Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Rèn kỹ năng xây dựng văn bản cho học sinh lớp 7 trường THCS n giúp các em nâng cao khả năng viết văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.69 KB, 23 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chon đề tài:
Văn học có vai trò quan trọng trong đời sống và sự phát triển tư duy của
loài người. Là một môn học cơ bản trong nhóm KHXH, môn Ngữ văn giúp ta
giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh tốt nhất. Với vai trò to lớn
đó mà M.Gooki đã từng nói “Văn học là nhân học”. Ta hiểu rằng văn là người,
học văn là học cách làm người, học cái hay, cái đẹp. Vì thế mà học tốt môn Ngữ
văn sẽ có tác dụng tích cực đến kết quả học tập của các môn khác và các môn
khác cũng góp phần giúp học tốt môn Ngữ văn. Nó có tác động qua lại và quan
hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Nhất là trong các môn Khoa học xã hội,
đặc trưng này càng thể hiện rõ nét. Với vai trò là môn học cơ bản, giường cột
trong giáo dục nhà trường cho nên người giáo viên giảng dạy bộ môn cần phải
lựa chọn thật tinh, thật kỹ, vận dụng thật linh hoạt các phương pháp nhằm rèn kĩ
năng tiếp thu, vận dụng kiến thức để đạt hiệu quả cao nhất. Vì vậy mà cố thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định:“Cái quan trọng nhất trong giảng dạy nói
chung và trong giảng dạy văn học nói riêng là rèn bộ óc, là rèn phương pháp
suy nghĩ, phương pháp nghiên cứu, phương pháp tìm tòi, phương pháp vận
dụng kiến thức”[1].
Môn Ngữ văn đặc biệt cần thiết trong việc thể hiện mục tiêu chung của
trường THCS như góp phần hình thành những con người có ý thức tự tu dưỡng,
biết yêu thương, quý trọng gia đình, bè bạn; giàu lòng yêu quê hương, đất nước,
yêu Chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng
nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, ghét cái xấu... Đó là những
con người biết rèn luyện để có tính tự lập, tư duy sáng tạo, năng lực cảm thụ các
giá trị chân, thiện, mỹ trong cuộc sống cũng như trong nghệ thuật. Trước hết là
trong văn học có năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt như một
công cụ để tư duy và giao tiếp. Đó cũng là những con người ham muốn đem tài
trí của mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng hy
sinh cho đất mẹ thân yêu.
Xuất phát từ mục tiêu cơ bản trên, người giáo viên dạy văn cần phải tìm ra
cho riêng mình những phương pháp dạy học tích cực để giúp học sinh yêu văn,


thích học văn và xây dựng được những bài văn hay giàu cảm xúc trong văn biểu
cảm, lập luận chặt chẽ trong văn nghị luận…Trong quá trình giảng dạy những
kiến thức học sinh lĩnh hội được sẽ được phản ánh cụ thể trong những bài tập
làm văn. Người giáo viên bao giờ cũng muốn học trò của mình nắm vững được
trình tự của các bước làm một bài văn, làm được những bài văn hay, nhưng điều
này quả là một điều rất khó khăn. Mà giáo viên cần giúp học sinh hiểu rằng:
“Bài văn hay trước hết là phải viết đúng, đúng yêu cầu của đề bài, đúng những
kiến thức cơ bản, hình thức trình bày, bố cục rõ ràng...”
Việc xác định đúng hướng và thực hiện tuần tự các bước trong một bài
văn là rất cần thiết. Trước hết là hiểu đúng yêu cầu của đề bài. Vì nó rất quan
trọng, giúp học sinh thể hiện đúng chủ đề của bài văn, tránh lạc đề. Xác định
1


đúng yêu cầu của đề cũng giúp người viết tìm ra các ý và lập một dàn ý tốt. Từ
một dàn ý tốt người viết sẽ triển khai viết các phần, các đoạn rồi viết thành một
bài viết (hay còn gọi là một văn bản) hoàn chỉnh, tránh được sự dài dòng, lộn
xộn các ý tạo được sự thống nhất, hài hòa giữa các phần của bài viết. Mặt khác
còn phải viết đúng kiến thức cơ bản, đúng kiểu bài mới tạo nên được một văn
bản hay.
Trong thực tế giảng dạy tôi nhận thấy bài văn của học sinh mình chưa đáp
ứng được những yêu cầu của một văn bản trong nhà trường. Bài văn của các em
vẫn còn hiện tượng lạc đề, xa đề do các em đã bỏ qua hầu hết các bước Tìm hiểu
đề, tìm ý và lập dàn ý. Học sinh thường đọc đề và viết bài luôn mà bỏ qua các
bước tìm ý và lập dàn ý, thậm chí nhiều em viết xong bỏ qua cả bước “Đọc và
sửa chữa” nộp bài luôn. Vì thế mà bài viết của học sinh thường chưa hay, chưa
tốt, còn sơ sài, thiếu ý...
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn, bản thân luôn suy nghĩ và
trăn trở làm sao để các em học sinh ham học văn, có kĩ năng viết văn tốt. Chính
vì thế, tôi thấy cần phải tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra giải pháp tốt giúp học sinh

làm bài tập làm văn đạt hiệu quả cao. Với thời gian công tác 16 năm, tôi tự tìm
tòi, học hỏi bạn bè đồng nghiệp và vận dụng đến nay tôi đã tìm được cho mình
một cách làm mà bản thân thấy hiệu quả rõ nét đó chính là hình thành cho các
em dần từ thói quen rồi trở thành kĩ năng. Trong khi làm bài tập làm văn, học
sinh cần có kĩ năng tìm hiểu đề, phân tích đề, kĩ năng tìm ý, lập dàn ý, kĩ năng
diễn đạt, kĩ năng trình bày. Chính vì vậy năm học này tôi đã mạnh dạn thực hiện
thử nghiệm sáng kiến kinh nghiệm “Rèn kĩ năng xây dựng văn bản cho học
sinh lớp 7 trường THCS Cẩm Ngọc giúp các em nâng cao khả năng viết văn”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Đưa ra đề tài này, thông qua việc hướng dẫn các em học sinh ôn luyện, nắm
được những kĩ năng cơ bản về xây dựng văn bản, tôi muốn các em có được
những kiến thức thành thạo để vận dụng vào việc làm các dạng bài văn một cách
hiệu quả. Vì thế khi nghiên cứu và thực hiện đề tài này tôi đã hướng tới các mục
đích cụ thể sau:
- Nắm vững những kiến thức lý thuyết liên quan đến kĩ năng làm bài.
- Nhận diện, phân loại các dạng đề.
- Hiểu được phương pháp, cách thức làm kiểu bài văn sau đó vận vận dụng
làm các dạng văn mà giới hạn học sinh lớp 7 được học như tự sự, miêu tả, biểu
cảm, nghị luận.
- Luyện tập một số đề để rèn kĩ năng làm bài.
- Góp phần nâng cao chất lượng bộ môn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
- Đề tài này cũng có thể coi là tài liệu để các giáo viên bộ môn trong trường
tham khảo.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
2


- Kĩ năng xây dựng văn bản.
- Học sinh lớp 7A Trường THCS Cẩm Ngọc, Cẩm Thủy, Thanh Hóa. Năm
học 2018-2019.

1.4. Phương Pháp nghiên cứu:
Trong sáng kiến tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp dùng số liệu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân loại.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề:
Môn Ngữ văn nói chung và môn Ngữ văn 7 trong chương trình THCS nói
riêng, trọng tâm là rèn luyện kĩ năng Ngữ văn cho học sinh, làm cho các em có
kĩ năng nghe, nói, đọc viết Tiếng Việt thành thạo theo các kiểu văn bản và có kĩ
năng bước đầu về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu có năng lực cảm thụ và
bình giá văn học. Phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp các
phân môn khác trong môn Ngữ văn. Qua tiết Tập làm văn học sinh có khả năng
xây dựng một văn bản đó là bài nói, bài viết, nhưng để hướng dẫn cho học sinh
nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nó phụ thuộc rất lớn vào năng lực,
khả năng của cả thầy và trò.
Trong thực tế, năng lực, khả năng có quan hệ chặt chẽ với tri thức, kĩ
năng. Để phát triển một năng lực nào đó cần có một số kĩ năng nhất định. Tri
thức, kĩ năng tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy năng lực phát triển. Ngược lại,
năng lực lại giúp học sinh nắm vững những kĩ năng, tri thức cần thiết. Từ những
kiến thức lí thuyết được trang bị, học sinh cần phải có khả năng vận dụng chúng
vào thực tế. Khả năng vận dụng đó gọi là kĩ năng. Vậy vấn đề đặt ra ở đây là:
Người giáo viên dạy tập làm văn như thế nào để học sinh vận dụng tốt, viết tốt
bài văn của mình. Ta cần có cách tổ chức, tiến hành dạy tiết tập làm văn ra sao
để đạt hiệu quả như mong muốn đó là rèn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tốt nhất
cho các em.

Yêu cầu trong một bài văn của học sinh ở nhà trường phổ thông bao giờ
cũng phải hướng tới hai yếu tố cơ bản là: nội dung và hình thức. Nội dung bài
văn do hai vấn đề cơ bản tạo nên là ý và văn. Mà muốn có ý ta cần phải phân
tích thật kỹ đề bài, phải biết tìm ý và lập dàn ý cho bài viết. Bài văn có ý chưa
đủ mà từ ý phải biết diễn đạt thành văn; diễn đạt phải chặt chẽ, sáng sủa và phản
ánh được chính xác ý. Hình thức bài văn chủ yếu thể hiện ở việc trình bày nội
3


dung bài viết trên giấy (bố cục, chữ viết, chính tả …). Có thể nói làm kiểu văn
bản nào cũng phải rèn luyện theo các yêu cầu trên. Các yêu cầu ấy có thể xếp
thành các kĩ năng lớn sau đây:
- Kĩ năng tìm hiểu đề, phân tích đề
- Kĩ năng tìm ý, lập dàn ý
- Kĩ năng trình bày
- Kĩ năng diễn đạt
-Kĩ năng đọc và sửa bài
Trong mỗi kĩ năng lớn ấy có thể hình thành các kĩ năng bộ phận (còn gọi
là kĩ năng nhỏ) khác nhau. Chẳng hạn, trong kĩ năng diễn đạt có thể chia ra các
kĩ năng nhỏ hơn như: kĩ năng mở bài, thân bài, kết bài, kĩ năng viết có hình ảnh,
kĩ năng dùng từ và viết câu, kĩ năng so sánh…..
Những kĩ năng lớn trên có mối quan hệ mật thiết với nhau chúng tạo
thành một quy trình thống nhất theo trật tự hợp lý. Bắt đầu là phân tích, tìm hiểu
đề sau đó tìm ý, lập dàn ý rồi trình bày, diễn đạt cuối cùng là đọc và sửa bài.
Phải phân tích đề tốt thì mới có thể viết đúng hướng và mới tìm được ý. Tìm
được ý rồi phải biết sắp xếp theo một thứ tự phù hợp (để có bài văn đúng); có
dàn ý phù hợp ta mới diễn đạt thành văn (để có bài văn hay), trình bày và chỉnh
sửa lại bài văn (để có bài văn đẹp).
Song qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy mặc dù sách giáo khoa đã có
những tiết dạy cách làm một bài văn phải như thế nào; giáo viên cũng đã truyền

thụ đầy đủ kiến thức nhưng phần đa các em học sinh bỏ qua các kĩ năng hoặc có
thì cũng chỉ qua loa đại khái, chỉ viết rồi nộp một cách đối phó không nghĩ mình
làm được gì qua những bài tập làm văn đó. Với học sinh lớp 7 Trường THCS
Cẩm Ngọc, nhiều em đã đi qua hơn một năm của cấp THCS mà chưa hình thành
cho mình được những kĩ năng cần thiết khi tạo lập một văn bản (nói, viết).
Trong quá trình tham gia vào các hoạt động này, học sinh với vốn kiến thức còn
hạn chế nên thường ngại nói (trong tiết luyện nói), ngại viết (trong tiết viết bài).
Vì vậy mà hướng dẫn cho học sinh xây dựng văn bản, cách viết bài văn hay là
rất cần thiết để giúp các em hứng thú hơn trong học tập bộ môn Ngữ văn.
2. 2. Thực trạng vấn đề:
- Đối với giáo viên: Trước đây khi dạy văn, tôi chỉ giúp các em nắm bắt
những nội dung cơ bản trong sách giáo khoa, mới chỉ hình thành các hiểu biết về
lý thuyết thể văn, các kĩ năng làm bài qua các đề và bài văn mẫu mà chưa chú
trọng luyện tập và ra bài tập về nhà cho các em để từ đó hình thành các kĩ năng
làm bài. Nếu chỉ như vậy thôi thì tôi thấy chưa đủ so với yêu cầu cao của môn
Văn là rèn kĩ năng viết bài cho các em.
- Đối với học sinh:
Học sinh trường THCS Cẩm Ngọc nói chung và học sinh lớp 7 nói riêng
phần lớn các em là học sinh người dân tộc thiểu số. Đời sống kinh tế đồng bào
4


còn nhiều khó khăn, ngoài một buổi đến trường hầu hết các em phải lao động ở
ngoài ruộng, trên đồi nên ít có thời gian để học, để đọc tài liệu tham khảo, mở
rộng vốn hiểu biết của mình. Nên vốn hiểu biết của học sinh còn hạn hẹp.
Văn học đòi hỏi học sinh phải chịu khó viết nhiều, đọc nhiều nhưng học
sinh trường THCS Cẩm Ngọc phần lớn ít có điều kiện cũng như thời gian để học
tập. Bên cạnh đó học sinh có vốn từ không phong phú do ít giao tiếp, ít đọc, ít
viết nên làm cho các em nghèo nàn về vốn từ vì vậy khi viết cũng khó khăn.
Trên địa bàn xã, nhiều em nhà ở xa trường, đường xá, phương tiện đi lại

còn nhiều khó khăn. Thêm vào đó nhiều phụ huynh chưa quan tâm đến việc học
của con cái, mải lo làm kinh tế, nhiều gia đình để con ở nhà cho ông bà đi làm
ăn xa. Hơn nữa ý thức học tập của nhiều học sinh chưa cao, chưa chú ý đến việc
tự học ở nhà và học trên lớp hay nói chuyện riêng không nghe thầy cô giảng, về
nhà không làm bài nên khi làm văn thường lúng túng, vụng về, thiếu kĩ năng
trình bày. Cách diễn đạt lủng củng, dùng từ ngữ chưa phù hợp...
Bước vào lớp 6 THCS ở những kiểu bài như: miêu tả, tự sự, biểu cảm hay
nghị luận ở lớp 7 học sinh đều được cung cấp đầy đủ các bước (cách làm) một
bài văn cụ thể. Nhưng qua quá trình dạy học tôi nhận thấy đa số các em thường
bỏ qua hoặc xem nhẹ các bước tìm hiểu, phân tích đề, tìm ý – lập dàn ý, trình
bày và diễn đạt mà chỉ qua đề bài là cắm cúi viết luôn, khi chấm có những bài
viết rất dài nhưng các ý lộn xộn, chưa được sắp xếp theo trình tự hợp lý hoặc xa
đề, lạc đề, mắc nhiều lỗi diễn đạt.
Từ những khó khăn trên, bản thân tôi thấy phải làm gì để tìm ra cách để giúp
các em không chỉ là thói quen làm bài như lâu nay mà phải hình thành cho các em
những kĩ năng cần thiết khi tạo lập một văn bản. Cũng chính từ sự băn khoăn, trăn
trở đó qua nhiều năm tích lũy, tôi đã đúc rút ra được những kinh nghiệm giúp học
sinh làm tốt bài tập làm văn trong chương trình Ngữ văn lớp 7.
Khi chọn hướng nghiên cứu “Rèn kĩ năng xây dựng văn bản cho học sinh
lớp 7 trường THCS Cẩm Ngọc giúp các em nâng cao khả năng viết văn”, bản
thân nhằm mục đích cung cấp cho học sinh một con đường nhanh và dễ dàng để
tạo lập văn bản, làm bài văn. Đồng thời giúp cho học sinh tìm hiểu sâu hơn về
các vấn đề: Tìm hiểu - phân tích đề, tìm ý -lập dàn ý, diễn đạt, trình bày, đọc và
tự sửa lỗi cho bài viết của bản thân. Từ đó hình thành cho các em kinh nghiệm
để góp phần làm tốt bài văn. Ngoài ra với mục đích để trao đổi với đồng nghiệp
để cùng bổ sung, xây dựng cho các giải pháp ngày càng hoàn thiện hơn trong
quá trình áp dụng vào giảng dạy bộ môn Ngữ văn tại đơn vị.
2.3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện:
2.3.1. Rèn kĩ năng tìm hiểu, phân tích đề.
Kĩ năng tìm hiểu, phân tích đề là kĩ năng định hướng làm bài cho toàn bộ

quá trình thực hiện 1 bài tập làm văn, bước này nhằm đáp ứng yêu cầu mà đề bài
đặt ra. Nhiệm vụ của kĩ năng này là xác định được vấn đề trọng tâm mà bài viết
5


cần làm sáng tỏ và hướng giải quyết. Cho nên giáo viên cần giúp học sinh biết
cách xác định đúng yêu cầu của đề bài để xây dựng định hướng làm bài văn
chính xác.
Tuy vậy, có một thực tế mà hầu hết giáo viên bộ môn văn cũng như bản
thân tôi đều nhận thấy những học sinh chưa có kĩ năng hoặc trây lười trong học
tập thường không chú ý đến các bước này. Vì vậy mà đa số các em trong quá
trình làm bài các em thường mắc các lỗi lạc đề, lệch đề nên bài văn thường
không có điểm cao.
Khi gặp đề tập làm văn, học sinh mới đọc qua đề chưa cần tìm hiểu gì đã
vội viết ngay, làm ngay, gặp gì viết nấy. Ví dụ cứ thấy đề về Nguyễn Trãi là viết
tất cả những gì mình biết về tác giả này. Thực ra thì hoàn toàn không phải như
vậy, mỗi đề văn nhất là đề văn hay, người ra đề ngoài những yêu cầu bình
thường, luôn luôn “cài đặt” trong đó một ẩn ý mà chỉ có học sinh chịu khó tìm
hiểu, suy nghĩ mới có thể phát hiện và đáp ứng được. Chính vì thế mà hướng
dẫn cho các em làm tốt bước này sẽ giúp học sinh tránh được các lỗi lạc đề, lệch
đề từ đó bài văn sẽ chính xác hơn và tốt hơn.
Từ thực tế hạn chế đó của học sinh nên tôi luôn hướng dẫn học sinh thực
hiện thao tác này. Công việc này được lặp đi lặp lại ở mọi bài văn viết trên cơ sở
đó các em sẽ biến nó thành kĩ năng cần thiết trước khi viết bài.
Ví dụ: Sắp đến các tiết bài viết làm tại lớp giáo viên ra đề rồi yêu cầu học
sinh về nhà thực hiện trước bước tìm hiểu đề với các đề bài trên rồi sau đó giáo
viên kiểm tra kết quả của các em (yêu cầu làm ra giấy).
Trước một đề bài tôi thường yêu cầu học sinh đọc đi đọc lại nhiều lần, xác
định những từ cần chú ý, chép lại đề với những ý có gạch đầu dòng để làm nổi
bật các yêu cầu của đề để giúp học sinh tìm hiểu, phân tích đề kỹ càng hơn. Làm

sao đó mà giúp các em thấy được kết quả cuối cùng của bước tìm hiểu đề phải
xác định yêu cầu :
- Đề ra thuộc kiểu bài nào?
- Lời yêu cầu về kiểu bài: trực tiếp hay gián tiếp?
- Đề bài và giới hạn? Học sinh cần tìm hiểu rõ qua từng từ ngữ để xác
định giới hạn của đề bài. Chỉ 1 sơ suất nhỏ trong việc xác định giới hạn của đề
bài cũng có thể dẫn các em từ tản mạn, xa đề đến lạc đề.
Ví dụ: Cho đề bài: Em hãy kể lại một kỉ niệm sâu sắc với người thân của em?
Với đề bài này có rất nhiều học sinh kể ra hai, ba kỉ niệm nhưng không có
kỉ niệm nào được kể một cách đầy đủ. Rồi đang kể kỉ niệm về người này lại
chuyển sang người khác. (Học sinh mắc lỗi này nguyên nhân là do các em xác
định chưa đúng yêu cầu của đề, chưa tìm ra được từ “khóa” trong đề đó là: “Một
kỉ niệm sâu sắc” và “người thân của em”).
Tìm hiểu, phân tích đề là bước quan trọng, tuy nhiên trong chương trình
học thời gian dành cho khâu này còn quá ít. Để khắc phục được khó khăn trên
6


và cho học sinh thực hiện tốt bước này bản thân tôi đã kết hợp thời gian trên lớp,
thời gian ở nhà của các em để hướng dẫn cho các em thực hành.
Ví dụ: Khi dạy xong bài “Đề văn biểu cảm và cách làm bài văn biểu
cảm” (tiết 25- Kế hoạch giáo dục nhà trường Ngữ văn 7 Trường THCS Cẩm
Ngọc) giáo viên yêu cầu học sinh: Ngoài việc chuẩn bị tốt các điều kiện cho bài
cũ các em về nhà hãy thực hiện trước bước tìm hiểu đề với đề bài : “Loài cây em
yêu” của bài.
Đề bài: “Loài cây em yêu”
- Kiểu bài: Biểu cảm (Phát biểu cảm nghĩ)
- Yêu cầu: Gián tiếp (không có lệnh đề, lệnh đề bị ẩn)
- Giới hạn: Chọn loài cây ở làng quê Việt Nam có ý nghĩa biểu trưng như
sen, tre, đa, dừa…

Đến tiết viết bài số 2 giáo viên chọn đề bài này cho câu 2 ở phần tạo lập
văn bản. Nếu vậy học sinh sẽ dễ dàng làm bài vì các em đã được chuẩn bị, định
hướng kiến thức và kĩ năng.
Trong các tiết trả bài trên lớp, tôi đã chỉ ra cho học sinh thấy một cách
nghiêm túc rằng trong các lỗi học sinh mắc phải, lỗi lạc đề là lỗi nặng nhất,
nghiêm trọng nhất của một bài tập làm văn. Khi bài văn đã lạc đề thì dù có
những đoạn văn hay đến đâu cũng không thể đạt điểm số cần thiết.
Với giáo viên, trước một đề tập làm văn việc tìm hiểu đề là đơn giản
nhưng với học sinh bước này rất quan trọng. Vì vậy trước bất cứ một đề văn nào
giáo viên luôn yêu cầu học sinh chú trọng thực hiện bước này. Có thể nói rằng
đây là một bước mất rất ít thời gian nhưng nó mang lại hiệu quả cao nhất trong
quá trình làm bài của học sinh. Giáo viên phải luôn luôn nhắc nhở các em muốn
làm được một bài văn hay trước hết phải nhận thức đề cho “đúng” và cho
“trúng”. Bởi vậy, đây là bước rất quan trọng và không thể thiếu trong tạo lập văn
bản (viết bài văn).
2.3.2. Rèn kĩ năng tìm ý, lập dàn ý cho các đề văn.
Đứng trước một đề văn hay, việc phân tích, tìm hiểu cho kỹ càng, sâu sắc
đã khó, việc tìm ý và xây dựng cho được một dàn ý tương đối hoàn chỉnh và
đúng đắn lại là khâu càng khó hơn. Bởi lẽ trước một vấn đề của cuộc sống xã
hội hoặc văn chương không ít cách tiếp cận, cách hiểu. Do vậy, ít khi có một lời
đáp duy nhất, đặc biệt là loại đề biểu cảm, phân tích, bình giảng một tác phẩm
văn học. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là trước một đề văn ai thích nói
gì thì nói mà phải có lý, phải có sức thuyết phục. Vì thế, trước 1 đề văn, người ra
đề cũng như người viết bài cũng phải nêu lên được cách hiểu (nhận thức đề) và
những ý cơ bản cần phải đạt được trong bài viết tức là phải hình thành được dàn
ý đáp ứng được yêu cầu của đề bài.
a. Tìm ý.
7



Trước hết giáo viên cần cho học sinh thấy ý ở đây là ý của đề bài đặt ra
chứ không phải ý của các văn bản (tác phẩm) được tìm hiểu . Tất nhiên, có khi ý
của đề trùng với ý của tác phẩm.
Ví dụ: “Em hãy phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa(Xuân
Quỳnh)” thì ý của đề gần như trùng với ý của tác phẩm được biểu cảm.
Cũng là văn bản trên, nhưng với đề “Cảm nghĩ về tình bà cháu và tình yêu
quê hương đất nước của người lính trong bài thơ Tiếng gà trưa(Xuân Quỳnh)”
thì ý của đề lại khác và do vậy xây dựng ý cũng như cách biểu cảm cho 2 đề là
khác nhau.
Để tìm được ý cho một đề văn một trong những cách tương đối hiệu quả
là giáo viên giúp học sinh biết đặt ra các câu hỏi và tìm cách trả lời. Việc đặt ra
các câu hỏi thực chất là giúp học sinh biết soi sáng, chiếu rọi đối tượng dưới
nhiều góc độ, biết lật đi lật lại vấn đề để tìm hiểu, xem xét cho kỹ càng và thấu
đáo, chặt chẽ hơn.
Ví dụ: Trước khi giáo viên cho học sinh viết bài tập làm văn số 3 ( Tiết
51-52 văn biểu cảm lớp 7) giáo viên giao trước cho các em một đề bài để các em
luyện tập, rèn kĩ năng, tìm hiểu đề, tìm ý.
Đề bài: Cảm nghĩ về người mẹ thân yêu cuả em.
Tìm hiểu và phân tích đề văn trên, học sinh sẽ nhận ra vấn đề trọng tâm
cần làm là bộc lộ tình cảm về người mẹ thân yêu.
Để tìm ý cho bài viết, học sinh có thể đặt ra những câu hỏi như:
- Đối tượng biểu cảm là ai?
-Tình cảm, ấn tượng của em về mẹ như thế nào?
-Nét tiêu biểu về mẹ là gì?(mái tóc, làn da, nụ cười, ánh mắt, tính cách..)
-Tình cảm của mẹ đối với những người xung quanh như thế nào?(Ông bà
nội, ngoại, với chồng con ...Với bà con họ hàng, làng xóm …)
-Tình cảm với những kỉ niệm sâu sắc của em với mẹ là gì?
-Mong muốn, khát vọng, ước mơ của em đối với mẹ ra sao?
-Lời hứa của em với mẹ là gì?
Trong những câu hỏi lớn trên học sinh có thể đặt tiếp các câu hỏi nhỏ

để triển khai các ý lớn.
Ví dụ: Nét tiêu biểu của mẹ là gì?
-Mái tóc của mẹ ra sao?
-Làn da như thế nào?
-Ánh mắt, nụ cười mẹ có gì đặc biệt?
-Tính cách của mẹ thế nào?
8


Tương tự với cách làm bài trên giáo viên có thể chỉ ra cho học sinh cách
xác định và tìm ý cho hàng loạt đề văn theo các yêu cầu khác nhau.
Ví dụ: Tiết 57 “Luyện nói : Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học” với
đề văn đã cho trong SGK. Sau khi học xong lý thuyết của tiết học này. Giáo viên
việc cho học sinh về nhà tìm ý theo hình thức đặt ra các câu hỏi và tìm cách trả
lời các câu hỏi. Giáo viên thu bài tập về nhà và kiểm tra, nhận xét.
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh
Đề văn này danh giới giữa biểu cảm và miêu tả, tự sự là rất gần. Nếu
không nắm vững lý thuyết về văn biểu cảm, học sinh rất dễ bị lạc đề. Để có hệ
thống ý cho bài viết cần trả lời các câu hỏi như:
- Bài thơ này viết trong hoàn cảnh nào?
- Nội dung chủ yếu của bài thơ là gì?
- Nghệ thuật chủ yếu có sử dụng trong bài thơ?( Hình ảnh ngôn ngữ)
- Tính cổ điển và hiện đại trong bài thơ biểu hiện ra sao?
- Chất thi sĩ và chiến sĩ kết hợp hài hòa như thế nào?
-Ấn tượng của em về bài thơ là gì?
Với cách đặt ra các câu hỏi và tìm cách trả lời câu hỏi dần dần sẽ hình
thành cho các em kĩ năng tìm ý một cách thành thục.
b. Lập dàn ý.
Như phần trên ta đã trình bày, có ý rồi, học sinh cần biết tổ chức, sắp xếp
các ý đã tìm được thành một hệ thống nhằm làm nổi bật đối tượng, vấn đề. Công

việc này gọi là lập dàn ý hoặc xây dựng bố cục, kết cấu cho bài viết. Thông
thường bài văn có 3 phần, mỗi phần có một nhiệm vụ cụ thể.
+ Mở bài: Giới thiệu đối tượng hoặc vấn đề trọng tâm cần làm rõ.
+ Thân bài: Triển khai, cụ thể hóa đối tượng và vấn đề trọng tâm đã nêu ở
mở bài bằng hệ thống ý được sắp xếp hợp lý.
+ Kết bài: Chốt lại vấn đề, nêu suy nghĩ, bài học cho bản thân.
Ví dụ : Lập dàn ý cho đề bài: Nhân dân ta thường nói “Có chí thì
nên”. Hãy chứng minh tính đúng đắn của câu tục ngữ đó. Tiết 91: Cách làm
bài văn lập luận chứng minh sách giáo khoa Ngữ văn 7 Tập 2(Trang 48)
Giáo viên hướng dẫn các em lập dàn ý cho đề văn này bằng cách đặt ra các
câu hỏi ở những phần rồi sẽ tìm ra câu trả lời trong quá trình viết bài cụ thể.
* Mở bài: Phần giới thiệu
- Giới thiệu về vai trò quan trọng của lí tưởng, ý chí và nghị lực trong đời
sống mà câu tục ngữ đã đúc kết. Khẳng định đây là một chân lí.
* Thân bài: Phần chứng minh
-Lí luận:
9


+Chân lí rất cần thiết để con người vượt qua trở ngại
+Không có ý chí, nghị lực thì không làm được gì.
+Ý chí nghị lực giúp ta thành công trong cuộc sống.
-Thực tiễn( Cần có dẫn chứng ở mỗi ý):
+Những người có ý chí đều thành công.
+Ý chí giúp ta vượt qua mọi khó khăn, trở ngại tưởng chừng như không
vượt qua được.
* Kết bài:
Lời khuyên nhủ mọi người hãy rèn luyện ý chí để có thể thành công trong
tương lai. Là học sinh càng phải rèn ý chí để hướng tới ngày mai tươi sáng [2].
Khi làm bài văn nhiều em hay mắc lỗi lạc đề bởi vì khâu lập dàn bài các

em thường không làm hoặc làm mà chưa tốt, thiếu sự chuẩn bị. Vì vậy giáo viên
phải cho học sinh làm thuần thục khâu này. Đồng thời chỉ ra cho các em thấy
trong việc tìm ý và lập dàn ý các em thường mắc một số lỗi cần lưu ý rút kinh
nghiệm để tránh mắc phải như: Lạc ý, sót ý, lẫn lộn các ý, lặp ý...
Giáo viên cần cho các em hiểu :
-Lỗi lạc ý là:
+Các ý lớn không tập trung làm sáng tỏ cho vấn đề trọng tâm của đề bài
(luận điểm bộ phận không phù hợp với luận điểm trung tâm).
+ Các ý nhỏ không tập trung làm sáng tỏ cho ý lớn (lạc đề bộ phận không
phù hợp với lạc đề trung tâm hoặc luận cứ không phù hợp với luận đề bộ phận).
+ Các dẫn chứng không liên quan gì đến ý cần làm sáng tỏ.
- Lỗi thiếu ý (sót ý) như:
+ Không đủ ý lớn để làm sáng tỏ vấn đề trọng tâm.
+ Không đủ ý nhỏ để làm sáng tỏ các ý lớn.
+ Không có hoặc không đủ các dẫn chứng để làm sáng tỏ cho các ý nhỏ.
+Không đủ các ý lớn để làm rõ vấn đề.
- Lỗi sắp xếp ý lộn xộn như là: Không phân biệt được ý lớn với ý nhỏ, ý
phải trình bày trước với ý phải trình bày sau (Trình tự sắp xếp các ý chưa phù
hợp).
- Biểu hiện của lỗi lặp ý:
+Các ý sau lặp lại hoàn toàn hoặc lặp lại một phần ý trước.
2.3.3. Rèn kĩ năng trình bày.
Trình bày là khả năng thể hiện nội dung, bố cục bằng hình thức cụ thể qua
câu chữ của bài viết trên trang giấy. Giáo viên không cần đọc kỹ, nghiên cứu sâu

10


cũng có thể kiểm tra, đánh giá được ngay kĩ năng trình bày của học sinh. Đúng
và đẹp là hai yêu cầu cơ bản của việc trình bày.

Qua nhiều năm giảng dạy và chấm bài của học sinh tôi thấy đáng buồn là
vốn từ của các em nghèo nàn, diễn đạt lủng củng, trình bày cẩu thả chưa khoa
học… Bài văn dù có ý tốt, có giọng văn hay nhưng trình bày không khoa học thì
bài văn đó cũng không gây được thiện cảm tốt cho người đọc và vì thế mà cũng
không đạt kết quả tốt. Mặc dù đã học đến lớp 7 nhưng rất nhiều học sinh vẫn
chưa nhận ra được điều cơ bản này. Vì vậy giáo viên cần hướng dẫn cho các em
trình bày một bài văn như thế nào là đẹp và khoa học. Các vấn đề của trình bày
tương đối đa dạng nhưng tôi xin đưa ra một số cách mà mình đã vận dụng
hướng dẫn học sinh cần thiết như:
a. Rèn chữ viết đẹp, không mắc lỗi chính tả.
Chữ viết đúng, đủ nét, không mắc lỗi chính tả, rõ ràng, dễ đọc… Có chữ viết
đẹp thì càng tốt, nhưng trước hết phải đúng rồi mới đẹp. Bài văn không nên tẩy
xóa nhiều, nếu có tẩy xóa thì cũng phải tẩy xóa đúng cách, tránh tẩy xóa bừa bãi,
làm trang giấy bẩn thiếu tính thẩm mỹ. Đặc biệt hiện nay học sinh rất nhiều em
lạm dụng việc dùng bút xóa trong bài viết, giáo viên nên nhắc nhở các em điều
này, thậm chí không nên cho các em sử dụng. Chữ viết, chính tả phải sáng sủa,
sạch sẽ, đẹp đẽ.
b. Rèn cách trình bày bố cục rõ ràng.
Trong viết văn, các phần mở bài, thân bài và kết bài cũng như các phần
các đoạn lớn trong thân bài phải xuống dòng và lùi vào một khoảng xác định.
Nhìn vào trang giấy có thể thấy ngay đâu là mở bài và thân bài bắt đầu từ đâu,
kết bài chỗ nào. Trong thân bài có mấy đoạn, mấy ý, mấy luận điểm…Tức là bài
viết phải có bố cục rõ ràng, rành mạch.
c. Rèn cách trích dẫn.
Các dẫn chứng ta có thể trích dần từ tác phẩm thơ hoặc văn xuôi, có thể
trong chương trình học hay ngòai chương trình học miễn là dẫn chứng đó phải
phù hợp với các ý mình đang phân tích, làm rõ…Các lời trích dẫn phải tiêu biểu,
chính xác và là những “mắt chữ”, giàu ý nghĩa.
d. Rèn cách trình bày dẫn chứng.
Các dẫn chứng (thơ văn, ý kiến…) nếu đúng nguyên vẹn cần đặt trong

dấu ngoặc kép. Kết thúc lời dẫn cần ghi xuất xứ câu dẫn và để trong ngoặc đơn.
Các lời trích dẫn phải tiêu biểu, chính xác và là những từ ngữ giàu ý nghĩa.
Nếu dẫn chứng là thơ thì cần ghi vào giữa trang giấy để khoảng trắng 2
bên cân đối; nếu là văn xuôi thì xuống dòng và lùi vào một chút trước khi mở
ngoặc kép.
2.3.4. Rèn kĩ năng diễn đạt.
Khi bài văn đã có ý rồi đúng rồi, thì vấn đề quan trọng hơn cả là biết diễn
đạt cần phải hay. Tức là biết diễn đạt một cách khéo léo những ý của bài viết
thành lời văn cụ thể. Nhiều khi giáo viên đưa ra cùng 1 ý nhưng do cách hiểu,
cách diễn đạt khác nhau mà có những cách diễn đạt chưa như mong muốn. Diễn
11


ý hay phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Sau đây tôi xin đưa ra một số yếu tố giáo viên
có thể dựa vào đây để hướng dẫn học sinh tạo nên cách diễn đạt ý hay và đúng
đặc trưng của văn.
a. Giọng văn và thay đổi giọng văn.
Trong bài văn người viết sẽ thể hiện thái độ, tình cảm, tư tưởng của mình
trước một vấn đề mình đang bàn bạc, nói đến. Giọng văn là sự thể hiện màu sắc
biểu cảm đó. Qua bài viết mà nhận ra người viết tán thành hay phản đối, ngợi ca
hay châm biếm, tình cảm như thế nào trước đối tượng … Hơn nữa để tránh
nhàm chán, để bài viết sinh động, phong phú người viết phải rất linh hoạt trong
việc hành văn. Trước hết, cần sử dụng thật linh hoạt hệ thống từ nhân xưng phù
hợp với từng kiểu bài, từng đối tượng. Ví dụ: Khi viết về nhà thơ Xuân Quỳnh
ta có thể dùng khi thì Xuân Quỳnh, khi thì nhà thơ, rồi tác giả, bà, người nghệ sĩ,
nhà thơ nữ của dân tộc…. Hay khi biểu thị ý kiến của riêng mình học sinh
thường viết: Tôi cho rằng, tôi nghĩ rằng, theo tôi được biết, tôi tin rằng …
Nhưng để lôi kéo sự đồng tình, đồng cảm, để vấn đề đang bàn bạc trở nên khách
quan hơn thì người viết nên xưng: Chúng tôi, chúng ta, như mọi người đều biết,
như mọi người đã thấy, chúng ta hãy tin rằng…

Lời văn hay không phải chỉ ở cách dùng từ xưng hô, giọng văn linh hoạt
còn thể hiện ở cách dùng các từ như: vâng, đúng thế, không, điều ấy đã rõ, như
vậy, như thế, chẳng lẽ, không những mà còn … Những từ này tạo ấn tượng như
người viết đang tranh luận và đối thoại trực tiếp với người đọc, giáo viên hướng
dẫn học sinh dùng một loại thao tác tư duy nên học sinh luôn luôn thay đổi. Khi
thì dùng diễn dịch, khi thì dùng quy nạp, lúc thì song hành khi thì tổng phân
hợp, phân tích trước, dẫn chứng sau, khi thì dẫn chứng trước, phân tích sau, khi
thì liên hệ, khi so sánh cũng là để bài viết có giọng văn sinh động phong phú,
không đơn điệu một chiều, nhàm chán, khô khan.
Giọng văn linh hoạt còn được thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau
như: cách dùng từ đặt câu, nêu ý, lập luận, dùng hình ảnh, sử dụng dấu câu, thán
từ, trợ từ … Đây cũng chính là cách giúp người viết diễn đạt hay. Viết văn có
hồn, giàu cảm xúc.
b. Dùng từ hay và độc đáo.
Từ ngữ là đơn vị để tạo nên văn bản. Nó là vốn chung của mọi người
nhưng không phải ai cũng biết sử dụng, dùng đúng, dùng hay và biểu cảm.
Trong viết văn cũng vậy, khi viết phải dùng được những từ hay, đoạn hay
thì mới có bài hay. Chọn lọc được các từ hay là một trong những yếu tố quyết
định để có cách diễn đạt hay. Một trong những yếu tố của văn hay là bài văn đó
đọc lên từ ngữ cứ như “găm”, như “xoáy” vào tâm khảm, tình cảm người đọc,
từ ngữ linh hoạt, dùng đúng lúc, đúng chỗ, lột tả được thần thái của sự vật, sự
việc, con người… Muốn được như vậy, người viết vừa phải tích lũy cho mình
một vốn từ ngữ phong phú (đọc, giao tiếp, học hỏi qua văn mẫu) lại vừa viết có
12


ý thức sử dụng khi viết như: dùng từ đó để làm gì? Diễn tả vấn đề gì? Tác dụng
của việc dùng từ đó? Có phù hợp hay không? Bởi vì từ độc đáo thường mang
tính hai mặt: Sử dụng đúng lúc, đúng chỗ thì sẽ có câu văn, đoạn văn hay và
ngược lại dễ rơi vào sáo rỗng, khoe chữ, đó là chưa kể nhiều học sinh không

hiểu đúng từ mà vẫn dùng ẩu, dùng bừa…
Vậy nên khi viết văn cần sử dụng những ngôn từ độc đáo, dễ hiểu, hàm
súc. Bởi nó quyết định đến câu văn, đoạn văn, bài văn hay.
c. Linh hoạt trong viết câu.
Sử dụng câu linh hoạt là tùy từng lúc, từng nơi, tùy vào giọng văn của
từng đoạn mà học sinh chọn những loại câu tương ứng để diễn đạt cho phù hợp.
Dựa vào chức năng của câu mà khi diễn đạt dùng câu cho phù hợp như:
Để diễn đạt tình cảm và thái độ của mình thì người viết trực tiếp dùng câu cảm
thán. Hay khi muốn gây sự chú ý cho người đọc, người viết trực tiếp dùng câu
nghi vấn. Câu nghi vấn ở đây như là đặt ra vấn đề rồi sau đó tự trả lời, tự làm
sáng tỏ. Bên cạnh đó một loại câu cũng được vận dụng làm thay đổi giọng văn
trong bài nghị luận là loại câu có hai mệnh đề hô - ứng. Chúng thường theo lối
kết cấu: Tuy … nhưng, không những … mà còn, càng … càng, vì thế …. cho
nên …Khi luyện tập viết loại câu này ta cần lưu ý học sinh viết đủ cả hai vế rồi
mới chấm câu. Tránh tình trạng chấm câu chỉ mới có một vế.
Như vậy, trong một bài văn đặc biệt là văn nghị luận viết câu phải thật
linh hoạt. Từ và câu là những đơn vị mà người đọc dễ nhận thấy cái hay, cái độc
đáo của sự diễn đạt.
d. Viết lời văn có hình ảnh.
Trong chương trình phổ thông được xây dựng theo cấu trúc “đồng quy”
nên các em học về văn nghị luận từ lớp 7 lên lớp 8 và tiếp tục có ở lớp 9 (chiếm
thời lượng nhiều). Ở lớp 6 học văn tự sự thì lớp 8, 9 lại tiếp tục học nâng cao
hơn về dạng văn này là tự sự có kết hợp các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận.
Các kiểu văn bản như tự sự, miêu tả, biểu cảm,…. đương nhiên là cần có
hình ảnh. Văn nghị luận là loại văn của tư duy logic. Ý, lời cần chặt chẽ, sáng
sủa, lập luận phải chắc chắn bảo đảm độ chính xác cao, giàu sức thuyết phục đối
với trí tuệ. Tuy vậy nói như thế không có nghĩa là văn nghị luận chỉ trình bày
vấn đề một cách khô khan, trừu tượng mà không có cảm xúc và hình ảnh. Ngôn
ngữ văn nghị luận cũng cần phải hấp dẫn, lôi cuốn bằng từ ngữ có tính hình
tượng và sức biểu cảm cao để đạt hiệu quả cao nhất .

Mà cách cơ bản, cốt yếu nhất để tạo nên bài viết có hình ảnh là người viết
dùng phép so sánh, liên hệ, đối chiếu, ẩn dụ, liên tưởng, tưởng tượng...
Ví dụ: Cho luận điểm “Trong thơ Bác ánh trăng luôn tràn đầy”. Em
hãy phát triển luận điểm trên bằng một đoạn văn.
Giáo viên có thể hướng dẫn cho các em viết theo đoạn văn mẫu:
13


“Trong thơ Bác ánh trăng luôn tràn đầy. Trăng đã là ánh sáng, là thanh
bình, là hạnh phúc, là ước mơ, là niềm an ủi, người bạn tâm tình của Bác. Bác
tìm đến trăng say sưa ngây ngất ngắm trăng qua song sắt nhà tù. Trăng trở thành
tri kỉ khi Bác ở chiến khu Việt Bắc. Mặc dù bận trăm công nghìn việc Bác vẫn
dành thời gian để thả hồn mình vào ánh trăng thu vời vợi “Trăng lồng cổ thụ
bóng lồng hoa”. Trăng còn là biểu tượng của niềm tin. Con thuyền cách mạng
tràn ngập ánh trăng, mặt sông lung linh như dát bạc “Khuya về bát ngát trăng
ngân đầy thuyền”. Trăng trong thơ Bác là vậy đấy, trăng đẹp, trăng lung linh,
huyền ảo, thơ mộng quá!” [3]
e. Tìm dẫn chứng đưa vào bài viết và phân tích dẫn chứng.
Dẫn chứng thường là linh hồn, mạch thở của bài văn nghị luận. Dẫn
chứng phải được phân tích cho hay và gắn nó với lí lẽ cần làm sáng tỏ. Việc lựa
chọn dẫn chứng phù hợp để đưa vào phần viết của mình đã quan trọng, việc
phân tích dẫn chứng còn quan trọng hơn. Một bài văn có nhiều dẫn chứng chỉ
mới chứng tỏ người viết chăm học và khả năng nhớ tốt, mà chưa thể hiện được
khả năng lập luận. Mặt khác dẫn chứng mà không được phân tích, giải thích thì
người đọc không hiểu được dẫn chứng nhằm phục vụ và có ý nghĩa gì với lí lẽ,
với ý đang diễn đạt.
Ví dụ: Cảm nhận của em về khổ thơ cuối trong bài thơ Tiếng gà trưa
của Xuân Quỳnh( Ngữ văn 7. Tập 1)
Giáo viên cho học sinh tham khảo đoạn văn mẫu phần thân bài:
“Kết lại bài thơ là sự khẳng định chính tình yêu bà, tình yêu quê hương, đất

nước là sức mạnh, là mục đích để cháu chiến đấu hôm nay:
Cháu chiến đấu hôm nay
Vì tình yêu tổ quốc.
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi cũng vì bà.
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ.
Điệp từ “Vì” cùng với hình ảnh bà, quê hương, đất nước, tiếng gà, tuổi thơ
gắn bó với thời niên thiếu đẹp đẽ của người lính. “Ổ trứng hồng tuổi thơ ấy” đã
nhen nhóm trong tâm hồn cháu bao ước mơ, khát vọng, chất chứa bao tình yêu
thương của bà . Cháu sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ tổ quốc thân yêu vì người
bà đáng kính và kí ức tuổi thơ bên gia đình yêu thương. Cháu vô cùng biết ơn và
trân trọng những tình cảm tuyệt vời ấy”.
Như vậy việc chọn lựa dẫn chứng là cần thiết song việc phân tích dẫn
chứng còn cần thiết hơn cả dẫn chứng. Vì vậy, khi chọn dẫn chứng giáo viên lưu
ý học sinh: Ngoài yêu cầu chính xác, đa dạng, cần chú ý đến những dẫn chứng
14


mà tự mình thấy là tiêu biểu có khả năng phân tích được sắc sảo, hay và giàu ý
nghĩa. Có như thế bài văn mới lôi cuốn, thuyết phục người đọc.
g. Viết đoạn văn ở các phần trong văn bản.
* Viết đoạn mở bài:
Trong bài văn phần mở bài là rất quan trọng vì đây là phần mang tính định
hướng, giới thiệu, dẫn dắt người đọc vào vấn đề.
Ví dụ như mở bài cho văn nghị luận: Thường có ba phần:
-Mở đoạn: Viết những câu dẫn dắt là những câu liên quan đến vấn đề sẽ nêu.
-Phần giữa đoạn: Nêu vấn đề chính sẽ bàn bạc trong phần thân bài.
-Phần kết đoạn: Nêu phương thức nghị luận, phạm vi nghị luận. phần này
thường đề bài đã xác định sẵn, người viết chỉ cần ghi lại hoặc trích dẫn lại ở đầu bài.

Cụ thể như sau: Khi viết về vấn đề đoàn kết ta cần triển khai phần mở bài:
“Đoàn kết là cuội nguồn của sức mạnh và chiến thắng. Bởi vậy, từ ngàn xưa, tổ
tiên ta đã giáo dục đoàn kết qua những huyền thoại đẹp như: Sự tích trăm trứng,
Quả bầu mẹ…Thiêng liêng thay là ý nghĩa của hai tiếng đồng bào. Nó khẳng
định tất cả các dân tộc sinh sống trên non sông, đất nước ta đều do một mẹ sinh
ra. Bài học về đoàn kết còn được gửi gắm trong nhứng câu ca dao làm rung
động lòng người: Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người chung một nước thì
thương nhau cùng”[3].
Mở bài phải ngắn gọn, rõ ràng, đầy đủ và dùng từ ngữ có giá trị biểu đạt
cao để lôi cuốn người đọc.
* Viết đoạn văn phần thân bài:
Phần thân bài đóng vai trò vô cùng quan trọng, là phần cơ bản của bài
văn. Nó làm rõ vấn đề nói tới trong bài. Phần thân bài sẽ có nhiều đọan văn, mỗi
đoạn sẽ triển khai thành ý trọn vẹn. Trong văn nghị luận từ luận điểm lớn ta sẽ
phân tích, chẻ nhỏ thành các luận điểm phụ để làm rõ cho vấn đề.
Trong văn nghị luận phần thân bài cũng có ba phần:
- Mở đoạn: Nêu luận điểm chính của đoạn.
- Phần phát triển đoạn: Triển khai luận điểm chính thành các luận điểm
nhỏ hoặc các lí lẽ , dẫn chứng để thuyết phục người đọc.
- Phần kết đoạn: Nhiệm vụ chính của phần này là nhấn mạnh ý chính và
chuyển sang đoạn văn tiếp theo.
Giáo viên cần hướng dẫn cho các em hiểu thế nào là câu chủ đề, từ ngữ chủ
đề, đoạn văn và triển khai ý bằng đoạn văn trọng vẹn. Đoạn văn có thể triển khai
theo cách diễn dịch( Câu chủ đề đứng đầu đoạn văn), quy nạp( câu chủ đề đứng
cuối đoạn văn), song hành, tổng phân hợp …Ở đây tôi chỉ đưa ra pham vi là
triển khai đoạn văn theo cách diễn dịch vì nó phù hợp với ba phần đã nêu ở trên.
15


Cụ thể như sau: Khi viết về luận điểm:“Tình đoàn kết, thương yêu giai cấp

giống nòi là cơ sở của tình yêu quê hương, đất nước”.
“Tình đoàn kết, thương yêu giai cấp giống nòi là cơ sở của tình yêu quê
hương, đất nước. Tinh thần ấy được thể hiện qua những việc làm hàng ngày như
giúp đỡ người tàn tật, người gặp khó khăn, đồng bào bão lụt, phong trào đền ơn
đáp nghĩa, những lớp học tình thương nơi hang cùng ngõ hẽm đem ánh sáng đễn
cho mọi người…Tất cả những việc làm ấy là kết quả của bài học tương thân
tương ái lưu truyền đã bao đời”[3].
* Viết đoạn văn phần kết bài:
Tính chất chung phần kết bài của các dạng bài văn đó là tổng kết, khái
quát, đánh giá, suy nghĩ, cảm nhận, ấn tượng chung về vấn đề của văn bản. Cho
nên khi viết đoạn văn kết bài cũng thường có các cách kết bài như:
- Tóm lược phần nội dung đã nêu phần thân bài.
- Phát triển, mở rộng thêm vấn đề đặt ra trong bài( liên hệ)
- Liên tưởng( dùng những ý kiến hay để thay lời kết của người làm bài).
Ví dụ cụ thể kết bài nghị luận cho vấn đề “Đoàn kết”:
“Trong thời đại ngày nay tinh thần đoàn kết vẫn còn nguyên vai trò, ý nghĩa.
Kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc, ta hãy kề vai, sát cánh để xây
dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh. Trên bước đường đi đến tương lai tươi đẹp, lời
Bác dạy có giá trị to lớn, là nguồn sức mạnh cho chiến thắng của dân tộc: “Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Tuy nhiên giáo viên phải lưu ý cho học sinh cần có cách kết bài phù hợp,
cân xứng với phần mở bài, thân bài. Từ đó sẽ cho ta có một bài văn hoàn chỉnh,
cân đối, cùng với lời văn hay, giàu cảm xúc.
2.3.5. Rèn kĩ năng đọc và sửa bài.
Trong quá trình làm bài văn, nhiểu em hay mắc lỗi chính tả, dùng từ còn
vụng về chưa phù hợp, kết cấu câu chưa đúng ngữ pháp, giữa các phần các đoạn
chưa có sự liên kết…cần điều chỉnh. Vì vậy giáo viên phải rèn cho học sinh thói
quen đọc và sửa chữa sau khi làm xong bài viết. Sửa lần lượt từng phần mở bài
đến thân bài rồi kết bài. Đây là khâu không thể thiếu để hoàn thiện văn bản, giúp
bài viết đạt hiệu quả cao hơn.

Như vậy, để viết được một bài văn hay và đúng là việc không hề đơn giản
mà ngược lại còn rất khó. Bởi vì ngoài việc có kiến thức vững vàng nó còn đòi hỏi
người viết phải vận dụng nhiều kĩ năng khác nhau. Các kĩ năng cơ bản các em đã
được học trên lớp nhưng do đặc điểm lứa tuổi cũng như thời gian thực hành còn
hạn chế nên giáo viên phải có biện pháp hữu hiệu, phù hợp để giúp các em thành
thạo những kĩ năng đó mới mong các em vận dụng tốt vào làm bài văn.

16


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Năm học 2018 -2019 khối 7 của nhà trường có 2 lớp, tôi được phân công
giảng dạy. Để đánh giá kết quả đạt được bản thân tôi đã dựa vào các bài viết số
và kết quả của học kì I, kết quả tổng kết môn Ngữ văn lớp 7A và 7B .
- Kết quả lớp 7B chưa được áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm :
Giỏi
Khá
Trung bình
SL
% SL
%
SL
%
32
1
3.1
4
12.5
18
56.2

- Kết quả lớp 7A được áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm:

Tổng số HS

Tổng số HS
32

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu - kém
SL
%
9
28.2
Yếu - kém

SL

%

SL

%

SL


%

SL

%

2

6,2

11

34,4

16

50

3

9,4

Qua thời gian dạy học, được trực tiếp đứng lớp, tôi nhận thấy thực trạng
bài làm văn của học sinh lớp 7 Trường THCS Cẩm Ngọc đạt kết quả chưa cao.
Tôi đã tìm ra nguyên nhân, tìm ra các giải pháp của riêng cá nhân mình với
mong muốn chất lượng bài làm của các em từng bước được nâng lên. Tuy kết
quả ở trên đây chưa phải là cao nhưng đó cũng đã có sự thay đổi bước đầu về
khả năng và ý thức làm bài của học sinh. Từ đó dần dần sẽ nâng cao hơn về chất
lượng dạy học môn Ngữ văn ở nhà trường như trăn trở của bản thân.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

3.1. Kết luận.
Đổi mới phương pháp dạy học nói chung là rất cần thiết nhằm nầng cao
chất lượng giáo dục trong nhà trường phổ thông. Nằm trong yêu cầu chung đó,
đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn, đặc biệt là rèn luyện kĩ năng tạo
lập văn bản (kĩ năng viết văn) cho học sinh THCS là một việc rất quan trọng.
Với 16 năm công tác, bản thân đã tìm ra một số kinh nghiệm nhỏ giúp học sinh
làm tốt hơn bài văn trong chương trình Ngữ văn 7. Người giáo viên phải thực sự
tâm huyết, có tinh thần trách nhiệm, dành nhiều thời gian luyện tập cho học sinh
thì việc áp dụng những biện pháp này mới có hiệu quả. Học sinh phải thực hiện
phần bài tập ở nhà nhiều nên giáo viên phải thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra,
theo dõi quá trình làm bài của các em. Để đạt hiệu quả cao nhất giáo viên biết
động viên, khích lệ, tuyên dương đúng lúc, kịp thời. Bên cạnh đó, với học sinh
điểm số rất quan trọng nên khi chấm bài tập hoặc khi các em trình bày thì giáo
viên nên cho học sinh điểm số. Điểm số đó làm sao để học sinh thấy được sự cố
gắng của mình được ghi nhận và được tôn trọng, khuyến khích.
Ngoài việc động viên, khích lệ, giáo viên cũng cần có biện pháp đối với
những học sinh chưa tích cực, còn trây lười, trông chờ, ỷ lại…Khi giáo viên làm tốt
điều đó thì các em sẽ rất tự giác và hứng thú làm bài tập ở nhà cũng như trên lớp.
Từ đó chất lượng môn học sẽ được nâng cao hơn.
17


Những vấn đề nêu trên là một số kinh nghiệm, giải pháp rèn luyện kĩ năng
tạo lập văn bản cho học sinh lớp 7 của bản thân tôi được đúc rút qua quá trình
giảng dạy, tìm hiểu, trao đổi với đồng nghiệp thông qua các lớp học chuyên đề,
qua các tiết dự giờ thăm lớp, qua tài liệu tham khảo, qua tự học, tự bồi dưỡng…
Khi tôi áp dụng những kinh nghiệm trên vào bài dạy sau một thời gian chất
lượng bài viết của học sinh đã được nâng lên, giảm tối đa học sinh làm bài yếu
kém, số bài khá, tốt cũng tăng lên.
Với thời gian, phạm vi, đối tượng nghiên cứu và trình độ của bản thân có

hạn. Hơn nữa đây chỉ là ý kiến nhỏ, mang tính chất chủ quan của cá nhân nên
không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Vì thế, tôi rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của Ban giám hiệu, Hội đồng khoa học các cấp, bạn đồng
nghiệp để tôi có thể rút ra nhiều kinh nghiệm, nâng cao chất lượng giảng dạy. Từ
đó giúp các em học sinh hứng thú hơn trong học tập môn Ngữ văn.
3.2. Kiến nghị.
Về phía giáo viên: Cần đổi mới phương pháp, dẫn dắt học sinh bằng hệ
thống câu hỏi rõ ràng, dễ hiểu và phải phát huy được tính tích cực của học sinh.
Dành thời gian nghiên cứu tài liệu để bổ sung kiến thức cho bản thân. Dự giờ,
thăm lớp để học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp. Trong quá trình giảng, dạy
giáo viên nắm bắt rõ từng đối tượng học sinh để có phương pháp phù hợp nhất.
Về phía nhà trường: Cần bổ sung thêm vào Thư viện các loại tranh ảnh,
tài liệu tham khảo cho bộ môn Ngữ văn và nên có phòng học máy chiếu riêng để
tạo điều kiện thuận lợi trong việc dạy học.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn, các
bạn bè đồng nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ để tôi hoàn thành sáng kiến kinh
nghiệm này.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Cẩm Ngọc ngày 19 tháng 02 năm
2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết SKKN
Nguyễn Thị Bình

18



MỤC LỤC
STT
1

Nội dung
MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài

2

3

Trang
1
1

1.2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

3

NỘI DUNG


3

2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề

3

2.2. Thực trạng vấn đề

4

2.3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện

5

2.3.1. Rèn kĩ năng tìm hiểu, phân tích đề.

5

2.3.2. Rèn kĩ năng tìm ý, lập dàn ý cho các đề văn.

7

2.3.3. Rèn kĩ năng trình bày.

10

2.3.4. Rèn kĩ năng diễn đạt.

11


2.3.5. Rèn kĩ năng đọc và sửa bài.

16

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

17

KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

17

3.1. Kết luận

17

3.2. Kiến nghị

18

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bồi dưỡng văn năng khiếu lớp 7 THCS – Nhóm tác giả Thái Quang
Vinh, Thạch Ngọc Hà, Đặng Đức Hiền. Nhà xuất bản Đà Nẵng, xuất bản năm
2010.
- Ngữ văn 7 nâng cao – Nhóm tác giả Nguyễn Đăng Điệp, Đỗ Việt Hùng,
Vũ Băng Tú. Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, xuất bản năm 2013.
-Bồi dưỡng Ngữ văn 7 – Nhóm tác giả Nguyễn Thị Kim Dung, Hồ Thị

Vân Anh. Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, xuất bản năm 2016
-Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến, thức kĩ năng môn Ngữ văn THCS
tập 1– Phạm Thị Ngọc Trâm (chủ biên). Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam,
xuất bản năm 2010.
[1] Phạm Văn Đồng: tuyển tập văn học, NXB Văn học Hà Nội, xuất bản
năm 1996.
[2] Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7(Tập 1, 2) – Nguyễn Khắc Phi (chủ
biên). Nhà xuất bản giáo dục, xuất bản năm 2003
[3] Rèn kĩ năng viết đoạn văn – Lê Xuân Soan ( Chủ biên). Nhà xuất bản
Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh , xuất bản năm 2007.

DANH MỤC

20


CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên: Nguyễn Thị Bình
Chức vụ và đơn vị công tác:
Trường THCS Cẩm Ngọc. Cẩm Thủy. Thanh Hóa.

TT
1.

2.

3.


Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)
PGD&ĐT

“ Một số kinh nghiệm trong
giảng dạy văn bản Nhật dụng
lớp 6 để các em hứng thú hơn
trong giờ Văn”
“Một số kinh nghiệm PGD&ĐT
dạy học Tích hợp trong giảng
dạy Ngữ văn 9 Trường THCS
Cẩm Ngọc để giúp học sinh
hứng thú hơn với môn Ngữ
văn”.
“Rèn kĩ năng xây dựng PGD&ĐT
văn bản cho học sinh lớp 7
trường THCS Cẩm Ngọc giúp
các em nâng cao khả năng
viết văn”.

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học
đánh giá xếp

loại

Giải C

2013-2014

Giải B

2016-2017

Giải B

2018-2019

NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT
21


....………….
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………


22


NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC SỞ GD&ĐT

....………….
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………

23



×