ cái đẹp và đánh giá cái
đẹp. Khi ấy con người sẽ sống cùng tác phẩm văn chương và chuyển hóa cái đẹp của
tác phẩm thành cái đẹp trong lòng mình, thành tài sản tinh thần của mình. Đó là quá
trình: "đồng sáng tạo" cùng tác giả để tạo ra những "dị bản" trong lòng người đọc. Và
từ cái đẹp của nghệ thuật mà họ nhận ra cái đẹp trong cuộc sống của con người. Đây
chính là sự đánh giá đúng đắn nhất, và sự đánh giá này là điều không thể thiếu trong
năng lực thẩm mĩ của người học để họ chiếm lĩnh cái đẹp. Như vậy trong năng lực
thẩm mĩ có cả yếu tố cảm cúc (rung động thẩm mĩ ) và yếu tố lí trí ( nhận xét, đánh
giá…); hai yếu tố này thường gắn bó hòa quyện với nhau trong quá trình người học
tiếp xúc với văn chương và tiếng Việt.
Phát triển năng lực thẩm mĩ ở môn Ngữ văn chính là bồi dưỡng cho thế hệ trẻ
về cả hai mặt cảm xúc và lí trí qua các khâu phát hiện cái đẹp, cảm thụ cái đẹp, đánh

giá cái đẹp…Điều này giáo viên có thể làm được thông qua việc dạy trên lớp cũng
như việc hướng dẫn học sinh tự đọc tác phẩm ở nhà.
2.2. Thực trạng.
Thực tế hiện nay môn Ngữ văn đang dần mất đi vị trí quan trọng của nó. Tuy
là một môn học có vai trò quan trọng nhưng rất nhiều người xếp nó sau một số môn
học được coi là thực tế hơn để định hướng nghề nghiệp trong tương lai. Hơn nữa văn
chương lại là một môn học thường phải ghi chép nhiều, khó nhớ. Tâm lí các em hiện
nay có sự thay đổi các em thích nhanh chóng, thuận lợi, nhẹ nhàng. Vì thế có nhiều
4


em ham mờ c truyn tranh, c mt cỏch "ngu nghin", b n, ng, b hc. Mt s
li tỡm n nhng tiu thuyt ngụn tỡnh khụng phu hp vi la tui, mt s lao vo
trũ chi tiờu khin trờn mng, vui u vo trang facebook nhng li quay lng vi
mụn Ng vn. Trong tỡnh hỡnh chung ca vic dy- hc mụn Ng vn nh vy ó
nh hung khụng ớt n vic bi p nng lc thm m cho hc sinh.
Cỏc vn bn nc ngoi núi chung, vn bn: "Hai cõy phong" - Ng vn 8, núi
riờng l vn bn khú dy, khú cm th dn n tõm lớ giỏo viờn e ngi, tõm lớ hc sinh
cng nng n, choỏng ngp khi tip cn tỏc phm. Trc tỡnh hỡnh nh vy, Phũng
giỏo dc huyn nh ó t chc hn mt bui hi tho dy th nghim giỏo viờn b
mụn Ng vn cú mt cỏch tip cn thng nht vi vn bn ny. Tuy nhiờn sau bi
dy, rỳt kinh nghim vn cũn nhiu vn tranh cói cha thng nht c bit l nh
hng tip cn on trớch theo b cc hay mch k.
Trờn tinh thn chung nh vy, tụi tham kho ý kin cỏc ng nghip, c ti
liu liờn quan n cỏc vn bn nhng u cú nhng cõu tr li cha tht s tha ỏng.
Tụi cng ó tham kho trờn phng tin truyn thụng v nhng sỏng kin kinh
nghim liờn quan nhm nõng cao hiu qu tit dy nhng hu nh khụng thy.
i vi hc sinh tôi đã tiến hành một cuộc điều tra nghiêm túc
về hứng thú đối với tiết học vn bn: "Hai cõy phong" để nắm bắt đợc
khả năng t tip cn, hiu, ỏnh giỏ vn bn của các em học sinh lp 8 trong

nh trờng năm học 2017 - 2018 nh sau:

Khi

Chất lợng khảo sát đầu năm
Trung
Giỏi
Khá
Yếu
bình
Số lSố lSố lSố l%
%
%
%
ợng
ợng
ợng
ợng
3
5.8
12
23.0
27
52.0
10
19.2

Số
HS


8

52

Khi
8

Số HS
52

Mức độ hứng thú của HS đối với tiết học
Không có hứng
Hứng thú
Bình thờng
thú
Số lSố l%
%
Số lợng
%
ợng
ợng
5
9,6
10
19.2
37
71,1

Sau khi dy xong tin hnh iu tra mc nhn thc ca hc sinh tụi nhn
c kt qu nh sau:

Kết quả tiết học
Khi

Số HS

Hc sinh nm vng ni Hc sinh cha nm vng
dung bi hc, bit vn ni dung bi hc
dng liờn h.
Số lợng

%
5

Số lợng

%


8

52

18

34.6

34

65.4


Kết quả sau tiết học t nhng nm trc, kt qu iu tra c số học
sinh, khiến tôi rất trăn trở và suy nghĩ phải tìm ra biện pháp để
giúp các em có đợc hứng thú với tiết hc vn bn nc ngoi núi chung vn
bn:"Hai cõy phong" núi riờng t ú nõng cao hiu qu ca tit dy v phỏt trin
nng lc thm m cho hc sinh
2.3. Cỏc gii phỏp ó s dng gii quyt vn
phỏt trin nng lc thm m cho hc sinh qua tit dy hc vn bn: "Hai cõy
phong" trớch: "Ngi thy u tiờn" ca Ai-ma-tp, Ng vn 8 - tp 1, ngoi nhng
gii phỏp c bn, c thu ca mụn dy, bn thõn tụi ó nghiờn cu, ỏp dng mt s
bin phỏp sau:
1. Lm tt khõu chun b bi.
2. Xõy dng h thng cõu hi hng n phỏt trin nng lc thm m cho hc sinh.
3. Thc hin gi dy theo hng m, vn dng cỏc phng phỏp dy hc tớch cc.
4. Thc hin dy hc tớch hp liờn mụn
5. Tng cng ng dng cụng ngh thụng tin.
6. Thc hin tt kim tra ỏnh giỏ theo nh hng phỏt trin nng lc hc sinh.
Vi mi bin phỏp ó nờu, tụi ó xỏc nh rừ c s lớ lun v thc tin ca mi
bin phỏp, t ú, cn c vo mc tiờu ca bi hc a ra cỏc bin phỏp t chc dy
hc cho phu hp vi i tng hc sinh..
2.3. 1. Lm tt khõu chun b bi.
2.3. 1.1. i vi giỏo viờn.
Vi quan im dy hc theo phng phỏp mi hin nay ó nhn mnh: "Thy
ch o, trũ ch ng", "Hc sinh l ch th sỏng to". phỏt huy tớnh tớch cc,
nng lc ca hc sinh, thỡ giỏo viờn phi lm tt vai trũ ca ngi hng dn. i vi
mụn ng vn núi chung, phn vn bn nc ngoi núi riờng v c th khi dy on
trớch: "Hai cõy phong" thỡ theo tụi khõu chun b bi vụ cung quan trng.
Trc khi dy vn bn tụi xỏc nh mc tiờu c thu ca bi hc vn bn vn
hc nc ngoi l giỳp trang b kin thc v trau di t tng, tỡnh cm thỏi
cho hc sinh. Cung cp v m rng hiu bit cho hc sinh v nhng giỏ tr vn húa
c ỏo tiờu biu ca mt s nc tiờn tin trờn th gii, nhng vn gn gi, bc

thit ang din ra trong i sng xó hi qua cỏc thi i.T ú giỳp cỏc em nhn thc
c vai trũ v trớ ca mỡnh trong i sng gia ỡnh v cng ng xó hi cú thỏi
v trỏch nhim sng ỳng n hn.
t c mc tiờu ny tụi phi trang b thờm cho mỡnh nhng kin thc m
rng, h tr cho bi ging nh thu thp cỏc t liu cú liờn quan n bi ging trờn cỏc
ngun thụng tin i chỳng (phỏt thanh, truyn hỡnh, mng Internet, bỏo chớ, sỏch v,
tranh nh, õm nhc...).
Ngoi ra, phc v tt, hiu qu bi ging ca mỡnh tụi cũn phi chun b tt
phng tin dy hc. Cỏc phng tin dy hc truyn thng nh: SGK, bng en,
phn trng cha th ỏp ng c ht nhu cu dy hc vn bn vn hc nc ngoi.
Khi thc hin tit dy ny tụi ó chun b thờm mt s phng khỏc nh: USB, tivi,
mỏy tớnh...
6


Muốn dạy tốt - học tốt các tác phẩm văn chương nước ngoài phải trực tiếp tiếp
xúc với tác phẩm. Hiểu đúng nó, tìm hiểu nó đúng trong vị trí tác phẩm, hiểu được
toàn bộ tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của tác giả từ đó mới lựa chọn được vấn đề và
cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu, khám phá và lĩnh hội cho phù hợp với trình độ học
sinh. Vì vậy trước khi dạy văn bản này tôi đã cố gắng tìm đọc toàn bộ tác phẩm:
"Người thầy đầu tiên".
Ngoài ra còn phải tìm hiểu những vấn đề liên quan đến tác phẩm: Sự hiểu biết về
tác giả, về thời đại, về đất nước đó sản sinh ra tác phẩm, những đặc sắc về thiên
nhiên, về tập tục xã hội nhất là về tâm lý dân tộc...Vì vậy việc tìm đọc các tài liệu có
liên quan trên các tạp chí, các sách báo rất cần thiết đối với giáo viên và học sinh nhất
là giáo viên trong việc dạy học tác phẩm văn chương, nhất là tác phẩm văn chương
nước ngoài.
2.3.1.2. Đối với học sinh.
Không chỉ có sự chuẩn bị của giáo viên mới quan trọng. Sự chuẩn bị bài của
học sinh cũng là một yếu tố quyết định đến việc tiếp nhận, lĩnh hội văn bản đặc biệt là

khi dạy học văn bản theo định hướng phát triển năng lực của học sinh. Vì vậy tôi rất
coi trọng hoạt động hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài sau mỗi tiết học.
Hướng dẫn chuẩn bị bài là hoạt động cuối cùng của một tiết học. Mục đích là
để tổng kết lại nội dung của tiết đang trực tiếp dạy và hướng dẫn học sinh học tập ở
tiết tiếp theo. Để chuẩn bị tốt cho tiết dạy đồng thời hướng đến mục tiêu phát huy
năng lực thẩm mĩ cho học sinh qua tiết dạy bài: "Hai cây phong", ở mục hướng dẫn
chuẩn bị bài của tiết dạy trước đó tôi đã hướng dẫn học sinh chuẩn bị cho tiết dạy này
như sau:
Bước 1: Chia lớp làm 3 nhóm yêu cầu các nhóm chuẩn bị theo nội dung hướng
dẫn. Các nhóm thực hiện chuẩn bị bài học trong thời gian ba ngày. Các nhóm tự thảo
luận, hoàn thành phần chuẩn bị và nộp kết quả cho giáo viên. Ưu tiên các nhóm
chuẩn bị tư liệu viết, tư liệu tranh ảnh ở bản mềm.
- Đọc kĩ văn bản. Tìm đọc toàn bộ tác phẩm: "Người thầy đầu tiên". Đọc chú
thích trong sách giáo khoa, chú ý đến phần tóm tắt tác phẩm.
- Trả lời các câu hỏi theo phần đọc- hiểu văn bản trong sách giáo khoa.
- Sưu tầm, tìm hiểu một số tư liệu, tranh ảnh về tác giả Ai- ma- tốp. Đất nước
Cộng hoà Cư-rơ-gư-xtan
- Sưu tầm, tham khảo, đọc các nguồn tài liệu, các ý kiến đánh giá liên quan
đến văn bản: "Hai cây phong".
- Kể tên những tác phẩm văn học nước ngoài mà em đã học thể hiện vẻ đẹp
của quê hương đất nước, vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của tình cảm thầy trò.
Bước 2: Định hướng cho học sinh một số nguồn cung cấp tài liệu tham khảo
hữu ích như:
- Các bài báo, bài giới thiệu về tác giả, tác phẩm.
- Sách tham khảo Ngữ văn 8 thư viện nhà trường.
- Các địa chỉ Website như: , ,...
Bước 4: Thu sản phẩm của các nhóm, kiểm tra, đánh giá chọn lọc tư liệu hữu
ích để trình bày tại tiết học văn bản.
Bước 5: Trình bày sản phẩm của các nhóm, dành khoảng 5 phút trong tiết dạy
để các nhóm tự nhận xét, giáo viên kết luận, ghi điểm cho các nhóm.

7


Khi kiểm tra vở soạn, nghiệm thu sản phẩm các em đã chuẩn bị tôi thấy bước
đầu các em đã: đọc kĩ đoạn trích, tóm tắt được tác phẩm theo phần chú thích sách
giáo khoa, biết được một số nét chính về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn, gợi nhớ
đến những tác phẩm văn học nước ngoài đã học có cùng chủ đề, tự sưu tầm được một
số nhận xét, đánh giá về tác phẩm, về đoạn trích…
Ví dụ :
Về tác giả các em sưu tầm được
Ai-ma-tốp là nhà văn nước Cộng hoà Cư-rơ-gư-xtan, một nước cộng hoà ở
vùng Trung Á, thuộc Liên Xô trước đây. Hoạt động văn học của Ai-ma-tốp bắt đầu từ
năm 1952, khi ông là sinh viên Trường Đại học Nông nghiệp Cư-rơ-gư-xtan. Từ năm
1956 đến năm 1958 ông học Trường viết văn M. Goóc-ki ở Mát- xcơ-va. Sau khi tốt
nghiệp (1959), Ai-ma-tốp làm phóng viên báo "Sự thật" thường trú tại Cư-rơ-gưxtan. Tác phẩm đầu tiên khiến Ai-ma-tốp nổi tiếng là tập truyện"Núi đồi và thảo
nguyên" (được tặng giải thưởng Lê-nin về văn học năm 1963). Các tác phẩm chủ yếu
tiếp theo là: "Cánh đồng mẹ" (1963), "Vĩnh biệt Gun-xa-rư" (1967), "Con tàu trắng"
(1970),... Đề tài chủ yếu trong các truyện ngắn của Ai-ma-tốp là cuộc sống khắc
nghiệt nhưng cũng đầy chất lãng mạn của người dân vùng đồi núi Cư-rơ-gư-xtan,
tình yêu, tình bạn, tinh thần dũng cảm vượt qua những thử thách hi sinh thời chiến
tranh, thái độ tích cực đấu tranh của tầng lớp thanh niên, trước hết là nữ thanh niên
để thoát khỏi sự ràng buộc của những tập tục lạc hậu.
Nhiều tác phẩm của ông từ lâu đã rất quen thuộc với bạn đọc Việt Nam như
"Cây phong non trùm khăn đỏ", "Người thầy đầu tiên", "Con tàu trắng",…
( Nguồn: học sinh sưu tầm)
Về tác phẩm các em sưu tầm:
Truyện ngắn "Người thầy đầu tiên" của nhà văn Ai-ma-tốp đã đưa chúng ta
về với làng nhỏ Ku-ku-rêu của nước cộng hoà Cư-rơ-gư-xtan thuộc Liên-Xô (cũ).
Câu chuyện về người chiến sĩ Hồng quân, đoàn viên thanh niên cộng sản Đuy-sen người thầy đầu tiên đã trồng hai cây phong nhỏ cùng cô bé An-tư-nai thuở trước. Để
bốn chục năm sau, cô bé đã là một viện sĩ danh tiếng, còn Hai cây phong đã trở

thành một phần không thể thiếu trong ký ức làng quê của biết bao thế hệ dân làng
Ku-ku-rêu.
( Nguồn: học sinh sưu tầm)
Các em nhớ đến một số tác phẩm có cùng chủ đề đã học như văn bản: "Buổi
học cuối cùng" của An-phông-xơ Đô- đê Ngữ văn 6 - Tập 1, văn bản: "Bức thư của
thủ lĩnh da đỏ" của Xi-át-tơn, Ngữ văn 6- Tập 1, chùm thơ Đường ở Ngữ văn 7…
Việc chuẩn bị tốt bài ở nhà giúp các em có thói quen tốt trong học tập, hạn chế
tham gia những trò chơi vô bổ, giải thoát cho các em tâm lí năng nề trước khi đến lớp,
các em hứng thú phấn khởi với tiết học mới hơn, tiết học hiệu quả hơn
Qua phần hướng dẫn chuẩn bị bài cho học sinh tôi đã giúp các em tự khẳng
định vẻ đẹp của thiên nhiên, của quê hương, vẻ đẹp tình cảm thầy trò …là nội dung,
là đề tài chủ yếu của tác phẩm văn chương nói chung, trong các tác phẩm của nhà
văn Ai-ma-tốp nói riêng và vẻ đẹp này được thể hiện rất rõ trong văn bản: "Hai cây
phong". Từ đó, tạo một tâm thế, một cái nhìn khái quát cho học sinh về giá trị thẩm
mĩ của những tác phẩm văn học nói chung và văn bản: "Hai cây phong" nói riêng.
Học sinh qua phần này cũng bước đầu phát hiện, cảm thụ được những giá trị thẩm mĩ
qua tác phẩm văn học.
8


2.3.2. Xõy dng h thng cõu hi.
Trong chơng trình vn hc nc ngoi, cú nhiều các tác phẩm,
đoạn trích thể hiện v p ca thiờn nhiờn, ca lng quờ, v p tỡnh cm thy
trũ, th hin rung cm sõu sc, tinh t ca nh vn. oạn trích "Hai cây
phong" trớch tác phẩm "Ngời thầy đầu tiên" của nhà văn nổi tiếng
Ai-ma- tốp đã thể hiện thật sâu lắng nhng v p ú ng thi bc l
nhng rung cm vụ cung tinh t, ca nhõn vt tr tỡnh. Làm thế nào để khi
dy trong tõm hn các em những cảm xỳc sâu lắng ấy? Làm thế nào
để cỏc em tip cn ti bc thụng ip ca tỏc gi trong vn bn ri qua ú
hng cỏc em n giỏ tr chõn - thin - m ca cuc sng theo tụi mt phần quan

trọng là phụ thuộc vào hệ thống câu hỏi do thầy, cụ thiết kế.
phỏt trin c nng lc ca hc sinh núi chung, nng lc thm m ca hc
sinh núi riờng qua tit dy vn bn: "Hai cõy phong", khi thit k h thng cõu hi tụi
chỳ ý n cỏc hỡnh thc cp cõu hi
2.3.2.1. Câu hỏi cp :
Cp nhn bit.
mc ny yờu cu hc sinh ch ra c nhng thụng tin liờn quan, c
th hin trong vn bn: cỏc thụng tin v tỏc phm, th loi, túm tt ct truyn, ch ra
ti, ch , nhn din h thng nhõn vt: chớnh - ph, ch ra cỏc chi tit, tỡnh tit
truyn c sc, ch ra c cỏc c im ngh thut ca truyn.
Vớ d :
- Gii thiu v tỏc gi, tỏc phm?( Trỡnh by nhng hiu bit ca em v nh
vn Ai- ma - tp?
- Vn bn s dng phng thc biu t chớnh no?
- Vn bn k theo ngụi th my? Xỏc nh hai mch k chuyn trong vn
bn?
- on truyn s dng kt hp nhng phng thc biu t no?
- Nhõn vt tụi- ngi ha s ó miờu t lng Ku-ku- rờu qua nhng chi tit
no?
- Hai cõy phong c gii thiu qua nhng chi tit no?
- T tỡnh yờu tha thit y, "tụi" ó cú cm nhn riờng gỡ v hai cõy phong?
- K nim nm hc cui cựng c k, t sinh ng qua nhng hỡnh nh no?
- Bn tr ó cú tõm trng v suy ngh gỡ t nhng iu c nhỡn thy khi trốo
lờn hai cõy phong?
Vi nhng cõu hi trờn hc sinh ch cn c k vn bn, son bi chi tit nh
l cú th tr li c. tt c hc sinh u phi lm vic, tụi thng u tiờn cõu hi
ny cho hc sinh yu, trung bỡnh.
Cp thụng hiu.
Mc tiờu ca cp ny l xỏc nh ý tng, ni dung chớnh ca vn bn yờu
cu hc sinh phi kt ni thụng tin t nhng t ng, bi cnh trong vn bn xỏc

nh c ý tng, ni dung quan trng; kt ni cỏc mi liờn h trong vn bn
nhn xột v giỏ tr ni dung, ngh thut ca vn bn, ý tng sỏng tỏc ca tỏc gi, cỏc
thụng ip c gi gm.
Vớ d
- Trong hai mch k chuyn trờn thỡ mch k no quan trng hn?
9


- Văn bản có thể chia bố cục làm mấy phần? Xác định nội dung của từng
phần?
- Qua đó em có cảm nhận gì về tình cảm của: "tôi", dành cho hai cây
phong?
- Có điều gì đặc sắc trong cách miêu tả ấy? Nó chứng tỏ điều gì trong tâm
hồn tác giả?
- Kí ức tuổi thơ Việt Nam thường gắn với loại cây nào?
- Qua chi tiết đó, cho biết lũ trẻ chúng tôi đã cảm nhận hình ảnh hai cây
phong như thế nào ?
- Khi kể về điều này nhân vật tôi kể bằng giọng điệu gì? Kể bằng giọng điệu
đó nhân vật tôi muốn bộc lộ tình cảm gì?
Để trả lời được các câu hỏi này học sinh không chỉ đọc kĩ mà phải hiểu, cảm
nhận một cách sâu sắc các chi tiết, hình ảnh trong văn bản. Các câu hỏi này tôi chủ
yếu hướng tới học sinh trung bình khá.
Cấp độ vận dụng thấp
Cấp độ vận dụng thấp, yêu cầu học sinh vận dụng thông tin vào tình huống giả
định tương tự. Cụ thể như sử dụng thông tin trong và ngoài văn bản, thông tin từ các
nguồn khác và kinh nghiệm bản thân để giải quyết các tình huống/vấn đề tương tự
những tình huống/vấn đề đã học.
Ví dụ .
- Em cảm nhận được tình cảm gì của tác giả đối với làng mình?
- Tình yêu đó gợi cho em tình cảm gì đối với thiên nhiên, quê hương, xóm

làng?
- Nếu nhân vật tôi - người hoạ sĩ mang hình bóng tác giả thì em hiểu gì về
Ai-ma-tốp qua bức tranh làng Ku-ku-rêu và hình ảnh hai cây phong trong cảm
nhận của" tôi"?
- Từ trên hai cây phong một thế giới như thế nào mở ra trước mắt bọn trẻ?
Thế giới ấy được miêu tả qua những chi tiết nào? Có khác với những gì mà chúng
thấy ở làng không?
- Qua hình ảnh và tình cảm của tác giả về hai cây phong, em hiểu tác giả là
người như thế nào?
- Chọn và nêu cảm nhận của em về một hình ảnh so sánh em ấn tượng
nhất?
Với những dạng câu hỏi này, học sinh cần thật sự thẩm thấu văn bản; có kiến
thức sâu rộng về văn học nước ngoài; kiến thức liên môn (địa lí, âm nhạc, hội họa);
kinh nghiệm của bản thân kết hợp với các kĩ năng so sánh, đối chiếu, tổng hợp, nhận
xét, đánh giá...mới có thể trả lời được. Cụ thể tôi yêu cầu học sinh nghiên cứu kĩ văn
bản, tìm đọc các văn bản nước ngoài cùng chủ đề như: "Buổi học cuối cùng" của Anphông- xơ Đô- đê, Ngữ văn 6- Tập 1; văn bản: "Bức thư của thủ lĩnh da đỏ" của Xiát-tơn, Ngữ văn 6- Tập 1, chùm thơ Đường ở Ngữ văn 7…Tìm hiểu kiến thức địa lí
về đất nước Cư-grư- xtan xinh đẹp; những bài hát, bức tranh về đất nước vùng thảo
nguyên thơ mộng.
Cấp độ vận dụng cao.
Ở cấp độ này giáo viên chú trọng đến việc giải thích ý nghĩa của văn bản trong
cuộc sống như suy nghĩ, bình luận, giải thích, ý nghĩa tư tưởng và các giá trị của văn
bản trong cuộc sống; vận dụng để giải quyết các tình huống/vấn đề mới trong học tập
10


và cuốc sống; những quan điểm thể hiện rõ ý kiến của cá nhân được bảo vệ bằng lí lẽ
và dẫn chứng thuyết phục.
Ví dụ.
- Từ tình cảm, cảm nhận được ở văn bản: "Hai cây phong", em hãy viết một
đoạn văn từ 4 đến 6 câu trình bày tình cảm của mình đối với quê hương đất nước.

- Từ tình cảm, cảm nhận được ở văn bản "Hai cây phong", em hãy viết một
đoạn văn từ 4 đến 6 câu trình bày tình cảm của mình đối với thầy giáo hoặc cô
giáo để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng em?
- Dựa vào truyện, tập sáng tạo một bức tranh, câu truyện ngắn, bài thơ viết
về tuổi thơ gắn với một hình ảnh thân thuộc nào đó. (cánh đồng, dòng sông...)
Ở cấp độ này đòi hỏi học sinh phải có năng lực liên tưởng, tưởng tượng phong
phú, kiến thức nhất định về các bộ môn khác. Có sự trải nghiệm trong cảm xúc của
bản thân. Phải có quan điểm, thái độ rõ ràng trước các vấn đề/ tình huống đặt ra trong
văn bản hoặc trong đời sống. Kết hợp với các kĩ năng lập luận, trình bày một cách
thuyết phục
2.3.2.2. Câu hỏi đặc thù nhằm phát triển năng lực thẩm mĩ học sinh trong
môn Ngữ văn.
Câu hỏi cảm xúc
Là những câu hỏi nhằm khơi dậy sự rung động thẩm mĩ và những cảm xúc,
tình cảm của học sinh trong việc tiếp nhận hình tượng văn học. Thực chất của loại câu
hỏi này là kiểm tra thái độ, tình cảm của học sinh đối với hình tượng văn học đó.
Những câu hỏi này yêu cầu học sinh phải diễn tả lại bằng lời nói hoặc những ấn
tượng xúc cảm, những suy nghĩ thiên về cảm tính của học sinh, về một bộ phận, một
phương diện, một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn chương
Ví dụ :
Sau khi học sinh phát hiện vẻ đẹp của làng Ku-ku- rêu qua ngòi bút miêu tả của
tác giả tôi hỏi:
Em cảm nhận được tình cảm gì của tác giả đối với làng quê của mình?
Sau khi cho học sinh đọc đoạn: “ Đã bao lần...say sưa, ngây ngất” tôi hỏi
Em cảm nhận được tình cảm của người họa sĩ- người kể chuyện đối với hai
cây phong thế nào?
Hay khi cho học sinh thấy được những vẻ đẹp của thế giới mà từ trên ngọn hai cây
phong bọn trẻ nhìn thấy, tôi hỏi:
Em cảm nhận như thế nào về vẻ đẹp của cảnh vật trọng đoạn văn này?
Áp dụng hình thức hỏi khơi gơi sự rung động thẩm mĩ và những xúc cảm, tình

cảm của học sinh trong việc tiếp cận hình tượng văn học, tôi thấy nó tác động mạnh
tới tình cảm của học sinh, nhất là sự nhạy cảm trong tâm hồn các em. Vì vậy có thể
nói đây là hình thức hỏi phát triển tốt năng lực thẩm mĩ của người học.
Câu hỏi hình dung tưởng tượng.
Trong thưởng thức, cảm thụ nghệ thuật, óc liên tưởng, tưởng tượng được phát
huy. Hình tượng nghệ thuật mà nghệ sĩ đã sáng tạo trong tác phẩm sẽ được hình dung
lại đầy đủ, trọn vẹn trong trí tưởng tượng của người đọc.Văn học mang tính trừu tượng,
tư duy văn học là tư duy hình tượng có tính phi vật thể. Do vậy, để hiểu vấn đề một
cách sâu sắc, thấu đáo, giáo viên phải huy động trí tưởng tượng bay bổng của các em.
Ví dụ:
11


Sau khi học sinh thấy được nghệ thuật trong đoạn văn miêu tả hai cây phong,
hiểu được vẻ đẹp ý nghĩa của hai cây phong đối với nhân vật tôi, tôi đặt câu hỏi:
Hai cây phong làm em liên tưởng đến hình ảnh nào của quê hương mình?
Hay ở đoạn văn cuối cùng khi học sinh thấy được giọng kể của tác giả, hiểu
được tình cảm của nhân vật tôi muốn bộc lộ , tôi đặt câu hỏi:
Hãy cho biết tại sao trong văn bản hình ảnh người thầy không hề xuất hiện,
nhưng người đọc vẫn cảm nhận được tình cảm của nhân vật tôi dành cho thầy của
mình?
Khi sử dụng hình thức câu hỏi này tôi nhận thấy một lợi thế là: Nó nuôi dưỡng
hứng thú, kích thích năng lực tưởng tượng của học sinh, giúp giờ học văn thêm sinh
động. Học sinh hiểu biết sâu sắc về hình tượng trong văn bản.
Câu hỏi sáng tạo
Sáng tạo là không đi theo lối mòn những gì đã có. Như vậy thực chất của hoạt
động sáng tạo là tiếp nhận tác phẩm một cách sáng tạo chủ yếu bằng sự cảm thụ trực
tiếp của học sinh. Nói khác đi đó là quá trình học sinh tự thẩm thấu rồi lại tự thể hiện
bằng tài năng và sự hiểu biết của mình.
Ví dụ

Bức tranh làng Ku-ku-rêu hiện lên thật thơ mộng, trữ tình. Bức tranh về hai
cây phong thật đẹp, thật sinh động. Em hãy vẽ một bức tranh với chủ đề quê
hương thể hiện những vẻ đẹp đó?
Hay
Khi cảm nhận về vẻ đẹp của hai cây phong tác giả không chỉ vẻ bằng ngòi bút
đậm chất hội họa của người nghệ sĩ mà còn thể hiện bằng giọng văn thấm đẫm
chất trữ tình. Khi hiểu được tấm lòng của người thầy "tôi" đã vô cùng xúc động.
Em hãy thể hiện những cảm xúc của mình trước vẻ đẹp của phong cảnh quê
hương, trước tình cảm về thầy cô bằng một đoạn văn hoặc đoạn thơ ngắn?
Để giúp các em phát huy tính sáng tạo của mình, trong giờ đọc - hiểu tác phẩm,
giáo viên nên xây dựng, sử dụng hệ thống câu hỏi sáng tạo. Đây là loại câu hỏi yêu
cầu học sinh phải vận dụng suy nghĩ độc lập, kết hợp với khả năng tư duy chặt chẽ,
trên nền tảng kiến thức đã có để tìm tòi, phát hiện ra cái mới. Loại câu hỏi này mang
đặc trưng của một giờ hướng dẫn học sinh cảm thụ tác phẩm văn chương. Nó đáp ứng
đúng đặc thù của bộ môn và phân môn, tạo cảm hứng cho cả người dạy lẫn người học
đồng thời phát triển tốt năng lực thẩm mĩ cho học sinh.
Tuy nhiên câu hỏi này cần có thời gian để học sinh thực hiện nên cần đưa vào
phần kiểm tra, đánh giá và có thể yêu cầu học sinh thực hiện ở nhà.
Khi đặt câu hỏi cũng cần chú ý vận dụng quy tắc đặt câu hỏi. Để phát triển
năng lực thẩm mĩ của học sinh qua tiết dạy văn bản: "Hai cây phong", tôi chú ý đến
cách ra và sử dụng câu hỏi đó là: Không độc tôn một loại câu hỏi, coi trọng câu hỏi
khơi dậy trí tưởng tượng, nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ, kích thích sự sáng tạo thẩm
mĩ, cho các em. Các câu hỏi phải chính xác, tinh tế, bám vào văn bản, mục tiêu bài
học. Câu hỏi phải vừa sức, không quá vụn vặt, không quá trừu tượng.
2.3.3. Thực hiện giờ dạy theo hướng mở, vận dụng linh hoạt các phương
pháp dạy học tích cực.
Như đã nói các tác phẩm văn chương là sản phẩm tinh thần độc đáo của nghệ
sĩ. Bởi vậy đòi hỏi người giáo viên phải biết khéo léo, vận dụng linh hoạt các phương
pháp dạy học tích cực để truyền tải kiến thức đến với học sinh bằng con đường ngắn
12



nhất, chính xác nhất. Điều này quả không dễ đặc biệt đối với các văn bản nước ngoài
trong đó văn bản: "Hai cây phong", Ngữ văn 8 tập 1 là rất khó. Thực hiện giờ dạy
theo hướng mở, vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học là giáo viên có thể sử
dụng linh hoạt các phương pháp khác nhau trong cùng một tiết dạy, với từng đối
tượng học sinh khác nhau, phải làm sao để "học là một quá trình kiến tạo". Học sinh
phải là người tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập khai thác thông tin. Thông qua
việc phối hợp các phương pháp mà giáo viên thể hiện trong bài dạy, sẽ tạo điều kiện
cho các em tìm kiếm, khám phá, chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện cho các em kĩ năng
cần thiết: tự học, tư duy, diễn đạt bằng lời nói, bài viết, trình bày vấn đề trước đám
đông.... tạo niềm vui hứng thú cho các em, phát triển ở các em các năng lực cần thiết:
năng lực đọc hiểu, năng lực tự học, năng lực thẩm mĩ....
Trong tiết dạy văn bản:"Hai cây phong"- Ngữ văn 8,Tập 1, tôi đã vận dụng linh
hoạt một số phương pháp sau:
2.3.3.1. Phương pháp vấn đáp.
Phương pháp vấn đáp gợi tìm: Là phương pháp được hình thành trên cơ sở
của quá trình tương tác giữa GV và HS thông qua việc GV và HS đặt ra những câu
hỏi và tìm ra câu trả lời tương ứng về một chủ đề nhất định.
Ví dụ:
GV hỏi: Nhân vật tôi – người họa sĩ đã miêu tả làng Ku- ku- rêu qua
những chi tiết nào?
Học sinh trả lời:
+ Vị trí: Nằm ven chân núi, trên một cao nguyên rộng.
+ Có: Những khe nước ào ào từ nhiều ngách đá đổ xuống, dưới làng là thung
lũng đất vàng, là cánh thảo nguyên mênh mông nằm giữa các nhánh của rặng núi
Đen và con đường sắt làm thành một dải thẫm màu băng qua đồng bằng chạy tít đến
tận chân trời phía tây. Phía trên làng giữa một ngọn đồi, có hai cây phong lớn.
Hay
Giáo viên hỏi: Hai cây phong trong cảm nhận của “tôi”, được giới thiệu qua

những chi tiết nào?( Hai cây phong nằm ở đâu? Với những người đi xa trở về làng
nó có vai trò gì?)
Học sinh trả lời:
Vị trí: Phía trên làng, giữa một ngọn đồi.
Vai trò Chúng luôn hiện ra trước mắt chúng tôi như những ngọn hải đăng
Việc áp dụng phương pháp vấn đáp vào trong dạy học bộ môn Ngữ Văn
có tác dụng rất lớn trong việc phát triển trí tuệ, tâm hồn của HS, rèn luyện kỹ
năng, phát huy sáng tạo của HS, phát huy hướng tìm tòi, phát hiện trong quá
trình học của HS.
2.3.3.3. Phương pháp thảo luận nhóm.
Thảo luận nhóm là một phương pháp dạy học hiện đại, lấy người học làm trung
tâm.Với phương pháp này, người học được làm việc cùng nhau theo các nhóm nhỏ và
mỗi một thành viên trong nhóm đều có cơ hội tham gia vào giải quyết các nhiệm vụ
học tập trong một khoảng thời gian nhất định dưới sự hướng dẫn, lãnh đạo của giáo
viên.
Ví dụ :

13


Khi muốn học sinh bày tỏ tình cảm, sự gắn bó của mình với quê hương đất
nước, với thiên nhiên tôi đặt câu hỏi: Tình yêu đó gợi cho em tình cảm gì đối với
thiên nhiên, quê hương, xóm làng?
Trong một thời gian ngắn, để học sinh bộ lộ được suy nghĩ của mình tôi cho
các em thảo luận nhóm theo 2 bàn, trong 3 phút. Sau đó đại diện học sinh sẽ trả lời.
Từ đó sẽ tìm ra định hướng trả lời chung .
Mục đích chính của thảo luận nhóm là thông qua cộng tác học tập, nhằm: Phát
huy tính tích cực, chủ động, tự lực của học sinh: trong thảo luân nhóm, học sinh phải
tự giải quyết nhiệm vụ học tập, đòi hỏi sự tham gia tích cực của các thành viên; đồng
thời, các thành viên cũng có trách nhiệm về kết quả làm việc của mình. Giúp cho học

sinh có điều kiện trao đồi, rèn luyện khả năng ngôn ngữ thông qua cộng tác làm việc
trong nhóm, phát triển năng lực giao tiếp, biết lắng nghe, chấp nhận và phê phán ý
kiến người khác. Đồng thời, các em biết đưa ra những ý kiến và bảo vệ những ý kiến
của mình.
2.3.3.3. Phương pháp thuyết trình.
Có thể hiểu phương pháp thuyết trình là phương pháp trình bày một vấn đề
trước nhiều người. Trong dạy học, đó là việc GV dùng lời nói, phong thái và cử chỉ
để trình bày những tri thức bài giảng tới người học. Học sinh cũng dùng lời nói,
phong thái cử chỉ để trình bày những hiểu biết, cảm nhận, ý kiến của mình trước vấn
đề đặt ra.
Ví dụ
Khi học sinh đã chuẩn bị bài ở nhà về hiểu biết của mình về tác giả, tác phẩm
theo yêu cầu, trước khi vào bài mới tôi cho các em khoảng 5 phút để các nhóm tự các
em thuyết trình kết quả của mình.
Sau khi các em thảo luận nhóm xong tôi cho các em thời gian 1 phút để trình
bày ý kiến của tổ mình.
Trong quá trình dạy tôi cũng sử dụng lời văn của mình để giảng giải, phân tích
bình luận nhằm giúp các em tiếp cận, lĩnh hội kiến thức và phát huy năng lực của
mình khi giải quyết các vấn đề đặt ra
Thuyết trình vẫn là phương pháp được sử dụng phổ biến ở các cấp học, nó vẫn
luôn có những lợi thế nếu chúng ta biết khai thác. Phương pháp này đòi hỏi phải huy
động sức mạnh tổng hợp của người dạy. Kiến thức uyên thâm, ngôn ngữ sinh động có
sức truyền cảm tốt cũng như lôi cuốn học sinh, một ánh mắt, một nụ cười thiện cảm
và một tình yêu nghề nghiệp có thể tác động vào trái tim người học mà không có con
đường nào so sánh được. Đặc biết khi chúng ta muốn phát triển năng lực thẩm mĩ của
học sinh qua tiết dạy này thì phương pháp thuyết trình là một lợi thế
2.3.3.4. Phương pháp trực quan.
Trực quan là một khái niệm biểu thị tính chất, hoạt động nhận thức, trong
đó những thông tin nhận được từ các sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài, được
cảm nhận trực tiếp, từ các cơ quan cảm giác của con người. Trong giờ đọc hiểu văn

bản phương pháp này được hiểu cụ thể ở việc giáo viên và học sinh sử dụng các hình
ảnh cụ thể, sinh động nhằm tạo ra tri giác trực tiếp cho học sinh.
Ví dụ.
Trong giờ dạy tôi sử dụng các hình ảnh: chân dung tác giả, hình ảnh những tác
phẩm chính của nhà văn Ai-ma-tốp; những bức tranh, hình ảnh về đất nước Cư-grư-xtan
xinh đẹp.
14


Phần chú thích tôi sử dụng các hình ảnh minh họa:
Chú thích (1) Cao nguyên: vùng đất bằng phẳng, rộng lớn và cao, xung quanh
có sườn dốc rõ rệt.
Chú thích (7) Thủy triều: Hiện tượng chuyển động lên xuống có chu kì của
nước biển do chịu ảnh hưởng sức hút của mặt trăng và mặt trời.

Cao nguyên

Thủy triều

Phương pháp trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu
sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững
chắc trong trí nhớ là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực quan. Vì vậy, cùng
với việc phân tích, bình giảng những hình ảnh trực quan còn phát triển khả năng quan
sát, trí tưởng tượng, sáng tạo tư duy và ngôn ngữ của học sinh .
2.3.4. Thực hiện dạy học tích hợp liên môn.
Dạy học tích hợp là tổ chức nội dung dạy học của giáo viên sao cho học sinh có
thể huy động nội dung, kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải
quyết các nhiệm vụ học tập, thông qua đó hình thành kiến thức, kĩ năng, từ đó phát
triển được các năng lực cần thiết. Có thể tích hợp ba phân môn hoặc tích hợp môn
Ngữ văn với các môn học khác như Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân, Ngoài giờ lên

lớp,... tích hợp giữa kiến thức trong sách vở với kiến thức thực tiễn cuộc sống. Để
phát huy hiệu quả tiết dạy và phát triển năng lực thẩm mĩ ở học sinh qua tiết dạy:
"Hai cây phong" - Ngữ văn 8, Tập 1, trong bài dạy tôi đã tích hợp kiến thức môn văn
học với kiến thức ở các môn: Địa lí, Giáo dục công dân, Mĩ thuật, Âm nhạc.
Ví dụ: Khi giới thiệu về đất nước Cư-grư-xtan, tôi sử dụng bản đồ địa lý để học
sinh hình dung trực quan về đất nước này.
Tích hợp kiến thức môn Giáo dục công dân, tôi muốn hướng học sinh đến hai
tình cảm tốt đẹp của con người: Tình yêu quê hương, lòng biết ơn người thầy. Hướng
học sinh đến khát vọng, ước mơ cao đẹp của tuổi trẻ.
Ở văn bản này học sinh biết vận dụng kiến thức Mĩ thuật để cảm nhận được ngòi
bút miêu tả đậm chất hội họa của người họa sĩ, phát huy năng lực sáng tạo thẩm mĩ
khi vận dụng vẽ bức tranh thể hiện vẻ đẹp của phong cảnh quê hương.
Để khơi dậy nhu cầu, tình cảm thẩm mĩ, tôi sử dụng bài hát về quê hương đất
nước để củng cố bài học. Qua giai điệu của âm nhạc tôi muốn các em thấy hết được
những rung cảm tinh tế của người nghệ sĩ khi sáng tạo nghệ thuật nói chung, sáng tạo
tác phẩm văn chương nói riêng. Các em cũng phải vận dụng kiến thức âm nhạc, sự
15


rung cảm thẩm mĩ để thấy được giọng văn đẫm chất thơ, giai điệu ngọt ngào ở đoạn
nhân vật tôi cảm nhận về vẻ đẹp của hai cây phong.

2.3.5. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ phần mềm nói chung và phần mềm giáo
dục nói riêng đã giúp chúng ta có trong tay nhiều công cụ hỗ trợ cho quá trình dạy
học nói chung và phần mềm dạy học nói riêng. Để nâng cao chất lượng giờ dạy, phát
huy năng lực, tạo hứng thú cho học sinh khi học văn bản này trước hết tôi:
Tiến hành thu thập tài liệu, hướng dẫn học sinh thu thập tài liệu, liên quan đến
bài học từ mạng Internet.
Ví dụ : ảnh nhà văn Ai-ma- tốp, ảnh hai cây phong, ảnh cây tre Việt Nam, tranh

ảnh về làng quê…
Một số thông tin về tác giả tác phẩm.
Các tranh ảnh, thông tin thu được sẽ lưu lại vào USB, máy tính để trình chiếu,
thuyết trình trong giờ dạy.
Tiến hành thiết kế bài giảng điện tử. Tôi sử dụng phần mềm Powerpoint để thiết
kế bài giảng. Đây là phần mềm đơn giản, dễ thiết kế trình chiếu và có tác dụng tích
cực, rõ nét nhất. Khi giới thiệu, trình bày và khái quát nội dung bài học, mỗi slide
được coi là một bộ phận cũng là một hệ thống con trong hệ thống các nội dung mà
bài học cần thể hiện. Ở mỗi slide, có thể chọn hiệu ứng, đưa các tư liệu (ảnh, nhạc,
bài đọc tác phẩm …) làm cho bài giảng sinh động lôi cuốn hơn.
Khi thiết kế bài giảng cần: Xác định rõ mục tiêu bài dạy. Xác định kiến thức cơ
bản, nội dung trọng tâm. Lựa chọn tư liệu và những thông tin cần thiết phục vụ bài
dạy. Lựa chọn cách trình bày, các hiệu ứng phù hợp… xây dựng tiến trình dạy học
thông qua các hoạt động dạy học
Việc soạn bài giảng điện tử giúp giáo viên trình bày bài giảng sinh động hơn,
thích nghi với sự thay đổi của khoa học hiện đại. Song khi sử dụng bài giảng điện tử
cũng cần chú ý đây chỉ là phương tiện hỗ trợ cho giáo viên trong việc thực hiện các
phương pháp dạy học theo hướng đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong tiết dạy cũng phải đúng lúc, đúng chỗ, bảo
đảm đặc trưng bộ môn nhằm tạo hiệu quả cao cho giờ học, không được quá lạm dụng
mà làm mất chất Văn thật sự của một giờ Ngữ văn.
2.3.6. Thực hiện kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
Kiểm tra, đánh giá là khâu then chốt cuối cùng của quá trình dạy học, là "lực
nắn" hữu hiệu cách dạy cách học. Theo tinh thần đổi mới, việc kiểm tra, đánh giá cần
đa dạng hoá về hình thức, cách thức ra đề theo hướng vừa kiểm tra được kiến thức cơ
bản, vừa tạo điều kiện cho người học bày tỏ được cảm xúc, suy nghĩ, ý kiến, quan
điểm riêng của mình trước vấn đề đặt ra.
Với cách dạy cũ, khi dự giờ của đồng nghiệp, cuối tiết học giáo viên thường có
câu hỏi:
Đoạn trích có giá trị gì về mặt nội dung và nghệ thuật ? hay Nêu giá trị nội

dung và nghệ thuật của văn bản? Văn bản gợi cho em tình cảm gì?
16


Hay trong phần hướng dẫn học sinh học ở nhà giáo viên chỉ yêu cầu học sinh
làm câu 4 ở phần đọc hiểu văn bản sgk: "Tùy chọn trong bài một đoạn khoảng
mươi dòng liên quan đến hai cây phong để học thuộc lòng" hay: Về nhà học thuộc
phần ghi nhớ trong sgk.
Để trả lời được những câu hỏi đó 100% học sinh đều đọc phần nội dung tổng
kết được đóng khung trong sgk trang 101. Học sinh cũng chỉ dừng lại ở việc đọc
thuộc lòng đoạn văn bản, chứ không hề suy nghĩ, cảm nhận vẻ đẹp trong đoạn văn
mình chọn. Nếu giáo viên có hỏi vì sao emn chon đoạn văn ấy thì các em đều cho rằng
vì đó là những câu văn đã ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, lời ca êm dịu rất riêng của hai cây
phong. Có nghĩa là các em chỉ quan tâm nhiều đến ngôn từ, giọng điệu còn xúc cảm
thẩm mĩ của tác giả, nhu cầu, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ của bản thân lại không chú ý.
Thiết nghĩ, giá trị của một tác phẩm văn chương không chỉ gói gọn trong giá trị tư tưởng,
mà điều không kém phần quan trọng là sau những giá trị nội dung tư tưởng đó sẽ bồi đắp
cho tâm hồn các em những tư tưởng tình cảm tốt đẹp gì và từ đó biến thành hành động
cụ thể, đó mới là giá trị đích thực và vĩnh hằng của văn chương nghệ thuật.
Để phát huy năng lực thẩm mĩ của học sinh qua tiết dạy văn bản: "Hai cây
phong" - Ngữ văn 8, Tập 1, trong phần củng cố và liên hệ thực tế tôi yêu cầu thực
hiện một đề kiểm tra đọc hiểu ngắn. Chiếu đề bài trên tivi
Đề bài: Đọc kĩ đoạn văn sau và thực hiện yêu cầu bên dưới:
Đoạn văn từ: "Trong làng tôi không thiếu gì các loại cây, nhưng hai cây
phong này khác hẳn……tấm thân dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy
rừng rực"
Câu 1: Xác định những phương thức biểu đạt trong đoạn văn.
Câu 2: Trình bày nội dung của đoạn văn?
Câu 3: Xác định biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn văn?
Câu 4: Đoạn văn gợi cho em tình cảm gì?

HS suy nghĩ, trả lời cá nhân, vào phiếu giáo viên đã chuẩn bị trong thời gian 5 phút.
GV thu bài của học sinh về nhà chấm.
GV chiếu đáp án lên ti vi để củng cố bài học.
Câu 1: Phương thức biểu đạt: tự sự, kết hợp với miêu tả và biểu cảm.
Câu 2: Nội dung của đoạn văn: Cảm nhận của nhân vật tôi về hai cây phong.
Câu 3: Biện pháp tu từ: Nhân hóa, so sánh.
Câu 4: Học sinh trả lời theo cảm nhận riêng nhưng phải lí giải được tập trung
vào hai tình cảm chính.
Luôn biết yêu quý, gần gũi với thiên nhiên, yêu quý là gắn bó với làng xóm, quê hương.
Sau khi chấm bài, kết quả tôi thu được là có 49/51 học sinh trả lời được câu 1,
có 51/51 học sinh trả lời được câu 2, có 40/51 học sinh trả lời tốt câu 3, có 45/51 học
sinh trả lời được câu 4 có sức thuyết phục.
Qua phần này tôi đã củng cố được một phần bài học, đánh giá được năng lực
cảm thụ và năng lực thẩm mĩ của học sinh.
Trong phần hướng dẫn học sinh học ở nhà tôi yêu cầu học sinh thực hiện 2 bài tập nhỏ .
Bài 1. Chọn một đoạn văn mà em thích nhất đọc diễn cảm.
Bài 2:
a.Từ tình cảm, cảm nhận được ở văn bản: "Hai cây phong", em hãy viết một
đoạn văn từ 4 đến 6 câu trình bày tình cảm của mình đối với quê hương đất nước.
17


b.Từ tình cảm, cảm nhận được ở văn bản: "Hai cây phong", em hãy viết một
đoạn văn từ 4 đến 6 câu trình bày tình cảm của mình đối với thầy giáo hoặc cô
giáo để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng em?
c. Dựa vào truyện, tập sáng tạo một bức tranh, câu chuyện ngắn, bài thơ viết
về tuổi thơ gắn với một hình ảnh thân thuộc nào đó.( cánh đồng, dòng sông...)
Bài 1: Học sinh thực hiện cả lớp.
Bài 2: Tôi chia lớp làm 3 nhóm yêu câu mỗi nhóm thực hiện 1 câu hỏi ( nhóm 1: câu
a; nhóm 2 câu b; nhóm 3 câu c)

Kết quả kiểm tra câu 1 sau tiết học có tới 45/51 em biết đọc diễn cảm đoạn văn mình chọn.
Có 35 học sinh của nhóm 1, nhóm 2 thực hiện câu a, câu b bài tập 2 thì có 6/35
bài có sự cảm nhận thật sự tinh tế, lời nhận xét, đánh giá sâu sắc, tình cảm, cảm xúc
chân thật. Có 20/ 35 bài biết cảm thụ, nhận xét thể hiện tình cảm của mình với quê
hương, với thầy cô đã dạy mình.
Có 17 em thực hiện câu c bài tập 2 thì sau giờ dạy tôi đã thu được 15 bức tranh vẽ,
2 đoạn thơ, vẽ, viết về tuổi thơ gắn với một hình ảnh thân thuộc của quê hương .
Các tác phẩm, bài viết của các em tuy chưa thật sự xuất sắc, nhiều bài còn vụng về
về đường nét, ngôn từ nhưng phần lớn đều thể hiện được những tình cảm thẩm mĩ, thị
hiếu thẩm mĩ của mình.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Áp dụng những kinh nghiệm trên vào tiết dạy học văn bản: "Hai cây phong",
Ngữ văn 8, Tập 1 trong năm học 2018 - 2019, bản thân tôi đã nhận được những kết
quả ban đầu thật đáng mừng. Hầu hết học sinh trong khối 8 của nhà trường đều hào
hứng tham gia tiết học, kể cả những em có học lực trung bình và yếu. Kết quả điều tra
về chất lượng học sinh khá tương xứng với mức độ hứng thú sau tiết học. Kết quả
điều tra được như sau
Mức độ hứng thú của học sinh sau tiết học
Số học
Hứng thú
Bình thường
Không hứng thú
Khối
sinh
Số
Số
%
%
Số lượng

%
lượng
lượng
8
51
39
76,5
8
15,7
4
7,8
Kết quả tiết học
Khối

Số HS

Học sinh nắm vững nội Học sinh chưa nắm vững
dung bài học, biết vận nội dung bài học
dụng liên hệ.
Số lượng

%

Số lượng

%

8
52
46

88.5
6
11,5
Qua hơn một năm rút kinh nghiệm và thay đổi, áp dụng những giải pháp nêu
trên tôi nhận thấy chất lượng dạy và học ở các tác phẩm văn học nước ngoài nói
chung, văn bản: "Hai cây phong" trích tác phẩm: "Người thầy đầu tiên" của Ai-matôp nói riêng được nâng cao rõ rệt. Ở phương diện là một giáo viên trực tiếp đứng lớp
tôi thấy vững vàng hơn trong chuyên môn, tự tin say mê với sự nghiệp trồng người.
18


Đối với các em học sinh, các em từ đây đã ý thức được tầm quan trọng của
môn văn, biết cách tiếp cận với tác phẩm văn học. Với một đơn vị kiến thức nhỏ các
em không chỉ biết phát hiện qua ngôn từ, giọng điệu mà còn biết đào sâu, suy nghĩ
tìm tòi, tưởng tượng, sáng tạo để nắm được cốt lõi của vấn đề và hình thành tình cảm,
một cách tự nhiên. Số lượng học sinh có kĩ năng phân tích, cảm nhận về vẻ đẹp của
làng quê, vẻ đẹp của hai cây phong, hiểu và cảm nhận được tình cảm của tôi dành cho
thầy của mình trong văn bản tăng lên khá nhiều.
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận
Môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt trong nhà trường. Nó là một môn học cũng là
một môn nghệ thuật, là thế giới tâm hồn, tình cảm, là tài năng sáng tạo của người cầm
bút ghi dấu trên đó. Dạy văn không phải chỉ là sự "giải mã tri thức" cũng không đơn
thuần là sự "truyền đạo", dạy văn còn là bồi dưỡng thị hiếu và phát triển năng lực văn
chương, để từ đó văn học thực sự có sức mạnh trong việc bồi dưỡng tâm hồn và năng
lực cảm thụ cái đẹp trước cuộc sống.
Sau khi áp dụng sáng kiến: "Một số biện pháp phát huy năng lực thẩm mĩ
của học sinh qua tiết dạy văn bản: "Hai cây phong" - Ngữ văn 8", bản thân tôi
thấy phát huy được năng lực học sinh nói chung, năng lực thẩm mĩ qua tiết dạy văn
bản: "Hai cây phong" nói riêng thì sự chuẩn bị của giáo viên và học sinh cho tiết dạy
là vô cùng quan trọng. Bản thân giáo viên phải xác định đúng vai trò, mục tiêu, phương pháp tổ chức

tiết học để từ đó thiết kế bài giảng phù hợp. Đặc biệt giáo viên phải chuẩn bị tâm lí, cảm xúc trong tiết
dạy, chuẩn bị hệ thống câu hỏi để làm sao học sinh vừa nắm bắt được nội dung bài học, vừa có tình cảm
thẩm mĩ, nhu cầu thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ. Để rồi thông qua những điều đó giúp các em nhận ra
vẻ đẹp riêng của hai cây phong là khúc dạo đầu cho một bài ca khá dài về tình yêu quê hương và con
người, là nỗi buồn nhớ không nguôi về quê hương trong xa cách. Hai cây phong đặc biệt gắn liền với
một câu chuyện xúc động về người thầy đầu tiên đem ánh sáng văn hóa khai sáng cho lũ trẻ làng Kuku-rêu trong những năm 20 của thế kỉ XX, câu chuyện về tình thầy trò cảm động. Hai cây phong nhắc
chúng ta đừng bao giờ quên quá khứ tuổi thơ, đừng bao giờ quên công ơn và tình cảm của người thầy
giáo của cuộc đời mình. Đó là chỗ dựa vững vàng nhất, tin cậy nhất để mỗi con người luôn vững bước
trên mọi nẻo đường đời.
Sau khi nghiên cứu, thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này vào tiết học, bản thân
tôi và học sinh đã cảm nhận rất rõ về vẻ đẹp của hai cây phong, của làng quê, của
thiên nhiên, về vẻ đẹp của tình thầy trò để từ đó có những nhận thức đầy đủ hơn về
tình yêu quê hương đất nước và lòng biết ơn người thầy, trong văn bản nói riêng cũng
như trong văn học nói chung. Đặc biệt trong thời buổi kinh tế thị trường thì việc bồi đắp
cho mỗi người tình yêu quê hương, dân tộc, lòng biết ơn kính trọng người thầy là thật sự cần thiết.
3.2. Kiến nghị
- Các cấp lãnh đạo cần có sự ủng hộ, quan tâm giúp đỡ, sự đóng góp ý kiến rút
kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp trong và ngoài trường.
- Tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên trong từng năm để giáo viên có dịp trao
đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra biện pháp tối ưu, tích cực nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn.
Đây là những ý kiến của cá nhân chắc chắn trong khi viết tôi không tránh khỏi
thiếu sót. Vậy kính mong các đồng chí trong Hội đồng khoa học cấp trên góp ý kiến
để tôi có thể hoàn thiện hơn nữa kinh nghiệm này.
19


Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thọ Xuân, ngày 25 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không
sao chép nội dung của người khác.

XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG
HIỆU TRƯỞNG

NGƯỜI VIẾT

Đỗ Ngọc Đức

Lê Thị Phương
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghị quyết Số: 29 – NQ/TW năm 2013 về “ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” của Hội nghị
Trung ương 8 khóa XI ban hành.
2. M.Gorki Toàn tập, 30 tập, tập V, Matxcơva, tr. 362, 363.
3. Bài giảng mỹ học đại cương do Lê Như Bình biên soạn dùng trong các trường Đại
học Khoa học - Xã hội nhân văn.( Nguồn />4. Tài liệu dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh .
5. Tài liệu học tập về phương pháp dạy học theo hướng tích hợp (chuyên đề bồi
dưỡng sư phạm) của PGS-TS Nguyễn Văn Tuấn (6/2010)
(Nguồn />6. Bài giảng chuyên đề :" Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh".

20



×