Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Các biện pháp tích cực nâng cao chất lượng tự học của học sinh lớp chủ nhiệm bậc THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141 KB, 20 trang )

`
MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................2
2. Mục đích nghiên cứu..............................................................................3
3. Khách thể nghiên cứu.............................................................................3
II. NỘI DUNG ..............................................................................................5
1. Những lý luận làm cơ sở khoa học cho việc áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm này ...............................................................................................5
2. Cơ sở thực tiễn về HĐTH của HS ở trường THPT ..........................4
3. Nội dung đề tài......................................................................................7
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ...................................................................15

1


I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI:
Trước thực trạng của chất lượng giáo dục về ý thức tự học của học sinh
còn chưa được như mong đợi , bên cạnh đó giáo viên chủ nhiệm còn gặp nhiều
khó khăn trong việc quản lí và giáo dục học sinh- bản thân tôi là giáo viên giảng
dạy và kiêm nhiệm vai trò chủ nhiệm lớp luôn trăn trở với công tác quản lí và
giáo dục học sinh trong tập thể lớp , đặc biệt là về vấn đề tự học của học sinh.
Đối với công tác chủ nhiệm ở cấp THPT thì việc xây dựng , tổ chức lớp
có ý thức tự học tự sáng tạo là hết sức cần thiết và quan trọng hơn nữa là xây
dựng một môi trường giáo dục có ý thức tự lực , có trật tự kỷ cương , xứng đáng
là nơi đào tạo những con người với phương châm “ trường học tích cực , học
sinh thân thiện” , và có nếp sống văn minh . Ngoài ra việc tự học tự sáng tạo
còn có ảnh hưởng trực tiếp đến phẩm chất đạo đức và liên quan mật thiết đến
kết quả học tập của học sinh.
Qua thực tế giảng dạy và kiêm nhiệm , tôi nhận thấy rằng đại đa số


những lớp có kết quả học tập tốt đều là những lớp có tổ chức nề nếp tốt , có sự
đoàn kết cao trong hoạt động tập thể và có tinh thần tự học tự sáng tạo cao.
Chính vì vậy để xây dựng được tập thể lớp vững mạnh thì đòi hỏi GVCN pahir
xây dựng được môi trường lớp học có khuôn mẫu , có ý thức tự giác tự học
hướng cho các em có ý thức xây dựng cho mình một nề nếp và ý thức trong học
tập.
Bên cạnh đó, trong việc bàn về vấn đề tự học, tự sáng tạo của học sinh
(HS), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương
pháp giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành
nếp tư duy, sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên
tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời
gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”.
Đối với khoản 2, Điều 5, chương I của Luật giáo dục nước Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2009) đã xác định: “Phương pháp giáo dục phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng
cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý
chí vươn lên”.
Trên thực tế cho thấy tự học là tính vốn có của con người,là hoạt động tất
yếu gắn liền với quá trình học tập. Nhưng thái độ, kỹ năng, phương pháp tự học
của từng HS là khác nhau dẫn đến chất lượng học tập cũng khác nhau. Do đó,
nâng cao năng lực tự học cho HS là một việc làm cần thiết và quan trọng của
các nhà trường. Hoạt động học tập là một thành tố của quá trình dạy – học. Cho
nên phương pháp dạy học, nội dung dạy học, điều kiện và môi trường dạy học
ảnh hưởng đến quá trình học tập và năng lực tự học của HS. Vì vậy trong quá
trình quản lý dạy – học phải hướng đến mục tiêu quan trọng là quản lý hoạt
động tự học (HĐTH) nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
Có thể nói rằng , hiện nay ở trường THPT có nhiều học HS thực hiện tự
học không đúng mục đích, đầu tư thời gian cho những trò chơi vô bổ như game
online, chat, ... Sự biểu hiện yếu kém trong nhận thức, thái độ cũng như kỹ
2



năng, phương pháp và năng lực tự học. Bên cạnh đó, việc đổi mới phương pháp
giảng dạy của giáo viên (GV) chưa đáp ứng với yêu cầu đổi mới của giáo dục
trung học phổ thông (THPT). Những ảnh hưởng chủ quan về nhận thức và tay
nghề của đội ngũ GV, về ý thức trách nhiệm của gia đình và HS cần phải được
phân tích nhằm xây dựng các biện pháp thích hợp, giải quyết tốt các mâu thuẩn
giữa lý luận và thực tiễn về phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích
cực chủ động sáng tạo nhằm nâng cao năng lực tự học cho HS.
Xuất phát từ vai trò, vị trí của bản thân và nhu cầu HĐTH hiện nay của
HS lớp chủ nhiệm trường THPT Nguyễn Thị Lợi, tôi thực hiện sáng kiến kinh
nghiệm với đề tài: “Các biện pháp tích cực nâng cao chất lượng tự học của
học sinh lớp chủ nhiệm bậc THPT ”, với mong muốn góp phần xây dựng các
biện pháp, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn về học tập của HS, giảng dạy của GV
và công tác quản lý việc tự học của lớp chủ nhiệm bậc THPT.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Bản thân GVCN không thể lúc nào cũng có mặt trên lớp để chỉ đạo và
nhắc nhở những công việc hằng ngày của lớp cũng như việc đôn đốc các em có
tính tự giác trong học tập. Mặt khác , sự nhắc nhở quá nhiều lần khiến cho học
sinh cảm thấy nhàm chán , nảy sinh tâm lí trây lười ỷ lại và thiếu trách nhiệm
với bản thân. Vì vậy cần làm cho các em hiểu rõ về tính tự giác của mình trong
học tập , không phải ai khác mà chính bản thân các em phải không ngừng học
hỏi tự mình có trách nhiệm với bản thân để nâng cao kết quả học tập của mình
và xây dựng tập thể lớp ngày càng vững mạnh. Chính vì vậy không còn con
đường nào khác là “ tự học tự sáng tạo”
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn quản lý dạy học và thực trạng
HĐTH của HS trường THPT Nguyễn Thị Lợi, xác lập các biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng tự học của HS.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU

3.1. Khách thể nghiên cứu
Trong phạm vi của bài sáng kiến kinh nghiệm này , tôi nghiên cứu và áp
dụng cho các khối lớp 10 và 11 cấp THPT.
Quá trình quản lý đối với HĐTH của HS trường THPT Nguyễn Thị Lợi
Chủ thể quản lý HĐTH gồm giáo viên chủ nhiệm (GVCN), giáo viên bộ
môn (GVBM), Cha mẹ học sinh (CMHS) và sự phối hợp các tổ, nhóm cá nhân
học sinh đang học tập tại lớp chủ nhiệm trường THPT Nguyễn Thị Lợi.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp quản lý hoạt động tự học nhằm nâng cao chất lượng tự học
của HS lớp chủ nhiệm trường THPT Nguyễn Thị Lợi
3.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu : nhằm thu thập tài liệu , tổng
hợp các nguồn thông tin hiện có và đã được công nhận kết hợp vói kinh nghiệm
thực tiễn giúp bổ trợ cho việc giải quyết các mục tiêu nghiên cứu.
Phương pháp phỏng vấn : Là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhằm
có thêm những nguồn kiến thức , các suy nghĩ và ý tưởng độc đáo để có tầm
3


nhìn rộng hơn. Đặc biệt là phỏng vấn trực tiếp các giáo viên bộ môn trực tiếp
giảng dạy trên lớp, để từ đó lựa chọn được phương pháp phù hợp nhất cho lớp
chủ nhiệm.
Phương pháp quan sát sư phạm : Với đặc trưng của đề tài này , nhiệm vụ
của giáo viên chủ nhiệm lớp là làm cố vấn , nên quan sát sư phạm cũng là
phương pháp nghiên cứu khoa học được sử dụng rộng rãi.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Nhằm kiểm định tính khoa học , tính
thực tiễn và tính hiệu quả của phương pháp giáo dục tự học , giáo dục ý thức
theo hướng “ tích cực nâng cao chất lượng tự học” bằng các biện pháp cụ thể
như : + Thiết lập bộ máy tự quản
+ Bồi dưỡng đội tự quản lớp

+ Phân công nhiệm vụ cho học sinh
+ Kiểm tra đánh giá kết quả thực hiện
Lấy kết quả từ việc thi đua giữa các tổ trong tuần, so sánh với kết quả ban đầu
và sau thực nghiệm để đánh giá mức độ và khẳng định được tính hiệu quả cảu
phương pháp.
Phương pháp kiểm tra sư phạm : Sau khi tổ chức thực nghiệm các kết quả
được thu thập thống kê và đưa ra đánh giá cụ thể cho từng học sinh trong lớp.
+ Tổng điểm học tập của tuần- Xếp loại
+ Tổng điểm học tập của tháng – Xếp loại
+ Tổng điểm học kỳ , cả năm – Xếp loại

4


II.NỘI DUNG
1. Những lý luận làm cơ sở khoa học cho việc áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm này:
Trên thực tế , nói đến học tập là nói đến hình thức dạy - học và tự học.
Việc học phải đi đôi với việc dạy và việc dạy phải hướng đến người học, đó là
quá trình tương tác giữa GV và HS. Xét cho cùng, trong quá trình dạy học là
giúp HS tự học để hoàn thiện và phát triển nhân cách của cá nhân nhằm đáp
ứng với các chuẩn mực và nhu cầu trong sự phát triển chung của thời đại. Tự
học gắn với cuộc đời của mỗi con người. Một số nhà nghiên cứu trong lĩnh vực
giáo dục đã đề cập đến vấn đề tự học dưới nhiều hình thức khác nhau.
Dựa trên tài liệu tập huấn về công tác giáo viên chủ nhiệm trong trường
THCS và THPT của BGDĐT in ấn tháng 6 năm 2011, trên cơ sở nhu cầu thực
tiễn công tác chủ nhiệm đặt ra đối với từng giáo viên là cấp thiết . Tôi thiết nghĩ
xây dựng tinh thần tự học trong tập thể lớp là thiết yếu đáp ứng được mục tiêu
đào tạo của thời đại mới – thời đại công nghiệp 4.0 được áp dụng vào nghành
giáo dục hiện nay. Con người làm chủ tương lai của đất nước, hòa nhập với

cộng đồng thế giới không thể là một người thụ động , ngoan ngoãn giản đơn và
chỉ biết vâng lời một cách dập khuôn máy móc, mà thực sự phải là người biết
làm chủ mình biết tự thích nghi với cộng đồng và xã hội đang ngày càng phát
triển hiện nay. Một thế hệ tương lai như vậy sẽ không thể hình thành nếu chúng
ta không biết tạo cơ hội để họ tập dượt rèn luyện tính tự giác , tính năng động
sáng tạo ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường THPT . Đây sẽ là một thành
quả ban đầu giúp các em sau này ra đời tiếp cận với môi trường xã hội rộng lớn
một cách dễ dàng và đầy tự chủ.
Bên cạnh đó, trong giảng dạy chuyên môn chúng ta đang cố gắng và nổ
lực thực hiện có hiệu quả phương pháp giáo dục tích cực – lấy người học làm
trung tâm vì vậy cần phải đổi mới , phải thực sự coi việc giaó dục lấy học sinh
làm trung tâm là một phương pháp tiến bộ và hiệu quả thiết thực nhất. Phải biến
giáo dục thành tự giáo dục , tự ý thức , tự học tự sáng tạo của bản thân . Chỉ có
như thế chất lượng giáo dục của chúng ta mới không bị tụt hậu , mới đáp ứng
được những yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống hiện đại – của thời đại công
nghệ 4.0.
1.1. Trên thế giới
Ngay từ thời cổ đại, Khổng Tử , Aristot là các nhà sư phạm kiệt xuất đã
cho rằng: Dạy và học là phải trên cơ sở phát huy tính tích cực nhận thức của HS
và đòi hỏi HS phải biết kết hợp với suy nghĩ, biết năng động trong học tập. Cần
cố gắng gợi mở để HS tự học trong hoạt động học tập của mình.
Đến thời cận đại, nhà sư phạm lỗi lạc người Tiệp Khắc Komenxky đã
khẳng định: “Không có khát vọng học tập thì không thể trở thành tài năng”.
Năm 1657, ông đã hoàn thành tác phẩm “Khoa sư phạm vĩ đại” trong đó nêu rõ:
“Việc học hành, muốn trau dồi kiến thức vững chắc không thể làm một lần mà
phải ôn đi ôn lại, có bài tập thường xuyên phù hợp với trình độ”.

5



Trong giai đoạn hiện đại, các nhà giáo dục học đi sâu nghiên cứu khoa
học giáo dục và đã khẳng định vai trò to lớn của tự học Rousseau khi xây dựng
quan điểm dạy học cũng cho rằng: “cần hướng cho học sinh tự nắm lấy kiến
thức bằng cách tự tìm hiểu, tự khám phá, tự tìm tòi và sáng tạo,...”
Như vậy, tự học như là một phương thức để con người lĩnh hội tri thức
của nhân loại. Từ những thập niên 30 – 40 của thế kỷ XX, trong cuốn “Giáo dục
vì cuộc sống sáng tạo” nhà sư phạm nổi tiếng Makiguchi Cho rằng “Giáo dục xét
như một quá trình hướng dẫn tự học, động lực của nó là kích thích người học
sáng tạo ra giá trị để đạt tới hạnh phúc của bản thân và của cộng đồng”.
1.2. Ở Việt Nam
Truyền thống hiếu học và tự học đã được khẳng định qua các vị khoa
bảng như Nguyễn Du, Chu Văn An, Lê Quý Đôn... Các thế hệ cha ông chúng ta
đã vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức bằng nổ lực học tập và tự học.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam là một
tấm gương sáng về tinh thần tự học và tự rèn luyện. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối
làm việc” (1947), khi nói về công tác huấn luyện cán bộ, Bác Hồ đã căn dặn: “Về
cách học, phải lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo thêm vào”. Tư tưởng
của Người về giáo dục đã được vận dụng, quán triệt trong các Nghị quyết của
Đảng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ II – Ban Chấp hành Trung ương (BCH TW)
Đảng khoá VIII đã khẳng định: “ Đổi mới phương pháp dạy học… nâng cao khả
năng tự học, tự nghiên cứu của người học”, “Phát triển phong trào tự học, tự đào
tạo thường xuyên, rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên...”.
Khi phát biểu chỉ đạo đối với ngành giáo dục, Nguyên Tổng bí thư Trung
ương Đảng Đỗ Mười đã nhấn mạnh: Tự học – tự đào tạo là con đường phát
triển suốt đời của mỗi người trong điều kiện kinh tế xã hội nước ta hiện nay
và cả mai sau; đó cũng là truyền thống quý báu của người Việt Nam. Chất
lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi tạo ra năng lực tự học, sáng
tạo của người học, khi biến được quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo
dục.
Có thể nói rằng ,đã từ lâu tự học đã được bàn luận và quan tâm của rất

nhiều nhà khoa học, quản lý giáo dục.
2. Cơ sở thực tiễn về HĐTH của HS ở trường THPT Nguyễn Thị Lợi:
Đa số học sinh trường THPT Nguyễn Thị Lợi còn những hạn chế sau:
- Tính tự giác của học sinh còn thấp , tinh thần tự học chưa cao, lười phát
biểu chưa mạnh dạn tự tin.
- Chất lượng tuyển vào lớp đầu cấp quá thấp về học tập.
- Thói quen thụ động trong quá trình học tập, quen nghe, ghi, chép, nhớ
và tái hiện lại những gì giáo viên nói.
- Do chưa hình thành kỹ năng, phương pháp tự học, nên kiến thức của
hầu hết HS tỏ ra hẫng hụt ngay từ đầu năm học, không nắm được các kiến thức
đã học một cách hệ thống và khoa học và hầu như không vận dụng được kiến
thức.

6


- Giai đoạn chuẩn bị hoạt động tự học (lập kế hoạch, xác định mục đích
nhiệm vụ tự học, tiến trình và thời gian cho hoạt động tự học) đa số HS không
thực hiện được.
Vậy nên việc xây dựng đề tài nghiên cứu với mục đích lựa chọn phương
pháp giáo dục tích cực “ nâng cao chất lượng tự học của học sinh” nhằm phát
huy tính tự giác tự nguyện , ý thức trách nhiệm của học sinh và đem lại hiệu quả
cao trong công tác chủ nhiệm lớp tại trường THPT Nguyễn Thị Lợi năm học
2018- 2019 minh chứng.
Để tìm hiểu thực tế về việc lập kế hoạch tự học của HS, bản đã tiến hành
điều tra, quan sát, trò chuyện, trao đổi, thống kê... với một số HS và GV. Kết
quả nhận được:
*Ý kiến tự đánh giá của HS: Có 70% HS tự nhận là có lập kế hoạch tự
học; trong đó:
- Có đến 79% HS tự làm kế hoạch.

- Còn lại 21% HS có sự giúp đỡ của GV, lớp, cha, mẹ, anh, chị.
*Ý kiến của GV: Có 30,4% GV cho rằng HS có lập kế hoạch tự học.
Trong đó:
- HS lập kế hoạch tự học từng ngày: 68 %
- HS lập kế hoạch tự học từng tuần: 22 %
- HS lập kế hoạch tự học từng tháng: 2,5 %
- HS lập kế hoạch tự học từng học kỳ:
4%
- HS lập kế hoạch tự học từng năm học: 3,5%
Về mức độ thực hiện kế hoạch đó:
- Thực hiện 100% kế hoạch đã vạch ra:
2,1%
- Thực hiện 70% kế hoạch đã vạch ra:
28,9%
- Thực hiện 50% kế hoạch đã vạch ra:
42%
- Chưa thực hiện:
27%
Qua ý kiến GV và tự đánh giá của HS cho thấy có sự chênh lệch về việc
HS có lập kế hoạch tự học hay không lập kế hoạch.
Hầu như các em nhận thức được tầm quan trọng của việc lập kế hoạch tự
học, nhưng các em chưa có kỹ năng lập kế hoạch tự học. Do đó, hướng dẫn và
rèn luyện kỹ năng lập kế hoạch tự học cho HS là một vấn đề mà GVBM và
GVCN cần quan tâm.
2.1. Thực trạng về hình thức tự học ngoài giờ lên lớp
Qua điều tra có 70% HS tự học một mình. Trong đó có một số tự học
theo ngẫu hứng, một số có vạch kế hoạch học môn gì và nội dung tự học do
chính bản thân tự xác định. Tự học theo hình thức này có rất nhiều em gặp
nhiều câu hỏi không trả lời được và mất nhiều thời gian để tìm câu trả lời, có
lúc bế tắc, gián đoạn việc tự học và không hứng thú.

Có 51% HS học theo nhóm bạn, thảo luận những vấn đề về môn học mà
cá nhân không tự giải quyết được. Hình thức này đã mang lại hiệu quả và phát
huy cao tính tổ chức, kỹ luật. Kết quả mang lại là các bạn trong nhóm hiểu sâu
7


hơn, nhớ lâu hơn các vấn đề cần giải quyết của bài học cũng như rèn luyện
được tính độc lập, tự chủ và hợp tác nhóm.
Thực tế cho thấy HS có thói quen ngày mai học môn gì thì hôm nay học
môn đó, chưa xếp lịch tự học hợp lí, không có mục đích đặt ra từ trước, không có
ý chí tự mình phải khép vào khuôn khổ thực hiện việc học tập, thích thì học và
không thích thì thôi. Điều này ảnh hưởng lớn đến chất lượng tự học của HS.
2.2. Thực trạng về tiến trình thực hiện hoạt động tự học và thời gian tự học
của lớp chủ nhiệm với sĩ số 45 em
Bảng 2.2. Đánh giá thực trạng tiến trình tự học

TT
1
2
3
4
5

Tự học của HS được tiến hành
Học vào lúc sáng sớm
Học vào lúc rãnh rỗi
Học vào lúc đêm khuya
Học khi chuẩn bị kiểm tra và thi
Ngày sau có giờ, có bài liên quan


Thường
xuyên
SL
45
45
45
45
45

%
40
78
10
80
61

Mức độ
Không
thường
xuyên
SL
%
45
49
45
22
45
30
45
33

45
28

Không bao
giờ
SL
45
45
45
45
45

%
11
10
30
2
7

Qua bảng khảo sát 2.2, chúng ta thấy rằng có đến 80% HS sử dụng thời
gian tự học khi chuẩn bị cho kiểm tra, thi cử; có đến 70% tự học khi rãnh rỗi và
61% tự học khi ngày sau có giờ, bài liên quan là thường xuyên. Bên cạnh đó, có
đến 10% là không bao giờ học lúc rãnh rỗi và 2% không bao giờ học khi chuẩn
bị thi và kiểm tra. Điều này cho thấy một số em hầu như không có ý thức tự học
ngoài giờ lên lớp và không có sự quan tâm nhắc nhỡ của mọi người trong gia
đình.
Qua trao đổi với một số GV, đa số cho rằng việc sử dụng quỹ thời gian
cho HĐTH hiện nay là chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra trong qua trình đổi mới
phương pháp dạy học. Việc dạy thêm, học thêm của một số bộ môn do nhiều
nguyên nhân khác nhau đã lấy đi nhiều thời gian của các em, nên quỹ thời gian

còn lại là rất ít chỉ đủ để xem lại lý thuyết bài cũ, bên cạnh đó thì một số em chỉ
biết giải trí chơi đùa qua phim ảnh, internet... và có chăng tự học chỉ đủ để
nhằm đối phó với kiểm tra và thi cử.
Những HS khá, giỏi thì việc tự học ở nhà cũng như trên lớp hay học
thêm đều đạt mức độ khá tốt. Khả năng vận dụng tư duy chỉ tập trung ở các em
có học lực giỏi. Tính tự lập trong học tập của các em là rất cao, biết cách tự học
trong mọi hoàn cảnh, chịu khó suy nghĩ và tích cực học tập.
Đa phần HS còn thụ động, không chịu khó suy nghĩ, thời gian dành cho
học thêm quá nhiều mà lại không tích cực trong học tập. Nhiều HS chạy theo
phong trào học thêm với bạn bè nhưng không có mục đích, không tự mình vận
dụng trí tuệ, tri thức để giải quyết các bài tập cũng như không có thời gian để
hấp thu bài giảng trên lớp. Sự ỷ lại trong học tập nhờ vào học thêm ở các thầy
cô, mong muốn trúng tủ khi kiểm tra đạt điểm cao mà không quan tâm đến
8


HĐTH của bản thân. Điều này, làm cho các em không nắm chắc kiến thức, sự
hỏng kiến thức càng ngày càng tăng lên.
2.3. Khảo sát thực trạng về hoạt động tự học của học sinh
Kết quả điều tra cho thấy việc sử dụng các phương pháp vận dụng kiến
thức để giải bài tập, hệ thống hóa và khái quát hóa kiến thức, làm đề cương và
học theo đề cương, tự kiểm tra và đánh giá kết quả tự học chỉ sử dụng thỉnh
thoảng. Những phương pháp này chỉ được sử dụng chủ yếu khi kiểm tra 1 tiết,
thi học học kỳ và một số em là chưa bao giờ sử dụng các phương pháp này
chiếm 16%. Điều này cho thấy sự hứng thú trong học tập của một số đông HS
chưa chú trọng, chưa chịu khó động não, tìm tòi trong quá trình tự học, không
phát huy tính tích cực và chủ động trong học tập. Đặc biệt chưa biết phân tích,
tổng hợp các vấn đề của bài học để nắm lấy cốt lỏi, trọng tâm qua từng bài học.
Qua trao đổi một số HS có học lực khá trở lên các em đưa ra một số nhận
định:

- Đối với các môn tự nhiên thì GV giảng dạy yêu cầu tự học cao quá nên
phải đi học thêm và không còn thời gian để tự học.
- Đối với các môn xã hội thì chỉ cần học thuộc bài trước khi đến lớp và
soạn bài như SGK là đủ và chỉ học đối phó khi chưa có điểm miệng mà thôi.
Còn đối với những HS trung bình – yếu thì các em do hổng kiến thức, trong khi
lên lớp thì GV chỉ tập trung hoàn thành tiết dạy mà chưa có sự động viên
khuyến khích cũng như giúp đỡ. Nên không có hứng thú trong từng môn học và
không quan tâm đến kết quả học tập của mình.
Qua trao đổi với một số GV hầu hết cho biết HS có học bài ở nhà, làm bài
theo yêu cầu của GV nhưng chỉ nhằm đối phó khi kiểm tra. Phần lớn HS chỉ
học thuộc những phần mà được ghi chép ở trong vở hay trong SGK. Những vấn
đề yêu cầu cần mở rộng về phân tích, tổng hợp hay vận dụng kiến thức để
chứng minh diễn giải một vấn đề thì HS lúng túng, chỉ có vài em có được khả
năng này. Tất cả các bộ môn học thì HS chỉ có thói quen học thuộc lòng. Phần
lớn HS chưa gắn kết giữa lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào thực hành bộ
môn. Các hoạt động tự nghiên cứu ít được HS sử dụng.
* Từ thực trạng này, với vai trò là giáo viên chủ nhiệm đồng thời cũng như
giáo viên trực tiếp giảng dạy các em cần phải có những yêu cầu học sinh một số
quy định về học tập bộ môn nhằm từng bước xây dựng nền nếp và thói quen tự
học. Những quy định về nếp tự học có khá nhiều. Ở đây, chỉ đề cập những vấn
đề chủ yếu, có tính nguyên tắc, được coi như tổ chức, phương pháp, biện pháp
có ý nghĩa chiến lược lâu dài trong quá trình học tập của học sinh.
3. Nội dung đề tài:
3.1. Vấn đề cần đặt ra:
Với yêu cầu cấp thiết: Làm sao xây dựng học sinh tự học linh hoạt, sáng tạo,
giúp các em có cách tự học, tự nghiên cứu để đạt kết quả tốt. Do đó, với tư cách là
người quản lý trực tiếp của các em tôi chỉ tập trung và một số biện pháp quản lý
của GVCN đối với các hoạt động hình thành phương pháp và kỹ năng tự học cho
HS lớp chủ nhiệm trường THPT Nguyễn Thị Lợi.


9


Trong từng tiết học, nhiệm vụ của học sinh là phải tập trung học tập, phối hợp
chặt chẽ với giáo viên xây dựng nếp tự học, ý thức học tập để cảm nhận một cách
nhanh và tự tin trước lớp. Mạnh dạn đóng góp ý kiến, suy nghĩ của mình và làm
cho tiết học sinh động. Để phát huy nếp tự học của học sinh trong giờ học chính
khóa, phụ đạo, mỗi giáo viên phải thiết kế điều hành giờ dạy có khoa học logic
theo hướng chủ động khám phá của HS, chính bản thân giáo viên phải chủ động
và sáng tạo để khơi dậy sự hoạt động tích cực, sáng tạo của tất cả học sinh “tự
học”. Nói chung người giáo viên tổ chức thao tác như thế nào để học sinh thực
hiện được và vận dụng, chứ không chỉ đạo chung chung.
Ngoài giờ học chính khóa, cần phải có sự quan tâm động viên của nhà trường
– gia đình – xã hội để các em có sự phân bố thời gian tự học, xây dựng kế hoạch
và thực hiện kế hoạch tự học một cách có ý thức và thường xuyên.
3.2. Một số biện pháp thực hiện:
Thực chất cảu việc xây dựng lớp tự học là quá trình chuyển hóa tâm
huyết nhiệt tình của thầy cô thành ý thức tự giác đầy trách nhiệm và thích thú
của học sinh, đồng thời có nghĩa là biến lớp học của những cá nhân học sinh
thành một tập thể học sinh biết tự giác học tập dưới sự quản lý , chỉ đạo của
GVCN. Mỗi học sinh trong lớp là một chủ thể có tính tự giác cao, BCS lớp triển
khai và tổng kết các hoạt động trong tuần , tháng, GVCN chỉ đóng vai trò tham
mưu khi cần thiết.Để làm tốt , GVCN cần tiến hành các khâu then chốt sau:
+ Thiết lâp cơ cấu của bộ máy tự quản , tự giác học tập : BCH của chi
đoàn => lớp trưởng => Các lớp phó , cán sự bộ môn => các tổ trưởng.
+ Bồi dưỡng cho đội tự quản và kiểm tra tính tự giác của lớp: Sự trưởng
thành của mỗi tập thể HS gắn liền với năng lực tự giác của tập thể đó, mỗi tập
thể học sinh chỉ trở nên vững mạnh trước hết chọn ra được lực lượng nòng cốt
cốt cán của lớp như BCs lớp , các tổ trưởng…. GVCN cần có kế hoạch bồi
dưỡng cho đội ngũ BCS lớp thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ các hoạt

động.
+ Lập sơ đồ tổ chức lớp học: Việc luân chuyển vị trí và phân công chỗ
ngồi cũng là một công việc rất quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho từng HS
trong lớp học tập , trao đổi kiến thức và giúp đỡ lẫn nhau nhằm góp phần xây
dựng một tập thể lớp đoàn kết , thân thiện gắn bó với nhau tạo động lực cho các
thành viên trong lớp tự phấn đấu và cố gắng hoàn thiện mình.
+ Phân công nhiệm vụ kiêm nhiệm cho BCS lớp: Theo luật GD Và tùy
vào tình hình cụ thể của lớp GVCN có thể phân kiêm nhiệm thêm cho BCS lớp.
+ Tổ chức giờ sinh hoạt lớp cuối tuần một cách có chất lượng và hiệu
quả.
+ Phát động phong trào thi đua về học tập và nề nếp do Đoàn trường phát
động vào các dịp lễ lớn như chào mừng 8/3; 26/3 ; 20/ 11….
Đây là các biện pháp tác động trực tiếp đến HS nhằm hình thành kỹ năng
và phương pháp tự học. Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa

10


là tự mình lao động trí óc để chiếm lĩnh kiến thức. Bước đầu trong tự học
thường lúng túng, nhưng chính lúng túng lại là động lực thúc đẩy HS tư duy để
thoát khỏi sự lúng túng và thành thạo lên. Khi đã thành thạo thì thường phát
hiện vấn đề cần phải giải quyết để từ đó hình thành kỹ năng tự chiếm lĩnh tri
thức. Nhân tố quan trọng để tự học đạt được kết quả tốt là hình thành và rèn
luyện các kỹ năng, phương pháp tự học.
*Mục tiêu các biện pháp
Để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mình, mỗi HS cần tự
rèn luyện phương pháp tự học. Đây vừa là phương pháp nâng cao hiệu quả học
tập, vừa là là mục tiêu quan trọng trong học tập. Phương pháp tự học sẽ trở
thành cốt lõi của phương pháp học tập. Đồng thời các em cũng rèn luyện các kỹ
năng tự học bộ môn mới đạt được hiệu quả cao.

GV cần nắm vững được hệ thống các kỹ năng, phương pháp tự học. Trên
cơ sở đó có thể vận dụng các kỹ năng trong công tác tự học, tự nghiên cứu một
cách khoa học. Từ nắm vững các kỹ năng tự học, GV hướng dẫn cho HS hình
thành và phát triển vững chắc các kỹ năng tự học. Từ đó HS có thể lựa chọn,
phối hợp các phương pháp tự học khoa học để hoàn thành các nhiệm vụ học tập
ở mức độ cao nhất.
Cần phải đổi mới phương pháp dạy học là nhằm tích cực hoá HĐTH,
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực của HS.
Rèn luyện cho HS có thói quen, phương pháp học, kỹ năng học, biết tự
lực phát hiện vấn đề và giải quyết các vấn đề mà thực tiễn đòi hỏi.
Hình thành cho HS động cơ thái độ học tập nghiêm túc, nâng cao trách
nhiệm trong học tập, có ý thức tự giác, nhu cầu và thói quen tự kiểm tra, đánh
giá. Hình thành được một môi trường học tập, thi đua sôi nổi và thúc đẩy nhau
cùng tiến bộ.
*Các biện pháp
Biện pháp 1: Đổi mới công tác quản lý về hoạt động tự học của học sinh
- GVCN cần phải đảm bảo có sự phân công trách nhiệm rõ ràng và cụ thể
cho từng vị trí , vai trò và trách nhiệm . Đảm bảo mỗi em đều nhận thức được vai
trò vị trí và trách nhiệm của bản thân nhằm phát huy tính tự học tự sáng tạo trong
mọi hoạt động để xây dựng tập thể lớp ngày càng vững mạnh. Sau đây là ví dụ
phân công trách nhiệm cho từng vị trí của bộ máy BCS lớp:
+ Lớp trưởng là người chịu sự điều hành , quản lý trực tiếp của GVCN lớp,
quản lý toàn bộ các hoạt động của lớp và từng thành viên cụ thể trong lớp như việc
tổ chức cho lớp thực hiện các nhiệm vụ học tập và rèn luyện theo quy định của nhà
trường; theo dõi và đôn đốc các thành viên trong lớp thực hiện nghiêm túc ý thức
tự giác trong học tập- tự học và tự nghiên cứu.
+ Lớp phó phụ trách học tập là người theo dõi nề nếp học tập chung , đôn
đốc nhắc nhở việc thực hiện sửa bài của các môn vào sinh hoạt 15 phút đầu giờ .
Sau đó tổng hợp đánh giá kết quả để báo cáo vào cuối tuần , cuối tháng..
+ Tổ trưởng điều hành các hoạt đông của tổ theo sự phân công của lớp

trưởng và lớp phó học tập. Theo dõi và báo cáo kết quả cho lớp trưởng vào thứ 7
hằng tuần.

11


- GVCN cần điều tra xem xét nguyện vọng của HS, xem xét rõ điều
kiện kinh tế gia đình của HS, điều kiện tổ chức tự học cho HS tại trường và tại
gia đình.
- GVCN dựa trên cơ sở các quy định trong của văn bản Pháp luật, Điều lệ
nhà trường, Điều lệ Ban đại diện CMHS, quy chế của ngành và thực tiễn điều
kiện kinh tế xã hội của địa phương, thực tiễn của nhà trường để xây dựng một
quy định về tự học và quản lý các HĐTH của HS cho phù hợp.
- Chỉ đạo cho tập thể lớp thực hiện tốt phong trào “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực”. Thành lập đội tự quản để quản lý, theo dõi
HĐTH của HS tại trường và tại nhà.
- Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác quản lý của các tổ đối
với việc tự học tập ở nhà . Ngoài ra các thnhf viên trong lớp phải đảm bảo được
việc ghi chép nhật ký học tập vào sổ tay cá nhân và được BCS lớp thừa lệnh
GVCN kí gửi cho PHHS cập nhật về thông tin của con em mình hằng tháng và
sau đó có ý kiến phản hồi kịp thời và đồng thời có chữ ký xác nhận của PHHS.
Bằng cách này GVCN đã tạo được ý thức tự giác cho Hs ngay khi các em còn
đang ngồi trên ghế nhà trường THPT và sẽ là hành trang hữu ích cho các em
bước vào đời.
Biện pháp 2: Tăng cường đổi mới phương pháp dạy học trên lớp của
giáo viên và phương pháp học tập của học sinh
- Trước tiên người giáo viên phải thường xuyên học tập để nâng cao
trình độ chuyên môn , sử dụng các phương pháp hợp lý , sử dụng đồ dùng dạy
học thiết bị thiết thực tối ưu vào bài giảng . Đồng thời cũng cần phải lập kế
hoạch bài học rõ ràng , phù hợp với từng đối tượng học sinh.

- GVCN cần phải đánh giá thực trạng đổi mới phương pháp dạy học và
công tác quản lý đổi mới phương pháp dạy học trên các khâu trong quá trình dạy
học: soạn giáo án, nội dung, phương pháp, phương tiện sử dụng, kiểm tra đánh
giá kết quả học tập của HS; mức độ khai thác, sử dụng phương tiện thiết bị trong
dạy học.
- GVCN cũng dự thảo các quy định, hướng dẫn về đổi mới phương pháp
dạy học, bám sát với chủ trương đổi mới của Bộ GD&ĐT cùng với các điều
kiện thực tế của nhà trường.
+ Đưa ra các quy định về chuẩn bị cho dạy học: nghiên cứu tài liệu, soạn
giáo án (xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, đồ dùng) gắn
với đối tượng HS của trường, chú trọng đến việc thiết kế bài giảng theo hướng
giúp HS tự học thông qua việc thiết kế các câu hỏi, bài tập để giao nhiệm vụ tự
học cho HS ngay trong giờ học trên lớp. Thiết lập hệ thống các dạng bài tập
nhận thức đảm bảo yêu cầu phù hợp với mục tiêu bài học nhằm giúp HS lĩnh
hội tri thức mới, củng cố, mở rộng, đào sâu kiến thức.
+ Cần có quy định về dạy học trên lớp: các khâu thực hiện trong giờ lên
lớp bao gồm kiểm tra kết quả tự học của HS; tổ chức giờ dạy trên lớp theo
phương pháp dạy - tự học để nâng cao năng lực tự học cho HS. Kết thúc mỗi
tiết, GV giao nhiệm vụ tự học cho HS tùy theo mức độ đối với HS khá, giỏi,
trung bình, yếu, kém và yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ tự học.

12


+ Phải đổi mới công tác kiểm tra đánh giá: tăng cường việc kiểm tra bài,
kết quả tự học của HS đầu giờ lên lớp thông qua các hình thức kiểm tra miệng,
viết (15 phút) trước khi vào bài mới, nội dung kiểm tra bám sát vào những yêu
cầu bài tập, nhiệm vụ tự học GV đã giao. Việc ra đề và chọn đề kiểm tra 1 tiết,
kiểm tra kết thúc học kỳ, năm học cần bố trí tiết trả bài và giải quyết những vấn
đề HS còn thắc mắc.

- Xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá kết quả việc đổi mới phương pháp
dạy học thông qua các tiêu chí:
Biện pháp 3:Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS
- Đánh giá thực trạng hình thức kiểm tra đánh giá HĐTH hiện nay (lực
lượng kiểm tra, nội dung kiểm tra, kết quả đánh giá). Tập trung kiểm tra đánh
giá việc thực hiện và hoàn thành các nhiệm vụ tự học của HS được GV giao
thông qua giờ học chính khoá trên lớp (nội dung tự học, hệ thống bài tập, mức
độ hoàn thành nhiệm vụ được giao).
- Hướng dẫn phong trào tự quản trong HS, hướng dẫn HS tự tiến hành
kiểm tra theo các hình thức (tự kiểm tra theo kế hoạch cá nhân, kiểm tra giữa
các cá nhân trong bàn, giữa các bàn trong tổ hay giữa các tổ trong lớp).
- Thông qua các giờ lên lớp, GV giao các nhiệm vụ và nội dung tự học để
HS thực hiện trong giờ tự học. Thường xuyên kiểm tra kết quả tự học của mỗi
HS trong các giờ lên lớp để đánh giá mức độ hoàn thành các nhiệm vụ tự học
được giao.
- Đổi mới hình thức kiểm tra, thi cử theo công văn 1919 của Sở GD&ĐT
để tăng cường đánh giá chất lượng tự học của HS. Thiết lập ngân hàng đề thi,
hướng nội dung đề thi theo các nội dung chuẩn kiến thức và kỹ năng để học
sinh tăng cường tự học. Mỗi bài học, GV cần thiết lập hệ thống câu hỏi, bài tập
yêu cầu tự học đối với HS.
- Căn cứ quy chế đánh giá xếp loại của HS, nhà trường cần xây dựng quy
định cho điểm cụ thể theo hướng tăng cường điểm kiểm tra miệng, kiểm tra 15
phút để kiểm tra việc soạn bài, chuẩn bị bài ở nhà và việc hoàn thành các nhiệm
vụ tự học, nhằm giúp HS cố gắng tự học để đạt kết quả cao. Tổ chức kiểm tra
tại lớp theo các hình thức: trắc nghiệm, ra đề khác nhau nhằm hạn chế việc quay
cóp, sử dụng tài liệu.
Biện pháp 4: Động viên, khuyến khích, kích thích các hoạt động tự
học của học sinh, thực hiện các HĐNGLL hướng vào các điều kiện hỗ trợ
hoạt động tự học và thực hiện tốt phong trào “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực”

- Một học sinh muốn có kết quả học tập tốt ngoài việc tiếp thu những
kiến thức ở trên lớp thôi chưa đủ mà việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới tại nhà
cũng vô cùng quan trọng. Trong khi đó , tôi thấy điều kiện gia đình , không gian
sống của học sinh cũng như nhận thức của cả phụ huynh lẫn học sinh chỉ dừng
lại ở nhận thức học tại lớp là đủ. Và điều này làm ảnh hưởng lớn đến kết quả
học tập của các em. Muốn học sinh tự học ở nhà có kết quả thì các em phải có
góc học tập và mỗi em phải có phương pháp tự học ở nhà phù hợp.Khi các em
đã có góc học tập , tôi với vai trò là GVCN lớp yêu cầu mỗi em phải có thời
gian biểu học tập của mình cụ thể nhất là các buổi tối ( vì ở trường đã học 2
13


buổi sáng và chiều ), phù hợp vói tình hình của gia đình và phải được cha mẹ ký
xác nhận vào. Thông qua thời gian biểu , tôi biết được chính xác thời gian học
bài của từng em . Tôi phân chia lớp thành các nhóm theo khu vực dân cư ( cụ
thể theo khu phố các em ở ) và phân công mỗi nhóm một nhóm trưởng ( làm
việc dưới sự điều hành của lớp trưởng và lớp phó học tập). Nhóm trưởng chịu
trách nhiệm báo cáo tình hình cụ thể của nhóm mình cho lớp trưởng hoặc trực
tiếp với GVCN lớp về tình hình tự học ở nhà của các thành viên trong tổ mình
và đặc biệt lưu ý đến những bạn học yếu hoặc chưa có ý thức tự học ở nhà. Với
sự quan tâm của giáo viên chủ nhiệm trước việc học của con em mình nên phụ
huynh cũng nhiệt tình phối hợp với tôi, thường xuyên nhắc nhở kiểm tra và tạo
điều kiện cho con em mình học tập ở nhà. Chính vì vậy khi có sự tiến bộ của
các học sinh “ cá biệt” tôi thường xyên cập nhật và thông báo về gia đình. Từ
đó tạo động lực cho phụ huynh ngày càng quan tâm hơn đến việc học của con
cái mình.
- Điều cần thiết là phải đánh giá đúng thực trạng, nhu cầu học tập của
từng HS, sự quản lý và động viên của GVCN, GVBM về qua trình tự học.
- Cần xây dựng các mối quan hệ cơ bản giữa dạy và học, giữa thầy và trò,
giữa nhà trường và gia đình, giữa nhà trường và chính quyền địa phương nhằm

thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục.
- GVCN phát động các phong trào thi đua học tốt trong hoạt động của
nhà trường để kích thích năng lực tự học và tự khẳng định mình của từng HS.
Thi đua sẽ thúc đẩy HS cố gắng vươn lên trong học tập và lôi cuốn HS khác cố
gắng vươn lên để giành được những thành tích cho cá nhân và tập thể. Không
khí thi đua sẽ tạo nên điều kiện tinh thần thuận lợi, phát huy tính tích cực, tự
giác chủ động của HS, đề cao tinh thần trách nhiệm và hình thành mối quan hệ
tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau.
- Trong quá trình thi đua, GVCN, đoàn thể, tập thể lớp cần động viên tất
cả HS tự giác, tích cực tham gia; đồng thời có theo dõi sơ kết, tổng kết để đánh
giá kịp thời. Lớp sẽ có phần thưởng xứng đáng để động viên kịp thời các bạn
đạt thành tích cao trong học tập ( điểm 9 và 10 theo tuần / tháng)
- GVCN chỉ đạo việc nêu gương những HS có tinh thần tự học tốt, HS
nghèo vượt khó, HS đạt thành tích tốt trong học tập.Cần có biện pháp kịp thời
khen ngợi động viên và khuyến khích hay nhắc nhở học sinh trong các tiết học
hằng ngày nhằm phát huy tính tự giác tích cực của học sinh.
4. Kết quả đạt được :
Qua thời gian thực hiện công tác chủ nhiệm theo hướng tích cực nâng cao
chất lượng tự học của học sinh , tôi nhận thấy đây là biện pháp giáo dục mới có
tính khả thi , khích lệ được tính tự giác ý thức học tập của học sinh và đem lại
kết quả cao . Tập thể lớp đã biết đoàn kết giúp đỡ nhau trong học tập tạo thành
một tập thể gắn kết cùng tiến , tự giác làm việc và học tập theo tinh thần và ý
thức tự giác cao.
Thực tế đã thử nghiệm ở các năm học trước : lớp 10A2 năm học 20172018 và lớp 10A2 năm học 2018- 2019... nhìn chung tạo được không khí học
tập sôi nổi đặc biệt là tinh thần tự giác cao và mang lại hiệu quả trong học tập.
14


Những minh chứng và kết quả của quá trình thực hiện các biện tích cực
nâng cao chất lượng tự học của học sinh bậc THPT.

Kết quả đối với lớp lớp 10A2 năm học 2017- 2018:
Bảng 2.3. Đánh giá thực trạng tiến trình tự học
Tổng số HS
Giỏi
Khá
TB
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
45
100
0
0
20
44,5
15
33,3

Yếu
SL
10

%
22,2


Sau khi tiến hành các biện pháp tích cực nâng cao chất lượng tự học của học
sinh năm học 2017- 2018 là :
Bảng 2.4. Đánh giá tiến trình tự học sau khi áp dụng các biện pháp
tích cực nâng cao chất lượng tự học
Tổng số HS
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
45
100
6
13,3
34
75,6
5
11,1
0
0
Kết quả đối với lớp lớp 10A2 năm học 2018- 2019:

Bảng 2.5. Đánh giá thực trạng tiến trình tự học
Tổng số HS
Giỏi
Khá
TB
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
45
100
1
2,3
27
60
12
26,7

Yếu
SL
5

%
11

Sau khi tiến hành các biện pháp tích cực nâng cao chất lượng tự học của học

sinh năm học 2018- 2019 là :
Bảng 2.6. Đánh giá tiến trình tự học sau khi áp dụng các biện pháp
tích cực nâng cao chất lượng tự học

Tổng số HS
SL
%
45
100

Giỏi
SL
%
8
17,7

Khá
SL
36

TB
%
80

SL
1

Yếu
%
2,3


SL
0

%
0

III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Từ những nội dung được nghiên cứu trong đề tài “Các biện pháp tích cực
nâng cao chất lượng tự học của học sinh lớp chủ nhiệm bậc – THPT” bản thân
rút ra một số kết luận và đề nghị sau:
1. KẾT LUẬN
1.1. Hoạt động tự học có phạm vi và nội dung nghiên cứu rất rộng và
phong phú. HĐTH là yếu tố quan trọng trong quá trình giáo dục, nó quyết định
đến chất lượng học tập của HS cũng như chất lượng giáo dục của nhà trường.
Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, việc nghiên cứu và tổ chức HĐTH
cho HS THPT ngày càng được quan tâm và cần phải đẩy mạnh các hình thức tổ
chức cụ thể. Hình thành năng lực tự học cho HS bậc THPT có tầm quan trọng
đặc biệt, tạo nền tảng vững chắc để các em tiếp cận giáo dục sau THPT cũng

15


như tăng cường tính tự lập trong cuộc sống sau này. Do đó, HĐTH là rất quan
trọng giúp HS tự rèn luyện mình nhằm hình thành thói quen tự học suốt đời.
1.2. HS trường THPT Nguyễn Thị Lợi nói chung và lớp chủ nhiệm nói
riêng nhìn chung đã nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của HĐTH, một
số HS đã cố gắng vươn lên trong học tập bằng con đường tự học. Tuy nhiên,
vẫn còn rất nhiều HS chưa có thói quen tự học, một số GV và CMHS cũng chưa
nhận thức đúng về quan điểm tự học. Nhiều HS chưa có kỹ năng và phương

pháp tự học, chưa làm chủ được HĐTH, còn học theo cách thụ động, đối phó và
không có hiệu quả. Do đó, nhiệm vụ bồi dưỡng cho HS ý thức say mê, trách
nhiệm cao trong học tập, có được các phương pháp tự học khoa học, biết cách
lập kế hoạch tự học, độc lập, sáng tạo trong tư duy là điều rất quan trọng. Yêu
cầu quan trọng đối với GV của nhà trường là cần nhận thức đúng đắn về tự
học, cần phải có tư duy đúng và có kế hoạch tổ chức tự học, coi quản lý HĐTH
là một nội dung trọng tâm của hoạt động quản lý lớp chủ nhiệm và đồng thời,
thực hiện các biện pháp tổ chức tự học một cách đồng bộ và sáng tạo, mục tiêu
cơ bản là tạo điều kiện, thiết lập môi trường giáo dục để HS thực hiện tốt nhiệm
vụ học tập của mình.
Việc sử dụng các biện pháp tích cực nâng cao chất lượng tự học
của học sinh có tác dụng rất lớn trong việc GD và hình thành nhân cách của học
sinh THPT. Cụ thể là giúp các em hình thành được ý thức làm chủ bản thân , tự
giác tránh dựa dẫm ,và thói quen ỷ lại vào người khác ( mượn vở bạn chép bài
tập). Giúp các em có trách nhiệm đối với bản thân gia đình xóm làng và với quê
hương đất nước. Ngoài ra còn giúp các em có tinh thần đoàn kết , kĩ năng hợp
tác làm việc theo nhóm theo sự phân công phân hóa và đạt hiệu quả cao, GD
các em ngày càng tiến bộ biết vươn lên và bắt nhịp với XH hiện đại.
2. ĐỀ NGHỊ
Với tư cách cá nhân của một giáo viên luôn đề cao tinh thần trách nhiệm
trong công tác giảng dạy và kiêm nhiệm, thông qua đề tài SKKN về công tác
chủ nhiệm này tôi mạnh dạn đề xuất những mong muốn của bản thân nhằm mục
đích nâng cao hiệu quả của công tác chủ nhiệm lớp nói riêng và của công tác
GD nói chung.
2.1. Đối với các nhà trường
- Phải quan tâm giáo dục động cơ ý thức học tập cho HS ngay từ đầu
khoá học và trong suốt năm học nhằm giúp HS ý thức rõ nhiệm vụ học tập.
- Tập huấn cho toàn thể GV về phương pháp dạy - tự học.
- Nghiên cứu cải tiến quy trình đổi mới phương pháp dạy học gắn lý
thuyết với thực tiễn, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS.

- Huy động toàn bộ các lực lượng trong nhà trường tham gia quản lý
HĐTH của HS.
- Công tác chủ nhiệm thực sự là một nhiệm vụ rất quan trọng nhưng cũng
vất vả và đòi hỏi nhiều tâm huyết nên cần được đãi ngộ hơn nữa và nên chăng
có chế độ ưu tiên.
2.2 . Đối với GVCN

16


- Đối với giáo viên cần có những hoạt động bồi dưỡng công tác chủ
nhiệm như BDTX về chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm với các GVCN khác để
học hỏi giao lưu và phát huy nhằm đưa chất lượng GD toàn diện ngày càng đi
lên , đáp ứng được yêu cầu đổi mới và không ngừng nâng cao chất lượng của
nghành GD hiện nay.
- Phải quan tâm giáo dục và nắm rõ tình hình hoàn cảnh của từng học
sinh của lớp chủ nhiệm để có những phương pháp phù hợp và nhằm hiểu rõ
được động cơ ý thức học tập cho HS ngay từ đầu khoá học và trong suốt năm
học nhằm giúp HS ý thức rõ nhiệm vụ học tập.
- Giúp các em hiểu rõ hơn về phương pháp dạy - tự học bằng các giờ
hướng nghiệp và NGLL
- Luôn tự học tập tự sáng tạo nhằm làm cho HĐTH đạt hiệu quả hơn .
- Tạo ra sự đoàn kết trong tập thể lớp với tinh thần giúp đỡ nhau cùng
tiến trong HĐTH ở nhà cũng như ở lớp.
2.3. Đối với cha mẹ học sinh và học sinh
- CMHS thường xuyên quan tâm tạo điều kiện tốt nhất cho con em mình
thực hiện tốt kế hoạch tự học ở nhà. Đừng quá gây áp lực về thành tích học tập.
Phối kết hợp chặt chẽ với GVCN và bộ máy hoạt động của tập thể lớp cần có sự
tương tác theo chiều hướng tích cực.
- HS cần phải xác định đúng đắn mục tiêu, động cơ học tập. Biết tự kiểm

tra, đánh giá HĐTH để tự điều chỉnh và hoàn thiện cá nhân. Biết xây dựng kế
hoạch tự học hợp lý, chọn hình thức tự học phù hợp với điều kiện gia đình.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa ,ngày 20 tháng 05 năm 2019

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết , không sao chép của người
khác.
Tác giả

Nguyễn Thị Hằng

17


Đính kèm các cụm từ viết tắt trong skkn
- GVCN : Giáo viên chủ nhiệm
- GVBM: Giáo viên bộ môn
- HS: Học sinh
- GV: Giáo viên
- CMHS: Cha mẹ học sinh
- THPT: Trung học phổ thông
- HĐTH : Hoạt động tự học
- NGLL : Ngoài giờ lên lớp
- BCS : Ban cán sự lớp
- BDTX : Bồi dưỡng thường xuyên
- GD : Giáo dục
- THPT : Trung học phổ thông

- THCS : Trung học cơ sở

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thông báo kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 2 (khóa VIII), phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến
năm 2020, số 242 – TB/TW ngày 15/04/2009. Hà Nội.
2. Phạm Khắc Chương (1997), Jan Amos Komenxky - Ông tổ của nền sư phạm
cận đại, NXB giáo dục, Hà Nội.
3. Hồ Chí Minh (2001), Về vấn đề học tập, NXB trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Tự học như thế nào, NXB Thanh niên, Hà Nội.
5. Luật giáo dục, NXB giáo dục, Hà Nội.
6. Module 6- THPT : Xây dựng môi trường học tập cho học sinh THPT
7. Module 32- THPT : Hoạt động của GVCN
8. Luật giáo dục năm 2009 ( ban hành ngày 25/ 11/ 2009)
9. Từ điển tiếng Việt.
10. Điều lệ trường phổ thông ( ban hành theo quyết định số 07/ 2007/ QĐBGD&ĐT ngày 2/ 4/ 2007)
11. Sổ công tác chủ nhiệm
12. Tài liệu tập huấn về công tác giáo viên chủ nhiệm trong trường THCS và
THPT của BGDĐT in ấn tháng 6 / 2011
13. Một số vấn đề giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XXI- Phạm Minh Hạc ( Nhà
xuất bản giáo dục Hà Nội – 2010)
14. Giáo dục – quốc sách hàng đầu , tương lai của dân tộc – Phạm Văn Đồng
( NXB giáo dục 1999)
15. Một số trang nguồn từ Internet.

19



20



×