Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.38 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD & ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ

Người thực hiện:
Chức vụ:
Đơn vị công tác:
SKKN thuộc môn:

Lê Thị Vân Anh
Giáo viên
Trường THCS Trần Mai Ninh
Ngữ văn

0


THANH HÓA NĂM 2019
MỤC LỤC
Nội dung
MỤC LỤC
1. Phần mở đầu
1.1.Lí do chọn đề tài
1.2.Mục đích nghiên cứu
1.3.Đối tượng nghiên cứu
1.4.Phương pháp nghiên cứu


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

Trang
1
2
2
3
3
4
5

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để

5
6
7

giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo

15

dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

19

19
20

1


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết: Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS
là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong việc tạo lập văn bản. Từ đó, giúp
học sinh hình thành ý thức và nhân cách cũng như trình độ học vấn cho các em
ngay khi đang học bậc học THCS và trưởng thành sau này. Qua việc rèn luyện kĩ
năng viết đoạn văn với các chủ đề khác nhau, ta rèn cho học sinh ý thức tự tu
dưỡng, biết yêu thương, quý trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, biết hướng tới những tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần
tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác và cũng từ đó rèn
cho các em tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá
trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật. Trước hết là trong văn học có năng lực thực
hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp.
Để rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn, giáo viên phải hướng dẫn
cho các em cách thức viết đoạn văn, cách sử dụng vốn từ ngữ, diễn đạt câu trong
đoạn văn, bố cục đoạn văn trong một văn bản, cách sử dụng các phương tiện liên
kết trong đoạn văn. Tuỳ theo từng phương thức diễn đạt khác nhau mà viết theo
lối qui nạp, diễn dịch, song hành hay móc xích.
Để viết được đoạn văn phải có nhiều câu kết hợp tạo thành, cũng như vậy
để tạo thành văn bản yêu cầu phải có các đoạn văn liên kết với nhau mà thành
(khi đã dùng các phương tiện liên kết trong văn bản).
Tuy vậy, trong giai đoạn hiện nay, có rất nhiều những phương tiện hiện đại,
thông tin đại chúng cập nhật liên tục khiến cho học sinh lao vào con đường say
mê “nghiện” trò chơi điện tử, oline, ham bạo lực điện tử, sách kiếm hiệp. Vì vậy,

các em không còn ham đọc sách, ham nghiên cứu. Cho nên, việc viết một đoạn
văn lại càng là vấn đề đáng quan tâm khi chúng ta rèn luyện cho các em.Hơn thế
nữa, tập làm văn là môn học thực hành tổng hợp ở trình độ cao của môn Văn –
Tiếng Việt, môn Tập làm văn được xem như vị trí cốt lõi trong mối tương quan
chặt chẽ với Văn và Tiếng Việt. Như vậy, chúng ta dạy Tập làm văn cho học
sinh là dạy cho các em nắm vững văn bản, biết xây dựng các đoạn văn thông
thường. Rèn luyện cho học sinh là rèn luyện cho các em các thao tác, những
cách thức, những bước đi trong quá trình tạo lập văn bản. Vì thế, cách xây dựng
đoạn văn trong phân môn tập làm văn được coi như vị trí hàng đầu. Việc rèn
cách viết đoạn văn cho học sinh THCS theo trục tăng dần qua các thể loại văn
học: tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận thuyết minh, điều hành ( hành chính
công vụ). Từ đó giúp các em biết vận dụng các thể loại văn bản để phục vụ cho
học tập và trong đời sống. Qua việc tiếp thu những kiến thức của môn Văn –
Tiếng Việt, học sinh vận dụng sáng tạo, tổng hợp để có thể nói hoặc viết theo
những yêu cầu, những đề tài khác nhau, những kiểu văn bản khác nhau mà cuộc
sống đặt ra cho các em.
2


Thông qua môn Tập làm văn, qua bài làm văn của mình, các em bọc lộ
những tri thức, vốn sống tư tưởng, tình cảm của cá nhân. Vì thế người giáo viên
phải biết nắm lấy ưu thế này để phát huy những khả năng của các em, đồng thời
qua việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn giáo viên có dịp uốn nắn điều chỉnh
những lệch lạc trong vốn sống, nhận thức, tư tưởng tình cảm - đặc biệt qua các
thể loại văn học mà các em sẽ học trong chương trình.
Trên đây là những lí do, vị trí, vai trò của việc xây dựng đoạn văn cho học
sinh THCS. Từ những mặt tích cực, hạn chế trên chúng tôi chọn đề tài này để
nghiên cứu và xây dựng các bước để rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn được tốt
hơn.
1.2.Mục đích nghiên cứu

Phân môn Tập làm văn giúp cho học sinh nắm được các thể loại trong
chương trình tập làm văn ở THCS như Tự sự, Miêu tả, Biểu cảm, Nghị luận,
Thuyết minh, …. Từ đó, giúp học sinh biết vận dụng các thể loại văn bản để
phục vụ cho học tập, trong đời sống. Đặc biệt đề tài này sẽ giúp cho các em biết
cách xây dựng đoạn văn biểu cảm nói riêng và đoạn văn thuộc các thể loại nói
trên, với bố cục đoạn văn dù ngắn hay dài đều phải đảm bảo mặt nội dung và
hoàn chỉnh về hình thức, hướng dẫn cho các em rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn
theo bố cục ba phần: Mở đoạn, phát triển đoạn, Kết thúc đoạn.
Mỗi đoạn văn đều bao hàm một ý chính của nó. Ý chính đó, có thể đứng ở
đầu đoạn văn theo cách diễn dịch hoặc đứng cuối đoạn văn theo cách qui nạp
hoặc ý chính của các câu bình đẳng nhau, ngang hàng nhau theo cách song hành.
Qua đó, rèn luyện cho học sinh kĩ năng diễn đạt đúng và hay bằng các hình
thức nói hoặc viết, tập vận dụng một cách sáng tạo, tổng hợp những kiến thức đã
tiếp thu được qua các môn Văn – Tiếng Việt và những kiến thức văn hoá xã hội
để có thể nói và viết theo yêu cầu, đề tài khác nhau, những kiểu văn bản khác
nhau mà cuộc sống đặt ra cho các em.
Viết đoạn văn (trong phân môn Tập làm văn) với nhiều chủ đề còn trực tiếp
rèn luyện cho học sinh một số đức tính như lòng nhân ái, tính trung thực, sự kiên
trì…Bởi vì môn này góp phần phát triển trí tưởng tượng óc sáng tạo, biết phân
biệt: đúng, sai, tốt, xấu, phải, trái… Từ đó, nuôi dưỡng tâm hồn học sinh hướng
tới cái chân, thiện, mĩ.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Trên cơ sở thực tế giảng dạy, tôi đi sâu vào đề tài: “Rèn luyện kĩ năng
viết đoạn văn cho học sinh THCS” bằng hoạt động thúc đẩy tính tích cực luyện
của viết văn của học sinh với hi vọng tạo được niềm say mê, hứng thú tìm tòi
của học sinh với môn học.
Điều tra các đối tượng học sinh, phạm vi nghiên cứu ở một số lớp trong
trường.
Đối tượng phần lớn là học sinh khối lớp 7 - bậc THCS.
3



1.4.Phương pháp nghiên cứu
Trước hết, chúng ta phải có cái nhìn khái quát toàn bộ chương trình ở cấp
THCS như sau:
Chương trình Tập làm văn THCS đồng tâm với chương trình Tập làm văn
của Tiểu học nhưng ở yêu cầu cao hơn, tiếp tục và hoàn chỉnh chương trình ở
THCS, mở rộng các thể văn mới hơn, yêu cầu cao hơn đối với học sinh. Chương
trình Tập làm văn có mối quan hệ khá rõ ràng: Giữa Văn – Tiếng Việt – Tập làm
văn. Để trở thành thao tác tốt viết đoạn văn, giáo viên hướng dẫn học sinh như
cách dùng từ đặt câu và cao hơn là dựng đoạn. Vì vậy, có thể nói học sinh được
học và thực hành 15 loại văn bản ở bậc THCS, đủ để giao tiếp bằng văn bản và
tiếp tục học lên ở những bậc trên.
- Phương pháp lí thuyết.
Bước đầu dạy cho học sinh những khái niệm về từng thể loại văn, làm quen
với những đề văn mẫu, những bài văn mẫu và tìm hiểu cụ thể từng bài qua các
tiết học: Lí thuyết về đoạn văn. Qua đó, giúp học sinh học, tìm hiểu cách xây
dựng đoạn văn, bố cục đoạn văn, các câu chốt (câu chủ đề) trong đoạn văn, viết
theo các cách diễn dịch, qui nạp, song hành, móc xích …Từ đó, cho học sinh tập
viết đoạn văn, có vận dụng lí thuyết về thể loại văn ấy. Tuy nhiên, phương pháp
lí thuyết không quá nặng.
- Phương pháp nghiên cứu, tìm hiểu.
Học sinh là chủ thể trong quá trình dạy học để phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của các em trong quá trình tiếp nhận. Trong quá trình nghiên cứu,
tìm hiểu cho học sinh tự thân vận động là chính, giáo viên im lặng đến mức tối
đa để khuyến khích học sinh sáng tạo trong giờ Tập làm văn. Vậy, trong tiết học
Tập làm văn mà đặc biệt là tiết rèn luyện viết đoạn văn, hướng dẫn các kĩ năng
nghiên cứu, tìm hiểu để vận dụng các kiến thức đã học để dựng đoạn theo đặc
điểm thể loại để tạo lập văn bản.
- Phương pháp kiểm tra, khảo sát.

Với phương pháp này, đòi hỏi học sinh phải thực hành liên tục, chắc chắn
các thao tác từ lí thuyết về thể loại sau đó đến nghiên cứu, tìm hiểu. Từ đó, ta
mới đi vào kiểm tra, khảo sát để thấy được sự vận dụng tổng hợp, để sáng tạo
văn bản qua nhiều bước trong quá trình rèn luyện các kĩ năng. Đó là điều kiện để
đánh giá học sinh thông qua bài kiểm tra, bài viết ở lớp (hoặc ở nhà) đòi hỏi phải
đánh giá đúng năng lực của học sinh và đòi hỏi một sự nhạy cảm của thầy trước
yêu cầu thực hành của học sinh.
- Phương pháp cố vấn, chuyên gia.
Đây là những phương pháp khó đối với học sinh. Học sinh thường không
chú ý đến những cái khó khăn này và cũng không cần hỏi ai những vấn đề cần
tháo gỡ, cần đến chuyên gia cố vấn.

4


Mặc dù, mức độ lí thuyết mang tính trừu tượng, việc kiểm tra, đánh giá, cố
vấn, chuyên gia, giáo viên giúp học sinh vận dụng kiến thức vào viết văn rõ ràng
hơn.
Như vậy, việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nói chung và viết đoạn văn
biểu cảm nói riêng giáo viên phải định hướng cho các em biết đối chiếu giữa
thực hành và lí thuyết, đối chiếu kết quả thực hành của mình với yêu cầu chung.
Nhưng, phương pháp cố vấn, chuyên gia phải được liên hệ một cách chặt chẽ
giữa giáo viên với học sinh.
Trên đây là một số các phương pháp nghiên cứu đối với việc rèn luyện các
kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm cho học sinh THCS.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Như chúng ta đã biết, bài viết được cấu thành bởi các đoạn văn (văn bản)
theo những phương thức và bằng những phương tiện khác nhau. Dựng đoạn
được triển khai từ ý trong dàn bài. Có thể Đoạn văn là một ý hoặc nhiều ý và

cũng có thể một ý có nhiều đoạn. Trong đoạn văn thường có bố cục ba phần: mở
đoạn, phát triển đoạn và kết đoạn. Ở góc độ đặc điểm cấu trúc thì các đoạn văn
có thể là đoạn diễn dịch, qui nạp, móc xích, song hành…
Để rèn luyện được kĩ năng viết đoạn văn, đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ yêu
cầu diễn đạt thành lời, thành đoạn, phải sử dụng các phương tiện ngôn ngữ sao
cho phù hợp với ý của đoạn để hiệu qủa biểu đạt cao hơn, đoạn văn có sức cuốn
hút hơn với người đọc. Kĩ năng dựng đoạn văn gắn với kĩ năng luyện nói trên
lớp. Có triển khai ý thành đoạn cũng mới tiến hành được. Đây là những thao tác,
những kĩ năng có khi thực hiện và rèn luyện đồng thời cùng một lúc.
Qua đó, ta có thể hiểu được: Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản,
bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xưống dòng và
thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo
thành. Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ
ngữ được dùng làm đề mục hoặc các từ ngữ được lặp lại nhiều lần (thường là
chỉ từ, đại từ, các từ đồng nghĩa) nhằm duy trì đối tượng được biểu đạt. Câu chủ
đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và
đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn (hay còn gọi là câu chốt). Các câu trong đoạn
văn có nhiệm vụ triển khai và làm rõ chủ đề của đoạn bằng các phép diễn dịch,
qui nạp, song hành. Giữa các câu trong đoạn văn cần có sự liên kết về nội dung
và hình thức với các phương tiện liên kết, từ ngữ - câu liên kết.
Khi chuyển từ đoạn này sang đoạn khác, cần sử dụng các phương tiện liên
kết để thể hiện quan hệ ý nghĩa của chúng. Có nhiều phương tiện liên kết trong
đoạn văn: dùng từ ngữ có tác dụng liên kết, quan hệ từ, đại từ, chỉ từ, các cụm từ
thể hiện ý liệt kê, so sánh, đối lập, tổng kết, khái quát…,và dùng câu nối trong
5


đoạn văn. Đoạn văn liên kết nhằm mục đích tạo sự liền mạch một cách hợp lí,
tạo tính chỉnh thể cho văn bản.
Như vậy, các phương tiện liên kết vốn mang ý nghĩa, nhưng đồng thời

chúng cũng là hình thức làm rõ tính liên kết của nội dung đoạn văn. Mặt khác,
lại có những phương tiện liên kết đồng nghĩa, gần nghĩa với nhau, nên cần lựa
chọn các phương tiện liên kết cho phù hợp với ý đồ chủ quan của người viết, với
sự việc được phản ánh và tình huống giao tiếp cụ thể.
Vì vậy, chúng ta cần tận dụng những hiểu biết và khả năng trên của học sinh
để phát huy tính tích cực, tính chủ động và sáng tạo của học sinh trong việc rèn
luyện kĩ năng viết đoạn văn được tốt và làm nền tảng cho chương trình THPT.
Mặc dù vậy, học sinh ở các trường THCS, phần lớn có khuynh hướng không
thích học văn mà đặc biệt là phân môn tập làm văn. Và vì thế nó đã ảnh hưởng
rất nhiều đến việc tiếp thu, vận dụng sáng tạo các kĩ năng viết đoạn văn của các
em.
2. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Cũng là bộ môn Ngữ văn, nhưng theo khảo sát, phần lớn các em học phân
môn Tập làm văn còn yếu mà đặc biệt là cách dựng đoạn văn khiến cho giáo
viên và học sinh còn rất lúng túng. Thường thì thời lượng quá ngắn mà kiến thức
nhiều, nên học sinh không thể tìm hiểu kĩ các đoạn văn mẫu. Phần lớn học sinh
hiểu sơ sài về mặt Lí thuyết, vì thế xác định đề bài, chủ đề và bố cục đoạn văn
càng bối rối: việc rèn kĩ năng viết được tiến hành trong các tiết phân tích đề, dàn
ý và dựng đoạn, liên kết đoạn từ thấp đến cao, từ một tiêu đề, một ý, một đoạn
văn đến nhiều đoạn, cuối cùng là một văn bản hoàn chỉnh. Khi viết còn chưa
hiểu kĩ đề bài nên hay bị sai lệch. Việc phân phối thời gian, số lượng câu cho các
đoạn, các ý lớn, ý nhỏ chưa rõ ràng, cụ thể. Cho nên, có nhiều trường hợp viết
thừa hoặc thiếu chưa xác định cụ thể đề tài, chủ đề của đoạn văn. Quá trình lập
luận, trình bày chưa chặt chẽ, lô gíc và sinh động. Chưa biết vận dụng nhiều
phương pháp liên kết trong một đoạn văn hoặc nhiều đoạn văn. Vì thế các đoạn
văn thường hay đơn thuần, nhàm chán.
Phần lớn học sinh chưa biết sử dụng ngôn ngữ cho phù hợp với từng kiểu
văn bản. Và đặc biệt là phong cách văn bản.
Qua Đề kiểm tra khảo sát chất lượng - Môn Ngữ Văn 7 –
Đề bài tự luận:

Cảm nhận của em sau khi đọc bài thơ "Cảnh khuya" của Hồ Chí Minh
Kết quả khảo sát thực tế qua việc học sinh viết bài như sau: 42 học sinh,
trong đó có 5 em (12%) diễn đạt được nghệ thuật tiêu biểu và nội dung của bài
thơ, 21 em (48%) diễn đạt được nội dung chính của bài thơ còn 26 em (50%)
chưa diễn đạt được nghệ thuật tiêu biểu, nội dung chính của bài thơ. Có khoảng
50% học sinh chưa biết tạo dựng đoạn văn đúng theo yêu cầu (các câu không
liên kết chặt chẽ với nhau, thiếu mạch lạc, đoạn văn không tập trung làm rõ chủ
đề.
6


Bài làm của học sinh là kết quả của quá trình tiếp thu lí thuyết và rèn luyện
các kĩ năng viết văn của học sinh và là sự vận dụng tổng hợp các năng lực tư
duy, trình độ, vốn sống, vốn ngôn ngữ và cả những cảm xúc và rung động thẩm
mĩ. Cho nên, việc rèn luyện các kĩ năng cho học sinh là cả quá trình lâu dài, việc
tiến bộ của các em cũng chậm (không như các môn khoa học tự nhiên). Vì vậy,
giáo viên không nên nóng vội mà phải rèn luyện cho học sinh tính kiên trì và
giáo viên cũng cần kiên trì khi dạy cho học sinh. Những tình trạng viết đoạn văn
ở THCS như trên là do nhiều nguyên nhân.
Điều ta cần nói trước là nguyên nhân khách quan: nó phụ thuộc vào tư
tưởng lập nghiệp của học sinh sau này như thi vào các trường Cao đẳng, Đại học
Ngữ văn ít hơn các môn khác. Và điều quan trọng nhất là cơ chế thị trường thực
dụng, con người khô khan, kênh thông tin văn hoá nghệ thuật đa dạng, nhiều
loại hình cuốn hút học sinh. Hơn thế nữa phụ huynh lại định hướng cho con em
mình theo khuynh hướng trên.
Và ngoài ra nó còn phụ thuộc vào nguyên nhân chủ quan là môn Tập làm
văn khó học, trừu tượng, học sinh không thích học, khó trở thành giỏi văn. Hơn
thế nữa nội dung, chương trình trong SGK còn quá tải, trình độ giáo viên chưa
đáp ứng, chất lượng của môn Ngữ văn bị giảm sút vì đưa nhiều thể loại văn bản
nhật dụng, văn bản chính luận, văn bản nghị luận vào, coi nhẹ giảng bình, giáo

viên giao quá nhiều bài tập, khó được điểm cao.
Trên đây là tình trạng viết văn, dựng đoạn văn của học sinh THCS và nó
cũng có nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan tác động. Cho nên chúng ta
càng quan tâm nhiều hơn nữa trong việc dạy một tiết Tập làm văn, đặc biệt là
dạy một tiết dựng đoạn văn trong văn bản. Vậy làm thế nào để khắc phục khó
khăn đó? Làm thế nào để tiết dạy học môn Ngữ văn thật sự có hiệu quả để thu
hút học sinh say mê học tập? Đó là những vấn đề mà người giáo viên trực tiếp
giảng dạy môn Ngữ văn đang băn khoăn, trăn trở.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải
quyết vấn đề
Như vậy “ Kĩ năng viết đoạn văn” đòi hỏi người viết phải có thái độ chủ
động tích cực và sáng tạo trong quá trình thực hiện. Các em phải nắm được:
- Khái niệm Văn biểu cảm
Văn biểu cảm là văn viết ra nhằm biểu đạt tình cảm, cảm xúc, sự đánh giá
của con người đối với thế giới xung quanh và khêu gợi lòng đồng cảm nơi người
đọc.
Văn biểu cảm còn gọi là văn trữ tình, bao gồm các thể loại văn học như thơ
trữ tình, ca dao trữ tình, tuỳ bút.
Tình cảm trong văn biểu cảm thường là những tình cảm đẹp thấm nhuần tư
tưởng nhân văn sâu sắc.
Ngoài biểu cảm trực tiếp như tiếng kêu, lời than, đoạn văn biểu cảm còn sử
dụng các biện pháp tự sự, miêu tả để khơi gợi tình cảm.
7


( Sách giáo khoa – Ngữ Văn – 7 / Tập I – Trang 73)
- Đặc điểm của đoạn văn biểu cảm.
+ Mỗi đoạn văn biểu cảm tập trung biểu đạt một tình cảm chủ yếu như yêu
thiên nhiên, yêu loài vật, yêu con người, yêu thương trường lớp, bạn hữu, yêu
gia đình, yêu quê hương đất nước, ghét thói tầm thường, độc ác…

+ Để biểu đạt tình cảm ấy, người viết có thể chọn hình ảnh có ý nghĩa ẩn dụ,
tượng trưng (một đồ vật, một loài cây cỏ, một danh lam thắng cảnh hay một hiện
tượng nào đó) để gửi gắm cảm xúc, ý nghĩ của mình, trang trải nỗi lòng mình
một cách kín đáo hoặc nồng hậu, mãnh liệt, thiết tha.
Ví dụ: Bằng Sơn qua văn bản“ Tấm gương” đã lấy tấm gương làm ẩn dụ
để ca ngợi những đức tính tốt đẹp của con người của tình bạn trung thực, chân
thành, thẳng thắn, không nói dối, không nịnh hót hay độc ác với bất cứ ai. Đồng
thời tác giả chỉ rõ có một gương mặt đẹp quả là hạnh phúc lúc soi gương; nếu
có thêm một tâm hồn đẹp đẽ để soi vào tấm gương lương tâm thì hạnh phúc mới
thật trọn vẹn”.
(Ngữ Văn – 7 / Tr-84,85)
+ Cũng như đoạn văn thuộc các thể loại khác, đoạn văn biểu cảm cũng có
bố cục ba phần.
Mở đoạn: Có thể giới thiệu sự vật, cảnh vật trong thời gian và không gian.
Cảm xúc ban đầu của người viết.
Phát triển đoạn: Biểu lộ cảm xúc, ý nghĩ một cách cụ thể, chi tiết, sâu sắc.
Kết thúc đoạn: Kết đọng cảm xúc, ý nghĩ của mình.
+ Đoạn văn biểu cảm chỉ thực sự có giá trị khi tình cảm và tư tưởng hoà
quện với nhau chặt chẽ. Cảm xúc phải chân thật, trong sáng, tư tưởng phải tiến
bộ, đúng đắn. Câu văn, lời văn, giọng văn phải có giá trị biểu cảm.
+ Trong văn biểu cảm, tình cảm con người đã qua suy nghĩ, khác với trạng
thái, cảm xúc ( biểu hiện ra nét mặt cử chỉ).
+ Có hai cách (lối) biểu cảm.
Biểu cảm trực tiếp: Thông qua cách sử dụng các từ cảm : ôi, hỡi, tôi, ta…
Tác dụng bộc lộ, biểu hiện tình cảm, thái độ đối với sự việc có liên quan. Điều
này thấy rõ nhất trong thơ trữ tình, trong tuỳ bút, trong đối thoại nội tâm của
nhân vật.
Biểu cảm gián tiếp: Thông qua cách miêu tả cử chỉ, động tác, thái độ của
nhân vật và tình cảm của người viết.
Mặc dù vậy, biểu cảm trực tiếp, biểu cảm gián tiếp không đối lập nhau,

không tách rời nhau mà cần được bổ sung cho nhau để giúp cho biểu cảm sâu
sắc tinh tế hơn.
* Yêu cầu của đoạn văn biểu cảm:
Cũng như các bài văn khác, đoạn văn trong văn biểu cảm cũng có những
yêu cầu cụ thể nhằm giúp học sinh nắm một cách khái quát về mặt hình thức
cũng như nội dung đoạn văn biểu cảm. Từ đó, các em mới có thể viết đoạn (xây
8


dựng đoạn) đúng với yêu cầu. Đoạn văn biểu cảm với việc nâng cao năng lực
cảm thụ văn học của học sinh là những yêu cầu, nội dung liên quan mật thiết với
nhau.
Về mặt hình thức của đoạn văn :
Yêu cầu trước hết là học sinh phải nắm được dấu hiệu, qui ước khi viết
đoạn văn biểu cảm:
Đoạn văn là một phần của văn bản được tính từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng
đến chỗ chấm xuống hàng.
Trước khi viết đoạn văn biểu cảm, giáo viên hướng dẫn cho các em tìm hiểu
đề, xác định ý và từ việc xác định được ý chính của bài mà đi đến xây dựng câu
chủ đề. Việc viết câu chủ đề đúng với ý chính đã tìm được ở trên sẽ giúp học
sinh định hướng cách lựa chọn nội dung trình bày theo cấu trúc diễn dịch, qui
nạp hay các kiểu cấu trúc khác. Đồng thời cũng định hướng cho các em lựa chọn
các phép liên kết, phương tiện liên kết, cách dùng từ ngữ cho phù hợp với cảm
xúc trong bài viết của mình.
Câu chủ đề có thể đứng ở đầu đoạn (theo cấu trúc diễn dịch), có thể đứng ở
cuối đoạn (theo cấu trúc qui nạp) v.v…Câu chủ đề phải mang nội dung khái quát,
lời lẽ ngắn gọn, hàm xúc và thường đủ hai thành phần chính của câu : chủ ngữ và
vị ngữ. Các câu còn lại trong đoạn văn có nhiệm vụ diễn giải, chứng minh, làm rõ
hoặc kết luận những cảm xúc đã thể hiện trong câu chủ đề.
Các câu trong đoạn văn biểu cảm phải được liên kết với nhau một cách chặt

chẽ bằng các phép liên kết, phương tiện liên kết, từ ngữ- câu liên kết, hoặc các
mối quan hệ phụ thuộc, không phụ thuộc giữa các đoạn văn mở bài, thân bài, kết
bài.
Đoạn văn phải có sự lựa chọn, sử dụng ngôn ngữ trong sáng, chuẩn mực,
giàu giá trị biểu cảm để gọi ra được cảm xúc, tình cảm của người viết, có sức
thuyết phục, lay động người đọc, người nghe. Từ ngữ ấy phải thể hiện được thái
độ rõ ràng của người viết: đó là tình cảm buồn, vui, yêu ghét, hay thích thú…Có
thể biểu cảm trực tiếp hoặc biểu cảm gián tiếp hoặc kết hợp cả hai lối biểu
cảm…
Về mặt nội dung:
“Đoạn văn biểu cảm thể hiện được các năng lực: Tri giác ngôn ngữ nghệ
thuật, năng lực tưởng tượng, năng lực phân tích, chứng minh, năng lực cảm xúc
thẩm mĩ…”
(Trích: Giảng dạy Tập làm văn ở trường THCS – TS. Lê Xuân Soan – Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh).
Trên đây là những yêu cầu cơ bản nhất để có thể giáo viên vận dụng văn
trong nhà trường vào nghiên cứu soạn giảng Tập làm văn, đặc biệt là vận dụng
vào các tiết thực hành Tập làm văn và làm văn trong trường THCS.
* Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm:
9


Rèn các kĩ năng làm văn nói chung và viết đoạn văn biểu cảm nói riêng
không chỉ xuất phát từ mục đích, yêu cầu của môn học (mang tính thực hành
tổng hợp cao) trong nhà trường THCS mà còn là trách nhiệm, nhiệm vụ của
người thầy giáo trong chương trình thay sách giáo khoa hiện nay. Điều quan
trọng nhất khi viết đoạn văn biểu cảm là học sinh nắm vững các thao tác, cách
thức trình bày đoạn văn biểu cảm, để từ các kĩ năng Tập làm văn phát triển
thành kĩ xảo, thói quen làm văn.
Để thực hành những điều nói trên đây, chúng ta hãy thử kiểm chứng bằng

một ví dụ cụ thể sau:
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao “ Đêm qua ra đứng bờ ao”:
“Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá cá lặn, trông soa sao mờ.
Buồn trông con nhện chăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai ?
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ ?
Đêm đêm tưởng giải ngân hà,
Chuôi sao tinh đẩu đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ.”
Trên đây là một bài văn biểu cảm về một bài ca dao. Vì vậy, đề văn biểu
cảm bao giờ cũng nêu ra được đối tượng biểu cảm và định hướng tình cảm cho
bài viết. Xác định rõ các bước làm văn biểu cảm: Tìm hiểu đề, tím ý, lập dàn ý,
viết các đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài.
Để tiến hành rèn luyện các kĩ năng Tập làm văn, trước hết học sinh phải xác
định ý cho đoạn văn.
- Xác định ý cho bài văn biểu cảm.
Giáo viên định hướng cho học sinh xác định các vấn đề sau:
+ Đối tượng biểu cảm trong đề bài trên ?
+ Mục đích biểu cảm ?
+ Cảm xúc, tình cảm trong các trường hợp .
+ Tình cảm, cảm xúc phải chân thật, trong sáng có sức thuyết phục.
+ Lời văn, hơi văn, mạch văn phải phù hợp, gợi cảm.
Trước hết chúng ta hình dung cụ thể đối tượng biểu cảm ở đây là : Bài ca
dao. Bài ca dao ấy nói về lòng thương nhớ và tình cảm thuỷ chung của nhân vật
trữ tình khi xa quê hương.
Hình thành được cảm xúc tình cảm của mình sau khi đọc xong bài ca dao.
Lời văn, giọng văn phải bọc lộ cảm xúc, tình cảm chân thành khi đọc hiểu

bài dao: Bài ca dao thấm thía bao nỗi buồn thương tha thiết, mong chờ, nhớ
trông…
10


Quá trình tìm hiểu đề là quá trình xác định ý cho bài văn biểu cảm. Ý của bài
văn nằm ngay trong từ ngữ, hình ảnh: Đêm qua, đứng bờ ao, trông, buồn trông,
buồn trông( mức độ tăng dần), rồi: sao ơi, sao hỡi, tưởng, nhớ ba năm, Đá mòn,
dạ chẳng mòn; trong kết cấu của bài ca dao…. Vấn đề là giáo viên tổ chức hướng
dẫn như thế nào để học sinh phát hiện ra các ý chính của bài mà đề yêu cầu. Có như
vậy việc tìm ý, triển khai ý mới trở thành kĩ năng ở các em. Tránh tình trạng khi
viết đoạn lại không trúng với ý mình đã xác lập, viết lan man, từ ngữ nghèo nàn
không gợi ra được cảm xúc, tình cảm của người viết.
Chẳng hạn theo yêu cầu của đề văn trên đây, giáo viên tổ chức cho các em
xác định được các ý chính:
+ Nỗi cô đơn, buồn vắng, chờ mong.
+ Cảnh vật với nỗi nhớ cố hương.
+ Sự gắn bó thuỷ chung của người lữ khách đối với gia đình và quê
hương.
+ Nỗi lòng của nhân vật trữ tình trong bài ca dao và cảm xúc, tình cảm
của tâm hồn con người.
Như vậy, chúng ta đã xác định các ý trong bài văn biểu cảm và mỗi ý trên
đây có thể được xây dựng bằng một hoặc hai đoạn văn.
- Xác định câu chủ đề.
Từ những ý đã được xác định trên đây, giáo viên hướng dẫn cho học sinh
tập viết các câu chủ đề. Đây là khâu quan trọng trong việc tạo lập đoạn văn. Vì
có viết được câu chủ đề thì mới có thể triển khai ý của đoạn văn và lựa chọn nội
dung trình bày của đoạn văn.
Trước hết, chúng ta xác định câu chủ đề mang tính khái quát cho toàn bài văn:
Bài ca dao “ Đêm qua ra đứng bờ ao” diễn tả bao nỗi buồn thương nhớ, cô

đơn và lòng chung thuỷ của người lữ khách đối với quê nhà.
Ta xác định câu chủ đề cho từng đoạn văn như sau:
Câu chủ đề 1: Tâm trạng của người lữ khách luôn lẻ loi, trống vắng, chờ
trông cứ vương vấn mãi không thôi.
Câu chủ đề 2: Nỗi nhớ quê nhà của nhân vật trữ tình diễn ra triền miên.
Câu chủ đề 3: Lời thơ thấm thía bao nỗi buồn thương, nhớ – tấm lòng thuỷ
chung đối với quê nhà.
Câu chủ đề 4: Tấm lòng thuỷ chung toả sáng trong bài ca và tâm hồn con
người.
Từ đó, giáo viên định hướng cho các em viết các đoạn văn bằng việc lựa
chọn các phép liên kết, phương tiện liên kết, từ ngữ liên kết v.v..
- Liên kết đoạn văn và cách dùng từ, ngữ khi xây dựng đoạn văn.
Cũng như các kiểu văn bản khác, bài văn biểu cảm là một thể thống nhất
về hình thức, hoàn chỉnh về nội dung. Trong đó, đoạn văn có một vai trò hết sức
quan trọng trong việc cấu thành một văn bản biểu cảm hoàn chỉnh. Vì vậy, các
câu, các đoạn trong văn bản phải liên kết với nhau một cách chặt chẽ.
11


Rèn kĩ năng viết đoạn văn và việc sử dụng các cách liên kết là một thao tác
không thể thiếu được. Các đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài có thể được viết
theo các cách như sau.
- Cách viết đoạn văn biểu cảm.
Trước hết, giáo viên hướng dẫn học sinh nắm một cách khái quát yêu cầu
của các đoạn văn mở bài, đoạn văn thân bài, đoạn văn kết bài.
Đoạn văn mở bài: Khái quát được cảm xúc, tình cảm của người viết khi đọc
bài ca dao “ Đêm qua ra đứng bờ ao”, nêu lên những ấn tượng sâu sắc nhất của
mình.
Đoạn thân bài: Triển khai mạch cảm xúc, tình cảm của người viết bằng việc
sử dụng những từ ngữ gợi cảm xúc, tình cảm. Lần lượt nêu lên những suy nghĩ của

riêng mình về những khía cạnh của tác phẩm. Không lan man, dàn đều mà nên
xoáy sâu vào các trọng tâm, trọng điểm. Phải đi “a” qua “b, c, d”.
Đoạn kết bài: Nêu lên những cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên hệ.
Tránh dài dòng, trùng lặp, đơn điệu.
Thao tác cơ bản: Phát biểu cảm nghĩ không thể nói chung chung mà rất cụ
thể. Phải chỉ ra được yêu thích, thú vị… ở chỗ nào, tại sao lại yêu thích, thú vị?
Nghĩa là phải phân tích, trích dẫn.
Có lúc phải khen chê. Khen, chê chính là viết lời bình. Giáo viên qua những
bài giảng cụ thể, qua việc hướng dẫn đọc sách sẽ giúp các em làm quen dần cách
bình văn, biến thành kĩ năng, kĩ xảo. Lúc nào viết được lời bình hay, sâu sắc thì
bài cảm nghĩ mới thực sự mang vẻ đẹp trí tuệ.
Có lúc phải biết liên tưởng so sánh. Từ hiện tượng này mà nghĩ, mà nhớ đến
hiện tượng khác tức là liên tưởng.
Viết lời bình, so sánh, liên tưởng là thao tác cơ bản trong văn biểu cảm.
- Cách viết đoạn mở bài trong văn biểu cảm.
Trước hết phải nói rằng mở bài hay nhất, biểu cảm hay nhất là đạt hai yêu
cầu sau:
+ Tính khái quát.
+ Tính định hướng.
Từ đó, ta có thể trình bày một đoạn văn mẫu (đoạn mở bài) để học sinh học
tập, bắt chước(bắt chước nhưng không ghi chép nguyên mẫu), rồi vận dụng cách
làm ấy cho bài của mình.
Chẳng hạn, khi viết đoạn văn mở bài cho đề bài trên ta có thể viết như sau:
Từ lúc lọt lòng, khi còn nằm trên nôi, ta đã được nghe những lời ru ngọt
ngào, xúc động của bà, của mẹ: à ơi, “ Anh đi anh nhớ quê nhà”. Lời ru ấy cứ
giăng mắc mãi lòng ta. Bài ca dao “ Đêm qua ra đứng bờ ao” còn là một kỉ niệm
không phai mờ trong tâm trí tôi từ thuở bé thơ. Lớn lên, tôi vẫn thường ru em
như thế:
“Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ.

12


Buồn trông con nhện chăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai ?
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ ?
Đêm đêm tưởng giải ngân hà,
Chuôi sao tinh đẩu đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ.”
Đoạn văn trên được viết theo lối biểu cảm trực tiếp: biểu lộ cảm xúc, tình
cảm của người viết thông qua việc sử dụng các từ ngữ: ta đã được nghe… không
phai mờ trong tâm trí tôi từ thuở bé thơ…
- Cách viết đoạn thân bài:
Quá trình viết đoạn văn thân bài, giáo viên lưu ý học sinh: Giọng văn, hơi
văn biểu cảm không gò bó, khô khan, đảm bảo được các yêu cầu diễn đạt, dùng
từ, đặt câu, lựa chọn các đặc điểm, nội dung trình bày của đoạn văn. Nghĩa là
tuỳ thuộc vào mạch cảm xúc của người viết mà có cách lựa chọn cho thích hợp.
Từ đề bài trên đây, ta có thể viết các đoạn văn thân bài như sau( lưu ý mỗi
đoạn văn được viết ra phải xuất phát từ các ý đã tìm được ở phần trên).
Đoạn văn 1: Thao thức, lẻ loi, chỉ biết ra đứng bờ ao, nơi vắng vẻ ở cuối
sân, ngõ sau hay bờ ao. Cứ trông gần, trông xa, nhưng nào thấy, vì “cá lặn, sao
mờ” tự bao giờ. Các điệp từ ( trông, cá, sao) gợi lên trong lòng lữ khách sự
buồn vắng, chơi vơi…
“ Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ”
Nỗi niềm ấy mới chỉ diễn ra “đêm qua”, còn đầy vơi trong lòng. Giữa đêm
khuya trống vắng, không một người thân thương, chỉ còn biết “buồn trông” và
khẽ thốt lên:

“Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi, nhện hỡi nhện chờ mối ai ?”
Nhện cỏn con bé tí. Nhện sao thấu hiểu nỗi buồn nhớ cô đơn của kẻ xa quê
hương. Đêm đã về khuya, sao mai đã “chênh chếch” nằm nghiêng nghiêng trên
bầu trời. Rồi “sao mờ” sắp tàn canh. Vẫn chỉ một mình li khách cô đơn và trơ
trọi. Lại“buồn trông” lên bầu trời, khi hỏi “sao mai” để trang trải lòng mình:
“ Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi nhớ ai sao mờ ? ”
Nỗi buồn nhớ quê hương, người thân không sao kể xiết ! Sau lời cảm thán
“nhện ơi, nhện hỡi?”, “sao ơi, sao hỡi?” là những tiếng khẽ thở dài, cất lên,
những giọt lệ rưng rưng rơi xuống. Đó là tâm trạng lẻ loi, trống vắng, chờ trông
cứ vương vấn mãi không thôi.
Câu in đậm trong đoạn văn trên là câu chủ đề (còn gọi là câu chốt) đứng ở
vị trí cuối đoạn có tác dụng khái quát cảm xúc tâm trạng của người lữ khách
13


được diễn giải ở các câu trên. Câu chốt này chính là câu chủ đề mà ta đã xác
định ở phần trên.
Đoạn văn 2:
Nỗi nhớ quê nhà của nhân vật trữ tình cứ diễn ra triền miên. Không chỉ mới
“đêm qua” mà diễn ra trong “đêm đêm”. Không chỉ một tháng, một năm mà là
đã “ba năm tròn”, một thời gian dài. Không chỉ “buồn trông” mà là“tưởng”, là
“ nhớ”, day dứt triền miên, không nguôi. Chữ "tưởng" là một nét tâm trạng
buồn nhớ, ngóng trông vô cùng da diết:
“Đêm đêm tưởng dải Ngân Hà
Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm rồi”.
Đến đoạn văn này câu chủ đề lại đặt ở đầu đoạn để nêu lên“nỗi nhớ” mang
tính khái quát nhất, hàm xúc nhất cho toàn đoạn văn.
Đoạn văn thứ ba:

Hai câu cuối là hình ảnh tương phản rất đặc sắc: “đá mòn” với “dạ chẳng
mòn”:
“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ.”
Lời thơ thấm thía bao nỗi buồn thương nhớ và cô đơn - đó là tấm lòng
thương nhớ, thuỷ chung đối với quê nhà.
Như vậy, mô hình cơ bản của đoạn văn biểu cảm là diễn dịch và qui nạp.
Nó phù hợp với mạch cảm xúc, tình cảm của người viết. Luyện viết đoạn văn
biểu cảm ở yêu cầu không khó khăn lắm là như cách trình bày trên. Tuy nhiên,
để viết được đoạn văn theo các cách trên, thì người viết phải bám sát các ý của
bài, rồi luyện viết với từng ý chính đã được xác định và các câu chủ đề đã được
xác lập ban đầu.
- Cách viết đoạn văn kết bài.
Đoạn văn kết bài nêu lên cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên hệ. Vì
vậy, để có được một bài văn hoàn chỉnh không thể không viết đoạn kết bài.
Từ câu chủ đề đã xác định được như ở trên, ta có thể viết đoạn văn kết bài
như sau:
Ca dao là một tấm lòng. “Tào Khê nước chảy hãy còn trơ trơ” là tấm lòng
của nhân dân, của những ai xa gần, của ông tôi, bà tôi, mẹ tôi, chị em tôi… Tấm
lòng son sắt thuỷ chung đối với gia đình, quê hương luôn toả sáng trong bài ca
dao và tâm hồn con người.
Tóm lại, rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn trong bài văn biểu cảm là thực hiện
các thao tác tìm hiểu đề, tìm ý, xây dựng câu chủ đề- để từ đó định hướng cho
việc xây đựng từng đoạn văn. Cứ tập đi tập lại như thế ta sẽ thành thạo. Không
phải chỉ thành thạo dựng đoạn độc lập mà thành thạo và nhạy cảm trong dựng
đoạn của bài văn biểu cảm. Từ việc “Tập làm” đến việc “làm văn” là một quá
trình đi từ việc rèn luyện kĩ năng cần thiết đến kĩ xảo (thói quen, thành thạo)–
14



Không khó nhưng cũng không đơn giản chút nào nếu cả thầy và trò không
chuyên tâm và không yêu thiết tha một tác phẩm văn học.
Và thao tác cuối cùng trong một giờ luyện viết đoạn văn là : Luyện “nhận
xét văn người, sửa văn mình”.
Một số cách luyện tập viết văn biểu cảm ở đây không phải là tất cả nhưng là
cách cơ bản, chúng ta nên cố gắng thực hành. Trước khi thực hành đề bài các em
đọc kĩ phần dẫn giải, miêu tả về các cách ấy, tiếp nhận về mặt lí thuyết rồi bắt
tay vào làm theo sáng tạo.
Trong khâu tiến hành nếu thấy có gì chưa hợp lí với mình thì cần có sự điều
chỉnh hoặc sáng tạo thêm.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Để kiểm chứng kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm của học sinh tôi tiến hành
các bước thực nghiệm sau:
- Chọn đối tượng học sinh đại trà ở hai lớp: 7A và 7C (Đủ 3 đối tượng: giỏi, khá,
TB).
- Sự chuẩn bị của giáo viên ở 2 lớp:
+ Ở lớp 7B: Chúng tôi tổ chức ôn tập các đơn vị kiến thức về kiểu loại biểu cảm.
+ Ở lớp 7C: Chúng tôi tổ chức cho các em rèn luyện cách viết các đoạn văn biểu
cảm.
- Sự chuẩn bị của học sinh:
+ Sách giáo khoa, vở ghi, vở nháp, vở bài bập, các tài liệu có liên quan đến bài
học: Cách cảm thụ các dạng Tập làm văn - Lớp 6,7
- Về thời gian: Dạy - học 3 tiết/lớp. Bố trí học 2 buổi chiều (Ngoài giờ học chính
khoá).
- Ra đề: Yêu cầu của đề bài phải mang tính vừa sức, tính khoa học, chính xác,
phù hợp với đối tượng học sinh lớp 7.
Đề bài 1: Cảm nhận của em sau khi đọc bài thơ "Cảnh khuya" của Hồ Chí
Minh. (Lớp 7B)
Đề bài 2: Cảm nhận của em về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí Minh.

(Lớp 7C)
- Các bước dạy học:
Ở lớp 7 B:
Hoạt động 1: Khởi động bằng việc kiểm tra sự chuẩn bị ở nhà của các em
và GV chọn một bài văn biểu cảm cho HS đọc trước lớp rồi xác định các phần
trong bài làm của người viết - Trình bày các ý chính trong mỗi phần: Mở bài,
Thân bài, kết bài.
Hoạt động 2: GV tổ chức cho HS ôn tập các đơn vị kiến thức đã học về văn
biểu cảm. Cụ thể:
I/ Khái niệm văn biểu cảm.
II/ Đặc điểm của văn biểu cảm.
15


III/ Các yêu cầu khi làm bài văn biểu cảm.
Hoạt động 3: GV tổ chức cho người học viết các đoạn văn biểu cảm theo
yêu cầu của người dạy. Đối tượng biểu cảm là một số tác phẩm thơ, hoặc đoạn
thơ.
Hoạt động 4: GV cho lớp tiến hành thảo luận và nhận xét, đánh giá các
đoạn văn của HS.
Hoạt động 5: GV củng cố kiến thức và tiến hành khảo sát bằng đề bài sau:
Cảm nhận của em về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí minh.
Hoạt động 6: GV thu bài và dặn dò HS.
Ở lớp 7 C:
Hoạt động 1: GV tổ chức cho HS nắm lại các đơn vị kiến thức sau:
I/ Khái niệm văn biểu cảm.
II/ Đặc điểm của văn biểu cảm.
III/ Các yêu cầu khi làm bài văn biểu cảm.
Hoạt động 2: Tổ chức rèn luyện các kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm:
1. Xác định ý cho bài văn biểu cảm.

2. Xác định câu chủ đề cho mỗi đoạn văn.
3. Liên kết đoạn văn và cách dùng từ ngữ khi xây dựng đoạn văn.
4. Cách viết đoạn văn biểu cảm:
4.1. Cách viết đoạn văn Mở bài.
4.2 .Cách viết đoạn văn Thân bài.
4.3. Cách viết đoạn văn Kết bài.
Hoạt động 3: GV củng cố cách viết đoạn văn biểu cảm và tiến hành khảo
sát bằng đề bài sau:
Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí Minh.
Hoạt động 4: GV thu bài và dặn dò HS.
Kết quả đạt được như sau:
Năm
Sĩ Yếu- kém
Trung bình
Khá
Giỏi
Lớp
%
%
%
%
SL
SL
SL
SL
học
số
20162017
7B 42
0

0%
8
19%
24
57%
10
24%
Học kì I
20172018
7C 46
0
0%
0
0%
29
65%
17
35%
Học kì I
Nhận xét chung qua 2 kết quả trên:
Qua quá trình Dạy - Học và tiến hành khảo sát thực nghiệm theo phương
pháp tích cực, chúng tôi nhận thấy một số điểm sau:
Đối với việc tổ chức Dạy - Học ở lớp 7B - khi chưa vận dụng triệt để
phương pháp tích cực theo chuyên đề thay SGK THCS và các bước tiến hành
như đã trình bầy trên đây chúng ta thấy: Số bài khá, giỏi chiểm tỉ lệ quá thấp. Số
16


bài TB vẫn chiếm tỉ lệ lệ cao.
Rõ ràng nếu không có sự nghiên cứu, đầu tư các cách dạy học, ôn luyện cho

HS thì hiệu quả thực hành viết đoạn văn trong văn bản của các em là rất thấp.
Nếu không tổ chức các buổi ôn tập một cách bài bản, khoa học đúng theo
phương pháp đổi mới thì sẽ tạo cho các em sự hứng thú, say mê, tích cực trong
giờ làm văn.
Ngược lại khi đã vận dụng triệt để các bước dạy học làm văn (như đã thực
hiện ở lớp 7C) thì học sinh hoàn toàn chủ động tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức và
vận dụng các kĩ năng làm văn vào quá trình xây dựng đoạn văn - tạo lập văn
bản. Và tất yếu HS sẽ thích học phân môn TLV. Hiệu quả dạy học sẽ cao hơn.
Qua đây chúng ta thấy: Thời lượng giành cho luyện tập viết đoạn văn trong
tiết dạy chính khoá là quá ít. Vì vậy, HS chưa được rèn luyện nhiều để viết đoạn,
tạo lập văn bản.
Điều cốt lõi là làm sao đó trên mỗi trang giáo án, mỗi tiết dạy học thực hành
– rèn kĩ năng làm văn cho học sinh đều thể hiện tính nghiêm túc của người dạy
và những nét tình cảm nghề nghiệp, tình yêu con trẻ, những dấu ấn cảm xúc cá
nhân trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, soạn giảng.
* Một số đoạn văn tiêu biểu:
1.
“Trăng bao nhiêu tuổi trăng già,
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non ?
Trăng bao nhiêu tuổi trăng tròn
Núi bao nhiêu tuổi núi còn trơ trơ ?"
(Ca dao)
Bài ca dao “ Trăng bao nhiêu tuổi trăng già”, được viết bằng thơ lục bát và
câu hỏi tu từ. Trăng và núi là hai ẩn dụ. Sự đối đáp ở đây không phải là câu đố
về thiên nhiên ( núi, trăng) như có người đã nhầm tưởng. Mà sự giao, ướm hỏi
(ướm duyên) rất tình tứ, tế nhị của trai gái làng quê ngày xưa. Một cách tỏ tình
rất duyên dáng và biểu cảm.
2.
“Trưa về đến sau đồi
Gọi con như mọi bận

Mà không nghe trả lời
Thì mẹ ơi đừng giận
Nhìn vở bài toán đố
Con làm còn dở dang
Bỏ quên bên cửa sổ
Đừng bảo con không ngoan
Sân nhà đầy lá rụng
Mẹ đừng trách con lười
Thấy áo con đẫm máu
17


Mẹ đừng khóc mẹ ơi !
Giặc Mĩ nó nhằm con
Mà bắn vào tim mẹ
Đừng khóc con mẹ nhé
Khóc sao hả căm thù”.
(Nguyễn Lê)
Bài thơ “Mẹ” của Nguyễn Lê nói lên nỗi đau đớn và cà căm thù của người
mẹ có đứa con ngoan bị máy bay Mĩ bắn chết. Vở bài toán đố còn dở dang con
để lại bên cửa sổ; Chiếc áo đẫm máu của con… như những vật kí thác đau
thương. Hồn con hiện về nói với mẹ, an ủi mẹ. Con vốn rất ngoan ngoãn, nhưng
nay con không thể nào quét sân giúp mẹ được nữa rồi…Giặc mĩ băn chêt con là
chúng nó đã băn vào tim mẹ. “Đừng khóc con mẹ nhé”, vì khóc con “ sao hả
căm thù” mẹ ơi ! Một tứ thơ rất độc đáo nói lên nỗi lòng đau thương con và
căm thù giặc Mĩ của bà mẹ Việt Nam. Nhà biểu lộ niềm cảm thương đau đớn đối
với những em thơ gần xa đã bị giặc Mĩ giết hại một cách tàn ác.
3.
“ Bão bùng thân bọc lấy thân,
Tay ôm, tay níu, tre gần nhau thêm”.

Đấy là hai câu thơ đặc sắc nhất trong bài “ Tre Việt Nam” của Nguyễn
Duy. Tre không chỉ là vẻ đẹp thân mật của làng quê Việt Nam mà là biểu tượng
cho những phẩm chất cao quý của người dân Việt Nam. Cũng như tre gắn bó
với nhau “ nên luỹ, nên thành”, người dân cày Việt Nam, trong “bão bùng”,
gian khổ, biết yêu thương đoàn kết che chở nhau “ thân bọc lấy thân”, bảo vệ
nhau “ tay ôm tay níu” để cùng tồn tại, phát triển trong hạnh phúc. Điệp từ làm
cho ý thơ được nhấn mạnh, giọng thơ êm ái nhịp nhàng, gợi cảm. Niềm thương
mến và tự hào của tác giả được diễn tả trong một vần thơ hàm súc, hình tượng
và truyền cảm sâu sắc.
4.. Đêm đã về khuya, không gian yên tĩnh. chỉ có suối trong thanh như tiếng
hát từ xa vọng lại. Trăng sáng vằng vặc ôm trùm những ngọn cây. Bóng hoa in
trên mặt đất tạo nên những chùm hoa lung linh. Giữa cảnh khuya lộng lẫy yêu
kiều ấy có một người chưa ngủ, đó là Bác kính yêu. Bác chưa ngủ không phải để
ngắm cảnh đẹp mà vì lòng còn nặng nỗi lo toan việc nước…”.
5.
"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Ngọn lửa “ chờn vờn sương sớm” là ngọn lửa thực trong lòng bếp, bập
bùng nhen lên mỗi sớm mai. Nhưng ngọn lửa “ ấp iu nồng đượm” là ngọn lửa
của tình bà chăm sóc cưu mang theo trình tự thơ, ngọn lửa chập chờn, bập
bùng, hình tượng thơ cứ tỏ dần, tỏ dần: Bên bếp lửa là dáng hình của bà qua
nắng mưa, năm tháng.
(Bài làm của học sinh)
18


3. Kết luận, kiến nghị
3.1- Kết luận:
Việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS có tầm quan trọng

rất lớn trong việc dạy và học Tập làm văn. Nó chiếm vị trí đặc biệt trong việc
thực hiện mục tiêu chung của trường THCS, góp phần hình thành con người có
trình độ học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho họ học ở bậc cao hơn, hoặc vận
dụng vào thực tiễn cuộc sông.
Xét về môn học, đây là phân môn thực hành tổng hợp ở mức độ cao của
phân môn Văn và Tiếng Việt, nó có mối tương quan chặt chẽ với văn và Tiếng
Viết. Dạy luyện viết đoạn văn là dạy cho học sinh nắm bắt văn bản, biết xây
dựng các loại văn bản thông thường. Ta hiểu đầy đủ rằng dạy cách viết đoạn văn
là dạy cho học sinh hiểu từng loại văn bản cụ thể, cách xây dựng đoạn văn trong
bất kì loại văn bản nào. Đây là bước đi, thao tác, cách thức trong quá trình học
tập văn bản.
Trong chương trình hiện nay, bộ môn Tập làm văn được tích hợp cùng phân
môn Văn và Tiếng Việt trong chương trình Ngữ Văn mới .Tiết dạy dựng đoạn
trong văn bản cũng được quan tâm nhiều hơn trong việc nắm được thể loại trong
chương trình. Từ đó, rèn luyện cho học sinh kĩ năng diễn đạt đúng và hay bằng
các hình thức, thao tác mà chủ yếu là viết đoạn văn một cách sáng tạo tổng hợp
những kiến thức tiếp thu được qua phân môn Tiếng Việt và Văn học. Viết đúng,
viết hay là nhiệm vụ hàng đầu mà giáo viên quan tâm, yêu cầu viết đúng về đề
tài thể loại, những kiểu văn bản khác nhau trong cuộc sống đặt ra cho các em.
Ngoài ra, qua việc rèn luyện viết đoạn văn với các chủ đề cũng trực tiếp tham
gia rèn luyện một số đức tính cho sinh như lòng nhân ái, tính trung thực, sự kiên
trì lòng dũng cảm…Viết đoạn văn góp phần phát triển trí tưởng tượng, óc sáng
tạo để từ đó giúp các em biết phân biệt cái sai, cái tốt, cái xấu... Và cũng từ đây
các em được nuôi dưỡng tâm hồn vươn tới cái tốt đẹp hơn.
Qua tiết học, ta nắm được ưu thế của học sinh và phát huy được những khả
năng làm văn của các em. Từ đó, học sinh có dịp để uốn nắn điều chỉnh, hạn chế
những lệch lạc trong nhận thức, đời sống tư tưởng tình cảm của của các em.
Cũng từ đó, hiệu quả giáo dục của Tập làm văn nói chung, viết đoạn văn nói
riêng được nâng cao và được học sinh yêu thích.
Qua việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn, học sinh được uốn nắn, điều

chỉnh, hạn chế những thiếu sót trong quá trình làm văn ở những cấp học cao
hơn. Ngoài ra các em còn được bồi dưỡng về tâm hồn, trí tuệ, biết rung động
trước cái đẹp, biết hướng tới giá trị thẩm mĩ, có năng lực sử dụng ngôn ngữ, biết
tích luỹ vốn tri thức và vận dụng trong giao tiếp ở mọi hoàn cảnh khác nhau.
Dùng từ đặt câu, viết đoạn sẽ được các em vận dụng tốt trong mọi điều kiện để
hướng tới cái chân – thiện – mĩ, biết tự hào và sử dụng Tiếng Việt trong sáng,
hoàn mĩ hơn.
19


Cũng từ việc rèn kĩ năng viết đoạn giúp học sinh vận dụng để viết được
nhiều đoạn văn và viết tốt ở nhiều thể loại.
Tuy nhiên, việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn vẫn còn nhiều hạn chế. Vì
đây là một tiết khó của môn học, nếu đơn thuần giáo viên không hướng dẫn cụ
thể về cách tìm hiểu đề, tìm ý, mỗi ý tương ứng với bao nhiêu đoạn trong văn
bản. Hoặc học sinh chưa tìm được câu chủ đề để từ đó phát triển mở rộng thành
đoạn văn. Để tích hợp được với văn và Tiếng Việt, giáo viên chưa hướng dẫn
khái niệm đoạn văn, câu chủ đề, quan hệ giữa các câu và cách trình bày đoạn
văn. Qua đó, giúp học sinh rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn theo các yêu cầu về
cấu trúc và ngữ nghĩa.
Hạn chế nữa là trong chương trình SGK Ngữ Văn THCS học sinh không
được học các nội dung trình bày trong đoạn văn theo các đặc điểm, cấu trúc diễn
dich, qui nạp, song hành, móc xích. Do đó, khi xây dựng đoạn văn, học sinh rất
lúng túng trong việc đặt vị trí câu chủ đề trong đoạn.
Hơn nữa, trong quá trình luyện viết các đoạn văn, học sinh còn lúng túng
trong việc tìm hiểu đề, xác định ý, xây dựng câu chủ đề. Khi lựa chọn các phép
liên kết câu, liên kết đoạn trong văn bản các em còn vụng về, đôi khi không nắm
vững các đơn vị kiến thức này. Và việc lựa chọn, dùng từ đặt câu ở một số học
sinh còn nhiều hạn chế: như dùng từ, ngữ không trong sáng, thiếu trau chuốt, từ
ngữ không có tính lôgic.

Hơn nữa, giáo viên chưa thật kiên trì trong việc cung cấp những đơn vị
kíến thức về xác định ý, viết câu chủ đề, xây dựng đoạn theo các đặc điểm (diễn
dịch, qui nạp…), các phép liên kết câu, liên kết đoạn, và uốn nắn cách viết đoạn
cho học sinh.
3.2 - Kiến nghị:
Sắp xếp số lượng kiến thức hợp lí cho một tiết dạy có khả năng phát huy
được tính chủ động sáng tạo của học sinh mà các em học không bị nhàm chán.
Các đoạn văn mẫu phải đa dạng phong phú hơn về từng lượng kiến thức.
Tiết học mang nặng tính thực hành, nên cho học sinh thực hành nhiều, viết
nhiều các đoạn văn (tất nhiên không qúa thời gian tiết học và sức tiếp thu của
học sinh).
Trong việc đánh giá, giáo viên cần quan tâm, nhận xét đúng trước năng lực
thực hành của mỗi học sinh. Ở đây đòi hỏi sự nhạy cảm của thầy trước yêu cầu
thực hành, trước những thao tác và kĩ năng thực hành của học sinh. Yêu cầu giáo
viên dày công luyện tập cho các em, kiên trì trong việc đánh giá kết quả không
nên nóng vội, có tinh thần trách nhiệm cao. Tuỳ từng đối tượng ở các khối lớp,
tuỳ từng vùng để có phương pháp vận dụng đúng đắn. Với phương châm là
người truyền đạt kiến thức và chủ thể tiếp nhận kiến thức và mục đích cuối
cùng là viết được các đoạn văn sáng tạo với đầy đủ các kĩ năng mà các em tiếp
thu được.
20


Về số lượng tiết học viết đoạn văn còn quá ít, nên tăng cường thêm số
lượng cũng như thời gian cần được phân bố cân đối hài hoà để tránh học sinh
ngại học căng thẳng mà ngược lại các em ham học hơn.
Về phương pháp, để đạt hiệu quả cao trong luyện tập người giáo viên cần
kết hợp các phương pháp hiện đại và truyền thống.
Đối với học sinh, các em cần tích cực tham gia luyện tập theo sự hướng dẫn
của giáo viên, chuẩn bị bài kỹ trước khi đến lớp, tích cực tham gia xây dựng bài,

hoạt động tổ, nhóm, đoàn kết hỗ trợ nhau trong học tập. Các em cũng cần biết sử
dụng máy tính, biết tìm hiểu các thông tin liên quan đến bài học trên mạng. Với
cách luyện tập bằng phương tiện hiện đại trong tiết học sẽ tiết kiệm được nhiều
thời gian để học sinh thực hành nhưng điều này sẽ gặp khó khăn khi các em
không biết sử dụng máy tính. Bên cạnh đó, các em luôn phải cố gắng chủ động
luyện tập không chỉ ở lớp mà cả ở nhà, các em phải có tinh thần tự giác trong
học tập. Chuẩn bị bài trước khi đến lớp theo hướng dẫn của giáo viên, chủ động
tham gia xây dựng bài học. Biết cách học như vậy các em sẽ yêu thích môn Văn
hơn.
Trên đây là một số những suy nghĩ và việc làm của tôi từ quá trình thực
hiện đổi mới phương pháp dạy và học chương trình SGK mới. Từ góc độ của
người trực tiếp giảng dạy, tôi hy vọng qua đề tài này sẽ góp một tiếng nói vào
công cuộc đổi mới phương pháp dạy học đang rầm rộ diễn ra và gặt hái được
nhiều kết quả trong những năm gần đây.
Với đề tài trên tôi rất mong được sự đồng tình, ủng hộ của các cấp lãnh
đạo; sự giúp đỡ của BGH nhà trường về cơ sở vật chất: phòng chức năng, máy
chiếu hắt, bảng phụ, bút dạ... Tôi rất hy vọng nhận được sự góp ý của các đồng
nghiệp để việc thực hiện đề tài đạt hiệu quả tối ưu nhất.
Để thực hiện tốt đề tài trên tôi rất mong Bộ giáo dục và Đào tạo, Sở giáo
dục và Đào tạo sẽ có những chương trình và tài liệu thiết thực: sách bài tập, sách
tham khảo. Đầu tư trang thiết bị, dụng cụ trực quan, đặc biệt là công nghệ thông
tin để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy.
Tôi hi vọng đề tài nhận được sự quan tâm góp ý của các cấp và bạn bè
đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA
Thanh Hóa, ngày 22 tháng 3 năm 2019
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Người viết

Lê Thị Vân Anh
21



×