PHÒNG GIÁO DỤC QUỲ HỢP
TRƯỜNG THCS MINH HỢP
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2008-2009
KINH NGHIỆM RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN TỰ SỰ
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
ĐỒNG TÁC GIẢ:
NGUYỄN VĂN TÌNH
NGUYỄN THỊ THIÊN THU
LÊ THỊ HOÁ
Tel : 0383.888164
1
A.PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài:
Văn tự sự là một trong 6 kiểu văn bản được dạy, học ở bậc trung học cơ
sở, kiểu văn bản này mặc dù được kế thừa những tri thức và kĩ năng của
các thể loại trần thuật, tường thuật và kể chuyện trước đây trong chương
trình cải cách giáo dục nhưng nội hàm và ngoại diện của khái niệm tự sự
đã có nhiều thay đổi.Kiểu văn bản này được dạy học ở cấp THCS với số
tiết tương đối lớn( 51tiết/189 tiết- kể cả bài viết số 1- văn tự sự và miêu tả ,
chiếm 27 % tổng số tiết tập làm văn ở THCS).Những tri thức lí thuyết về
văn tự sự đã được dần dần giải quyết ở các lớp như: khái niệm, đặc trưng,
mối quan hệ giữa tự sự với các phương thức biểu đạt khác nhưng yêu cầu
ở mỗi lớp một khác.Vì vậy người thầy giáo phải làm thế nào để học sinh
nắm được một cách có hệ thống và phát triển kiểu loại văn bản này từ chỗ
nhận biết được sự việc và nhân vật trong văn tự sự, chủ đề, cách làm dàn
bài, lời văn, lời kể, ngôi kể,cách dựng các đoạn văn, thứ tự kể, cách kể,
cách đưa các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận, các yếu tố đối thoại, độc
thoại và độc thoại nội tâm vào văn tự sự là một vấn đề không dễ dàng.
Rèn luyện kĩ năng viết văn tự sự là một vấn đề không mới nhưng lại có khả
năng lớn trong việc rèn luyện và tích hợp được các kĩ năng khác như: dùng
từ, đặt câu, cách sử dụng cấu trúc hội thoại trong một cuộc thoại, cách lập
dàn ý, cách lựa chọn các chi tiết, sự việc tiêu biểu trong toàn bộ nội dung
câu chuyện.Việc rèn luyện kĩ năng này cần phải thể hiện sự đổi mới trong
phương pháp dạy học: tích hợp và tích cực giữa các chủ thể học sinh trong
quá trình dạy học. Trong phạm vi đề tài này chúng tôi đề cập đến những
nội dung trên nhằm định hướng cho giáo viên một cách nhìn khái quát hơn
về kiểu văn bản tự sự và việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn tự sự cho học
sinh THCS.
II. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
1. Đối tượng:
Trong đề tài này, chúng tôi tập trung vào vấn đề “Rèn luyện kĩ năng viết
đoạn văn tự sự cho học sinh THCS”.
2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài này, chúng tôi không đi sâu vào nghiên những cứu vấn đề lí luận
chung về văn tự sự mà chỉ tập trung vào một số vấn đề chính và xem đó là
cơ sở lý thuyết để xác định nội dung đề tài. Đồng thời chúng tôi tiến hành
khảo sát thực trạng viết đoạn văn tự sự của học sinh các lớp 6,7,8,9 của
trường chúng tôi,cũng như thực trạng viết văn tự sự của học sinh trong
huyện Quỳ Hợp, qua các kì kiểm tra chất lượng; khảo sát chất lượng học
2
sinh khá, giỏi các lớp 6, 8 và kì thi chọn học sinh giỏi huyện lớp 9 vòng 1
của các năm. Trên cơ sở ấy chúng tôi bước đầu đưa ra những biện pháp,
cách thức và hệ thống bài tập nhằm rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn tự sự
cho học sinh THCS.
3. Mục đích nhiệm vụ:
Dạy học theo quan điểm tích hợp đang là vấn đề mang tính cấp thiết được
nhiều người quan tâm, nhất là phần tập làm văn ở chương trình THCS
Trong đề tài này, chúng tôi muốn tìm hiểu một thể loại quan trọng nhất của
tập làm văn THCS, đó là văn tự sự. Đặc biệt là rèn luyện một số kĩ năng
viết đoạn văn tự sự cơ bản trong chương trình Ngữ văn THCS. Từ đó
chúng tôi xây dựng một hệ thống bài tập và đưa ra những phương pháp,
biện pháp và cách thức tổ chức nhằm rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn tự sự
cho học sinh THCS . Mong muốn của chúng tôi là có thể góp phần vào
việc đổi mới phương pháp dạy học phân môn tập làm văn theo quan điểm
tích cực, tích hợp.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để đạt mục tiêu đề ra ở trên, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp khảo sát.
Qua các phương pháp trên chúng tôi đã tập trung vào hai căn cứ cơ bản:
a. Căn cứ vào cơ sở lý luận :
Căn cứ vào mục tiêu giáo dục THCS của bộ giáo dục và đào tạo đã
chỉ rõ: “Bậc THCS phải giúp học sinh có kỹ năng bước đầu, biết vận
dụng những kiến thức đã học và kinh nghiệm thu được của bản thân biết
quan sát, thu thập, xử lý và thông báo thông tin qua nội dung đã học
có thể vận dụng một cách sáng tạo kiến thức đã học đề giải quyết những
vấn đề trong học tập hoặc thường gặp trong cuộc sống bản thân, cộng
đồng”.
(Mục c- mục tiêu cụ thể). Bên cạnh đó mục tiêu môn Ngữ văn cũng
khẳng định: dạy học môn Ngữ văn phải “Làm cho học sinh có kỹ năng
nghe, nói, đọc, viết khá thành thạo các kiểu văn bản” đã học( tự sự,
miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh, điều hành).
b. Căn cứ vào thực tiễn :
Căn cứ vào tâm lý, trình độ học sinh Quỳ Hợp nói chung và HS
trường chúng tôi nói riêng.Tuy cùng độ tuổi nhưng điều kiện và khả
năng phát triển tâm lý, sinh lý, sự nhận thức còn hạn chế so với học sinh
miền xuôi nhất là thị xã. thành phố.Vốn ngôn ngữ của HS miền núi còn
3
hạn chế, các em lại quen với lối tư duy ghi nhớ máy móc. Mặc dù các
em đã được làm quen với kiểu bài tự sự ở bậc tiểu học nhưng các em
chỉ quen với cách viết đoạn văn đơn thuần, diễn đạt vụng về. Vì vậy học
sinh gặp không ít khó khăn khi viết đoạn văn đối thoại hoặc đưa các yếu
tố miêu tả, biểu cảm, các yếu tố đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm
hay đưa ra những nhận xét đánh giá về hành động,suy nghĩ, tâm trạng
của nhân vật.
Căn cứ vào cấu tạo chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn THCS,
lấy 6 kiểu văn bản( tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh
điều hành) làm trục đồng quy và được giảng dạy theo nguyên tắc đồng
tâm nâng cao và được chia làm hai vòng:
- Vòng 1: lớp 6,7.
- Vòng 2: lớp 8,9.
Việc nghiên cứu thể nghiệm phương pháp, cách thức tổ chức, rèn
luyện kĩ năng viết đoạn văn tự sự cho học sinh THCS đến nay chưa có
một tác giả nào trình bày thành một đề tài riêng để nhằm nâng cao chất
lượng dạy học.Vì vậy chúng tôi đã trăn trở tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra
cho mình một phương pháp, cách thức giảng dạy tương đối phù hợp với
đối tượng học sinh, để khắc phục phần nào những khó khăn chung tôi
thường gặp phải trong quá trình dạy học.
B. PHẦN NỘI DUNG:
I. Nhận diện phần tập làm văn kiểu bài tự sự trong cáu trúc chương
trình và sách giáo khoa THCS.
Như đã nói ở trên, cấu trúc chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn
THCS lấy 6 kiểu văn bản: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, lập luận, thuyết
minh và điều hành làm trục đồng quy và được giảng dạy các kiểu bài
theo hàng ngang hai vòng. Vì vậy kiểu bài tự sự được giảng dạy ở cả
hai vòng với số lượng khá lớn (51 tiết/189 tiết chiếm 27 % các tiết tập
làm văn) với các nội dung cơ bản sau:
- Lớp 6:
+ Tìm hiểu chung về văn tự sự.
+ Sự việc và nhân vật trong văn tự sự.
+ Chủ đề và dàn bài của bài văn tự sự.
+ Tìm hiểu cách làm bài văn tự sự.
+ Bài viết về văn tự sự.
+ Lời văn, đoạn văn tự sự
+ Trả bài.
+ Luyện nói kể chuyện.
+ Ngôi kể và lời kể trong văn tự sự.
+ Thứ tự kể trong văn tự sự.
4
+ Luyện tập xây dựng bài văn tự sự kể chuyện đời thường
+ Kể chuyện tưởng tượng
+ Luyện tập kể chuyện tưởng tượng.
+ Thi kể chuyện.
-
- Lớp 7 :
Bài viết kể chuyện và miêu tả
- Lớp 8 :
+Tóm tắt văn bản tự sự.
+ Luyện tập tóm tắt văn bản tự sự.
+ Miêu tả, biểu cảm trong văn tự sự.
+ Luyện tập viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm.
+ Làm dàn ý cho bài văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm.
+ Bài viết.
+ Luyện nói : kể chuyện theo ngôi kể kết hợp với miêu tả và biểu cảm.
- Lớp 9 :
+Luyện tập tóm tắt tác phẩm tự sự.
+ Miêu tả trong văn bản tự sự.
+ Miêu tả nội tâm trong văn bản tự sự.
+ Nghị luận trong văn bản tự sự.
+Luyện tập viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận.
+ Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự.
+ Luyện nói: Tự sự kết hợp với nghị luận và miêu tả nội tâm.
+ Người kể chuyện trong văn bản tự sự.
+ Ôn tập tập làm văn tự sự.
II. Thực trạng dạy, học viết đoạn văn tự sự cho học sinh THCS
Qua thực tế giảng dạy, thăm lớp dự giờ, thanh tra, kiểm tra, khảo sát
chất lượng, thi học sinh giỏi lớp 9 vòng 1 của một số năm gần đây
chúng tôi thấy nổi cộm lên một số vấn đề cơ bản như sau:
1. Những việc làm được:
Do cấu trúc chương trình và sách giáo khoa được sắp xếp khá khoa
học, lấy văn bản làm ngữ liệu chính cho cả ba phân môn nên hầu hết
giáo viên đã làm được yêu cầu tích hợp. Nghĩa là khi giảng dạy các tiết
tập làm văn, về kiểu bài tự sự giáo viên đã bám vào các văn bản đã học
để tổ chức cho học sinh nắm được khái niệm, cốt truyện, chi tiết, sự
việc, ngôi kể, lời kể, nhân vật, các yếu tố miêu tả, biểu cảm, đối thoại,
độc thoại, độc thoại nội tâm và yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự
đồng thời vừa soi sáng thêm một số kiến thức, kĩ năng cảm thụ tác
phẩm văn học mà một tiết đọc - hiểu văn bản chưa có điều kiện đề cập
tới hoặc đề cập chưa sâu.
5
Một số giáo viên đã quan tâm tới việc rèn luyện kĩ năng nhận diện,
cách viết từng đoạn văn tự sự cơ bản như đoạn mở bài, các đoạn thân
bài đoạn kết bài và cách đưa các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận
vào trong từng đoạn văn. Do đó các em đã phần nào phân biệt được
đoạn văn tự sự có các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận khác với đoạn
văn miêu tả biểu cảm hay nghị luận.
Một số học sinh đã biết cách liên kết các đoạn văn một cách chặt chẽ,
sáng tạo. Nghĩa là thầy giáo đã phần nào phát huy được tính tích cự, chủ
động của học sinh, một trong những yêu cầu cơ bản của dạy học hiện
đại.
2. Một số việc chưa làm được khi rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn tự
sự cho học sinh THCS
Đối với kiểu bài tự sự các em đã được làm quen từ bậc tiểu học nên
khi học kiểu bài này giáo viên, học sinh thường chủ quan chưa chú ý
đúng mức việc rèn luyện kĩ năng viết từng đoạn văn cho học sinh. Vì
vậy học sinh chưa biết hoá thân vào nhân vật, thể hiện tính cách nhân
vật và hiểu rõ đặc trưng của văn bản tự sự. Hơn thế dạy tập làm văn chủ
yếu là thiên về thực hành ứng dụng. Song trên thực tế các tiết rèn luyện
kĩ năng viết đoạn văn tự sự còn quá ít, giáo viên chỉ vận dụng trong các
tiết lập dàn bài, trả bài, cách đưa các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị
luận, đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm Vì vậy rất ít giáo viên
quan tâm đúng mức tới vấn đề này cho nên trong nhận thức của các em
vẫn còn nhập nhằng, lẫn lộn giữa các kiểu bài tự sự với miêu tả, biểu
cảm Đặc biệt các em chưa biết cách tổ chức đoạn văn tự sự có cuộc
thoại, hay độc thoại, độc thoại nội tâm và đưa các yếu tố miêu tả, biểu
cảm các yếu tố nghị luận vào trong đoạn văn tự sự, mà các em chỉ viết
được những đoạn văn tự nhiên.
Bên cạnh đó nội dung cần ghi nhớ về các đoạn văn trong bài văn tự sự
còn quá ít do đó nhiều giáo viên còn chủ quan, hời hợt chưa biết cách
khắc sâu cách viết từng đoạn văn cụ thể cho học sinh. Trong khi chương
trình lại rất chú trọng yêu cầu thực hành. Tuy nhiên trên thực tế thì các
giờ dạy tập làm văn nói chung và dạy văn tự sự nói riêng vẫn chưa đạt
yêu cầu này. Kiến thức lí thuyết vẫn chiếm nhiều thời gian trong một
tiết học trên lớp.
III. Đoạn văn tự sự và tác dụng của việc rèn luyện kỹ năng viết đoạn
văn tự sự .
Đoạn văn là vấn đề không mới. Ngay từ cấp tiểu học, học sinh đã
được tiếp cận với khái niệm này. Nhìn một cách chung nhất, đoạn văn
là sự phân đoạn về mặt nội dung, vừa là sự phân đoạn về mặt hình thức
của văn bản. Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản. Đoạn văn là
phần văn bản tính từ chỗ viết hoa lùi vào đầu dòng, đến chỗ chấm
6
xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh.Đoạn văn
thường do nhiều câu tạo thành. Đề tài trong đoạn văn là vật, việc, hiện
tượng chính được đề cập đến trong đoạn văn. Xét mối quan hệ giữa
đoạn văn với đề tài chứa trong đoạn văn, chúng ta thường gặp 3 trường
hợp sau:
- Đoạn văn chứa một đề tài
- Đoạn văn chứa nhiều đề tài
- Đoạn văn chứa một bộ phận của đề tài( một đề tài được thực hiện bằng
2,3 đoạn văn).
Trong văn tự sự, cần phải dựa trên cấu trúc hội thoại để xác định đoạn
văn. Người thầy giáo phải xác định được đoạn văn tự sự là cuộc thoại
hay đoạn thoại ? Cuộc thoại là đơn vị hội thoại bao trùm lớn nhất. Có
thể nói, toàn bộ hoạt động ngôn ngữ của con người là một chuỗi dằng
dặc những lời đối đáp. Việc phải tách ra trong chuỗi dằng dặc những lời
đối đáp ấy của con người để nghiên cứu chính là cuộc thoại.
Có thể dựa trên những tiêu chí sau để xác định một cuộc thoại:
- Nhân vật hội thoại: sự đương diện liên tục của những người hội thoại
- Tính thống nhất về thời gian và địa điểm.
- Tính thống nhất về đề tài diễn ngôn.
- Các dấu hiệu ranh giới về cuộc thoại.
Đoạn thoại: Là một mảng diễn ngôn do một số cặp trao đáp liên kết
với nhau về ngữ nghĩa (một chủ đề duy nhất) hoặc về ngữ dụng( tính
duy nhất về đích).
Cấu trúc tổng quát của một đoạn thoại có thể là:
- Đoạn mở thoại.
- Thân cuộc thoại.
- Đoạn thoại kết thúc.
Điều đó có nghĩa là, mặc dù có nhiều cặp trao đáp nhưng chỉ hướng đến
duy nhất một nội dung thì phần văn bản mà chúng ta xem xét vẫn chỉ là
một đoạn văn.
Ví dụ1:
“ Chẳng bao lâu, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa bé không chân,
không tay, tròn như một quả dừa. Bà buồn lắm, toan vứt đi thì đứa con
bảo:
- Mẹ ơi, con là người đấy. Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.
Nghĩ lại, thấy thương con, bà đành để con lại nuôi và đặt tên cho nó
là Sọ Dừa”
- Ví dụ2:
Vị quan nọ bảo:
7
- Được tôi sẽ đưa anh vào gặp vua với điều kiện, anh phải chia đôi
một nửa phần thưởng của nhà vua. nếu không thì thôi.
Người nông dân đồng ý, viên quan nọ liền dẫn ông ta vào cung vua.
Vua cầm lấy viên ngọc và bảo:
- Thế anh muốn ta thưởng cho anh cái gì bây giờ?
Ngừơi nông đân bèn thưa:
- Xin bệ hạ hãy thưởng cho thần năm mươi roi Chỉ có điều là hạ
thần đã đồng ý chia cho viên quan đã đưa thần vào đây một nửa
phần thưởng của bệ hạ. Vậy xin bệ hạ hãy thưởng cho mỗi người hai
lăm roi ”
Xét hai phần văn bản trên, chúng ta nhận thấy tương ứng với các nội
dung sau:
Phần văn bản 1: Tâm trạng của bà mẹ và thái độ của Sọ Dừa.
Phần văn bản 2: Sự tham lam của viên quan và thái độ, hành động ứng
xử thông minh của người nông dân.
Đó là những đoạn văn tự sự trình bày những sự việc, những hành động
liên quan đến các nhân vật. Từ những khái niệm trên ta có thể khẳng
định: Tự sự là phương thức trình bày một chuỗi sự việc, sự việc này
dẫn tới sự việc kia trong một thời gian không gian nhất định, cuối cùng
dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa.
Bài văn tự sự gồm nhiều đoạn văn. Đoạn ( các đoạn) mở bài giới thiệu
câu chuyện; các đoạn thân bài kể lại diễn biến của các sự việc; đoạn
( các đoạn) kết bài kết thúc câu chuyện, tạo ấn tượng đối với suy nghĩ,
cảm xúc của người đọc người nghe. Xuất phát từ đặc trưng của kiểu văn
bản tự sự nên đoạn văn tự sự có thể giới thiệu về nhân vật(lai lịch, họ
tên, quan hệ, tính tình, tài năng ) hoặc kể về việc làm, hành động, lời
nói, kết quả và sự thay đổi do các hành động ấy đem lại.
Đoạn văn tự sự còn là những đoạn đối thoại giữa các nhân vật, góp
phần bộc lộ tính cách các nhân vật và sự phát triển của câu chuyện. Do
đó khái niệm đoạn văn tự sự liên quan trực tiếp đến cấu trúc hội thoại,
các nhân vật giao tiếp, nội dung giao tiếp, tình huống giao tiếp Vì vậy
cần có cái nhìn đa chiều hơn về đoạn văn tự sự để tránh tình trạng học
sinh chỉ viết được những đoạn văn tự nhiên mà không rèn luyện để viết
được những đoạn văn có lời thoại giữa các nhân vật. Những đoạn có lời
đối đáp giữa các nhân vật, thường tương ứng với một đoạn thoại, tức là
đoạn thoại ấy nhằm hướng đến một nội dung nào đó trong toàn bộ nội
dung của văn bản. Đoạn thoại có thể gồm nhiều cặp thoại cùng hướng
đến một nội dung nào đó trong toàn bộ cuộc thoại.
Như vậy phần văn bản(1) trích dẫn ở trên là một đoạn văn tự sự tương
ứng với nội dung:
8
Tâm trạng của bà mẹ sau khi sinh con và thái độ của Sọ Dừa khi nói
với mẹ.
Phần văn bản(2) gồm hai đoạn văn tự sự, tương ứng với hai nội dung:
+ Mong muốn được dâng ngọc quý cho vua của người nông dân và
điều kiện của viên quan.
+ Thái độ của nhà vua và câu trả lời thông minh của người nông dân.
Việc rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn tự sự cho học sinh THCS có ý
nghĩa rất quan trọng. Trước hết, phải bắt đầu từ việc viết đoạn văn, tức
là từ việc rèn luyện các kỹ năng bộ phận để tiến tới hoàn chỉnh bài văn.
Đây là đơn vị không lớn lắm về dung lượng nhưng lại có khả năng rèn
luyện được các năng lực khác như : năng lực dùng từ, năng lực viết câu,
năng lực sử dụng lời kể, năng lực chọn ngôi kể trong văn tự sự. Đứng
ở khía cạnh đổi mới phương pháp dạy học theo nguyên tắc tích cực, tích
hợp, việc rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn tự sự còn có khả năng tích
hợp được những tri thức của phần đọc- hiểu tác phẩm văn học và phần
tiếng Việt có hiệu quả nhất. Học sinh sẽ có khả năng tốt hơn khi phân
tích một văn bản tự sự, đặc biệt là khi vận dụng những tri thức về đoạn
văn để hiểu rõ hơn về dụng ý của nhà văn khi xây dựng nhân vật, hoặc
khi miêu tả một sự việc nào đó trong diễn biến câu chuyện. Những tri
thức về từ, câu, về hội thoại sẽ được cụ thể hoá trong khi học sinh viết
đoạn văn tự sự. Mặt khác, đổi mới phương pháp dạy học dẫn đến cần
phải có sự đổi mới trong kiểm tra, đánh giá. Thay vì dành quá nhiều
thời gian để viết một bài văn, học sinh chỉ cần tập trung rèn luyện viết
một phần trong bài văn, tương ứng với một hoặc hai, ba đoạn văn. Các
kỹ năng bộ phận của Tập làm văn sẽ được rèn luyện kỹ hơn, sâu hơn.
IV. Tổ chức cho HS viết đoạn văn tự sự :
Đoạn văn tự sự chỉ là một bộ phận của bài văn tự sự, rèn luyện kĩ
năng viết đoạn văn tự sự cho HS cần phải lưu ý:
Cần có sự lựa chọn cho HS tập viết đoạn văn mở bài, thân bài, kết
bài. Bởi vì cùng một lúc không thể rèn kĩ năng viết cả bài văn mà phải
rèn kĩ năng viết từng đoạn thì thời gian mới cho phép và không quá sức
học sinh. Nhưng phải khẳng định rằng, chúng ta chỉ rèn kĩ năng viết
đoạn văn thôi thì chưa tiến tới mục tiêu của việc dạy học. Cần phải rèn
cho học sinh biết viết đoạn, liên kết giữa các đoạn trong bài với nhau để
tạo nên một bài văn hoàn chỉnh.
Như chúng ta đã biết mở bài và kết thúc câu chuyện đều quan trọng.
Mở đầu sao cho cuốn hút người đọc vào câu chuyện sắp kể.
Rèn kĩ năng viết đoạn văn mở bài cho bài văn tự sự có rất nhiều
phương pháp.
Ví dụ:
* Mở bài trực tiếp:
9
+ Mở bài bằng cách giới thiệu về nhân vật hoặc sự việc.
Cách mở bài này tiết kiệm được thời gian, đi thẳng vào nội dung câu
chuyện. Khi giới thiệu về nhân vật, cần chú ý tới lai lịch, họ tên, tính
tình, tài năng và ý nghĩa của nhân vật. Nếu mở bài bằng cách giới thiệu
về sự việc thì phải chọn sự việc có ý nghĩa nhất liên quan đến nhân vật
trong câu chuyện.
Ví dụ:
Em gái tôi tên là Kiều Phương, nhưng tôi quen gọi nó là Mèo bởi vì mặt
nó luôn bị chính nó bôi bẩn. Nó vui vẻ chấp nhận cái tên tôi tặng cho và
hơn thế còn dùng nó để xưng hô với bạn bè. Mèo rất hay lục lọi các đồ
vật với một sự thích thú đến khó chịu.
(Tạ Duy Anh, Bức tranh của em gái tôi).
Hoặc: Thôi Sinh ở Lâm Thanh, thuộc Sơn Đông, nhà sa sút, vườn tược
bỏ hoang, tường rào lở đổ. Mỗi buổi sáng, thường thấy một con ngựa ô,
có vằn trắng, đuôi ngựa bị lửa đốt xém một đoạn, nằm trong đám cỏ
đẫm sương ở vườn sau nhà. Đuổi, lại thấy đến. Cũng không biết ngựa
từ đâu tới?
( Ngựa tranh- theo Liêu Trai chí dị)
* Mở bài gián tiếp.
+ Mở bài bằng cách nêu tình huống hoặc sự cố nào đó hay kết cục
câu chuyện, số phận nhân vật rồi ngược lên kể lại từ đầu, nêu chủ đề
câu chuyện.
Cách mở bài như thế này có yêu cầu cao hơn, đòi hỏi phải có sự tư duy,
sự lựa chọn khá kĩ của học sinh.
Ví dụ:
Mẹ tôi, giọng khản đặc, từ trong màn nói vọng ra:
- Thôi, hai đứa liệu mà chia đồ chơi ra đi.
( Khánh Hoài, Cuộc chia tay của những con búp bê).
+ Mở bài bằng tả cảnh:
Rét dữ dội, tuyết rơi. Trời đã tối hẳn. Đêm nay là đêm giao thừa.
Giữa trời đông giá rét, một em gái nhỏ đầu trần, chân đi đất, đang dò
dẫm trong đêm tối.
(An-đec- xen, Cô bé bán diêm).
+ Mở bài bằng một tâm trạng, một ý nghĩ.
Buổi sáng hôm ấy, đã quá trễ giờ đến lớp, tôi rất sợ bị quở mắng,
càng sợ vì thầy Ha-men đã dặn trước rằng thầy sẽ hỏi bài chúng tôi về
các phân từ mà tôi chẳng thuộc lấy một chữ. Tôi thoáng nghĩ hay là
trốn học và rong chơi ngoài đồng nội.
(An-phông-xơ-Đô-đê, Buổi học cuối cùng).
+ Mở bài bằng hồi tưởng:
10
Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không
có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỉ niệm mơn
man của buổi tựu trường.
(Thanh Tịnh, Tôi đi học).
Đối với việc hướng dẫn học sinh viết các đoạn thân bài cần xác
định các hình thức như sau:
+ Đoạn văn xây dựng sự việc : sự việc trong văn tự sự là chuỗi sự việc
xảy ra trong thời gian, địa điểm cụ thể, do nhân vật cụ thể thực hiện, có
nguyên nhân, diễn biến, kết quả Sự việc trong văn tự sự phải được sắp
xếp theo một trình tự diễn biến hợp lý, sao cho thể hiện được tư tưởng
mà người kể muốn biểu đạt. Vì vậy khi viết đoạn văn xây dựng sự việc
cần hướng dẫn, tổ chức cho học sinh biết cách chọn sự vệc chính, sự
việc phụ và biết sắp xếp các sự việc ấy theo một trình tự hợp lý.( Tuỳ
theo từng khối lớp) mà yêu cầu cho phù hợp.
Đối với lớp 6: Viết đoạn văn kể lại việc Thuỷ Tinh đến sau không lấy
được Mị Nương liền nổi giận đem quân đuổi theo đánh Sơn Tinh?
Đối với lớp 8 : Viết đoạn văn kể về cuộc sống của Lão Hạc từ khi anh
con trai xa nhà (yêu cầu học sinh phải biết kết hợp với các yếu tố miêu tả
và biểu cảm).
Đối với lớp 9: Viết đoạn văn kể về kỉ niệm sắc với người bà của Bằng Việt
trong những ngày ấu thơ (yêu cầu học sinh phải biết kết hợp với các yếu tố
miêu tả, biểu cảm các yếu tố độc thoại, độc thoại nội tâm và nghị luận).
- Đoạn văn xây dựng nhân vật : Nhân vật trong văn tự sự là người thực
hiện các sự việc và là người thể hiện trong văn bản. Một tác phẩm tự sự có
nhân vật chính và nhân vật phụ. Nhân vật chính đóng vai trò chủ yếu trong
việc thể hiện của tác phẩm. Nhân vật phụ chỉ giúp nhân vật chính hoạt
động. Nhân vật được thể hiện qua các mặt: tên gọi, ngoại hình, lai lịch, tính
nết, hành động, tâm trạng GV có thể tuỳ vào nhận thức của HS để vận
dụng thích hợp.
Đối với lớp 6: Cho HS viết đoạn văn khoảng 10 câu kể về nhân vật
Sơn Tinh trong chuyện “Sơn Tinh, Thuỷ Tinh”
Đối với lớp 9: Cho HS viết đoạn văn kể lại cuộc gặp gỡ giữa ông hoạ
sỹ, cô kỉ sư, và anh thanh niên trong chuyện “ Lặng lẽ Sa Pa”
+ Đối với đoạn văn miêu tả ngoại hình: cần chú ý chọn những chi tiết
tiêu biểu để miêu tả nhằm mục đích góp phần nổi bật đặc trưng nhân
vật, cần tránh sa vào văn miêu tả.
VD: Cô không đẹp, chỉ xinh thôi. Và tính cô cũng như tuổi cô còn trẻ
con lắm. Thấy khách hàng nói một câu bông đùa cô đã tưởng người ta
chọc ghẹo mình, díu đôi lông mày lại và ngoe nguẩy cái mình. Khách
trông thấy chỉ cười.
( Thạch Lam- Hàng nước cô Dần)
11
Hoặc yêu cầu cao hơn đối với lớp 8: Dựa vào đoạn thơ sau, viết một
đoạn văn tự sự có yếu tố miêu tả và biểu cảm:
Tiếng gà trưa
Tay bà khom soi trứng
Dành từng quả chắt chiu
Cho con gà mái ấp
Cứ hàng năm hàng năm
Khi gió mùa đông tới
Bà lo đàn gà toi
Mong trời đừng sương muối
Để cuối năm bán gà
Cháu được quần áo mới.
(Xuân Quỳnh, Tiếng gà trưa)
HS viết đoạn văn dựa theo mạch thơ, nhưng cần phải chú ý chi tiết tả
người bà, dù ít thì mới làm nổi bật nhân vật xuất hiện trong mạch truyện
kể.
+ Đoạn văn miêu tả tính cách: cần chú ý đến nội tâm của nhân vật, đặt
trong mối quan hệ với các nhân vật khác qua cái nhìn và nhận xét của
người kể chuyện.
VD: Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp vào đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ
tôi, tôi thấy những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man
khắp da thịt. Hơi quần áo mẹ tôi và nhữg hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn
nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường.
(Nguyên Hồng – Những ngày thơ ấu)
Hoặc viết đoạn văn tự sự có lời thoại của em bé nói với mẹ trong bài “Mây
và sóng” của Ta-go. Đối với lớp 9
Rèn kĩ năng viết đoạn kết bài:
Đoạn kết bài trong bài văn tự sự cũng rất quan trọng. Khác với kết bài của
một bài văn nghị luận(chủ đề được nhấn mạnh bằng ngôn ngữ trực tiếp).
Kết bài của bài văn tự sự rất linh hoạt, tuỳ theo ý nghĩa mà người kể muốn
gửi gắm vào câu chuyện(chủ đề). Có rất nhiều cách kết bài khác nhau,
người kể chuyện thường muốn đem lại cho độc giả:
- Một cảm giác đột ngột ý vị.
- Một dư âm ngân mãi trong lòng.
- Một ấn tượng sâu sắc, sự ám ảnh khôn nguôi về ý nghĩa câu chuyện.
Tựu trung, đối với đoạn văn kết bài, có thể tập trung rèn luyện theo các
hình thức sau :
+ Kết bài kể về kết thúc câu chuyện.
12
+ Kết bài nâng cao, mở rộng chủ đề câu chuyện.
Ví dụ:
- Tôi không trả lời mẹ vì tôi muốn khóc quá, bởi vì nếu nói được với
mẹ, tôi sẽ nói rằng: “ không phải con đâu. Đấy là tâm hồn và lòng nhân
hậu của em con đấy”
( Tạ Duy Anh, Bức tranh của em gái tôi).
- Thầy bèn quay về phía bảng, cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết
sức, thầy cố viết thật to
“NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”
Rồi thầy đứng đó, đầu dựa vào tường, và chẳng nói, giơ tay ra hiệu cho
chúng tôi:
“ Kết thúc rồi đi đi thôi”
(An-phông-xơ-Đô-đê, Buổi học cuối cùng).
Để viết đoạn văn tự sự, giáo viên nên cho HS hình dung lại toàn bộ sự
việc, diễn biến câu chuyện, lựa chọn những sự việc, những chi tiết tiêu
biểu nhất, sau đó mới kể lại sự việc theo các yêu cầu : nhân vật trong câu
chuyện, địa điểm, thời gian, quá trình, nguyên nhân, kết quả.
Muốn viết đoạn mở bài, thân bài, kết bài không thể không hình dung các
sự việc các nhân vật, mối quan hệ giữa các nhân vật và ý nghĩa của câu
chuyện. Có như thế đoạn văn được xây dựng mới có tính thống nhất trong
toàn bài văn.
Khi viết đoạn văn tự sự giáo viên nên định hướng cho HS những tri thức lý
thuyết về đoạn văn tự sự trên hai phương diện : nội dung và nhiệm vụ của
đoạn văn.
Tuỳ theo sự xuất hiện của đoạn văn mà có đoạn giới thiệu về nhân vật, vừa
kể việc, có đoạn văn biểu hiện tâm trạng của nhân vật hoặc của người kể
chuyện. Ngoài ra còn có những đoạn văn tả cảnh, tả người hoặc ghi lại
những cuộc thoại những độc thoại nội tâm của nhân vật
Cùng với nhiệm vụ cụ thể tuỳ theo vị trí xuất hiện, các đoạn văn dù ở vị trí
nào, thể hiện nội dung gì cũng đều tập trung làm nổi bật chủ đề, nội dung
của văn bản.
Rèn luyện cho HS kĩ năng viết đoạn văn tự sự cần hướng dẫn cho HS nhất
quán ngôi kể, các kiểu câu phù hợp với nội dung trong từng đoạn. Ngoài
ra, cần phải chú ý sử dụng phương tiện liên kết câu để đoạn văn được mạch
lạc chặt chẽ.
V. Một số lưu ý khi hướng dẫn học sinh THCS viết đoạn văn tự sự.
Khái niệm đoạn văn và những vấn đề liên quan đến đoạn văn đến lớp 9 học
sinh mới tiếp thu một cách đầy đủ và có hệ thống. Nhưng ngay từ lớp 6
học sinh đã phải viết đoạn văn tự sự và miêu tả Vì vậy trước khi hướng
dẫn học sinh viết đoạn văn tự sự, giáo viên cần cung cấp một số vấn đề liên
13
quan đến khái niệm đoạn văn và những yêu cầu cụ thể khi viết đoạn văn.
Đặc biệt tạo cho học sinh kĩ năng xác định câu chủ đề trong đoạn văn và
viết những đoạn văn có câu chủ đề.
Một đoạn văn bao giờ cũng phải liên quan chặt chẽ với các đoạn văn khác
trong bài văn, nghĩa là đoạn văn ấy phải chịu sự chi phối của phong cách
văn bản. Đoạn văn tự sự phải mang màu sắc của văn bản tự sự, tức là phải
kể người, kể việc, về hành động của các nhân vật. Khi dạy về văn bản tự sự
giáo viên không chỉ dạy học sinh viết những đoạn văn tự nhiên mà điều
quan trọng hơn là cần phải nhận diện các đoạn văn đối thoại và hướng dẫn
học sinh viết cả những đoạn văn có lời đối thoại giữa các nhân vật. Bởi vì
lời đối thoại của các nhân vật là yếu tố không thể thiếu trong việc thể hiện
và xây dựng tính cách nhân vật. Đó cũng là một cách để phát triển tư duy
cho học sinh đa dạng và phong phú hơn.
Muốn viết được những đoạn văn tự sự cần phải cung cấp cho học sinh
những tri thức về văn bản tự sự, phân biệt bước đầu sự khác nhau giữa văn
bản tự sự và các kiểu văn bản khác. Nhưng điều quan trọng nhất trong tiết
dạy rèn kĩ năng viết đoạn văn tự sự chính là việc xây dựng hệ thống bài
tập. Trong sách giáo khoa Ngữ văn 6 (trang 60) có 2 dạng bài tập: Bài tập
nhận diện – phân tích( bài 1) và bài tập tạo lập văn bản(bài 4).Tuy nhiên
đây vẫn là dạng bài rèn luyện viết những đoạn văn chưa có lời đối thoại
giữa các nhân vật. Giáo viên cần tạo ra được những tình huống đối thoại
giữa các nhân vật với nội dung cho trước để học sinh có thể tạo lập được
những đoạn văn tự sự trong đó học sinh bước đầu hoá thân vào nhân vật,
thể hiện tính cách nhân vật và hiểu rõ hơn về đặc trưng của văn bản tự sự,
bức tranh muôn màu của cuộc sống.
Cho HS nắm vững vài kết cấu về loại văn này trong một đoạn văn:
14
3.Sự kiện 1
Biểu cảm về sự kiện 1
Nhận xột, đỏnh giỏ
Sự kiện 2
Biểu cảm về sự kiện 2
Nhận xột, đỏnh giỏ
4. Miêu tả sự vật 1
Biểu cảm về sự vật 1
Miêu tả sự vật 2
Biểu cảm về sự vật 2
Nhận xét đánh giá
1. Sự kiện 1
biểu cảm sự kiện 1
Sự kiện 2
Biểu cảm sự kiện 2
2. Miêu tả sự vật 1
Biểu cảm sự vật 1
Miêu tả sự vật 2
Biểu cảm về sự vật 2
VI. Tổ chức cho học sinh viết đoạn văn tự sự bằng hoạt động tích cực
và tương tác.
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của
người học theo quan hệ tương tác giữa HS với HS, giữa giáo viên với HS
có khả năng tối ưu nhất trong việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn tự sự
cho HS
THCS. Với hoạt động này HS hoàn toàn chủ động sáng tạo trong việc tạo
ra thành quả học tập của chính bản thân mình, tránh được tình trạng học
tập thụ động một chiều.
Trong hoạt động tương tác, thảo luận theo nhóm là hình thức hoạt động có
ý nghĩa quan trọng. Dạy học hợp tác theo nhóm “ Là một thuật ngữ để chỉ
các dạy học trong đó HS được tổ chức thành các nhóm một cách phù hợp,
được giao nhịêm vụ và được khuyến khích thảo luận, hướng dẫn làm việc
hợp tác với nhau giữa các thành viên để cùng đạt được kết quả chung là
hoàn thành nhiệm vụ của cả nhóm”.
Tương tác chính là một hoạt động giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh
với học sinh. Hình thức hoạt động tương tác tạo điều kiện để từng cá nhân
tích cực hoạt động, tích cực đóng góp vào kết quả của bài học. với hoạt
động này, mỗi cá nhân sẽ tìm thấy lợi ích cho mình và cho tất cả các thành
viên trong nhóm. Trong hoạt động hợp tác theo nhóm, HS có cơ hội bộc lộ
mình, phát triển các kĩ năng, khắc phục được hạn chế của bản thân.
Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm còn tạo điều kiện để hình thành
mối quan hệ của các thành viên trong lớp. Về phía giáo viên hoạt động đòi
hỏi giáo viên phải chuẩn bị công phu, phải lựa chọn được những nội dung
phù hợp và thiết kế được những hình thức chuyển tải các nội dung một
cách hợp lý nhất. Giáo viên đóng vai trò là người tổ chức hướng dẫn các
hoạt động, gợi mở, khuyến khích và hỗ trợ việc học của học sinh. Hoạt
động thảo luận nhóm là hình thức học tập tích cực tương tác. Giáo viên cho
cả lớp tiến hành viết đoạn văn tự sự dựa trên nội dung đã xác định ở trên.
Có thể viết đoạn văn tuỳ theo sở thích của HS
Lưu ý: Cần phải lựa chọn từ ngữ cho phù hợp với nội dung câu chuyện, nội
dung đoạn trích. Chú ý tới ngôi kể, lời kể
VD: Đối với những đề sau:
15
5. Sự kiện 1
Sự kiện 2
Đến sự kiện 10
Biểu cảm về 10 sự kiện trên
6. Miªu tả về sự vật 1
Biểu cảm về sự vật 1
Kể về sự kiện 1
Biểu cảm về sự kiện 1
Nhận xét đánh giá về sự kiện 1
Miêu tả về sự vật 2, 3
Đối với lớp 6: Viết đoạn văn kể lại việc Thuỷ Tinh đến sau không lấy được
Mị Nương liền nổi giận đem quân đuổi theo đánh Sơn Tinh?
Đối với lớp 8 : Viết đoạn văn kể về cuộc sống của Lão Hạc từ khi anh con
trai xa nhà.
Đối với lớp 9: Viết đoạn văn kể về kỉ niệm sắc với người bà của Bằng Việt
trong những ngày ấu thơ.
- HĐ: Cho cả lớp thảo luận nhóm về các đề trên và rèn luyện cho HS viết
đoạn văn tự sự. Khi tổ chức cho HS chuẩn bị, cần hướng dẫn cho HS nhất
quán ngôi kể, các kiểu câu phù hợp với nội dung trong từng đoạn. Ngoài
ra, cần phải chú ý sử dụng phương tiện liên kết câu để đoạn văn được mạch
lạc chặt chẽ.
Muốn sử dụng hình thức thảo luận nhóm để luyện tập cho HS viết đoạn
văn tự sự ngay ở lớp đạt kết quả cao nhất. Có thể hình dung được các bước
tổ chức cho HS viết đoạn văn tự sự bằng hình thức thảo luận nhóm.
Đối với lớp 6, là những đoạn văn tự sự có kết cấu đơn giản như các truyện
truyền thuyết, cổ tích trong chương trình đã học, hoặc những câu chuyện
sưu tầm thêm
VD: Một đêm em nằm mơ được gặp mẹ Thánh Gióng và được nghe bà kể
về con trai mình.
GV cho HS chuẩn bị viết đoạn mở bài, thân bài và kết bài theo nhóm, sau
đó cho các nhóm trình bày, nhận xét bài của nhau và liên kết thành bài.
Hoặc cho các nội dung chính của phần thân bài.
+ Thánh Gióng là cậu bé khác thường.
+ Thánh Gióng được mọi người góp sức để chuẩn bị ra trận.
+ Thánh Gióng đánh giặc Ân.
+ Thánh Gióng bay về trời.
- GV tổ chức cho HS chuẩn bị các đoạn văn theo các bước để thảo luận
như đã nói trên. Các nhóm tiến hành viết đoạn văn tự sự các thành viên
trong nhóm đều làm việc độc lập, sau đó trình bày trước nhóm, nhóm thảo
luận, sửa chữa bổ sung, cử đại diện nhóm lên trình bày Các nhóm thảo
luận nhận xét bài của nhau. Cuối cùng giáo viên nhận xét đánh giá kết quả
chung và đi đến một kết luận quy trình viết đoạn văn tự sự trong bài văn tự
sự( ưu tiên cho kĩ năng sáng tạo) để khuyến khích HS.
Ví dụ:
Muốn kể sự kiện “Sáng sớm hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến trước
cưới được Mị Nương” GV phải hướng dẫn học sinh dựa vào cốt truyện
chính, phối hợp với sự sáng tạo của cá nhân để tự sự. Sơn Tinh đi đến cưới
Mị Nương với đầy đủ các sính lễ. Chi tiết có ý nghĩa là chi tiết hợp lí,
không trái ngược lại với tính cách nhân vật ấy và không phản lại ý nghĩa
chung của câu chuyện – với những chi tiết sâu sắc, có ẩn ý thú vị.
16
Đối với sự kiện trên ta có thể kể như sau: “Khi gà cất tiếng gáy sáng đầu
tiên mọi vật còn chìm trong màn sương mờ tịch thì triều đình đã giật mình
vì những tiếng đập rộn ràng nơi cửa thành. Thì ra Sơn Tinh ngồi trên kiệu
hoa có hai con voi chín ngà, bên cạnh là tuỳ tùng của chàng ngồi xe song
mã chín hồng mao. Xe và kiệu chở lỉnh kỉnh nào là gà chín cửa, nào trầu
cau, nào cơm nếp, bánh chưng ! Đi theo sau là một đoàn thổi kèn, một
đoàn đánh trống Triều đình vui mừng gả Mị Nương cho chàng. Đoàn
người vui vẻ vái chào rồi đi về tưng bừng, kéo nhau về núi cao. Kèn trống
vang trời, bụi hồng mờ mịt ”
Nếu trong thời gian có hạn thì có thể tổ chức cho HS viết liên kết các đoạn
văn cho sẵn.
Vua Hùng đi nhiều nơi để tìm đất đóng đô của nước Văn Lang
tới một miền có phong cảnh đẹp đẽ, đất phẳng mà rộng, có nhiều khe
suối. Vua cho là thế đất chưa đủ bèn sai chim đại bàng đắp một trăm quả
gò,và hẹn: trước khi mặt trời mọc phải xong. Chim đại bàng khuân đất
đắp được 99 gò, chợt có con gà ngủ mơ gáy sáng, chim đại bàng ngỡ sắp
rạng đông, vỗ cánh bay đi.
tới một toà núi dài đầu cao đuôi thấp, nằm giữa một trăm quả đồi nhỏ,
như con giao Long bơi lượn trên lớp lớp sóng dồn. Trên núi có đường lên
trời, có hang xuống đất. Vua bước vào hang, bỗng gặp một con rắn chặn
đường. Vua cho là điềm không hay lại bỏ đi.
( Hùng Vương chọn đất đóng đô)
Hoặc viết đoạn văn kết bài cho những đề sau:
Đối với lớp 6 : Viết phần kết mới cho truyện ô Ông lão đánh cá và con cá
vàng ằ.
Đối với lớp 8 : Viết kết bài cho bài văn: Kể lại một câu chuyện đáng nhớ
về con vật nuôi mà em yêu thích.
Đối với lớp 9: Viết kết bài cho bài văn: Dựa vào nội dung phần đầu tác
phẩm Chuyện người con gái Nam Xương (từ đầu đến “Bấy giờ chàng mới
tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc đã trót qua rồi”, hãy đóng vai
Trương Sinh kể lại câu chuyện và bày tỏ niềm ân hận.
- Nếu thời gian cho phép luyện tập nhiều hơn thì tuỳ vào mức độ của khối
lớp mà yêu cầu Đối với lớp 9 thì đoạn văn yêu cầu cao hơn, Ví dụ:Thuật
lại đoạn trích “ Mã Giám Sinh mua Kiều” bằng văn xuôi.
Đối với dạng bài tập này học sinh có thể thuật như sau:
Sau khi Kiều quyết định bán mình chuộc cha, có một mụ mối đã đánh hơi
thấy món hời, liền sốt sắng dẫn một gã đàn ông đến nhà họ Vương. Gã
đàn ông ấy khoảng trạc trong ngoài bốn mươi, ăn mặc chải chuốt đỏm
dáng đến mức kệch kỡm, trơ trẽn. Gã tự giới thiệu là “Mã Giám Sinh” quê
ở huyện Lâm Thanh. Nhìn cảnh thầy tớ lao xao, Kiều đã thấy mủi lòng.
17
Khi gia đình chưa kịp chào mời, gã đã nhảy phốc lên ghế ngồi vẻ vênh
váo. Mụ mối bắt đầu vào cuộc.
- Thưa tiên sinh, nhà tôi đang gặp khó khăn. Cô nhà đây muốn gửi gắm
cuộc đời cho tiên sinh. Mong ông chiếu cố.
Mã nhìn ngó, xem xét có vẻ gật gù. Hắn lớn tiếng:
-Nghe bảo cô này giỏi thơ phú, đàn sáo. Hãy cho ta thưởng thức?
Mụ mối giục nàng tỏ rõ tài nghệ của mình. Rõ ràng tài năng mười phân
vẹn mười. Họ Mã gật đầu:
- Cô ả này ta trả bốn trăm lạng vàng.
Mụ mối giãy nảy :
- Xin tiên sinh xem lại. Ngài cho từng ấy, tôi làm sao trang trải.
- Vậy thì hơn bốn trăm được chưa? Gớm thấy người ta dễ dãi thì cứ
vòi vĩnh.
Trong buồng kín, lúc này Kiều lắng nghe cuộc mặc cả của hai kẻ lạ , nàng
đau đớn tủi nhục. Biết kêu ai, trời thì xa, cha mẹ thì đang hoạn nạn. Thôi
đành nhắm mắt dời chân cho qua chuyện. Nàng đau đớn bước ra gật đầu
đồng ý để cho hai bên làm giấy. Thế là một đoá hoa sắc nước hương trời,
một cành vàng lá ngọc đã rơi vào tay một gã buôn người chỉ với giá hơn
bốn trăm lạng vàng.
Tuy nhiên để rèn luyện kĩ năng cho học sinh viết được một đoạn văn tự sự
hay, người thầy giáo cần hướng dẫn học sinh các kĩ năng cơ bản về cách
viết từng đoạn. Nếu là đoạn mở bài thì người kể phải xác định rõ trong đầu
các chi tiết của từng nhân vật, như tên nhân vật, tuổi tác, nghề nghiệp, quê
quán, hoàn cảnh sống, đặc điểm riêng. Ngoài ra người kể còn phải xác
định thêm một số đặc điểm khác của nhân vật như : mặt có vết gì không?
sở thích ra sao? có khuyết điểm hay đức tính gì. Còn đối với đoạn văn
miêu tả sự việc thì người kể phải tìm các chi tiết đặc sắc có ý nghĩa cho
từng sự việc. Muốn vậy học sinh phải biết thu thập vốn sống biết cách
quan sát, tưởng tượng và tìm được tính cách riêng của từng nhân vật
Như vậy để viết được một đoạn văn tự sự hay người viết phải biết cách
chọn từ ngữ vì trong văn tự sự có khi phải tường thuật có lúc phải miêu tả
hoặc bàn bạc. Từ đặc sắc là từ gợi cho người đọc hình dung ra rõ ràng hình
ảnh, đường nét hoặc các cử động, hoạt động như đang diễn ra chẳng khác
gì một cuốn phim trước mắt người đọc.Không những thế một đoạn văn tự
sự hay còn là một đoạn văn lôi cuốn người đọc. Người đọc đã đưa mắt vào
trang sách kể thì không buông rời khỏi trang sách, không bỏ dở câu
chuyện, mà hối hả theo dõi từ đầu chí cuối câu chuyện. Bên cạnh đó đoạn
văn còn giúp người đọc nhận ra một ý nghĩa sâu xa, thâm thuý.
Ví dụ: Đoạn kết truyện “Những giọt mực” rất đơn giản nhưng người viết
đã rút ra một bài học triết lí sâu xa:
18
“Ba giọt mực vẫn khăng khăng:
Thà làm một vết đen còn hơn khô héo trong đáy bình. Chúng tôi biết không
phải giọt mực nào cũng may mắn khi ra đời. Nhưng đã là mực, phải được
ghi một vết ở đâu đó. Là chữ, là hình vẽ, là một dấu chấm xấu xí cũng
được, chúng tôi muốn ra khỏi bình, chúng tôi không muốn chết non và chết
vô ích. (Lê Tất Điều).
Như chúng ta đã biết, trong thực tế, các văn bản nghệ thuật không đơn
thuần là loại miêu tả, tự sự, biểu cảm hay nghị luận mà nó hoà trộn vào
nhau, làm cho đoạn văn tự sự giàu hình ảnh, giàu cảm xúc và sâu sắc, tạo
nên một tác phẩm hoàn chỉnh như các màu sắc của nhà hoạ sĩ trong một
bức tranh muôn màu.
Có đề văn: kể về một kỉ niệm sâu sắc nhất về người bà kính yêu của mình.
Yêu cầu: Tự sự kết hợp với miêu tả, biểu cảm và nghị luận.
Ví dụ:
Nhà tôi nghèo lắm. Bà nội tôi tuy tuổi đã cao nhưng còn khoẻ mạnh nên
bà luôn đỡ đần mẹ tôi trong công việc nội trợ. Bà thường bảo:
- Đối với con người hạt gạo là quý nhất.
Mỗi lần đong gạo từ thùng ra cái rá, bà thường làm rất cẩn thận, không
bao giờ để vương vãi một hạt gạo ra ngoài. Một lần bà bị mệt, tôi phải
thay bà lo chuyện cơm nước. Khi bê cái rá gạo ra cửa, chẳng may bị
trượt chân, tôi vẫn cố gượng được, chỉ vài ba hạt gạo văng ra ngoài.
Tôi thản nhiên đi xuống bếp nấu cơm. Xong việc, tôi chạy vội lên nhà
định khoe với bà về sự giỏi giang của mình thì Tôi bỗng đứng sững
Bà tôi đang chống gậy dò đi từng bước để nhặt các hạt gạo vương vãi
trên nền nhà. Tôi chạy lại đỡ bà, nói:
- Bà ơi có mấy hạt gạo thì bõ bèn gì mà bà phải khổ sở thế?
Bà tôi thì thào:
- Cháu ơi thóc gạo là đức phật đấy Không có nó thì cũng chẳng có
ai hương khói nơi cửa phật đâu.
Lúc ấy tôi chưa hiểu câu nối của bà, nhưng bây giờ tôi đã hiểu. Suốt
một đời tần tảo lam lũ, bà tôi có gì đâu ngoài những hạt gạo do chính
bà làm ra bằng mồ hôi nước mắt của mình.
Khi trình bày kết quả hoạt động của nhóm, học sinh còn phải có kĩ năng
diễn đạt trước lớp (âm lượng,ngữ điệu,nét mặt, cử chỉ ). Thảo luận nhóm
bằng hình thức phong phú sẽ làm cho học sinh thấy hứng thú và hợp tác
với nhau tích cực trong học tập.
Lưu ý: Cần phải lựa chọn từ ngữ cho phù hợp với nội dung câu chuyện, nội
dung đoạn trích. Chú ý tới ngôi kể, lời kể
19
VD: Tương truyền ở phố Nam Dương thời nhà Minh có một viên thái
thú, chết ngay trên công đường, nhưng hồn phách không tan. Cứ mỗi
sáng mai, khi trống canh điểm, lại thấy Y đội mũ sa đen, khoác áo, đeo
đai lên công đường, quay về hướng Nam mà ngồi, có cả nha dịch đứng
hầu. Quan ma nghe trình việc xong, nhận lễ lạy. Mặt trời sáng rực rỡ,
mới dần dần biến mất.
( Nghiện làm quan – giai thoại văn học)
* Kết quả: Sau khi áp dụng cách thức tiến hành rèn luyện kĩ năng viết
các đoạn văn tự sự cho học sinh THCS ở các lớp kết quả cho thấy như
sau:
a. Kết quả kì thi học sinh giỏi huyện lớp 9 vòng 1 của trường chúng tôi như
sau:
Năm học
Tổng
số dự
Số học sinh đạt giải Hỏng Ghi chú
Nhất Nhì Ba KK
2007-
2008
10 0 0 0 5 5 bẩng A. đậu
8 em cả
huyện
2008-
2009
10 0 1 1 7 1 bẩng
A.đậu19 em
cả huyện
b. Kết quả thi khảo sát chất lượng học kì I năm học 2008-2009 (cho riêng
lớp 9).
9A – lớp được áp dụng và 9 D lớp không được áp dụng.
Lớp
Tổng
số
Gỏi Khá TB Yếu, kém
Ghi
chú
T.số % T.số % T.số % T.số %
9 A 37 4 10,8 10 27,0 19 51,4 4 10,8
9 D 33 0 0 3 9,1 20 60,6 10 30,3
C. Kết luận:
1. Như vậy viết đoạn văn tự sự là một trong những kĩ năng cơ bản, quan
trọng trong rèn luyện kĩ năng cho học sinh THCS viết văn tự sự. Kĩ năng
20
này có mối quan hệ chặt chẽ với các kĩ năng khác: tìm hiểu đề, lập dàn ý, sử
dụng ngôi kể, lời kể Đối với lớp 9 khi đưa các yếu tố miêu tả, biểu cảm
cần chú ý ranh giới giữa tự sự và nghị luận.
2. Thầy giáo cần trang bị cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn mở bài, các
đoạn thân bài, đoạn kết bài và kĩ năng liên kết các đoạn văn kĩ năng sử dụng
từ ngữ phù hợp đối với từng đối tượng học sinh khác nhau, với mức độ các
lớp khác nhau. Muốn viết được những đoạn văn khác nhau trong bài văn tự
sự, cần phải có những kĩ năng cơ bản cần thiết nói trên.
3. Từ các ngữ liệu ở sách giáo khoa giáo viên gợi dẫn đến các nội dung đã
nói ở trên để học sinh thấm dần, ngấm dần tránh được kiểu nhồi nhét kiến
thức. Tốt nhất nên hướng dẫn học sinh theo quy trình quy nạp, làm được như
vậy là phù hợp với nhận thức của học sinh nên các em dễ bị thuyết phục, dễ
chấp nhận vì đó là kết quả các em đã tìm ra, tự các em khám phá, chiếm
lĩnh. Tuy nhiên giáo viên cũng có thể dùng quy trình diễn dịch nhưng phải
thật uyển chuyển, linh hoạt, làm thế nào để bài học đến với các em nhẹ
nhàng, hứng thú.
4. Từ những ngữ liệu ở sách giáo khoa học sinh có thể vận dụng một cách
linh hoạt vào bài viết của mình. Một điều hết sức lưu ý là giáo viên phải tuỳ
thuộc vào đối tượng học sinh để tìm ra một phương pháp thật phù hợp.
5. Nhưng điều quan trọng là phát huy tính tích cực của học sinh, tính chủ
động sáng tạo của chủ thể học sinh giáo viên cần phải lựa chọn phương pháp
tích cực có sự phối hợp nhiều phương pháp hợp lý thì mới đạt được hiệu quả
cao nhất. Không những thế việc ra đề kiểm tra, đánh giá cũng phải vừa sức
phù hợp với từng lứa tuổi.
6. Chấm bài của học sinh cũng phải xem xét nhiều yếu tố: lứa tuổi, địa
bàn tức là phải giả định đặt mình vào đúng chỗ đứng của học sinh. Tránh
tình trạng lấy bài viết của người lớn, của thầy cô giáo làm đáp án cần đạt
21
cho học sinh. Khi trả bài cần nhận xét ưu điểm, nhược điểm rõ ràng. Đối với
bài còn phạm lỗi phải nhận xét thật cụ thể lỗi của các em ở đủ các phương
diện nội dung, hình thức đặc biệt cần chú ý lỗi lạc kiểu bài như sa vào miêu
tả, biểu cảm làm phương tiện (yếu tố phù trợ).
Đó là một việc làm thiết thực góp phần thực hiện giảng dạy theo tinh thần
đổi mới. Điều này đũi hỏi sự đầu tư,tích luỹ lâu dài của mỗi giáo viên, đồng
thời cần có sự dày công nghiên cứu,giúp đỡ của đồng nghiệp,nhà giáo tâm
huyết và sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp quản lý giáo dục. Để tích
luỹ được phương pháp dạy học tích cực, đũi hỏi người thầy phải luôn luôn
trau dồi, học hỏi đồng nghiệp,bạn bố. Bên cạnh đó để giảng dạy tốt thỡ trước
mỗi giờ dạy người thầy giáo phải hướng dẫn thật chu đáo cho học sinh chuẩn bị
bài thật kỹ lưỡng. Chúng tôi những người thầy giáo trực tiếp giảng dạy bộ môn
ngữ văn với tinh thần trách nhiệm và lũng say mờ nghề nghiệp đó nỗ lực tỡm tũi
trong quỏ trỡnh dạy học .Những điều chỳng tụi trỡnh bày vẫn cũn nhiều cõn nhắc,
lựa chọn, bổ sung nhưng
chúng tôi vẫn mạnh dạn đúc rút lại trong sáng kiến kinh nghiệm này mong góp
một cách dạy rốn kĩ năng viết văn tự sự cho học sinh THCS đạt hiệu quả cao. Rất
mong được sự góp ý chõn thành của quý thầy ,cụ và đồng nghiệp xa gần.
Minh Hợp ngày 16 tháng 4 năm 2009
ĐỒNG TÁC GIẢ:
Nguyễn Văn Tình
Nguyễn Thị Thiên Thu
Lê Thị Hoá
22