Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tạo hứng thú học tập môn hóa học lớp 12 bằng cách liên hệ thực tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.27 KB, 20 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Định hướng chung về đổi mới phương pháp dạy học đã được xác định
trong nghị quyết trung ương 4 khóa VII, nghị quyết trung ương 2 khóa VIII
được thể chế hóa trong luật giáo dục. Là phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, tự học, kỹ năng vận dụng vào
thực tiễn, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, tác dụng đến tình
cảm, đem lại niềm vui, tạo được hứng thú học tập cho học sinh, tận dụng được
công nghệ mới nhất, khắc phục lối dạy truyền thống truyền thụ một chiều, thông
báo các kiến thức có sẵn [ 3].
Là một môn khoa học vừa lí thuyết, vừa thực nghiệm, hóa học có rất
nhiều khả năng trong việc phát triển những năng lực nhận thức cho học sinh. Nó
cung cấp cho học sinh những tri thức khoa học phổ thông, cơ bản về các chất, sự
biến đổi các chất, mối liên hệ qua lại giữa công nghệ hóa học, môi trường và con
người. Việc vận dụng những kiến thức lý thuyết này vào cuộc sống, việc giải các
bài tập có nội dung gắn với thực tiễn sẽ làm phát triển ở các em tính tích cực, tự
lập, óc sáng tạo, những hứng thú nhận thức, tinh thần vượt khó tức là những
phẩm chất quý báu đối với cuộc sống lao động và sản xuất.
Thế nhưng phần lớn học sinh vẫn chưa nhận thức được bản chất và tầm
quan trọng của hóa học trong cuộc sống dù sự đổi mới trong giáo dục nói chung
và trong dạy học nói riêng được đẩy mạnh trong những năm gần đây. Đối với
các em, hóa học là môn trừu tượng, khô khan và xa rời thực tế. Trước tình hình
đó, hóa học phải đổi mới phương pháp dạy học đã và đang thực sự là yếu tố
quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt giờ dạy có hiệu quả
và tiến bộ là phát huy tính thực tế.
Trong việc dạy môn hoá học ở trường trung học, người giáo viên phải có
vốn kiến thức về thực tế sâu, rộng, có khả năng gắn bài giảng với thực tế, tạo ra
được những giờ học sinh động, phát huy được trí thông minh, nâng cao sự hiểu
biết và kích thích sự đam mê học tập của học sinh. Thì sẽ thực hiện được nguyên
lí giáo dục của ĐCSVN "Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản
xuất, lí luận gắn liền với thực tiễn"[ 3]. Nếu xây dựng được hứng thú học tập nơi


học sinh thì mỗi kiến thức hóa học là một thế giới vui nhộn, bổ ích, mỗi tiết học
là một trải nghiệm thoải mái.
Chính vì vậy, tôi xin đưa ra sáng kiến kinh nghiệm: “Tạo hứng thú học
tập môn Hóa học lớp 12 bằng cách liên hệ thực tế”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Việc nghiên cứu đề tài này nhằm tạo hứng thú học tập lớp 12 bằng liên
hệ thực tế. Thông qua đó giúp học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh về thế giới,
con người thông qua bài học, giờ thực hành...của hóa học. Đồng thời là khởi
nguồn, là cơ sở phát huy sáng tạo ra những ứng dụng phục vụ trong đời sống của
con người. Hóa học giúp học sinh giải thích những hiện tượng trong tự nhiên,
tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hóa học
trong những câu ca dao – tục ngữ mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng
1


trong thực tiễn đời sống thường ngày chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà
không gây nhàm chán, xa lạ, lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo,
hứng thú trong môn học. Đồng thời nâng cao hiệu quả của quá trình dạy và học
hóa ở trường THPT.
- Trang bị thêm cho học sinh lớp 12 một số bài tập về ứng dụng thực tiễn
vì loại bài tập này đã được đưa vào kỳ thi THPTQG trong những năm gần đây.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu đề tài sáng kiến kinh nghiệm là học sinh lớp 12
(gồm các lớp 12C3, 12C4, 12C6, 12C7) trường THPT Tĩnh Gia 4 năm học 2017
– 2018.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Nghiên cứu trên cơ sở các tài liệu: Luật giáo dục về đổi mới chương
trình, phương pháp dạy học tích cực bộ môn hóa học......
- Nghiên cứu thực trạng dạy học ở trường THPT Tĩnh Gia 4 năm học
2017- 2018.

- Tổng hợp các hiện tượng hóa học thực tiễn áp dụng một số bài dạy ở
lớp 12.

2


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Hóa học với thực tiễn cuộc sống [2]
a) Tác động của hóa học đến đời sống con người
Không có môn khoa học nào lại có nhiều ứng dụng như môn hóa học:
- Trong tự nhiên, nhờ có hóa học mà chúng ta có thể khám phá thiên
nhiên, nắm được tính chất, quy luật của thiên nhiên và con người ngày càng
thành công trong ngành khoa học khám phá vũ trụ, trái đất…
- Trong đời sống, sản xuất: Hóa học được ứng dụng trong việc nghiên cứu
thành phần, tác dụng, chế biến, bảo quản lương thực, thực phẩm, các quy trình
sản xuất (sản xuất, chế biến các nguồn nguyên liệu thô thành các nguyên liệu có
thể sử dụng trong đời sống sản xuất, chế biến các loại nông sản, chế tạo ra các
đồ dùng, vật dụng hằng ngày).
b) Tác dụng của các kiến thức thực tế về hóa học
- Giúp học sinh nắm được cơ sở hóa học, nắm vững và củng cố kiến thức
cơ bản về hóa học.
- Nắm nhanh và kĩ các kiến thức đã học trong bài. Hóa học là ngành hóa
học thực nghiệm, học lý thuyết và kiểm tra lại bằng các thí nghiệm. Chính việc
tiến hành các thí nghiệm sẽ phát sinh các vấn đề để các em có thể hiểu sâu và kĩ
các kiến thức đã học, qua đó các em hiểu bài hơn.
- Các kiến thức hóa học thực tế làm cho học sinh hiểu được vai trò to lớn
của hóa học trong đời sống: kinh tế, quốc phòng, sinh hoạt… thúc đẩy sự ham
hỏi của học sinh.
- Giúp học sinh hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng trong đời sống

hằng ngày một cách đúng đắn. Các em sẽ nhận thức được những gì có ích,
những gì có hại để điều chỉnh hành vi của mình.
2.1.2. Tác dụng của việc liên hệ thực tế trong giảng dạy [2]
a) Với người thầy:
- Phát huy khả năng truyền thụ kiến thức của người thầy. Khi mở rộng
kiến thức hóa học thực tế trong bài giảng sẽ nâng cao hiệu quả giảng dạy.
- Mở rộng kiến thức hóa học thực tế rèn luyện một số kỹ năng dạy học:
+ Kỹ năng diễn đạt.
+ Kỹ năng sử dụng phương tiện dạy học.
+ Kỹ năng tiến hành thí nghiệm.
+ Kỹ năng giao tiếp.
+ Kỹ năng phân bố thời gian.
- Kích thích say mê học tập của học sinh.
- Tạo ra giờ học lý thú bổ ích. Khi mở rộng kiến thức hóa học thực tế sẽ
có rất nhiều câu hỏi đặt ra kích thích học sinh tư duy trả lời, bầu không khí của
lớp sẽ trở nên sôi động, tạo điều kiện cho các học sinh còn nhút nhát tham gia
vào bài giảng.

3


- Gần gũi với học sinh. Khi giáo viên thực hành các kỹ năng nhằm tăng
hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên sẽ có nhiều cơ hội giao tiếp với học
sinh. Nhờ đó mà sẽ tạo được ấn tượng tốt với học sinh.
b) Với học sinh:
- Các em trở nên yêu thích môn hóa. Khi học sinh được hiểu thấu đáo các
vấn đề hóa học, được tham gia vào các hoạt động thực tế… Các em sẽ có hứng
thú với môn học vì các em đã nắm được tầm quan trọng của môn học, từ đó
nâng cao thành tích học tập.
- Nắm được các kiến thức cơ bản của hóa học. Các kiến thức hóa học thực

tế lấy nền tảng là các kiến thức hóa học mà học sinh đã học ở nhà trường, tác
dụng của các kiến thức này là giải thích các bản chất của sự vật, hiện tượng do
đó các em sẽ có nhiều cơ hội tiếp xúc các kiến thức hóa học, các em sẽ nắm rõ
các kiến thức hơn.
- Hình thành kỹ năng tư duy, sử dụng sách… Các kiến thức mới luôn thúc
đẩy học sinh tìm tòi phát hiện kiến thức trong sách báo.
- Phát huy tính tích cực sáng tạo trong học tập.
2.1.3. Liên hệ thực tế là một biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh [2]
Cái mới luôn là cái kích thích chúng ta tìm hiểu nhất. Việc liên hệ thực tế
sẽ thúc đẩy học sinh tìm tòi khám phá trong học tập. Hiểu và giải thích được các
hiện tượng tự nhiên là một động cơ thúc đẩy học sinh học tập. Các kiến thức hóa
học sẽ thu hút sự chú ý lắng nghe trong giờ học và ham thích học hỏi, tìm kiếm
sách vở, rèn luyện khả năng sử dụng sách… Qua đó, các em sẽ thấy được những
lý thú của các kiến thức đã học, tăng thêm lòng yêu thích môn học.
Hứng thú học tập là một trong những yếu tố quyết định kết quả học tập
của học sinh. Học sinh có khả năng mà không có hứng thú thì cũng không đạt
kết quả, giáo viên giỏi chuyên môn mà không có kỹ năng tạo hứng thú học tập
cho học sinh thì chưa thành công. Do đó đòi hỏi người giáo viên phải hội tụ kiến
thức và tất cả các yếu tố phục vụ cho công việc dạy học. Kỹ năng tạo hứng thú
là kỹ năng quan trọng nhất, mà để có được kỹ năng này thì đầu tiên người giáo
viên phải có kiến thức sâu, rộng, phải luôn cung cấp cho học sinh lượng kiến
thức: ĐỦ, ĐÚNG, MỚI, THIẾT THỰC.
Với giáo viên bộ môn Hóa học, kiến thức hóa học thực tế sẽ đáp ứng mặt
thiết thực của kiến thức.
2.2. Thực trạng dạy môn hóa học ở trường THPT Tĩnh Gia 4.
- Những tiết đầu tôi dạy các lớp 12C3, 12C4, 12C6, 12C7, tôi nhận thấy
các em hổng kiến thức về bộ môn hóa học rất nhiều. Chính vì thế tôi đã tiến
hành khảo sát các em xem chất lượng bộ môn học như thế nào để điều chỉnh
phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh.
- Thời gian khảo sát: Đầu học kỳ I (tháng 9/2017).

- Kết quả thống kê:

4


Lớp

SL

12C3
12C4
12C6
12C7

38
40
41
40

Loại giỏi
SL
%

0
0
0
0

0
0

0
0

Loại khá
SL
%

Loại TB
SL
%

Loại yếu
SL
%

10
8
4
5

21
24
23
25

7
8
14
10


26,3
20
9,8
12,5

55,3
60
56,1
62,5

18,4
20
34,1
25

Dựa vào kết quả thống kê trên tôi thấy số lượng học sinh yếu chiếm tỉ lệ
rất cao còn tỉ lệ học sinh khá, giỏi môn này chiếm tỉ lệ rất thấp ở tất cả 4 lớp tôi
dạy, đi liền với đó là tỉ lệ học sinh yêu thích môn học rất ít. Chính vì thế tôi
quyết định áp dụng đề tài này vào giảng dạy cho học sinh THPT Tĩnh Gia 4 vào
đầu tháng 10 - học kỳ I năm học 2017 - 2018. Nhằm nâng cao năng lực tự học
và nâng cao khả năng vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, để tạo hứng thú trong
việc học môn hóa học cho học sinh, đồng thơi nâng cao chất lượng giáo dục
môn học đạt kết quả cao hơn.
2.3. Giải pháp thực hiện.
Sau đây là một số ví dụ minh họa mà tôi đã áp dụng thông qua một số
hiện tượng trong thực tế trong số hàng nghìn, hàng vạn hiện tượng, tình huống
thực tiễn có thể áp dụng.
a) Liên hệ thực tế khi giới thiệu vào bài mới.Tiết dạy có gây được sự chú
ý của học sinh hay không là phụ thuộc rất nhiều vào phần mở đầu này. Cách nêu
vấn đề này có thể tạo cho học sinh sự bất ngờ, có thể là một câu hỏi rất khôi hài

hay một vấn đề rất bình thường mà hàng ngày học sinh vẫn gặp nhưng lại tạo sự
chú ý quan tâm của học sinh trong quá trình học tập.
Ví dụ 1: Khi học về bài Lipit [1], giáo viên có thể mở bài như sau:
- GV: Dân gian ta thường có câu.
"Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh''
Vì sao thịt mỡ, dưa hành thường được ăn cùng với nhau?[5]
- HS: Có thể trả lời: Vì ngon miệng.
- GV: Sau khi học xong tính chất hóa học của chất béo thì học sinh sẽ
hiểu được: Mỡ là trieste của glixerol với các axit béo có CTC là (ROCO) 3C3H5.
Còn dưa hành chua cung cấp H+ có lợi cho việc thủy phân este, do đó có lợi cho
sự tiêu hóa mỡ theo pthh sau:
(ROCO)3C3H5 + 3 H2O ↔ 3ROCOH + C3H5(OH)3
Ví dụ 2: Khi học bài Peptit và protein [1], giáo viên có thể mở bài như sau:
- GV: Khi ăn thịt, cá người ta thường chấm vào nước mắm chanh thì thấy
ngon và dễ tiêu hóa hơn, các em có biết tại sao không?[5]
- GV: Vậy thịt, cá chứa chất gì mà lại tác dụng với axit có trong chanh.
Bài hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu" peptit và protein"
- HS: Sau khi học xong bài, học sinh sẽ giải thích được: Thịt, cá chính là
protein. Trong môi trường axit protein trong thịt, cá dễ thủy phân hơn nên khi
5


chấm vào nước mắm chanh có môi trường axit thì quá trình nhai protein nhanh
thủy phân thành các amino axit.
- GV: Chính vì thế ta thấy ngon hơn và dễ tiêu hóa hơn.
Ví dụ 3: Khi dạy về bài Sự ăn mòn kim loại [1], giáo viên có thể mở bài như
sau:
- GV: Các em ở gần biển nên thường thấy người ta hay gắn ở phía sau
đuôi tàu một miếng kim loại bằng kẽm (Zn). Vì sao người ta lại làm như vậy?[5]

- HS: Có thể biết sẽ trả lời đó là để chống đuôi tàu bị hỏng.
- GV: Cách giới thiệu này sẽ tạo cho học sinh chú ý hơn để tìm hiểu tại
sao Zn lại bị ăn mòn như vậy. Và trong quá trình học về chống ăn mòn kim loại
các em sẽ giải thích được như sau:
Thân tàu biển được chế tạo bằng gang, thép. Gang thép là hợp kim của
Sắt và cacbon và một số nguyên tố khác. Đi lại trên biển, thân tàu tiếp xúc
thường xuyên với nước biển là dung dịch chất điện li nên sắt bị ăn mòn gây hư
hỏng.
Để bảo vệ thân tàu thường áp dụng biện pháp sơn nhằm không cho gang
thép của thân tàu tiếp xúc trực tiếp với nước biển. Nhưng ở phía đuôi tàu, do tác
động của chân vịt, nước bị khuấy động mãnh liệt nên biện pháp sơn là chưa đủ.
Do đó phải gắn tấm kẽm vào đuôi tàu. Khi đó sẽ xảy ra quá trình ăn mòn điện
hóa. Kẽm là kim loại mạnh hơn sắt nên bị ăn mòn, còn sắt thì không bị mất mát
gì. Sau một thời gian miếng kẽm bị ăn mòn thì sẽ được thay thế theo định kì.
Việc này đỡ tốn kém hơn nhiều so với sửa chữa thân tàu.Vậy đây là kiểu ăn mòn
gì thì bài hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu.
Ví dụ 4: Khi dạy về tiết Nước cứng [1], giáo viên có thể mở bài như sau:
- GV: Khi nấu nước giếng ở một số gia đình, lâu ngày các em thấy xuất
hiện lớp cặn ở đáy ấm. Vậy tại sao? Cách tẩy lớp cặn này như thế nào? [ 5]
- HS: Suy nghĩ trả lời:
- GV: Trong tự nhiên, nước ở một số vùng là nước có chứa các muối như:
Ca(HCO3)2, Mg(HCO3)2. Khi nấu nước thì tạo thành kết tủa bám vào thành ấm.
Vậy nước đó là nước gì? Uống nó có nguy hiểm không? Bây giờ chúng ta sẽ tìm
hiểu phần " Nước cứng".
Trong quá trình học về nước cứng, học sinh sẽ hiểu được hiện tượng trên
là do: Ca(HCO3)2, Mg(HCO3)2 là nước cứng tạm thời. Khi nấu nước thì xảy ra
t
PTHH:
Ca(HCO3)2 
→ CaCO3↓ + CO2 ↑ + H2O

t
Mg(HCO3)2 → MgCO3↓ + CO2 ↑ + H2O
Do CaCO3, MgCO3 là chất kết tủa nên lâu ngày sẽ đóng cặn. Để tẩy lớp
cặn này thì dùng giấm ăn (dung dịch CH 3COOH 5%) cho vào ấm đun sôi để
nguội khoảng một đêm rồi rửa sạch.
Ví dụ 5: Khi dạy về bài Hợp kim [1], giáo viên có thể liên hệ thực tế khi mở bài
như sau:
- GV: Vì sao cái chảo lại giòn? cái môi lại dẻo? Còn cái dao lại sắc
không?[ 5]
o

o

6


Thế “chảo, môi, dao” là làm từ gì? Bài học ngày hôm nay sẽ giúp các em
hiểu được vấn đề này. Đó là bài 33: Hợp kim của sắt.
* Sau khi học xong bài Hợp kim của sắt giáo viên sẽ giúp học sinh hiểu
được vấn đề trên là do:
Chảo xào rau, môi và dao đều làm từ các hợp kim của sắt nhưng chúng lại
không giống nhau:
- Sắt dùng để làm chảo là "gang". Gang có tính chất là rất cứng và giòn.
Trong công nghiệp, người ta nấu nóng chảy lỏng gang để đổ vào khuôn, gọi đúc
gang.
- Môi múc canh được chế tạo từ "thép non". Thép non không giòn như
gang nó dẻo hơn. Vì vậy người ta thường dùng búa để rèn, biến thép thành các
đồ vật có hình dạng khác nhau.
- Dao thái rau không chế tạo từ thép non mà từ “thép”. Thép vừa dẻo vừa
dát mỏng được, có thể rèn, cắt gọt nên rất sắc.

Ví dụ 6: Khi dạy về bài Nhôm và hợp chất của nhôm [1], giáo viên có thể liên
hệ thực tế khi mở bài như sau:
- GV: Các em hãy giải thích hiện tượng “Một nồi nhôm mới mua về sáng
lấp lánh bạc, chỉ cần dùng nấu nước sôi, bên trong nồi nhôm, chỗ có nước biến
thành màu xám đen”[8]. Để hiểu được thực tế này chúng ta học bài Nhôm..
- HS: Có thể trả lời là nhôm đã tác dụng với nước.
- GV: Trong quá trình học về tính chất hóa học của nhôm, giáo viên giúp
học sinh hiểu về vấn đề trên là: Bình thường trông bên ngoài nước không có vấn
đề gì, thực tế trong nước có hòa tan nhiều chất, thường gặp nhất là các muối
canxi, magie và sắt. Các nguồn nước có thể chứa lượng muối sắt ít nhiều khác
nhau, loại nước chứa nhiều sắt "là thủ phạm" làm cho nồi nhôm có màu đen. Vì
nhôm có tính khử mạnh hơn sắt nên nhôm sẽ đẩy sắt ra khỏi muối của nó và
thay thế ion sắt, còn ion sắt bị khử sẽ bám vào bề mặt nhôm, nồi nhôm sẽ bị đen.
PTHH là: 2Al + 3Fe2+ → 3Fe + 2Al3+
Ví dụ 7: Khi dạy về bài Sắt và hợp chất của sắt [1], giáo viên có thể liên hệ
thực tế khi mở bài như sau:
- GV: Tại sao những đồ dùng bằng sắt thường bị gỉ tạo thành gỉ sắt và dần
dần đồ vật không dùng được [5]? Để hiểu được thực tế này chúng ta học bài: Sắt
và hợp chất của sắt.
- HS: Có thể trả lời do các đồ vật của sắt bị oxi hóa trong không khí.
- GV: Trong quá trình học tính chất của sắt học sinh sẽ hiểu được: Trong
không khí có oxi, hơi nước và các chất khác. Do tác dụng nhiệt độ cao của ánh
nắng mặt trời, hơi nước, oxi và nước mưa (thường hòa tan khí CO 2 tạo môi
trường axit yếu) có phản ứng với sắt tạo thành một số hợp chất của sắt (Fe 2O3)
gọi là gỉ sắt. Do đó để bảo vệ đồ dùng bằng sắt, người ta thường phủ lên đồ vật
bằng sắt một lớp sơn, kim loại khác để nhằm không cho sắt tiếp xúc với nước,
oxi không khí và một số chất khác trong môi trường.

7



b) Liên hệ thực tế qua các phản ứng hóa học cụ thể trong bài học. Cách
nêu vấn đề này có thể sẽ mang tính cập nhật, làm cho học sinh hiểu và thấy được
ý nghĩa thực tiễn bài học. Giáo viên có thể giải thích để giải tỏa tính tò mò của
học sinh.
Ví dụ 1: Khi dạy về bài Tinh bột [1], sau khi học xong tính chất hóa học của
tinh bột, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau:
- GV: Tại sao khi ăn cơm nhai kỹ sẽ thấy có vị ngọt? [5]
- HS: Cơm chứa một lượng lớn tinh bột, khi ăn cơm trong tuyến nước bọt
của người có các enzim. Khi nhai kỹ cơm trong nước bọt sẽ xảy ra sự thủy phân
một phần tinh bột thành mantozơ và glucozơ nên có vị ngọt.
Ví dụ 2: Khi dạy về bài Amin [1], sau khi học xong tính bazơ yếu của amin
giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau:
- GV: Tại sao khi nấu canh cá người ta thường nấu canh chua? [5]
- HS: Bởi vì chất chua (axit lactic có trong nước dưa, axit axetic có trong
dấm, axit citric có trong chanh...) rất có duyên với cá. Nó nâng cao hương vị của
món canh chua cá. Mặt khác, nó còn hạn chế mùi tanh của canh khi ăn. Vì trong
chất tanh của cá có chứa hỗn hợp các amin như: đimetyl amin, trimetyl amin.
Hai amin trên có tính chất bazơ yếu. Trong các chất chua dùng để nấu cá đều có
các axit hữu cơ chúng có phản ứng với các amin có tính bazơ yếu trong cá tạo
thành muối do đó sẽ giảm hay làm mất vị tanh của cá.
Ví dụ : CH3COOH + (CH3)2NH → CH3COOH2N(CH3)2
Ví dụ 3: Khi dạy về bài Peptit và protein [1], sau khi học xong phần tính chất
của protein, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau:
- GV: Giải thích vì sao khi nấu canh cua thì có gạch cua nổi lên? Khi nấu
trứng thì lòng trắng trứng kết tủa lại?[5]
- HS: Vì trong những trường hợp đó có xảy ra sự kết tủa protein bằng
nhiệt, gọi là sự đông tụ. Một số protein tan trong nước tạo thành dung dịch keo,
khi đun nóng sẽ bị kết tủa.
Ví dụ 4: Khi dạy bài Tính chất của kim loại [1], sau khi học xong tính chất hóa

học của kim loại, giáo viên có thể liên hệ như sau:
- GV: Tại sao khi đánh rơi nhiệt kế thủy ngân thì không được dùng chổi
quét mà nên rắc bột lưu huỳnh lên trên?[5]
- HS: Thủy ngân là kim loại ở dạng lỏng, dễ bay hơi và hơi thủy ngân là
một chất độc. Vì vậy, khi làm rơi nhiệt kế thủy ngân nếu như ta dùng chổi quét
thì thủy ngân sẽ bị phân tán nhỏ, làm tăng quá trình bay hơi làm cho quá trình
thu gom khó khăn. Ta phải rắc bột lưu huỳnh lên những chỗ có thủy ngân, vì S
có thể tác dụng với thủy ngân tạo thành HgS dạng rắn và không bay hơi.
Hg + S → HgS↓
Quá trình thu gom thủy ngân cũng đơn giản hơn.
Ví dụ 5: Khi dạy tiết Một số hợp chất quan trọng của kim loại kiềm [1], sau
khi học xong tính chất của NaHCO3, giáo viên có thể liên hệ như sau:
- GV: Vì sao muối NaHCO3 được dùng để chế thuốc đau dạ dày?[7]
8


- HS: Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ dày là người
có nồng độ dung dịch HCl cao làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO 3 dùng để chế
thuốc đau dạ dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl có trong dạ dày nhờ
phản ứng:
NaHCO3 + HCl → NaCl + CO2 + H2O
Ví dụ 6: Khi dạy về tiết Một số hợp chất quan trọng của kim loại kiềm thổ
[1], sau khi học xong muối CaCO3 giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau:
- GV: Hiện tượng tạo hang động và thạch nhũ ở vườn quốc gia Phong Nha
- Kẽ Bàng với những hình dạng phong phú đa dạng được hình thành như thế
nào? [5]
- HS: Ở vùng núi đá vôi, thành phần chủ yếu là CaCO 3. Khi trời mưa
trong không khí có CO2 tạo thành môi trường axit nên làm tan được đá vôi.
Những giọt mưa xuống sẽ bào mòn đá thành những hình đa dạng:
CaCO3 + CO2 + H2O → Ca(HCO3)2

Theo thời gian tạo thành các hang động. Khi nước có chứa Ca(HCO 3)2 ở
đá thay đổi về nhiệt độ và áp suất nên khi giọt nước nhỏ từ từ có cân bằng:
Ca(HCO3)2
→ CaCO3 + CO2 + H2O
Ví dụ 7: Khi dạy về bài Nhôm và hợp chất của nhôm [1], sau khi học xong
tính chất của muối nhôm sunfat, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau:
- GV: Vì sao phèn chua có thể làm trong nước? [5] (Câu này nếu học sinh
không giải thích được thì giáo viên phải diễn giải cho học sinh hiểu)
- HS: Phèn chua là muối sunfat kép của nhôm và kali ở dạng tinh thể
ngậm nước: K2SO4.Al2(SO4)3.24H2O
Phèn chua không độc, có vị chua, ít tan trong nước lạnh nhưng tan nhiều
trong nước nóng. Khi tan trong nước, phèn chua sẽ bị thủy phân và tạo thành
Al(OH)3 ở dạng kết tủa keo lơ lửng trong nước:
Al2(SO4)3 → 2Al3+ + 3SO42Al3+ + H2O →AlOH2+ + H+
AlOH2+ + H2O →Al(OH)2+ + H+
Al(OH)2+ + H2O →Al(OH)3 + H+
Al2(SO4)3 + 3H2O → 2Al(OH)3 + 3H2SO4
Chính những hạt Al(OH)3 kết tủa dạng keo lơ lửng ở trong nước này đã
kết dính với các hạt bụi bẩn, các hạt đất nhỏ để trở thành hạt đất to hơn, nặng
hơn và lắng xuống. Vì vậy, mà nước trở nên trong hơn. [5]
c) Liên hệ thực tế sau khi đã kết thúc bài học. Cách nêu vấn đề này có thể
tạo cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện
tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện tượng đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu
hỏi vì sao lại có hiện tượng đó? Tạo tiền đề thuận lợi khi học bài học mới tiếp
theo.
Ví dụ 1: Sau khi học xong bài Saccarozơ [1], giáo viên có thể liên hệ thực tế
như sau:

9



- GV: Các con số ghi trên chai bia như 12 0, 140 có ý nghĩa như thế nào?
Có giống với độ rượu hay không?[5]
- HS: Trên thị trường có bày bán nhiều loại bia đóng trai. Trên chai có
nhãn ghi 120, 140,.........Có người hiểu đó là số biểu thị hàm lượng rượu tinh
khiết của bia. Thực ra hiểu như vậy là không đúng. Số ghi ở trên chai bia không
biểu thị lượng rượu tinh khiết mà biểu thị độ đường trong bia.
Nguyên liệu chủ yếu để nấu bia là đại mạch. Qua quá trình lên men, tinh
bột đại mạch chuyển hóa thành đường mạch nha (đó là mantozơ - một đồng
phân của đường saccarozơ). Bấy giờ đại mạch biến thành dịch men, sau đó lên
men biến thành bia.
Khi đại mạch lên men sẽ cho lượng lớn đường mantozơ, chỉ có một phần
mantozơ chuyển thành rượu, phần mantozơ còn lại vẫn nằm trong bia. Vì vậy
hàm lượng rượu trong bia khá thấp. Độ dinh dưỡng của bia cao hay thấp có liên
quan đến độ đường.
Trong quá trình ủ bia, nếu 100ml dịch lên men có 12g đường người ta
biểu diễn độ đường lên men là bia 12 0. Do đó bia có độ 14 0 có giá trị dinh dưỡng
cao hơn bia 120. [5]
Ví dụ 2: Sau khi học xong bài Tinh bột [1], giáo viên có thể liên hệ thực tế như
sau:
- GV: Vì sao ban đêm không để nhiều cây xanh trong nhà?[5]
- HS: Ban ngày, do có ánh sáng mặt trời nên cây xanh tiến hành quá trình
quang hợp, hấp thụ CO2 trong không khí và giải phóng khí oxi.

→ (C6H10O5)n + 6nO2 ↑
6nCO2 + 5nH2O 
clorophin
as

Nhưng ban đêm, do không có ánh sáng mặt trời, cây xanh không quang

hợp, chỉ có quá trình hô hấp nên cây hấp thụ khí O 2 và thải ra khí CO2, làm cho
phòng thiếu khí O2 và có nhiều khí CO2.
Ví dụ 3: Khi học xong bài Amino axit [1], ở phần tư liệu giáo viên có thể hỏi
học sinh:
GV: Bột ngọt là gì? Tại sao lại say bột ngọt? Khi bị say bột ngọt, tại sao
chúng ta nên uống nhiều nước hoặc uống nước chanh? [6]
HS: Bột ngọt (mì chính) có tên gọi là natri glutamat, là muối mononatri
của axit glutamic. Axit glutamic là một trong những axit amin phong phú nhất
trong tự nhiên, đóng vai trò quan trọng trong việc trao đổi chất của cơ thể động
vật, nhất là các cơ quan não bộ, gan và cơ, nâng cao khả năng hoạt động của cơ
thể. Công thức của natri glutamat: HOOC-CH2-CH2-CH(NH2)-COONa. Bột
ngọt được dùng làm gia vị. Một số người cơ thể sẽ có phản ứng lại sau khi sử
dụng bột ngọt. Người sức khỏe tốt thì quá trình phản ứng diễn ra âm thầm,
người sức khỏe yếu sẽ phản ứng ra ngoài, với các dấu hiệu thường gặp là bị xây
xẩm mặt mày, đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, khó thở, mỏi nhừ người; nặng hơn
thì đỏ hết cả người, phải đi cấp cứu... Các dấu hiệu này xuất hiện khoảng 20
phút sau khi dùng bột ngọt và sẽ trở lại bình thường 2 giờ sau đó. Những phản
ứng này chỉ mang tính tạm thời và không gắn với những ảnh hưởng có hại
10


nghiêm trọng cho sức khỏe. Tuy vậy, nếu nhạy cảm với bột ngọt, tốt nhất chúng
ta không nên dùng. Để “giải” bột ngọt, bệnh nhân nên uống nhiều nước chanh vì
chất axit trong chanh sẽ phản ứng với natri glutamat để tạo thành axit glutamic
không độc theo phương trình:
HOOC-CH2-CH2-CH(NH2)-COONa + H+ →
HOOC-CH2-CH2-CH(NH2)-COOH + Na +. Mặt khác, uống nước chanh hoặc
nước lọc sẽ làm tăng tuần hoàn máu và lợi tiểu, bệnh nhân sẽ đi tiểu nhiều hơn,
giúp làm sạch hệ tiêu hóa. Theo đó tốc độ đào thải độc tố cũng nhanh chóng
hơn, giúp cho cơ thể khỏe mạnh trở lại.

Ví dụ 4: Sau khi học xong bài Ăn mòn kim loại [1], giáo viên có thể liên hệ
thực tế như sau:
- GV: Sau một ngày lao động, người ta phải làm vệ sinh bề mặt kim loại
của các thiết bị máy móc, dụng cụ lao động. Các em có biết tại sao không?[5]
- HS: Nếu không vệ sinh các thiết bị máy móc, dụng cụ lao động thì các
thiết bị này sẽ bị gỉ vàng (bị ăn mòn điện hóa). Nên mục đích người ta làm như
vậy là cách li các dụng cụ đó với môi trường (chống ăn mòn kim loại).
Ví dụ 5: Sau khi học xong bài Tính chất của kim loại [1], giáo viên có thể liên
hệ thực tế như sau:
- GV: Tại sao nhôm lại được dùng làm dây dẫn điện cao thế? Còn dây
đồng lại được dùng làm dây dẫn điện trong nhà.[5]
- HS: Tuy đồng dẫn điện tốt hơn nhôm nhưng nhôm (khối lượng riêng của
nhôm là 2,70g/cm3) nhẹ hơn đồng (khối lượng riêng của đồng là 9,1). Do đó,
nếu như dùng dây đồng làm dây dẫn điện cao thế thì phải tính đến việc xây các
cột điện sao cho chịu được trọng lực của dây điện. Việc làm đó không có lợi về
mặt kinh tế. Còn trong nhà việc chịu trọng lực của dây dẫn điện không ảnh
hưởng lớn lắm. Vì vậy, ở trong nhà thì ta dùng dây dẫn điện bằng đồng.
Ví dụ 6: Khi học xong tính chất vật lí chung của kim loại trong bài Tính chất
của kim loại [1], giáo viên có thể hỏi HS như sau:
- GV: Dây tóc bóng điện thường làm từ kim loại nào? Vì sao? Và vì sao
bóng đèn điện tròn dùng lâu sẽ bị đen?[6]
- HS: Dây tóc bóng đèn làm từ vonfram - là một kim loại rất cứng, khó
nóng chảy. Nhiệt độ nóng chảy của nó là 3410 0C. Thế nhưng khi sợi vonfram bị
đốt đến sáng trắng, một phần rất nhỏ vonfram trên bề mặt có thể bị bay hơi khi
gặp thành thủy tinh lạnh của bóng đèn sẽ bám chặt vào thủy tinh, ngày lại ngày
bề mặt thủy tinh sẽ bị bám đen. Khi bóng đèn đã bị ám đen là báo hiệu đến ngày
tàn của nó. Bởi vì khi sợi vonfram bị bay hơi, càng bay hơi sợi sẽ càng bé, điện
trở của sợi dây sẽ càng lớn và dòng điện chạy qua sợi dây sẽ làm nhiệt độ càng
cao và làm sợi dây bay hơi nhanh hơn, đến lúc sợi dây không chịu đựng được
nữa sẽ đứt và tuổi thọ của đèn sẽ hết.

Để ngăn cản sự bay hơi của dây vonfram, người ta cho vào bóng đèn khí
nitơ hay một loại khí trơ bất kì nào đó, các chất khí sẽ bao bọc lấy sợi dây không
để hơi vonfram bốc ra mạnh, nhờ đó bóng đèn khó bị đen hơn, dùng được bền

11


hơn. Sợi vonfram không chỉ dùng trong bóng đèn mà còn làm sợi đốt trong đèn
điện tử.
Ví dụ 7: Sau khi học xong bài Một số hợp chất quan trọng của kim loại kiềm
[1], giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau:
- GV: Vì sao khi luộc rau muống nên cho vào trước một ít muối ăn NaCl?
[5]
- HS: Do nhiệt độ sôi của nước ở áp suất 1at là 100 0C, nếu ta thêm NaCl
thì lúc đó làm cho nhiệt độ của nước muối khi sôi là > 100 0C. Do nhiệt độ sôi
của muối cao hơn của nước nên rau chín nhanh hơn, thời gian luộc rau không
lâu nên rau ít mất vitamin. Vì vậy, khi đó rau muống sẽ mềm hơn và xanh hơn.
Ví dụ 8: Sau khi học xong bài Một số hợp chất quan trọng của kim loại kiềm
thổ [1], giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau:
- GV: Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nước chảy đá mòn”, câu này mang hàm
ý của khoa học hóa học như thế nào?[5]
- HS: Trong đá, thông thường chủ yếu là CaCO 3. Vì trong nước có lẫn khí
CO2 nên sẽ xảy ra phản ứng:
CaCO3 + CO2 + H2O → Ca(HCO3)2
Khi nước chảy sẽ cuốn Ca(HCO 3)2 trôi theo, qua thời gian đá sẽ bị mòn
dần.
- GV: (Có thể giải thích bổ sung thêm nguyên nhân khác): Trong đá,
thông thường chủ yếu là CaCO3 nên trong nước sẽ tồn tại phương trình điện li:
CaCO3
Ca2+ + CO32- (*)

Khi nước chảy sẽ cuốn theo các ion Ca 2+, CO32-, theo nguyên lí chuyển
dịch cân bằng thì cân bằng (*) chuyển dịch theo chiều chống lại sự giảm nồng
độ Ca2+, CO32- (chiều thuận) nên theo thời gian nước chảy qua đá sẽ mòn dần.
Ví dụ 9: Sau khi học xong bài Nhôm và hợp chất của nhôm [1], giáo viên có
thể liên hệ thực tế như sau:
- GV: Trong hầu hết các gia đình sử dụng đồ dùng bằng nhôm. Vậy chúng
có ảnh hưởng gì không đến sức khỏe của chúng ta?[6]
- HS: Nhôm là kim loại có hại cho cơ thể nhất là đối với người già. Bệnh
lú lẫn và các bệnh khác của người già, ngoài nguyên nhân cơ thể bị lão hóa còn
có thể do sự đầu độc vô tình của các đồ nấu ăn, đồ đựng bằng nhôm.Tế bào thần
kinh trong não người già mắc bệnh nào có chứa rất nhiều ion nhôm Al 3+, nếu
dùng đồ nhôm trong một thời gian dài sẽ làm tăng cơ hội ion nhôm xâm nhập
vào cơ thể, làm nguy cơ đến toàn bộ hệ thống thần kinh não.
Sử dụng đồ nhôm phải biết cách bảo quản, không nên đựng thức ăn bằng
đồ nhôm hoặc không nên ăn thức ăn để trong nồi nhôm qua đêm, không nên
dùng đồ nhôm để đựng rau trộn trứng gà và giấm.
Ví dụ 10: Sau khi học xong bài Hợp kim của sắt [1], giáo viên có thể liên hệ
thực tế như sau:
- GV: Xung quanh các nhà máy sản xuất gang, thép, phân lân, gạch
ngói,...Cây cối thường ít xanh tươi, nguồn nước bị ô nhiễm. Điều đó giải thích
như thế nào?[6]
12


- HS: Việc gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí là do nguồn chất
thải dưới dạng khí thải, nước thải, chất rắn thải....
- Những chất thải này có thể dưới dạng khí độc như: SO 2, H2S, CO2, CO,
HCl...Có thể tác dụng trực tiếp hoặc là nguyên nhân gây mưa axit làm hại cho
cây.
- Nguồn nước thải có chứa kim loại nặng, các gốc nitrat, clorua, sunfat...

Sẽ có hại cho sinh vật sống trong nước.
- Những chất rắn như xỉ than và một số chất hóa học sẽ làm cho đất bị ô
nhiễm không thuận lợi cho sự phát triển của cây. Do đó để bảo vệ môi trường
các nhà máy cần được xây dựng theo chu trình khép kín, đảm bảo khử được
phần lớn chất độc hại trước khi thải ra môi trường.
e, Liên hệ thực tế thông qua những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài,
gây cười có thể xen vào bất cứ thời gian nào trong suốt tiết học. Hướng này có
thể góp phần tạo không khí học tập thoải mải. Đó cũng là cách kích thích niềm
đam mê học hóa.
Ví dụ 1: Khi đọc thêm bài Khái niệm về xà phòng và chất giặt rửa tổng hợp
[1], ở phần “Xà phòng”, giáo viên có thể kể câu chuyện hài sau:
- Mẹ: Tại sao con nghịch xà phòng làm bẩn hết nước của mẹ?
- Con: Không phải con nghịch đâu! Thấy nước bẩn, con lấy xà phòng rửa
nước đấy. Như là mẹ rửa tay bẩn của con bằng xà phòng ấy mà![8]
Ví dụ 2: Khi học về bài Vật liệu polime [1], giáo viên có thể kể cho học sinh
giai thoại “Phát minh do … ngủ quên” (khi dạy về nilon):[4]
Một đêm Carothers – nhà hóa học Mĩ, sau nhiều ngày đêm làm việc căng
thẳng, định chớp mắt ít phút. Nhưng … ông đã ngủ liền tới sáng. Tỉnh dậy, ông
hốt hoảng lo cho tất cả công sức thí nghiệm: Có lẽ đã tan thành mây khói? Ai
ngờ, khi vừa nhấc chiếc đũa thủy tinh ở trong bình phản ứng lên, ông thấy chiếc
đũa mềm nhũn và kéo theo một hỗn hợp có dạng sợi nhỏ mỏng manh óng ánh
rất đẹp. Đó là sợi tổng hợp poliamit đầu tiên trên thế giới – sợi nilon ngày nay.
Ví dụ 3: Khi dạy về bài Sắt [1], giáo viên có thể vào bài bằng câu chuyện:
Hồi đầu thế kỉ XIX, các nhà bác học đã phát hiện ra sắt có trong máu
người dưới dạng huyết cầu tố (hemoglobin). Một sinh viên khoa Hóa đã làm gì
khi nghe cô gái mình yêu hỏi anh ta lấy gì làm bằng chứng cho tình yêu đang
chảy cuồn cuồn trong cơ thể anh ta?
Anh ta đã quyết định tặng người yêu dấu một chiếc nhẫn bằng … sắt,
nhưng không phải bằng sắt thông thường mà bằng sắt lấy từ chính máu của
mình! Cứ định kì lấy máu ra, chàng trai thu được một hợp chất mà từ đó tách sắt

ra bằng phương pháp hóa học.
Nhưng chiếc nhẫn đã không bao giờ được đeo trên tay cô gái như một
bằng chứng tình yêu bởi … nó chưa được làm ra thì chàng trai đã chết vì bị mất
máu, cho dù lượng sắt lấy ra khỏi cơ thể chàng chưa tới … 3 gam!
Các chàng trai, cô gái ngày nay vẫn nhớ câu chuyện này. Nhưng chẳng ai
chứng tỏ tình yêu bằng cách này nữa, cho dù thật cảm động.[6]

13


Ví dụ 4: Khi học bài Hợp kim [1], giáo viên có thể kể một giai thoại "Phát
minh từ trong đống sắt gỉ":[6]
Thời kỳ chiến tranh lần thứ nhất, nhà hóa học anh Brearley được giao
nhiệm vụ nghiên cứu cải tiến vũ khí, đặc biệt là vấn đề các nòng súng bị mài
mòn rất nhanh. Brearley cố nghĩ cách chế tạo ra hợp kim không dễ mại mòn để
chế tạo súng. Năm 1913, ông thử pha Crom vào thép, song chưa vừa ý vì lí do
nào đó, bèn quẳng mẫu thử lẫn vào đống sắt gỉ ngoài phòng thí nghiệm. Rất lâu
sau, tình cờ Brearley nhận thấy mẫu vật ấy vẫn sáng long lanh trong khi đống
thép gỉ hết cả. Ông đem mẫu vật này ra nghiên cứu tỉ mỉ, thấy thứ thép pha crom
này chẳng hề sợ môi trường, khí hậu hay thời tiết nào, ngay cả khi ngâm vào
axit và kiềm.
Năm 1913 ông đã được nhận bằng phát minh độc quyền của Anh. Ông đã
tổ chức sản xuất thép không gỉ với quy mô lớn và thực sự trở thành "người cha
của thép không gỉ".
Ví dụ 5: Khi dạy bài Hoá học và vấn đề môi trường[1], sau khi học xong phần
“Ô nhiễm không khí”, giáo viên có thể kể câu chuyện hài:
+ Một nhà thông thái thuyết trình ở hội nghị bảo vệ môi trường: “Tại sao
người ta không nghĩ đến việc xây dựng thành phố ở nông thôn nhỉ? Ở đó không
khí trong lành, lo gì bị ô nhiễm”
+ Cả hội trường cười ầm lên.[6]

f)Tiến hành tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn xung quanh
đời sống hằng ngày… sau khi đã học bài giảng. Cách nêu vấn đề này có thể làm
cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hay tự tái
tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm. Giúp học sinh phát huy khả năng ứng dụng
hóa học vào đời sống thực tiễn.
Ví dụ 1: Sau khi học xong bài Lipit[1], giáo viên có thể hướng dẫn học sinh
cách lau chùi bếp khỏi dính dầu mỡ. Để học sinh có thể tự làm và kiểm nghiệm.
* Cách làm:
- Cách 1: Dùng nước xà phòng loãng, ấm lau chùi rồi lau lại bằng nước
sạch.
- Cách 2: Dùng miếng giẻ sạch nhúng giấm hoặc nước cốt chanh để chùi
rửa và phải dùng nước sạch để lau chùi lại.
* Giải thích: Dầu mỡ có thành phần chính là chất béo. Về cấu tạo, chất
béo là trieste nên chúng tham gia thủy phân trong môi trường axit và môi trường
kiềm.
- Ở cách 1: Vì xà phòng có tính kiềm nên dầu mỡ tan trong xà phòng theo
phương trình:
(RCOO)3C3H5 + 3NaOH

3RCOONa + C3H5(OH)3
Tuy nhiên phải lau lại bằng nước sạch để tránh xà phòng ăn mòn lớp men
trên bếp ga.
- Ở cách 2: Vì giấm hoặc chanh có tính axit nên dầu mỡ sẽ tan trong axit
theo phương trình sau:
(RCOO)3C3H5
+
H2O
3RCOOH + C3H5(OH)3
14



Ví dụ 2: Sau khi học xong bài Tinh bột [1], giáo viên có thể giới thiệu thí
nghiệm “Hồ tinh bột tác dụng iot” để học sinh có thể tự làm thí nghiệm kiểm
chứng ở nhà.
* Cách làm: Lấy một ít cồn iot (mua ở nhà thuốc tây) bôi lên quả chuối
xanh và quả chuối chín.
* Giải thích: (dựa vào kiến thức đã học, học sinh sẽ tự giải thích được):
Do cồn iot là dung dịch của iot trong ancol etylic, iot gặp tinh bột (trong chuối
xanh) tạo ra phức màu xanh. Nhưng nếu là chuối chín thì không có hiện tượng
này (do chuối chín chuyển tinh bột thành đường glucozơ).
Ví dụ 3: Sau khi học xong bài Tính chất của kim loại [1], giáo viên có thể giới
thiệu hiện tượng sau để học sinh có thể tự kiểm nghiệm trong cuộc sống.
* Cách làm: Khi có người bị cảm, ta có thể đánh cảm bằng dây bạc và
khi đó dây bạc bị hóa đen. Để dây bạc trắng sáng trở lại, ta sẽ ngâm vào nước
tiểu.[5]
* Giải thích: Người bị cảm trong cơ thể sinh ra những hợp chất dạng
sunfua (S2-) vô cơ hay hữu cơ đều có tính độc. Khi đánh cảm bằng bạc, do S có
ái lực mạnh với bạc nên xảy ra phản ứng tạo bạc sunfua (Ag 2S) kết tủa màu đen.
Do đó chất độc được loại ra khỏi cơ thể và cũng làm cho dây chuyền
thành màu đen: Ag + S2- →Ag2S.
Trong nước tiểu có NH3, khi ngâm dây bạc vào thì sẽ có phản ứng:
Ag2S + 4NH3 → 2[Ag(NH3)2]+ + S2Nên Ag2S bị hòa tan, bề mặt dây bạc lại trở nên sáng bóng.
Ví dụ 4: Sau khi học xong tiết Một số hợp chất quan trọng của kim loại kiềm
thổ [1], giáo viên có thể giới thiệu thí nghiệm sau để học sinh có thể tự làm để
kiểm nghiệm.
* Cách làm: Lấy vôi sống (CaO) cho vào nước, rối thả ngay một quả
trứng vào, trứng sẽ chín.
* Giải thích: Khi vôi sống gặp nước sẽ xảy ra phản ứng:
CaO + H2O → Ca(OH)2 + Q
Nhiệt lượng tỏa ra rất lớn đến nổi làm cho nước sôi. Do vậy, sau khi cho

vôi vào nước rồi thả một quả trứng, trứng sẽ chín. Giáo viên lưu ý phải cẩn thận
khi làm thí nghiệm này.
Ví dụ 5: Sau khi học xong bài Nhôm và hợp chất của nhôm [1], giáo viên có
thể giới thiệu thí nghiệm sau để học sinh có thể tự làm để kiểm nghiệm.
* Cách làm: Lấy vôi tôi - Ca(OH)2 cho vào một hộp giấy nhôm thì hộp
giấy nhôm sẽ bị thủng.
* Giải thích: Khi dùng hộp giấy nhôm đựng dung dịch Ca(OH) 2 thì lớp
Al2O3 trên bề mặt giấy nhôm sẽ xảy ra phản ứng:
Ca(OH)2 + Al2O3 → Ca(AlO2)2 + H2O
Khi Al2O3 hết thì Al tiếp tục phản ứng với dd Ca(OH)2 theo phản ứng:
Ca(OH)2 + 2Al + 2H2O → Ca(AlO2)2 + 3H2
Vì vậy hộp giấy nhôm sẽ bị thủng.
15


g) Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống hàng ngày thông qua bài
tập tính toán. Cách nêu vấn đề này có thể giúp cho học sinh trong khi làm các
bài tập lại lĩnh hội được vấn đề cần truyền đạt, giải thích. Vì muốn giải được bài
toán hóa đó học sinh phải hiểu được nội dung kiến thức huy động, hiểu được bài
tập yêu cầu gì? Và giải quyết như thế nào?
Ví dụ 1: Đá vôi là nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên, được dùng làm vật liệu xây
dựng, sản xuất vôi,... Nung 100 kg đá vôi (chứa 80% CaCO3 về khối lượng, còn
lại là tạp chất trơ) đến khối lượng không đổi, thu được m kg chất rắn. Giá trị của
m là:
A. 80,0.
B. 44,8.
C. 64,8.
D. 56,0. [8]
=> Đáp án C
Ví dụ 2: Sau khi lên men nước quả nho ta thu được 100 lít rượu vang10 0(biết

hiệu suất của quá trình lên men đạt 95% và ancol etylic nguyên chất có khối
lượng riêng là 0,8g/ml). Giả thiết trong nước quả nho chỉ có một loại đường là
glucozơ. Khối lượng glucozơ có trong lượng nước quả nho đã dùng là: [7]
A. 15,652 kg.
B. 20,595 kg.
C. 19,565 kg.
D. 16,476 kg.
=> Đáp án D
Ví dụ 3: Nicotin là một chất hữu cơ trong thuốc lá. Hợp chất này được tạo bởi 3
nguyên tố(C, H, N). Đem đốt cháy hết 2,349 g nicotin thu được nitơ đơn chất,
1,827 g H2O và 6,380 g CO2. Công thức đơn giản của nicotin là:
A. C3H5N.
B. C5H7N.
C. C3H7N2.
D. C4H9N. [7]
=> Đáp án B
Ví dụ 4: Người ta lên men m kg gạo chứa 75% tinh bột, thu được 5 lít rượu
etylic 460. Biết hiệu suất của quá trình lên men đạt 80% và khối lượng riêng của
ancol etylic nguyên chất là 0,8 g/ml. Giá trị của m là:
A. 5,4.
B. 4,05.
C. 3,456.
D. 3,24. [7]
=> Đáp án A
Ví dụ 5: Tính khối lượng glucozơ tạo thành khi thủy phân 1 kg mùn cưa có
50% xenlulozơ. Giả thiết hiệu suất phản ứng là 80%.
A. 0,444 kg.
B. 0,500 kg.
C. 0,690 kg.
D. 0,555 kg. [8]

=> Đáp án A
Ví dụ 6: Để tráng bạc một chiếc gương soi, người ta phải đun nóng dd chứa 36
gam glucozơ với lượng vừa đủ dd AgNO 3 trong NH3. Khối lượng bạc đã sinh ra
bám vào mặt kính của gương là: (biết phản ứng xảy ra hoàn toàn).
A. 21,6 g.
B. 43,2 g.
C. 10,8 g.
D. 68 g. [8]
=> Đáp án B
Ví dụ 7: Một loại mùn cưa có chứa 60% xenlulozơ. Dùng 1 kg mùn cưa trên
có thể sản xuất được bao nhiêu lít cồn 70 0? (Biết hiệu suất của quá trình là 70%;
khối lượng riêng của C2H5OH nguyên chất là 0,8 g/ml).
A. gần 0,426 lit.
B. gần 0,596 lit.
C. gần 0,298 lit. D. gần 0,543 lit. [8]
=> Đáp án A
Ví dụ 8: Xenlulozơ trinitrat là chất dễ cháy và nổ mạnh, được điều chế từ
Xenlulozơ và axit nitric. Thể tích axit nitric 67,5% có khối lượng riêng 1,4 g/ml
16


tối thiểu cần dùng để sản xuất 53,46 kg xenlulozơ trinitrat với hiệu suất đạt 90%
là:
A. 32,57 lít.
B. 40,0 lít.
C. 13,12 lít.
D. 33,85 lít. [8]
=> Đáp án B
Ví dụ 9: Cho axit salixylic (axit o-hiđroxibenzoic) phản ứng với metanol có axit
sunfuric xúc tác thu được metyl salixylat (C8H8O3) dùng làm thuốc xoa bóp

giảm đau. Khối lượng KOH tối đa phản ứng vừa hết với 15,2 gam metyl
salixylat là:
A. 16,8 gam
B. 8,0 gam
C. 5,6 gam
D. 11,2 gam [8]
=> Đáp án D
Câu 10: Hợp kim Cu-Zn có tính dẻo, bền, đẹp, giá thành rẻ nên được sử dụng
phổ biến trong đời sống. Để xác định phần trăm khối lượng từng kim loại trong
hợp kim, người ta ngâm 10,00 gam hợp kim vào dung dịch HCl dư, khi phản ứng
kết thúc thu được 1,12 lít hiđro (đktc). Phần trăm theo khối lượng của Cu trong
10,0 gam hợp kim trên là:
A. 67,00 %.
B. 67,50 %.
C. 33,00 %.
D. 32,50 %. [8]
=> Đáp án B
g) Để nâng cao kiến thức hóa học thực tế, giáo viên có thể phối hợp với
nhà trường tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho học sinh như đưa các em đi
tham quan các nhà máy sản xuất, các khu công nghiệp… Qua đó, các em sẽ có
cơ hội tham khảo, bổ sung các kiến thức còn trống và tìm hiểu xác thực hơn tác
động của hóa học đến đời sống của chúng ta.
2.4. Hiệu quả
- Thời điểm khảo sát cuối học kỳ II - tháng 5/2018.
- Sau khi vận dụng đề tài này tôi đã khảo sát lại và thu được kết quả sau:
- Kết quả thống kê:
Lớp

SL


Loại giỏi
SL
%

Loại khá
SL
%

Loại TB
SL
%

Loại yếu
SL
%

12C3
38
9
23,7
19
50
10
26,3
0
0
12C4
40
7
17,5

16
40
17
42,5
0
0
12C6
41
6
14,6
15
36,6
16
39
4
9,8
12C7
40
4
10
15
37,5
16
40
5
12,5
Đề tài này đã rèn luyện cho học sinh khả năng tự học, nhạy bén trong
cuộc sống. Học sinh biết vận dụng các kiến thức đã học để giải thích các hiện
tượng trong thực tế. Các lớp thực nghiệm bao gồm 12C3, 12C4, 12C6, 12C7
trong các tiết học thường rất sôi nổi, đều có sự tiến bộ về số lượng và chất lượng

nhất là số lượng học sinh yếu giảm đáng kể cũng như sự tăng về chất lượng học
sinh khá, giỏi bộ môn... Đồng thời cũng có nhiều em chọn thi môn hóa học trong
kỳ thi THPTQG. Đây là điểm đáng mừng giúp cho tôi tự tin khi triển khai rộng
rãi cho các khối lớp nhằm nâng cao chất lượng môn học của mình lên trong
những năm tiếp theo.Từ đó năng cao hứng thú học tập môn hóa học ở trường
THPT Tĩnh gia 4 vì trường chủ yếu là các em có chất lượng đầu vào thấp cho
nên cần phải tạo hứng thú học tập cho các em.
17


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Để có những tiết học đạt hiệu quả cao nhất luôn là niềm trăn trở, suy nghĩ
là mục đích hướng tới của từng người giáo viên có trách nhiệm và lương tâm
nghề nghiệp, nhưng đây không phải là điều đạt được dễ dàng và người giáo viên
nào cũng có thể làm được. Người giáo viên phải nhận thức rõ vai trò là người
luôn thắp sáng ngọn lửa để học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức cho bản thân.
Mặt khác với hình thức thi hiện nay đã đưa dạng câu hỏi về hóa học thực tiễn
(hóa học về môi trường và giải thích các hiện tượng trong đời sống) vào đề thi
THPT quốc gia. Tôi hi vọng đây là vấn đề mà được giáo viên sử dụng nhiều
trong quá trình dạy học môn hóa hiện nay. Trong nội dung đề tài này, tôi đã đề
cập đến một số vấn đề xung quanh cuộc sống và có ý nghĩa thực tiễn. Với thực
trạng học hóa học, có thể coi đây là một quan điểm của tôi đóng góp ý kiến vào
việc nâng cao chất lượng dạy học môn hóa học trong thời kì mới.
Mặc dù tôi đã cố gắng song không thể tránh được các thiếu sót, rất mong
sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi
được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn.
3.2. Kiến nghị:
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy một vài điểm cần lưu ý sau:
* Về phía giáo viên:

- Để thực hiện tốt, người giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài giảng, xác định
được kiến thức trọng tâm, tìm hiểu, tham khảo các vấn đề thực tế liên quan phù
hợp với học sinh. Hình thành giáo án theo hướng phát huy tính chủ động của
học sinh, phải mang tính hợp lí và hài hòa.
* Về phía nhà trường:
- Nhà trường cần tổ chức nhiều hơn những cuộc thi ở trường hoặc giao
lưu với các trường bạn những kiến thức liên quan đến hóa học, kích thích học
sinh hứng thú, say mê bộ môn thông qua việc mang hóa học vào cuộc sống thực
tiễn.
- Nhà trường cần bổ sung thêm sách tham khảo môn hóa học cho giáo
viên ở thư viện.
- Nhà trường cần bổ sung thêm một số hóa chất và dụng cụ cho đầy đủ để
việc thực hành thí nghiệm được tốt hơn.
* Về phía sở GD và ĐT:
Với những sáng kiến kinh nghiệm hay, theo tôi nên phổ biến để cho các
giáo viên được học tập và vận dụng. Có như thế tay nghề và vốn kiến thức của
giáo viên sẽ dần được năng lên.

18


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
NGƯỜI THỰC HIỆN

Nguyễn Thị Hồng


19


CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ sách giáo khoa hóa học lớp12 (năm 2007 của Nguyễn Xuân Trường).
[2]. Phương pháp giảng dạy môn hóa học ở trường THPT (Trịnh Văn Biểu).
[3]. Luật giáo dục số 38/ 2005/ QH 11 - ngày 14/ 6/ 2005.
[4]. Hóa học vui (Nguyễn Xuân Trường) - NXB khoa học kỹ thuật Hà Nội.
[5]. 385 câu hỏi và đáp về hóa học với đời sống- NXB giáo dục.
[6]. Hóa học và ứng dụng (Tạp chí của hội hóa học Việt Nam).
[7]. 1000 bài trắc nghiệm trọng tâm và điển hình môn Hóa học hữu cơ (Phạm
Ngọc Bằng).
[8]. Internet: - . Thư viện, tài liệu...

20



×