Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Giải tỏa áp lực trong học tập và trong đời sống cho học sinh THPT qua hoạt động của giáo viên chủ nhiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG TRUNG HỌCMỤC
PHỔLỤC
THÔNG LÊ HỒNG PHONG
1. MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1
1.1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................2
1.3. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................2
1.4.1. Phân tích, tổng hợp ............................................................................2
SÁNG
KIẾN
NGHIỆM
1.4.2. Khảo sát thực
tế, phân
loại KINH
................................................................2
2. NỘI DUNG ......................................................................................................3
2.1. Cơ sở lí luận ..............................................................................................3
2.2. Thực trạng về áp lực trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ...............3
2.3. Những giải pháp đã sử dụng nhằm giảm áp lực cho học sinh trung học
phổ thông...............................................................................................................5
“GIẢI TỎA ÁP LỰC TRONG HỌC TẬP VÀ TRONG ĐỜI
2.3.1. Giáo viên chủ nhiệm thiết kế hoạt động của tập thể lớp, trở thành
SỐNG
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUA
chuyên gia tâm lí của học trò ...............................................................................5
HOẠT
ĐỘNG
CỦA


NHIỆM”
2.3.2. Hoạt
động của
giáo viên
chủGIÁO
nhiệmVIÊN
trongCHỦ
giờ sinh
hoạt 15 phút
hướng đến giảm áp lực cho học sinh THPT .........................................................7
2.3.3. Hoạt động của giáo viên chủ nhiệm trong giờ sinh hoạt cuối tuần (45
phút) giúp học sinh THPT chủ động trước áp lực ..............................................11
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT ..........................................................................16
3.1. Kết luận ...................................................................................................16
3.2. Đề xuất
....................................................................................................16
Người
thực hiện: Dương Thị Hằng Nga
TÀI LIỆU THAM
KHẢO.................................................................................17
Chức
vụ: Giáo viên

Đơn vị công tác: Trường THPT Lê Hồng Phong
SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác chủ nhiệm

THANH HÓA NĂM 2018


1. MỞ ĐẦU

1.1. Lí do chọn đề tài
Từ xa xưa, cha ông ta rất coi trọng việc học. Chính vì học tập được tiếp
nối từ thế hệ này sang thế hệ khác, luôn có sự kế thừa và tinh thần sáng tạo nên
nhân loại đã tích lũy được kho tàng kiến thức khổng lồ về tự nhiên, xã hội.
Không những vậy, kiến thức đó đã và đang được vận dụng để chúng ta được
sống trong thế giới văn minh hơn, hiện đại hơn.
Không ai có thể phủ nhận được vai trò của sự học. Ở bất cứ thòi đại nào,
đối với một cá nhân, học cũng là nền tảng của hiểu biết, văn hóa và nhân cách.
Tục ngữ xưa có câu: “Dao có mài mới sắc, người có học mới khôn”. Không học
mỗi cá nhân chỉ là công trình gọt đẽo thô sơ của tạo hóa. Nói đến học là nói đến
một trí lực, một năng lực tư duy và năng lực thẩm thấu những kiến thức về tự
nhiên xã hội được kế thừa của thế hệ đi trước. Mặt khác, việc học không chỉ định
giá năng lực của bản thân mà học còn để thẩm thấu gía trị về đạo đức chuẩn mực
xã hội không thể thiếu trong hành trình hoàn thiện của mỗi con người.
Như vậy trong thực tế việc học có vai trò quan trọng đối với sự thành đạt
trong cuộc đời của mỗi cá nhân. Bởi vai trò quan trọng ấy mà áp lực trong việc
học cũng rất lớn, nhất là đối với học sinh THPT. Bắt đầu từ thời tiểu học, trung
học cơ sở mục tiêu học đối với mỗi học sinh chỉ dừng lại ở tiếp thu, tạo nền kiến
thức cho cấp học cao hơn. Khi học ở cấp THPT, nội dung kiến thức các môn học
được nâng cao và mở rộng, đòi hỏi mỗi học sinh phát huy cao độ trí lực. Học ở
thời kỳ này không chỉ để làm phong phú hiểu hiết nữa.Mà học phải vận dụng để
đáp ứng yêu cầu của mỗi kỳ thi. Học sinh THPT sẽ phải trải qua kỳ thi THPT
quốc gia, để lấy bằng tốt nghiệp 12 và xét tuyển vào các trường đại học. Đây là
kỳ thi có tính chất bước ngoặc trong cuộc đời của mỗi học sinh, có tham gia vào
việc quyết định vận mệnh tương lai của mỗi cá nhân. Nếu định hướng đúng đắn
vượt qua được áp lực của học tập và thi cử, bản thân sẽ có cơ hội có cuộc sống
tương lai tươi sáng. Nếu ngược lại việc học sẽ trở thành gánh nặng, vô hình trở
thành nguyên nhân gây nên những hậu quả nặng nề như học sinh bị trầm cảm,
hành động tiêu cực dại dột sai lầm đáng tiếc. Trong thực tế đã có những học snh
tự tự nhằm giải thoát cho bản thân hoặc chết, hoặc mang bệnh lí cả đời.

Xuất phát từ thực tế trên, nghề giáo nói chung, giáo viên chủ nhiệm nói
riêng đang đứng trước thử thách mới. Một mặt, thông qua vai trò của mình,
GVCN phải tác động tích cực vào nhận thức, giúp học sinh lĩnh hội sâu sắc lợi
ích của học tập trong việc tạo dựng sự nghiệp cho bản thân, đóng góp nhất định
cho xã hội. Học sinh THPT lĩnh hội và đi vào thực thi nhiệm vụ học tập với điều
kiện, hoàn cảnh gia đình và sự kỳ vọng khác nhau của các bậc phụ huynh. Bản
1


thân các em vừa là đối tượng tiếp thu thành quả học tập vừa là đối tượng chịu
tác động sâu sắc từ chính sức ép của quá trình học tập. GVCN thông qua hoạt
động thiết thực giải tỏa áp lực trong học tập là vấn đề cần thiết có ý nghĩa quan
trọng trong việc hỗ trợ học sinh hoàn thành nhiệm vụ học tập, đạt được thành
quả bước đầu bằng năng lực vốn có của bản thân, tạo cho các em niềm tin vào
chính mình để bước vào đời.
Vì lí do trên, tôi mạnh dạn lựa chọn sang kiến kinh nghiệm: Giảm áp lực
học tập và trong đời sống cho học sinh THPT thông qua hoạt động của giáo viên
chủ nhiệm.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng thực, tiến độ học của học sinh THPT làm cơ sở để xác
định những áp lực tâm lí nảy sinh. Từ đó có định hướng đúng đắn nhằm giải tỏa
áp lực học tập cho các em trong quá trình gắn bó với mái trường.
Xác định hoạt động thiết thực của GVCN trong việc khơi dậy những hứng
thú, sự quan tâm cua học sinh đối với những lĩnh vực khác của đời sống, sau
thời gian học tập căng thẳng. Ngoài việc học tập định hướng cho các em thị hiếu
giải trí lành mạnh, trong sáng, thiết thực.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là giải pháp của giáo
viên chủ nhiệm hướng đến giảm áp lực trong học tập cho học sinh THPT.
1.4. Phương pháp nghiên cứu

1.4.1. Phân tích, tổng hợp
Đây là phương pháp quan trọng được sử dụng nhiều trong đề tài khoa
học. Từ phương pháp này đề tài sẽ nêu ra được những phương diện lợi ích của
hoạt động ngoài học tập qua phân tích, minh họa. Đồng thời tránh được những
chủ quan, cảm tính khi đưa ra những nhận xét, đánh giá.
1.4.2. Khảo sát thực tế, phân loại
Tác giả của đề tài thực hiện khảo sát, phân loại đề cập đến những hoạt
động cụ thể giảm áp lực tâm lí học tập của học sinh. Phương pháp này được sử
dụng như sự hỗ trợ đắc dụng cho các phương pháp trên. Bằng khảo sát, phân
loại đề tài, người viết sẽ đi đến tìm được những kết luận vững chắc tạo, tính
thuyết phục trước những kết luận.

2


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Học sinh rất cần nhận thức về tầm quan trọng của việc giải tỏa áp lực tâm
lí trong cuộc sống nói chung và trong học tập nói riêng. Đây không chỉ là vấn đề
trước mắt mà còn là vấn đề lâu dài, có ý nghĩa then chốt trong quá trình chung
sống và trưởng thành an toàn trong cuộc đời mỗi con người.
Môi trường gắn bó với học sinh THPT là cái nôi gia đình và trường học.
Ở trường học nhiệm vụ chính của các em là học tập các môn khoa học tự nhiên
và khoa học xã hội. Nội dung chương trình của 11 môn học khá phong phú, mỗi
môn có đặc trưng riêng mà năng lực của mỗi học sinh luôn có giới hạn. Có
những học sinh đáp ứng được yêu cầu của các môn tự nhiên như Toán, Lí, Hóa
nhưng lại học bình thường ở những môn xã hội và ngược lại. Số học sinh có lực
học đều ở mức khá, giỏi không nhiều, ngay cả ở những khối đặc trưng A, B, C,
D... cho sự lựa chọn nghề nghiệp tương lai. Nhưng kết thúc mỗi kỳ học, mỗi
năm học, mỗi học sinh đều phải chính tỏ năng lực của mình bằng điểm số của

các kỳ thi, bằng những danh hiệu mình đạt được. Nhìn thẳng vào thực tế thì đó
là thử thách mà bắt buộc mỗi học sinh phảibiết đối diện và vượt qua trong quãng
đời cắp sách tới trường. Thử thách đồng nghĩa với sự xuất hiện của áp lực
“Cuộc sống không có stress sẽ không có thử thách gì, chẳng có trở ngại nào
phải vượt qua, chẳng có lí do gì để trau dồi trí tuệ và nâng cao năng lực trí
tuệ”.Vượt qua được áp lực, học sinh THPT tự củng cố trí tuệ và bản lĩnh. Còn
để áp lực lấn át, thì sức công phá của nó dù âm thầm nhưng rất nguy hiểm. Nó
có thể pha vỡ sự cân bằng trong tâm hồn, khiến học sinh nẩy sinh những suy
nghĩ tiêu cực, phát sinh căn bệnh tâm sinh lí nguy hiểm, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến cuộc sống của cá nhân.
2.2. Thực trạng về áp lực trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Học sinh THPT thường ở lứa tuổi 16 đến 18, nằm trong quá trình chuyển
tiếp từ trẻ em sang người lớn. Các em đã trải qua một quá trình phát triển mạnh
mẽ đầy xáo trộn của tuổi dậy thì, trải qua sự thay đổi về thể chất, sinh lí và tâm
lí. Nhìn bề ngoài học sinh cấp ba như một người trưởng thành nhưng nhận thức
về mọi vấn đề của cuộc sống còn phiến diện, chưa thể thấu đáo. Đặc trưng tâm lí
thường thấy là cácem tự đánh giá mình cao hơn so với hiện thực, các em thích
thổi phồng những khả năng của mình, người ta thường nói một cách giàu hình
ảnh là trẻ vị thành niên thích tự xem mình là “cái rốn của vũ trụ”, là nhân vật có
tầm quan trọng nhất, mọi người nên suy nghĩ và hành động như mình.Chính vì
đánh giá không đúng khả năng của mình nên các quyết định của trẻ ít dẫn đến
thành công, những thất bại nho nhỏ, những xích mích vụn vặt cũng có thể làm
3


trẻ đau khổ dễ dẫn đến những hành vi nông nổi.Điều này khiến các em phải đối
mặt với áp lực đáng kể trong cuộc sống.
Thực tế, ở lứa tuổi này học sinh THPT thường quan tâm đến sự khác biệt
cá nhân, nhấn mạnh đến sự độc lập và khác biệt. Xuất phát từ cá tính, quan điểm
giáo dục của gia đình, có bô phân hoc sinh có cá tính mạnh, đề cao sư tư lâp nên

muốn muốn thoát khỏi sự kiểm soát của cha mẹ, mong muốn tự do lựa chọn.
Đơn giản là lưa chon theo sở thích. Có khi là gu thẩm mỹ, gu âm nhạc, có khi là
môn học yêu thích và kết thân bạn bè. Trong những sự lựa chọn trên không hẳn
sự lựa chọn nào cũng đúng đắn, đặt biệt là giao kết bạn bè, trong đó có những
người bạn khác giới. Không thể phủ nhận ở độ tuổi này, học sinh THPT đã có
những xúc cảm, những rung động cảm tính với người bạn khác giói, chấp nhận
mối quan hệ cao hơn tình bạn là tình yêu. Bởi còn thiếu sự trải nghiệm, nhận
thức chua sâu sắc nên có quyết định này của các em tiềm ẩn nguy cơ rủi. Vì vậy
không được sự đồng thuận của các bậc phụ huynh. Hầu hết cha mẹ đều có tâm
trạng lo lắng, cảm thấy bất an khi con mình đang cắp sách đến trường mà bước
vào mối quan hệ yêu đương, sẽ khiến các em học hành sa sút. Đây chính là
nguyên nhân dẫn đến những xung đột trong gia đình. Như vậy những căng thẳng
và áp lực không thể tránh khỏi.
Nhìn nhận một cách khách quan thì học sinh THPT thường phải chịu áp
lực tâm lí từ chuyện học hành xuất phát từ đòi hỏi của xã hội hiện đại và tâm
nguyện của gia đình. Xã hội hiện đại, luôn có sự cạnh tranh đồng thời coi trọng
bằng cấp. Phần nhiều cha mẹ đều quan niệm có học vấn là cách hữu hiệu để
thóat ra khỏi tình trạng nghèo trong tương lai. Khi con cái đạt được học vấn
cũng là khi cha mẹ đạt được kỳ vọng, tự hào với mọi người xung quanh. Trước
sự kỳ vọng ấy của bậc phụ huynh, một học sinh đã viết trên diễn đàn: “Áp lực
thi cử, áp lực điểm số, áp lực giữa việc đỗ và trượt, cảm giác lo lắng và sợ hãi
nhiều lúc mình phát điên lên”. Khi kết quả học tập không được như mong muốn
của cha mẹ, học sinh thường dễ rơi vào tâm trạng chán nản, tự ti, mặc cảm về
chính mình. Áp lực lớn này từ gia đình dễ làm cho học sinh bị khủng hoảng tâm
lí, dẫn đến hành vi tiêu cực. Ngày càng gia tăng số lượng học sinh phải nhập viện
để điều trị tâm lí vì căng thẳng trong học tập. Đáng tiếc là những học sinh bị
stress, trầm cảm vì học tập không được quan tâm và điều trị kịp thời dẫn đến
quyết định tìm đến cái chết tự giải thoát cho mình. Cái chết của các em là nỗi đau,
nỗi ân hận khôn cùng cho các bậc phụ huynh, đồng thời cũng trở thành nỗi ám
ảnh, day dứt của thầy cô và bạn bè. Gần đây nhất trang báo mạng Tuổi trẻ online

vào ngày 12/4/2018 đã đưa tin: Đầu tháng 1-2018, một nữ sinh 12 tuổi tại Hà
Tĩnh tự tử ngay tại lớp học. Trước khi ra đi, em để lại hai bức thư tuyệt mệnh,
4


một bằng tiếng Anh, một bằng tiếng Việt. Em xin lỗi vì không thể tiếp tục vui chơi
cùng bạn bè. Em cũng xin lỗi vì kết quả học tập giảm sút trong thời gian gần đây,
khi không đạt được kết quả tốt như kỳ vọng của bố mẹ và thầy cô. Đọc thư, nhà
trường và gia đình đều xót xa than rằng tại sao con em mình quá dại dột như
vậy.Gần hơn nữa là vụ việc một nam sinh lớp 10 vừa cười vừa khóc nhảy từ tầng
4 xuống sân một trường THPT nội trú tại TP HCM(11/4/2018). Tương tự, nam
sinh này cũng để lại thư tuyệt mệnh kể rằng cậu quá áp lực vì học tập.
2.3. Những giải pháp đã sử dụng nhằm giảm áp lực cho học sinh
trung học phổ thông
2.3.1. Giáo viên chủ nhiệm thiết kế hoạt động của tập thể lớp, trở
thành chuyên gia tâm lí của học trò
2.3.1.1. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm tổ chức hoạt động
của tập thể lớp
Có thể nói, đối với giáo viên được đứng trên bục giảng thì công tác chủ
nhiệm và việc giáo dục tri thức, nhân cách, kỹ năng sống cho học sinh có một ý
nghĩa rất quan trọng. Từ xưa đến nay, sứ mệnh của một người thầy không dừng
lại ở truyền dạy tri thức của nhân loại bằng những phương pháp dạy học chuẩn
mực của thời đại. Đồng hành với quá trình đó, mỗi một giáo viên, đặc biệt là
giáo viên được kiêm nhiệm công tác chủ nhiệm, có một nhịêm vụ lớn lao là dày
công rèn luyện đạo đức cho học sinh góp phần hình thành và phát huy ở các em
nhân cách và phẩm chất tốt đẹp: bao gồm cả phẩm chất truyền thống và phẩm
chất của con người mới nhằm đáp ứng đòi hỏi của xã hội hiện đại như: năng
động, sáng tạo, tự chủ linh hoạt sáng tạo. Trong nhiệm vụ lớn lao của GVCN tất
yếu phải gắn với hoạt động bồi dưỡng kiến thức đời sống (kiến thức ngoài sách
vở, ngoài nhà trường), kỹ năng sống cho học sinh bằng chính vốn sống của mình

và những kinh nghiệm được rút ra từ những tình huống của đời sống mà mình
quan sát, thấu hiểu hay từ những cuốn sách bổ ích của nhân loại. Vì vậy, rất cần
ở chủ nhiệm lớp các phẩm chất nhiệt tình, tận tâm, nắm bắt tâm lí giỏi, có khả
năng xây dựng kế hoạch hoạt động cụ thể trong những giờ sinh hoạt lớp và
những hoạt động ngoài giờ lên lớp. GVCN phải vừa là thầy vừa là bạn của học
trò, biết thông cảm và chia sẻ những khó khăn của các em, là tấm gương sáng
cho HS noi theo.
Năng lực của GVCN đầu tiên được thể hiện ở việc chuyên tâm lựa chọn
cán bộ lớp, cán bộ đoàn, đặc bệt là vị trí lớp trưởng và bí thư đoàn. Đó là những
bạn học sinh được các bạn trong lớp tin yêu, nể phục về năng lực, ý thức học tập
và nhân cách. Đó là những học sinh hội tụ được phẩm chất: trung thực, sáng tạo,
có khả năng điều khiển được lớp học trong giờ sinh hoạt 15 phút, sinh hoạt cuối
5


tuần. Cùng với việc hình thành đội ngũ cán bộ lớp thì giáo viên chủ nhiệm cần
phải soạn thảo và phổ biến nội quy lớp trên cơ sở nội quy trường. Nội quy lớp là
sự cụ thể hoá chi tiết nội quy trường cho từng yêu cầu đến từng học sinh, đồng
thời phải có quy định thưởng phạt công minh. Việc học sinh thực hiện nghiêm
túc hay chưa nghiêm túc và đầy đủ nội quy lớp là cơ sở chủ yếu để giáo viên chủ
nhiệm xếp loại hạnh kiểm của học sinh cho từng tuần học, từng tháng, từng học
kỳ. Nội quy lớp có thể mở rộng thêm những quy định hướng đến thống nhất việc
xây dựng cơ sở vật chất thực hiện văn hóa đọc. Trước khi đi vào thực hiện, nội
quy lớp cần phải được phổ biến trong cuộc họp phụ huynh đầu năm học. Làm
như thế, giáo viên chủ nhiệm sẽ nhận được ý kiến đóng góp quý báu và sự đồng
thuận, ủng hộ nhiệt tình của phụ huynh học sinh.
Tất cả đó là bước hoàn tất làm nền tảng để xây dựng hoạt động thiết yếu
hướng đến mục đích định hướng hoạt động nhằm giảm áp lực cho học sinh lớp
chủ nhiệm.
2.3.1.2. Giáo viên chủ nhiệm trong vai trò chuyên gia tâm lí của học trò

Thực tế có nhiều cách thức để giảm thiểu áp lực học tập cho học sinh
THPT. Tôi lựa chọn giảm áp lực học tập cho học sinh thông qua hoạt động và
vai trò của giáo viên chủ nhiệm. Trong tập thể lớp chủ nhiệm, đối tượng học
sinh rất đa dạng. Mỗi một học sinh là một con người với năng lực sở trường
khác nhau. Những học sinh được thầy cô đánh giá ở tốp đầu không chấp nhận vị
thế của mình bị giảm sút trong mắt của những người bạn cùng trang lứa, đúng là
“Thua thầy một vạn không bằng kém bạn một li”. Tâm lí ganh đua lành mạnh
trong học tập luôn có mặt tích cực, thúc đẩy sự cố gắng, tiến bộ. Nhưng mặt
khác nó cũng chính là áp lực thử thách phong độ của các em. Còn với những học
sinh khác trong tập thể lớp, mục tiêu học tập dù thấp hơn thì các em vẫn phải
hoàn thành nội dung của nhiều môn học, vẫn phải đối diện với kỳ thi. Các em
cần phải đạt lượng kiến thức nhất định hữu ích cho sự lựa chọn nghề nghiệp sau
này. Để đạt được lượng kiến thức đó với học sinh năng lực còn hạn chế không
phải là điều dễ dàng, vẫn có lực cản của áp lực. Đối tượng học sinh trong tập thể
lớp là những cá tính riêng, cái tôi riêng biệt được thể hiện trong lối sống, trong
cách ứng xử với thầy cô và bạn bè. Nhu cầu kết bạn, tìm tiếng nói chung không
phải lúc nào cũng thuận lợi. Những mâu thuẫn, những bất đồng ngoài học tập
cũng gây nên những ức chế, những căng thẳng về tâm lí, luôn cần được giải tỏa.
Nếu sự giải tỏa không kịp thời sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục
của tập thể lớp. Trước đối tượng học sinh THPT với đặc trưng rất riêng đã kể
trên, giáo viên chủ nhiệm đứng trước thách thức lớn. Ấy là vừa khơi nguồn hứng
thú, say mê, kiên định với mục tiêu học tập vừa giải tỏa những stress nảy sinh
6


trong quá trình học tập, biến áp lực thành phong độ. Mục đích cuối cùng là mỗi
học sinh có thể hoàn thành nhiệm vụ học tập tốt nhất, phát huy tận độ khả năng
của bản thân. Đó cũng là hành trang để các em bước vào đời. Thách thức đó sẽ
được hóa giải bởi sự tận tâm, gần gũi, thân thiện, yêu thương với học trò. Không
một giáo viên chủ nhiệm nào được đào tạo để thực hiện nhiệm vụ khó khăn này.

Giáo viên chủ nhiệm không chỉ là người tư vấn, chịu trách nhiệm về sự vận hành
của tập thể lớp mà còn phải trở thành chuyên gia tâm lí tháo gỡ mọi khúc mắc,
áp lực của học sinh trong học tập và đời sống. Đòi hỏi này xuất phát từ yêu cầu
mới của ngành giáo dục nhưng vẫn hướng đến mục đích cuối cùng là góp phần
hình thành tri thức, kỹ năng và nhân cách ở học sinh.
2.3.2. Hoạt động của giáo viên chủ nhiệm trong giờ sinh hoạt 15 phút
hướng đến giảm áp lực cho học sinh THPT
2.3.2.1. Tác động đến nhận thức của học sinh về chấp nhận áp lực trong
học tập và trong đời sống
Để giờ sinh hoạt 15 phút hằng ngày trở thành hữu ích, bản thân tôi với vai
trò là GVCN đã chủ động trong việc thực hiện kế hoạch lên lớp. Chương trình
sinh hoạt 15 phút cần phải linh hoạt, luôn mới mẻ về nội dung. Vì vậy, tôi tận
dụng quỹ thời gian hằng ngày này một cách hiệu. Tôi tìm hiểu về tác động của áp
lựcở thời điểm hiện tại của học sinh bằng cách cho các em trực tiếp bày quan
niệm về áp lực trong học tập và đời sống, tình huống tạo nên áp lực cho bản thân.
Có thể thấy, các em bày tỏ quan niệm về áp lực đúng nhưng chưa toàn
diện. Vậy trên cơ sở đó, tôi tổng kết, hướng các em đến nhận thức hoàn thiện về
áp lực mà mình phải đối diện và trải qua: Áp lực được hiểu là tất cả những tác
động của công việc, đời sống gia đình, các mối qua hệ khác mang đến cho con
người, Áp lực là một trong những động cơ để con người vươn lên. Nhưng nếu
áp lực quá nhiều sẽ gây ra tình trang căng thẳng (stress) và những hậu quả
nghiêm trọng. Từ đó, tôi nhấn mạnh đến tính hai mặt của áp lực trong học tập
đối với các em học sinh. Mặt tích cực của áp lực có tồn tại và không thể phủ
nhận. Nó tạo ra phản ứng tâm lí theo hướng chiến đấu để vượt qua hay buông
xuôi đầu hàng. Ta tư duy tích cực thì nếu không có áp lực các em sẽ luôn hài
lòng với bản thân, khó vượt qua được cái ngưỡng của bản thân để phát triển tốt
hơn. Thực tế nhiều gia đình có điều kiện kinh tế không tạo áp lực học hành cho
con cái, để các em phát triển tự do theo ý muốn. Như vậy khó tránh được trường
hợp những em này bỏ qua những năng lực tiềm ẩn của mình, càng lên lớp học
cao hơn càng mải chơi, sa vào trò tiêu khiển vô bổ như chơi game, mê truyện

tranh… Trong cuộc sống, dưới áp lực nảy sinh khao khát vượt qua chính mình,
7


và không hiếm người đạt được những kỳ tích. Mặt khác, tôi cũng hướng cho học
sinh hiểu đúng về sự xuất hiện mặt xấu của áp lực. Khi áp lực trở nên thái quá
thì mới gây ra hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng đến tinh thần và thể chất của các
em. Như vậy, học sinh sẽ có cách nhìn khách quan về áp lực trong môi trường
sống cụ thể. Điều quan trọng hơn, các em sẽ ý thức: mỗi người đều có năng lực
kiểm soát áp lực trong quãng đời cắp sách đến trường.
2.3.2.2. Tác động đến nhận thức giúp học sinh nhận diện về biểu hiện của
áp lực và những biện pháp xử lí trước áp lực trong học tập và đời sống
Trong vai trò và nhiệm vụ của GVCN, tôi chủ động tận dụng thời gian sinh
hoạt 15 phút để trình bày những kiến thức đã mình đã tìm hiểu. Mục đích là giúp
học sinh nhận biết về những dấu hiệu khi bị áp lực trong học tập và trong đời
sống. Đặc biệt là trong trường hợp khi áp lực tạo nên sang chấn về tâm lí gây rối
loạn cảm xúc, loạn thần gây nguy hiểm nhất định về tinh thần và thể chất.
Rối loạn cảm xúc dễ xuất hiện trong thời gian ôn thi, chuẩn bị bước vào kì
thi quan trọng. Lúc này các em chịu áp lực lớn của điểm số, thành tích. Mong
muốn mãnh liệt mà bản thân không đáp ứng được nên xuất hiện những xúc cảm
lo âu, bồn chồn, rối loạn giấc ngủ, cảm thấy mệt mỏi, kiệt sức, khó tập trung,
tính tình thay đổi, hay cáu gắt. Các em cần ý thức được rằng ở một số trường
hợp rối loạn cảm xúc là dấu hiệu của bệnh cần phải điều trị. Tôi cũng thuyết
phục các em không được chủ quan khi nhận thấy xuất hiện rối loạn cảm xúc ở
bản thân bằng con số nghiên cứu tổng hợp đã được công bố: Mới đây một
nghiên cứu của các nhà tâm thần trên 5 trường học lớn tại Hà Nội, tỷ lệ trẻ có
nguy cơ rối loạn cảm xúc là 5%, trong đó 2% số học sinh cần điều trị tại các cơ
sở y tế (Theo soha.vn). Điều đáng chú ý với học sinh, rối loạn cảm xúc do áp lực
trong học tập trong đời sống sẽ trở nên nghiêm trọng nếu không phát hiện và
điều trị kịp thời. Cụ thể là bệnh tâm thần. Dấu hiệu nặng hơn: Hay xấu hổ, tủi

thân, than vãn, ngại tiếp xúc, ăn uống kém, thường gặp cơn ác mộng.
Nếu giáo viên chủ nhiệm chỉ dừng lại ở việc giúp học sinh nhận diện
những biểu hiện khi bản thân khi phải chịu áp lực thì chưa đủ. Quan trọng hơn
vẫn là phổ biến những biện pháp, hướng xử lí kịp thời.Đối với trường hợp vì áp
lực mà dẫn đến rối loạn cảm xúc ở mức độ nhẹ. Lúc này, các em không được
giấu diếm mà cần phải tâm sự với bố mẹ, thầy cô hoặc những người thân trong
gia đình. Từ những chia sẻ đó các em sẽ nhận được sự động viên, cảm thông của
cha mẹ. Các bậc phụ huynh là người đặt kỳ vọng vào con với tất cả tình yêu
thương. Nhưng nếu vì sự kỳ vọng đó mà con mình rơi vào tình trạng nguy hiểm
8


thì chắc hẳn họ sẽ điều chỉnh mình, để là chỗ dựa cho con được học tập an toàn.
Bên cạch đó, các em có thể trao đổi với thầy cô. Những hướng dẫn, đặc biệt là
sự kết hợp giữa thầy cô và phụ huynh sẽ giúp các em thoát khỏi tình rối loạn
cảm xúc nhanh nhất và hiệu quả nhất.
Tôi cũng lưu ý đến toàn thể học sinh, trong thực tế, nếu một em nào đó bị
rối loạn cảm xúc ở mức độ nặng. Chắc chắn bản thân khó nhận biết, khó kiểm
soát tình trạng của mình. Như vậy, trách nhiệm của học sinh trong cùng tập thể
lớp, đặc biệt là những em cán bộ lớp, những em ngồi cùng bàn phải thông tin kịp
thời khi bạn mình có biểu hiện tâm lí căng thẳng, bất thường. Trường hợp này,
giáo viên chủ nhiệm không chỉ trò chuyện với học sinh mà cần liên lạc trực tiếp
với phụ huynh để có tư vấn phụ huynh quyết định sang suốt, can thiệp kịp thời.
Lúc này, bản thân học sinh đã mắc bệnh lí nên cần chấp nhận điều trị ở viện theo
phác đồ điều trị của bác sĩ. Căn cứ vào tình trạng cụ thể của từng học sinh, bác sĩ
sẽ kết hợp liệu pháp tâm lí và các thuốc uống hỗ trợ như thuốc chống trầm cảm,
chống loạn thần. Sự hợp tác tích cực sẽ giúp các em nhanh chóng cân bằng cảm
xúc, trở lại với cuộc sống đời thường
2.3.2.3. Tác động đến cách thức biến áp lực thành động lực qua giới thiệu
những tấm gương biết cân bằng tâm lí thành công trong cuộc sống

Trong đời sống hiện đại ngày nay, áp lực trong học tập và trong đời sống
luôn tồn tại song hành với quá trình sống và phấn đấu của con người. Áp lực
không tự biến mất. Chỉ khi nào con người suy nghĩ tích cực, phát huy trí tuệ, bản
lĩnh thì mới có thể chế ngự và vượt qua áp lực. Khi ấy, mỗi người có thể khẳng
định được bản thân, đóng góp cho xã hội. Học sinh sẽ tiếp thu được sự thật hiển
nhiên này khi giáo viên chủ nhiệm nêu lên những tấm gương tạo nên điều những
điều kỳ diệu nhờ cách vượt qua áp lực. Càng thuyết phục hơn khi xuất phát điểm
của họ không thuận lợi, thậm chí có hoàn cảnh éo le. Học sinh tất yếu sẽ soi
mình vào những tấm gương ấy, có niềm tin biến áp lực thành động lực để vượt
qua chính mình. Để sự trình bày có sức hút với học sinh, giáo viên cần kết hợp
với hình ảnh minh họa được trình chiếu. Cụ thể như:
- Nick Vujicic (sinh ngày 1/12/1982) là người truyền giáo Australia gốc
Serbia.Anh bị hội chứng bẩm sinh tetra - amelia - một loại rối loạn di truyền
hiếm gây ra trình trạng không có chân tay. Với hình dáng khuyết tật, anh bị bạn
bè kì thị. Đó chính là áp lực trong quá trình học tập khiến Nick mặc cảm, tuyệt
vọng. Rơi vào khủng hoảng tâm lí, anh đã từng tự tử bằng cách dìm mình trong
bồn tắm.
9


Tình yêu của vô bờ của cha mẹ là động lực để anh vượt qua áp lực nghiệt
ngã. Trong cuốn tự truyện, anh đã viết: “Hoàn cảnh nghiệt ngã tưởng chừng đã
có lúc nhấn chìm tôi. Hơn ai hết, tôi từng muốn tự tử, và đã từng rất nhiều lần
bỏ cuộc.Nhưng cuối cùng, tôi đã can đảm đứng dậy sau hàng ngàn lần ngã”.
Khi được truyền niềm tin và cảm hứng sống, Nick đã dám chấp nhận sự khác
biệt, đối diện với áp lực bị coi thường, bị thương hại để vươn lên. Anh quyết tâm
không phụ thuộc vào người khác. Sự nỗ lực tạo nên điều kỳ diệu, anh làm được
mọi việc như người bình thường: biết dùng máy tính và có khả năng đánh máy
45 từ/phút bằng phương pháp “gót và ngón chân”, học cách ném bóng tennis,
chơi trống, chơi golf, bơi lội, lướt ván. Vujicic tốt nghiệp ĐH Griffith năm 21

tuổi với hai chuyên ngành kế toán và lập kế hoạch tài chính.Anh còn viết sách:
Hai cuốn sách “Life without limit” (Cuộc sống không giới hạn) và Unstoppable
(Đừng bao giờ từ bỏ hy vọng). Nhưng sự nỗ lực đã giúp anh trở thành một người
truyền cảm, đi khắp nơi trên thế giới để truyền cảm hứng cho con người khuyết
tật bất hạnh.

Hình ảnh Nick Vujicic trong lần diễn thuyết tại Việt Nam
10


- Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký: sinh năm 1947 quê ở Hải Hậu, Nam Định.
Năm lên 4 tuổi, cậu bé Nguyễn Ngọc Ký gặp cơn bạo bệnh và bị liệt cả
hai tay. Tuy vậy, Nguyễn Ngọc Ký vẫn luôn khao khát được cắp sách đến
trường. Năm lên 7 tuổi, cậu bắt đầu hì hụi tập viết bằng chân. Thời gian đầu việc
tập viết với Ký quả như cực hình.Khó khăn ấy chính là áp lực. Nhưng Nguyễn
Ngọc Ký đã chế ngự áp lực bằng nỗ lực vượt bậc. Kết quả là Ký không những
viết được chữ mà còn vẽ được hình bằng thước và com-pa. Nhờ sự cố gắng
tuyệt vời đó, cậu đã được đi học và học rất giỏi. Hai lần được Bác Hồ tặng Huy
hiệu cao quý. Lên cấp III, Nguyễn Ngọc Ký đã chọn ngành Văn. Năm 1966, ông
nhập học ngành Ngữ Văn của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.

Nhà giáo Nguyễn Ngọc Ký và cố thủ tướng Phạm Văn Đồng
Trong 4 năm học Đại học, dù bệnh tật luôn tạo ra khó khăn song Nguyễn
Ngọc Ký vẫn miệt mài theo đuổi đến cùng. Ông quan niệm: “Xa trường, xa lớp
nhưng không xa sách vở”. Sau tốt nghiệp, Nguyễn Ngọc Ký đã nghe theo lời
khuyên của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng về Hải Hậu, Nam Định (quê ông)
làm thầy giáo để “dạy các em phấn đấu vượt mọi trở ngại, khó khăn, góp phần
thống nhất nước nhà”.
2.3.3. Hoạt động của giáo viên chủ nhiệm trong giờ sinh hoạt cuối tuần
(45 phút) giúp học sinh THPT chủ động trước áp lực

Công việc thuờng lệ của GVCN trong tiết sinh hoạt cuối tuần là tổng kết
kết quả học tập và thực hiện nề nếp của tập thể lớp, đánh giá hạnh kiểm của từng
học sinh. Công việc thường lệ này cần phải được tiến hành khoa học, tiết kiệm
thời gian vì GVCN đã được sự hỗ trợ, giúp sức của cán bộ lớp. Vậy thời gian
còn lại, tôi đề xuất các kỹ năng giúp học sinh vượt qua áp lực, suy nghĩ và hành
động tích cực.
11


2.3.3.1. Phổ biến kỹ năng lập kế hoạch học tập và ứng phó với kỳ thi
Giải tỏa áp lực chính là giải tỏa stress, là kỹ thuật giúp cơ thể vượt qua
căng thẳng về tâm lí, lấy lại sự cân bằng của cơ thể, giúp hệ thần kinh khôi phục
năng suất tư duy.
Mục tiêu và kế hoạch học tập
Đối với học sinh, trường học là ngôi nhà thứ hai, học tập là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu. Vậy trước khi bị stress vì áp lực học quá tải so với khả năng tiếp
nhận của bản thân phải nghĩ đến việc phòng tránh, tạo sự cân bằng trong cuộc
sống. Phòng tránh phải bắt nguồn từ ý thức đặt ra mục tiêu học tập vừa sức, phù
hợp với năng lực và sở trường của bản thân. Mục tiêu học tập có căn cứ như vậy
sẽ có tính khả thi. Bản thân các em sẽ tự tin, có động lực. Hãy cho phép bản thân
mình hoàn thành từng mục tiêu trong thời gian hợp lí, có thể tiến chậm nhưng
hiệu quả.
Mục tiêu trước mắt là hoàn thành chương trình học tập của từng kỳ học.
Với vai trò của giáo viên chủ nhiệm, tôi hướng dẫn học sinh lập thời gian biểu
hợp lí trên cơ sở thời khóa biểu của lớp. Lập thời gian biểu thể hiện cách sắp xếp
thời gian, hoàn thành bài tập của nhiều môn học đúng tiến độ. Khi đã lập thời
gian biểu các em phải có ý thức tuân thủ và vận dụng linh hoạt, cần giành nhiều
thời gian hơn đối với môn học có liên quan đến sự lựa chọn nghề nghiệp trong
tương lai, có sự ưu tiên hơn với môn học mà năng lực tiếp nhận của mình còn
hạn chế.

Ứng phó, thích nghi với kỳ thi, đặc biệt là những kỳ thi quan trọng
Tôi đặc biệt lưu ý ở học sinh tinh thần chủ động trước mùa thi cử. Để
hoàn thành chương trình học cấp 3, với mỗi học sinh đều phải trải qua thi cuối
học kỳ. Có thể xem mỗi lần thi học kỳ tập trung tại trường học là một lần trải
nghiệm, thử thách tâm lí ứng phó, thích nghi với thi cử của mỗi học sinh. Từ đó,
các em được tôi luyện để tham gia vào kỳ thi THPT quốc gia, quan trọng hơn,
quyết định vận mệnh tương lai. Tôi lưu ý các em hai vấn đề tránh bị áp lực trong
thi cử. Trước tiên phải tuân thủ đề cương ôn tập theo hướng dẫn của thầy cô, có
thái độ rèn luyện chuyên cần, chuẩn bị kiến thức đầy đủ. Nhưng tâm lí của học
sinh khi bước vào phòng thi luôn có ý nghĩa quyết định kỳ thi thành công hay
thất bại. Vì thế, tôi nhấn mạnh vai trò của tâm lí để mỗi học sinh soi vào mình,
kiểm nghiệm chân thật. Học sinh có lực học tốt nhưng nếu lo lắng thái quá sẽ
dẫn đến mất bình tĩnh trước đề thi mắc phải những sai sót. Tất yếu kết quả thi sẽ
không như ý muốn. Như vậy căng thẳng trong mùa thi, một phần xuất phát từ
chính bản thân học sinh. Áp lực, phân vân: Học đã đủ kiến thức chưa? Nhỡ
mình ôn không trúng, điểm kém thì sao? Tự đặt ra cho mình. Những câu hỏi này
12


sẽ làm giảm mức độ tập trung, tốc độ trong quá trình ôn tập. Để không mắc vào
tình trạng này, tôi động viên học sinh phải có niềm tin vào chính mình khi đã ôn
tập theo thời gian biểu khoa học. Niềm tin sẽ bồi đắp cho mỗi người sức mạnh
để chiến thắng nỗi sợ hãi của bản thân. Niềm tin vào bản thân song hành với
phương pháp ôn luyện khoa học, có tâm trạng thoải mái, áp lực sẽ biến mất. Kết
quả thi chắc chắn khả quan hơn mong đợi.
Trong mười hai năm cắp sách đến trường học sinh trải qua nhiều kỳ thi
quan trọng. Ở những kỳ thi của cấp ba, hơn bao giờ hết, các em rất mong chờ sự
quan tâm, động viên thấu hiểu của cha mẹ. Nhưng có một nghịch lí là các em
ngại ngùng khi bày tỏ trực tiếp mong muốn chính đáng ấy với các bậc phụ
huynh.Nhiều em nghĩ bố mẹ phải tự hiểu được dù mình không nói ra. Nhiều bậc

phụ huynh vì bận lo gánh nặng cơm áo mà giành ít thời gian quan tâm đến tâm
lí, nguyện cọng của các con. Trước thực tế ấy, tôi động viên học sinh phải chủ
động trao đổi, tìm tiếng nói chung với cha mẹ. Các em cũng cần học cách tôn
trọng, lắng nghe lời khuyên của những người đi trước, đặc biệt là bố mẹ. Vì họ
là những người từng trải có thể đưa ra định hướng đúng đắn, sẵn sàng giành
những điều tốt nhất cho con cái. Tuy nhiên cũng có những bậc phụ huynh, đặt
kỳ vọng lớn vào con cái. Họ muốn con mình phải đạt vị trí cao trong kỳ thi,
muốn con theo học, thi vào ngành hot đang rất thịnh hành mà không căn cứ vào
năng lực, sở thích, đam mê của con em mình. Điều đó vừa tạo ra áp lực lớn, vừa
tạo ra mâu thuẫn, bất đồng với con cái. Khi học sinh rơi vào tình huống này
trước kỳ thi, tôi động viên các em thuyết phục cha mẹ tin vào quyết định riêng
của bản thân bằng thái độ chân thành và kiên quyết với khao khát được tự lập,
được chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Với vai trò của GVCN tôi cũng
đề xuất ý kiến với phụ huynh luôn gần gũi, trò chuyện, thấu hiểu như một người
bạn đồng hành, chủ động làm vơi đi lo lắng của các em. Bố mẹ sẽ làm điểm tựa
vững chắc cho các em khi thành công cũng như thất bại không chỉ trong học tập
mà còn trong đời sống. Như vậy việc giải tỏa được tâm lí lo lắng sợ hãi, những
khúc mắc trước mỗi kỳ thi kết hợp với ôn tập tích cực sẽ tạo ra động lực để các
em đạt được kết quả học tập tốt nhất.
2.3.3.2. Định hướng học sinh tham gia hoạt động ngoại khóa.
Hoạt động ngoại khóa là các hoạt động nằm ngoài chương trình học chính
khóa. Hoạt động ngoại khóa liên quan đến tất cả các hoạt động văn hóa - thể
thao - giải trí - xã hội ngoài giờ học trên lớp. Đây là một trong những sân
chơi để học sinh tự nguyện tham gia theo nhu cầu, khả năng của bản thân.
Định hướng học sinh tham gia hoạt động ngoại khóa là hành động tất yếu
nhằm đáp ứng yêu cầu của giáo dục thời kỳ hiện đại. Với vai trò của giáo viên
13


chủ nhiệm tôi nhận thấy tính tích cực của hoạt động ngoại khóa đối với học sinh.

Trước tiên, ngoài giờ học, sinh viên có thể tham gia các hoạt động thể thao như
bóng đá, bóng chuyển, cầu long, hoạt động văn nghệ như hát, múa… Điều đó
giúp các em khám phá và thể hiện năng lực tiềm ẩn của bản thân, mang lại nhiều
ích lợi về sức khỏe. Học sinh năng động hơn cả về thể chất lẫn tinh thần, chủ
động hình thành và học hỏi kỹ năng hợp tác, giao tiếp tự tin trước đám đông.
Bên cạnh đó, khi học sinh THPT được tham gia hoạt động ngoại khóa, các em sẽ
giải tỏa được áp lực, căng thẳng trong việc học tập cũng như trong đời sống.
Trong một năm học, tất cả học sinh THPT đều được tham gia hoạt động
ngoại khóa do nhà trường tổ chức. Đó có thể hoạt động văn nghệ kỷ niệm những
ngày lễ lớn như ngày thành lập Đoàn thanh niên 26/3, ngày hiến chương các nhà
giáo 20/11, ngày giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước 30/4… Những hoạt
động này nằm trong nội dung kế hoạch của nhà trường nên giáo viên chủ nhiệm
có thể chủ động trong việc khuyến khích tư vấn cho học sinh, lựa chọn những
học sinh có khả năng tham gia, còn những bạn khác trong tập thể lớp hỗ trợ,
tham gia góp ý, kích thích khả năng sáng tạo. Cụ thể phân công cụ thể nhóm học
sinh chuẩn bị trang điểm, trang phục, khích lệ tinh thần giúp các bạn mình có
phần thể hiện hay nhất trên sân khấu. Lời ca, tiếng hát, điệu múa hay tinh thần
thể thao vốn là năng lực tiềm ẩn cần được khám phá, đánh thức ở mỗi học sinh.
Từ những hoạt động ngoại khóa, tôi nhận thấy học sinh trong tập thể lớp đoàn
kết, gắn bó, thân thiện với nhau hơn. Các em hiểu ra: cùng với quá trình học tập,
chấp nhận áp lực mà cũng có rất nhiều cơ hội để giải tỏa áp lực đó bằng sự năng
động, nhiệt tình của tuổi trẻ.

Hoạt động văn nghệ của học sinh THPT Lê Hồng Phong chào mừng ngày hiến
chương
Nhà giáo Việt Nam 20/11

14



Hoạt động ngoại khóa: thi học sinh thanh lịch THPT Lê Hồng Phong chào mừng ngày
thành lập Đoàn 26/3

Học sinh THPT Lê Hồng Phong tham gia hội khỏe phù đổng
Cuộc sống của mỗi cá nhân còn nhiều khó khăn nhưng niềm vui vẫn luôn
tồn tại. Khi mỗi người chủ động đem đến niềm vui cho mình và cho mọi người.
Tâm hồn các em sẽ tự bồi đắp tinh thần lạc quan, yêu đời. Điều đó rất cần thiết
để bản thân học sinh cảm thấy tràn đầy năng lượng trước một ngày mới, một
giai đoạn học tập mới nhiều thử thách.

15


3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
3.1. Kết luận
Từ những hoạt động thiết thực của GVCN, tôi đã bước đầu giúp đỡ học
sinh có ý thức về áp lực tồn tại trong học tập nói riêng đời sống nói chung, cách
đối diện với áp lực và tìm hướng vượt qua. Qua kiến thức bổ sung và những
hoạt động thiết thực, nghiêm túc, các em học sinh đã nhận ra được tính hai mặt
của áp lực, vừa là động lực thúc đẩy sự tiến bộ của mỗi người, vừa là lực cản
làm sa sút về tinh thần thể chất nếu không biết cách giải tỏa nó. Trong thực tế
các em đã biết phát huy nội lực của bản thân, hướng đến suy nghĩ và hành động
tích cực trước vấn đề khó khăn trong quá trình học tập, thi cử và trong mối quan
hệ với thầy cô, cha mẹ, bạn bè. Vì vậy, sự gắn kết của học sinh THPT với mái
trường bền chặt hơn. Các em biểu hiện tình cảm yêu mến, quý trọng thầy cô, trở
nên hòa đồng và thân thiết hơn.
3.2. Đề xuất
Để đạt được mục đích giảm áp lực, hoàn thiện tri thức và nhân cách cho
học sinh THPT, giáo viên cần biết chọn điểm xuất phát thích hợp với đặc điểm
riêng của từng từng lớp, từng đối tượng học sinh. Tất yếu, chỉ có thể duy trì tốt

thành quả giáo dục nhờ có sự phối hợp chặt chẽ với các phong trào khác và đặc
biệt cần hợp tác tích cực với cha mẹ học sinh. Như vậy rất cần sự quan tâm vào
cuộc chủ động của ngành giáo dục để làm phong phú hoạt động của học sinh tại
trường học.
Muốn thực hiện giảm áp lực cho học sinh THPT, bồi dưỡng cho học sinh
kỹ năng thấu hiểu, chia sẻ, hành động thông qua những hoạt động thiết thực của
GVCN, đòi hỏi người GVCN lớp phải là người có uy tín, toàn diện, có năng lực,
dám nghĩ, dám làm đi trước, đề xuất được các vấn đề giá trị, tìm tòi bổ sung
thêm kiến thức đời sống, tâm lí lứa tuổi sẵn sàng trở thành người bạn tâm giao
của học sinh tâm. Niềm vui của giáo viên sẽ được nhân đôi khi học sinh biến áp
lực thành động lực phấn đấu, hoàn thiện bản thân. Đó là nền tảng của sự sinh tồn
và phát triển. Như vậy, bản thân mỗi GVCN cảm thấy mình đã hoàn thành một
phần trách nhiệm sứ trồng người được xã hội giao phó.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Https://dantri.com.vn
2. Https://soha.vn
3. Không ai hiểu con bằng mẹ, Phạm Ngọc Thạch, Nhà xuất bản Tổng hợp thành
phố Hồ Chí Minh, 2017.
4. Động lực chèo lái hành vi, Daniel H.Pink, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, 2018.
5. Khoảng trời bình yên cho tuổi teen, Sara Abiol, Nhà xuất bản Thời đại, 2016.

17




×