Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm và thực trạng tiếp cận dịch vụ phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con tại bệnh viện phụ sản trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (907.47 KB, 95 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Một trong những mục tiêu chính do Hội đồng Liên hợp quốc đề ra tại
Hội nghị cấp cao về phòng, chống HIV/AIDS tháng 6/2011 mà Việt Nam đã
cam kết thực hiện và xác định là một trong những mục tiêu chủ yếu của Chiến
lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 là
“Hướng tới loại trừ trẻ nhiễm HIV từ mẹ vào năm 2015”. Phần lớn trẻ em
dưới 5 tuổi sống chung với HIV là do nhiễm qua đường lây truyền HIV từ mẹ
sang con trong thời gian mang thai, chuyển dạ đẻ hoặc sau sinh. Nếu người
mẹ nhiễm HIV không được phát hiện và phòng lây truyền HIV từ mẹ sang
con (PLTMC) và cho con bú, tỷ lệ lây truyền có thể tới 20 - 45%. Tuy nhiên,
nếu người phụ nữ được áp dụng những can thiệp thích hợp thì nguy cơ lây
truyền mẹ con (LTMC) có thể được giảm đến dưới 2% - tức là loại trừ được
lây truyền HIV từ mẹ sang con [1], [2].
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng để tìm ra các
phác đồ PLTMC theo hướng nâng cao hiệu quả. Các phác đồ PLTMC được
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO: World Health Organisation) khuyến cáo cũng
được thay đổi nhiều lần theo hướng ngày càng hiệu quả hơn.
Tại Việt Nam, chương trình PLTMC được bắt đầu từ năm 1999 và cho
đến nay các phác đồ PLTMC đã liên tục được cập nhật theo khuyến cáo của
WHO, đặc biệt trong những năm gần đây. Từ đó đến nay, Bộ Y tế đã có nhiều lần
sửa đổi phác đồ PLTMC với các quyết định như Quyết định số 06/2005/QĐ-BYT,
4361/2007/QĐ-BYT,

3821/2008/QĐ-BYT,

3003/2009/QĐ-

BYT,


4139/

2011/QĐ- BYT [3], [4], [5], [6], [7]. Các can thiệp toàn diện cho phụ nữ mang
thai nhiễm HIV ở nước ta ngày càng được mở rộng theo hướng can thiệp ngày
càng sớm hơn đã góp phần đáng kể cải thiện các dịch vụ PLTMC, đặc biệt là
trong những năm gần đây.


2

Bệnh viện Phụ Sản Trung ương (BVPSTW) là nơi có số lượng thai phụ
đến khám, quản lý thai và sinh đẻ ngày càng tăng. Trong giai đoạn 20102014, BVPSTW là cơ sở sản khoa với số lượng phụ nữ mang thai nhiễm HIV
được PLTMC lớn nhất ở khu vực phía Bắc. Các dịch vụ PLTMC tại BVPSTW
được thực hiện theo các quy định hiện hành của Bộ Y tế, bao gồm: tư vấn xét
nghiệm HIV cho phụ nữ mang thai, sử dụng thuốc kháng HIV(ARV:
Antiretrovirals), các thực hành sản khoa thích hợp, cũng như giới thiệu mẹ và
con đến các cơ sở chăm sóc, điều trị thích hợp sau đẻ [8].
Để mô tả xu hướng thay đổi về đặc điểm liên quan đến nhiễm HIV/AIDS
và trong thực trạng tiếp cận các dịch vụ PLTMC đã nêu trên, tôi tiến hành đề
tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm và thực trạng tiếp cận dịch vụ phòng lây
truyền HIV từ mẹ sang con tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương" với các
mục tiêu cụ thể:
1.

Mô tả một số đặc điểm của sản phụ nhiễm HIV đẻ tại BVPSTW từ
2010- 2014;

2.

Nhận xét thực trạng tiếp cận các dịch vụ PLTMC của sản phụ

nhiễm HIV đẻ tại BVPSTW từ 2010- 2014.

Chương 1
TỔNG QUAN


3

1.1. Đại cương về HIV/AIDS
1.1.1. Các khái niệm
- Khái niệm HIV/AIDS:
HIV (Human Immunodeficeency Virus) thuộc họ Retrovirus nhóm
Lentivirus là virus gây suy giảm miễn dịch ở người. AIDS (AcquiredImmmuno
Deficiency Syndrome) hay hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải, là biểu
hiện nặng ở giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV[9],[10].

Hình 1.1. Vi rút HIV xâm nhập tế bào TCD4
Từ năm 1981, ở Los Angeles (Mỹ) báo cáo 5 ca bệnh viêm phổi do
Pneumocystis Carinii và bệnh Sarcoma Kaposi ở những người tình dục đồng
giới ở Mỹ. Tới tháng 5/1983, Luc Montagnier và cộng sự ở viện Pasteur Paris
lần đầu tiên phân lập được vi rut gây AIDS ở Trung Phi (được gọi là virus gây
viêm hạch: LAV). Tháng 5/1984, Robert Galo và cộng sự ở viện nghiên cứu
ung thư Mỹ cũng phân lập được virus gây AIDS (gọi là vi rút hướng tế bào
Lympho người: HTLV -III) khẳng định nghiên cứu của Luc Montagnier [11].


4

Năm 1985, hội nghị danh pháp quốc tế xác nhận 3 virus LAV
(Lymphodenopathy Associated Virus), HTL III (Human T Lymphotropic Virus

III), ARV (AIDS Related Virus) chỉ là một [12]. Hội đồng quốc tế về phân loại
Virus đã thống nhất đặt tên loại Virus này là “Human Immunodeficiency
virus”- HIV và từ đó tên loại Virus này được sử dụng trên toàn cầu [11], [13].
HIV là một virut có tính thay đổi cao, đột biến dễ dàng. Có 2 typ HIV:
HIV-1 và HIV-2. Cả hai typ đều lây qua quan hệ tình dục, qua đường máu và
từ mẹ sang con. Cả hai typ này đều gây bệnh cảnh lâm sàng AIDS khá giống
nhau. Tuy nhiên HIV-2 không dễ lây như HIV-1 và thời gian kể từ lúc mới bắt
đầu nhiễm cho đến khi xuất hiện bệnh dài hơn trường hợp HIV-2. Trên toàn
thế giới HIV-1 là nhóm gây đại dịch AIDS, HIV-2 ít gặp, chủ yếu khu trú tại
Tây Phi, ít khi thấy ở nơi khác [9].
HIV thuộc họ Retrovirus, hạt virut hoàn chỉnh có hình cầu đường kính
80-120 nanomet. Cấu tạo của HIV có nhân là một sợi ARN, chúng có khả
năng tổng hợp thành ADN từ những mã di truyền của ARN nhờ vào một men
đặc biệt gọi là men sao chép ngược. Sự sao mã ngược này thường không hoàn
chỉnh, hay có sai sót so với nguyên bản ban đầu, vì vậy sẽ tạo ra sự thay đổi
kháng nguyên của virut, tạo nên nhiều biến chủng khác nhau giúp virut thoát
khỏi sự tiêu diệt của hệ miễn dịch cơ thể. HIV đánh vào các tế bào miễn dịch,
đặc biệt là lympho T có kháng nguyên bề mặt CD4 [9], [10].
- Tế bào CD4 [14]:
Lympho T có kháng nguyên bề mặt CD4 (gọi tắt là CD4) là một tế bào
của hệ miễn dịch cơ thể.


5

Hình 1.2. Vai trò của CD4 trong miễn dịch
+ Số lượng CD4 là một chỉ số quan trọng đánh giá mức độ miễn dịch của
cơ thể.
+ Số lượng CD4 bình thường ở người lớn từ 1000-1200TB/ml, khi CD4
< 500 là bắt đầu có suy giảm miễn dịch.

+ Số lượng CD4 có thể sử dụng để quyết định bắt đầu:
 Dự phòng.
 Điều trị.
- Tải lượng virut:
+ Là số lượng virut HIV trong 1ml máu bệnh nhân.
+ Chỉ mức độ nhân lên của virut và tốc độ phá huỷ tế bào CD4.


6

1.1.2. Chẩn đoán nhiễm HIV/AIDS
Chẩn đoán dựa vào lâm sàng và xét nghiệm
1.1.2.1. Phân loại lâm sàng [7], [10]
Để tạo thuận lợi cho việc chỉ định điều trị sớm bằng các thuốc kháng
Retrovirus, WHO đã phân loại giai đoạn lâm sàng của nhiễm HIV thành 4 giai
đoạn như sau:
 Giai đoạn lâm sàng 1: không có triệu chứng
- Không có triệu chứng
- Hạch to toàn thân giai dẳng
 Giai đoạn lâm sàng 2: triệu chứng nhẹ
- Sút cân mức độ vừa không rõ nguyên nhân
- Nhiễm khuẩn hô hấp tái diễn (viêm xoang, viêm amidan, viêm tai
giữa, viêm hầu họng)
- Zona (Herpes zoster)
- Viêm khoé miệng
- Loét miệng tái diễn
- Phát ban dát, sẩn ngứa
- Viêm da bã nhờn
- Nhiễm nấm móng
 Giai đoạn lâm sàng 3: triệu chứng tiến triển

- Sút cân nặng không rõ nguyên nhân (> 10% trọng lượng cơ thể)
- Tiêu chảy không rõ nguyên nhân kéo dài > 1 tháng
- Sốt không rõ nguyên nhân từng đợt hoặc liên tục kéo dài > 1 tháng
- Nhiễm nấm Candida miệng tái đi tái lại
- Bạch sản dạng lông ở miệng
- Lao phổi
- Nhiễm trùng nặng do vi khuẩn (viêm phổi, viêm mủ màng phổi,
viêm đa cơ mủ, nhiễm khuẩn xương khớp, viêm màng não, nhiễm
khuẩn huyết)


7

- Viêm loét miệng hoại tử cấp, viêm lợi hoặc viêm quanh răng
- Thiếu máu (Hb< 80g/l), giảm bạch cầu trung tính (< 0,5 G/l),
và/hoặc giảm tiểu cầu mạn tính (< 50 G/l) không rõ nguyên nhân.
 Giai đoạn lâm sàng 4: triệu chứng nặng
- Hội chứng suy mòn do HIV (sút cân > 10% trọng lượng cơ thể
kèm theo sốt kéo dài > 1 tháng hoặc tiêu chảy kéo dài > 1 tháng
không rõ nguyên nhân)
- Viêm phổi do Pneumocystisjiroveci (PCP).
- Nhiễm Herpes simplex mạn tính (ở môi miệng, cơ quan sinh dục,
quanh hậu môn, kéo dài hơn 1 tháng, hoặc bất cứ đâu trong nội tạng).
- Nhiễm Candida thực quản (hoặc candida ở khí quản, phế quản, phổi).
- Lao ngoài phổi.
- Sarcoma Kaposi.
- Bệnh do Cytomegalovirus (CMV) ở võng mạc hoặc các cơ quan
khác.
- Bệnh do Toxoplasma ở hệ thần kinh trung ương.
- Bệnh não do HIV.

- Bệnh do Cryptococcus ngoài phổi, bao gồm viêm màng não.
- Bệnh do Mycobacteria avium complex (MAC) lan toả.
- Bệnh não chất trắng đa ổ tiến triển (PLM).
- Tiêu chảy mạn tính do Cryptosporidia.
- Tiêu chảy mạn tính do Isospora.
- Bệnh do nấm lan toả (nấm Penicillium, Histoplasma ngoài phổi).
- Nhiễm khuẩn huyết tái diễn (bao gồm nhiễm cả Sallmonella không
phải thương hàn).
- U lympho ở não hoặc u lympho non- Hodgkin tế bào B.
- Ung thư cổ tử cung xâm nhập (ung thư biểu mô).
- Bệnh do Leishmania lan toả không điển hình.
- Bệnh lý thận do HIV.


8

- Viêm cơ tim do HIV.
1.1.2.2. Các phương pháp xét nghiệm chẩn đoán
a. Phương pháp gián tiếp
Là phương pháp phát hiện kháng thể kháng HIV để xác định tình trạng
nhiễm HIV. Kháng thể kháng HIV có thể được phát hiện trong máu bệnh nhân
từ 1 -3 tháng sau khi nhiễm virút.
Tùy thuộc vào mục đích xét nghiệm các nhóm đối tượng, điều kiện kinh
tế của từng quốc gia, các xét nghiệm nhiễm HIV được tiến hành theo những
phương cách khác nhau:
Phương cách I (thường sử dụng trong an toàn truyền máu): Mẫu máu
được coi là dương tính với phương cách 1 khi cho phản ứng dương tính với
một trong các thử nghiệm như ELISA hay các thử nghiệm nhanh khác.
Phương cách II (thường sử dụng trong giám sát dịch tễ): mẫu máu được
coi là dương tính với phương cách II khi có kết quả dương tính với cả hai lần

nghiệm bằng hai loại sinh phẩm với nguyên lý hoặc cách chuẩn bị kháng
nguyên khác nhau.
Phương cách III (thường sử dụng trong chẩn đoán nhiễm virut HIV ở
người lớn và trẻ em trên 18 tháng tuổi): mẫu máu đựơc coi là dương tính khi
có kết quả dương tính với cả ba lần xét nghiệm bằng ba lọai sinh phẩm với
nguyên lý hoặc cách chuẩn bị kháng nguyên khác nhau.
b. Phương pháp trực tiếp:
Phương pháp phát hiện trực tiếp tác nhân gây bệnh (hay còn gọi chung là
xét nghiệm virút học): kháng nguyên virút, các axit nucleic, hoặc phân lập virút.
Phương pháp xét nghiệm trực tiếp được dùng để phát hiện nhiễm HIV ở
trẻ dưới 18 tháng tuổi, thường dùng là xét nghiệm PCR (Polymerase Chain
Reaction: phản ứng tổng hợp chuỗi).
Xét nghiệm phát hiện nhiễm HIV cho trẻ dưới 18 tháng tuổi được thực


9

hiện theo Quyết định 1053/QĐ- BYT ra ngày 2/4/2010 [15].
Phương pháp nuôi cấy phân lập virus rất đặc hiệu nhưng giá thành cao và
chỉ được thực hiện tại các phòng xét nghiệm có đủ trang bị kỹ thuật cần thiết.
Hiện tại, BVPSTW đã được Bộ Y tế công nhận và cho phép khẳng
định các trường hợp HIV dương tính.
1.1.2.3. Các xét nghiệm liên quan khác
- Công thức máu: hồng cầu, hematocrit, hemoglobin, bạch cầu (số
lượng bạch cầu, % các loại bạch cầu, từ đó tính được tổng số tế bào lympho).
- Sinh hoá: urê, creatinin, glucose, SGOT- SGPT, bilirubin, ProteinAlbumin- globulin, amylase, lipid máu, LDH.
- Xét nghiệm chẩn đoán thai nghén.
- % và số lượng tế bào CD4.
- Đo nồng độ virus: HIV RNA (tuyến trung ương).
- X quang tim phổi, AFB đờm, …

- HBsAg, anti HCV.
1.1.3. Đường lây truyền của HIV
Các đường lây truyền của HIV là: [4], [8], [10], [13].
1.1.3.1. Đường máu
HIV có thể lây truyền khi truyền máu và các chế phẩm của máu.
HIV có thể lây truyền qua các vật xuyên chọc qua da và niêm mạc như:
dùng chung bơm kim tiêm trong nhóm nghiện chích ma tuý; sử dụng dụng cụ
phẫu thuật, thủ thuật, châm cứu không được tiệt trùng đúng cách.
HIV có thể lây truyền khi cấy ghép các cơ quan như gan, thận....
1.1.3.2. Đường lây truyền qua quan hệ tình dục
Quan hệ tình dục không được bảo vệ với người nhiễm HIV có nguy cơ
lây nhiễm HIV cao vì:
- Những vết xước như ở niêm mạc âm đạo, hậu môn, miệng hay dương


10

vật có thể xảy ra khi quan hệ tình dục - đường vào của virut,
- HIV có thể xâm nhập vào bạch cầu của tinh dịch, đại thực bào ở dịch
nhầy âm đạo hoặc hậu môn
1.1.3.3. Đường lây truyền từ mẹ sang con
Nếu không được phát hiện và không được PLTMC, người mẹ nhiễm HIV
có thể lây truyền HIV cho con qua 3 giai đoạn sau:
- Khi mang thai (5- 10% số trẻ của bà mẹ bị nhiễm HIV): HIV từ máu
của mẹ nhiễm HIV, qua rau thai để vào cơ thể thai nhi. Hình thức này còn
được gọi là “lây truyền dọc”. Bình thường, mặt bánh rau có cấu tạo đặc biệt,
bao gồm nhiều vách ngăn, các vách ngăn này có chức năng như các “rào cản”
bảo vệ, chỉ cho phép trao đổi chất, ví dụ như chất dinh dưỡng, vitamine,
khoáng chất, kháng thể của người mẹ … đi qua để nuôi dưỡng bào thai. Vì
vậy thông thường, nhờ có bánh rau nên trong nhiều trường hợp mẹ có nhiễm

vi rút thì vi rút bị rau thai ngăn chặn và không truyền qua thai được. Điều này
giải thích vì sao chỉ có đến khoảng 10% thai nhiễm HIV trong giai đoạn này.
- Khi sinh (15% số trẻ của bà mẹ bị nhiễm HIV): HIV từ nước ối, dịch
tử cung, dịch âm đạo hoặc máu của mẹ (từ các tổn thương cơ quan sinh dục)
xâm nhập vào trẻ khi sinh (qua niêm mạc mắt, mũi, hậu môn hoặc da sây xát
của trẻ trong quá trình đẻ).
- Khi cho con bú (5- 15% số trẻ của bà mẹ bị nhiễm): HIV có thể lây qua
sữa hoặc qua các vết nứt ở núm vú người mẹ.
HIV trong máu mẹ có thể thẩm thấu vào các nang sữa và tồn tại trong
sữa mẹ nên khi bú HIV có thể xâm nhập qua niêm mạc miệng, lưỡi, lợi và
đường tiêu hóa của trẻ và lây nhiễm cho trẻ, nhất là trong trường hợp trẻ
có các viêm nhiễm, tổn thương trong khoang miệng và đường tiêu hóa.
Ngoài ra, trong trường hợp vú mẹ có viêm nhiễm, có vết nứt, hay khi trẻ
mọc răng cắn gây chảy máu thì HIV còn có thể theo máu vào miệng trẻ, xâm
nhập qua niêm mạc trong khoang miệng và gây nhiễm cho trẻ.


11


12

1.2. Các yếu tố liên quan đến lây truyền HIV từ mẹ sang con
Các yếu tố liên quan bao gồm [4], [8], [13]:
1.2.1. Những yếu tố về HIV
- Nồng độ HIV/ARN huyết thanh: Nồng độ HIV/ARN trong máu mẹ có
liên quan tỷ lệ thuận với tỷ lệ lây truyền mẹ con ở cả những phụ nữ được điều
trị ARV cũng như những người không được điều trị dự phòng.
- Lượng HIV huyết thanh và HIV dịch âm đạo: nhìn chung có mối tương
quan tỷ lệ thuận giữa tải lượng HIV huyết thanh và dịch âm đạo. Tuy nhiên

cũng có những trường hợp ngoại lệ, không tương đồng về lượng HIV, và
những trường hợp này có thể giải thích một vài trường hợp mẹ có mức HIV
trong máu thấp đến mức không thể phát hiện được nhưng vẫn truyền HIV
sang con.
- Kiểu gen của HIV: Kiểu gen có thể có liên quan đến tỷ lệ lây truyền
trong các giai đoạn khác nhau của thời kỳ mang thai và chuyển dạ đẻ. Người
ta cũng ghi nhận một số đột biến gen HIV ở người mẹ được sử dụng ARV với
mục đích điều trị hoặc phòng lây truyền mẹ con có liên quan đến kháng thuốc
có thể ảnh hưởng đến những trẻ nhiễm HIV từ người mẹ.
- Số lượng tế bào CD4: lượng CD4 thấp có liên quan đến việc tăng nguy
cơ lây truyền mẹ con.
- Giai đoạn lâm sàng HIV/AIDS của người mẹ càng muộn thì tỷ lệ lây
truyền mẹ con càng cao.
- Phụ nữ mang thai nhiễm HIV cấp tính có tỷ lệ lây truyền HIV cho con
rất cao vì giai đoạn này tải lượng virut HIV huyết thanh tăng cao.
1.2.2. Các yếu tố sản khoa
- Thai phụ nhiễm HIV đồng nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình
dục có loét làm tăng lượng HIV trong các dịch ở đường sinh sản, làm tăng
nguy cơ lây truyền mẹ con.


13

- Thai phụ nhiễm HIV có thói quen tình dục không an toàn với nhiều bạn
tình, sử dụng ma tuý… tăng tỷ lệ lây truyền mẹ con.
- Thời gian vỡ ối: Nguy cơ lây truyền mẹ con tăng tỷ lệ thuận với thời
gian từ khi vỡ ối đến khi sinh, nguy cơ tăng 2% cho mỗi giờ vỡ ối.
- Tuổi thai: trẻ sơ sinh non tháng có nguy cơ lây nhiễm cao hơn trẻ đủ tháng.
- Viêm màng ối: tăng nguy cơ lây truyền mẹ con
- Can thiệp sản khoa: cắt tầng sinh môn, forceps, ventoux làm tăng nguy

cơ lây nhiễm cho con.
- Riêng 2 yếu tố: mổ lấy thai và sử dụng ARV có thể làm giảm đáng kể
tỷ lệ lây truyền mẹ con.
1.2.3. Nuôi con bằng sữa mẹ
Nuôi con bằng sữa mẹ làm tăng tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con.
Nguy cơ lây truyền HIV qua bú sữa mẹ sẽ tăng lên nếu:
 Mẹ nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS (nồng độ HIV trong
máu mẹ cao) hoặc mẹ mới nhiễm HIV sau khi sinh con hay vào thời kỳ cho
con bú mẹ mới bị nhiễm HIV (vì trong thời kỳ mới nhiễm HIV, nồng độ HIV
trong máu mẹ cũng rất cao). Những phụ nữ nhiễm HIV chưa có triệu chứng
hoặc bị AIDS có nguy cơ truyền HIV cho con qua sữa mẹ tăng khoảng 14%.
 Viêm vú, nứt vú, áp xe vú của mẹ hay các tổn thương ở miệng trẻ sơ
sinh hoặc bệnh nhiễm khuẩn của mẹ trong khi cho con bú...cũng làm tăng
nguy cơ làm lây truyền HIV sang trẻ sơ sinh.
 Thời gian cho trẻ bú càng dài thì nguy cơ lây truyền HIV sang con càng cao.
Nuôi trẻ hỗn hợp tức là vừa cho trẻ bú mẹ, vừa cho ăn thêm thì nguy cơ
lây nhiễm HIV từ mẹ cao hơn so với trẻ được bú mẹ hoàn toàn.
1.3. Các dịch vụ phòng lây truyền mẹ con
Trên thế giới hiện nay đã nhiều nước có những nỗ lực đáng kể để triển


14

khai và mở rộng các chương trình PLTMC. Những chương trình này đã cho
thấy là khả thi, chấp nhận được và hiệu quả tương xứng giá thành nhưng cho
dù có những tiến bộ đáng kể, các chương trình PLTMC như vậy vẫn chưa
được thực hiện trên diện rộng ở những nơi điều kiện nguồn lực hạn chế. Đến
năm 2005, chỉ có 9% phụ nữ mang thai nhiễm HIV được điều trị dự phòng
ARV để PLTMC [16].
Hiện nay vẫn cần tiếp tục nỗ lực tăng cường khả năng tiếp cận với các

chương trình toàn diện và lồng ghép phòng chống nhiễm.
HIV ở trẻ em để phụ nữ có thể tiếp cận các dịch vụ cần thiết nhằm mục
đích cải thiện sức khoẻ của bản thân họ và phòng tránh truyền HIV cho con
của mình [17].
Cộng đồng quốc tế cũng đã tiếp thêm sức lực cho cuộc đấu tranh chống
đại dịch HIV qua một cam kết tiếp cận phổ cập với các dịch vụ dự phòng,
chăm sóc và điều trị HIV/AIDS. Các nước thành viên của WHO trong Hội
nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc gần đây đã tái khẳng định hoàn toàn cam kết
của mình để thực hiện tất cả các mục tiêu trong Tuyên bố Cam kết UNGASS
năm 2010- 2011, trong đó có việc giảm tỷ lệ trẻ nhiễm HIV xuống dưới 5%
vào năm 2015 và hướng đến một thế giới không còn HIV/AIDS.
Ở Việt Nam, theo các báo cáo, các chương trình điều trị, PLTMC hiện tại
đang được thực hiện với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế nhưPEPFAR,
GFATM, FHI, UNICEF,… Năm 2006, 107 trong tổng số 506 cơ sở cung cấp
dịch vụ chăm sóc trước sinh, cung cấp gói dịch vụ cơ bản về PLTMC
(UNGASS 2007). Số lượng các cơ sở cung cấp các dịch vụ này tăng lên 223
trong năm 2009 (UNGASS 2010) và chú trọng cung cấp các dịch vụ PLTMC
toàn diện hơn. Đến 2009, cả nước có 96 địa điểm cung cấp các dịch vụ toàn
diện PLTMC, 127 địa điểm cung cấp dịch vụ tư vấn và xét nghiệm tự nguyện
(VCT) và dịch vụ chuyển tuyến (UNGASS 2010).


15


16

1.3.1. Các thành tố trong phòng lây truyền mẹ con
Theo WHO, một chiến lược dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con
một cách toàn diện cần phải bao gồm 4 thành tố [5],[18]:

1. Dự phòng nhiễm HIV tiên phát ở phụ nữ không nhiễm HIV;
2. Dự phòng có thai ngoài ý muốn ở phụ nữ đã nhiễm HIV;
3. Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con nếu phụ nữ nhiễm HIV
muốn sinh con;
4. Chăm sóc, điều trị và hỗ trợ tiếp tục đối với các bà mẹ nhiễm HIV,
những đứa con và gia đình của họ.
Cách tiếp cận này được xây dựng xoay quanh sự cung cấp thường quy
xét nghiệm và tư vấn HIV cho tất cả các phụ nữ mang thai, dự phòng ARV
cho PLTMC và tư vấn cũng như hỗ trợ nuôi trẻ, và nhấn mạnh đến ARV,
chăm sóc và hỗ trợ cho phụ nữ nhiễm HIV, những đứa con và gia đình họ.
Theo chiến lược này các dịch vụ dự phòng cơ bản cho phụ nữ đã được
xác định là HIV âm tính (đại đa số phụ nữ trong hầu hết các điều kiện) và
củng cố mối liên kết với các dịch vụ sức khoẻ tính dục và sinh sản khác, nhất
là kế hoạch hoá gia đình được đặc biệt chú ý. Việc cung ứng về tư vấn và các
dịch vụ kế hoạch hoá gia đình là đặc biệt quan trọng trong giai đoạn sau đẻ
đối với phụ nữ nhiễm HIV lựa chọn không NCBSM hoặc ngừng cho bú sớm
vì họ có thời gian vô kinh do tiết sữa ngắn hơn.
Cũng trong chiến lược này, các hoạt động của thành phần 3 và 4 được
tiến hành tại các cơ sở y tế: bệnh viện Phụ sản (PLTMC), khoa Truyền nhiễm
các bệnh viện (cơ sở điều trị HIV cho người lớn), bệnh viện Nhi và phòng
khám ngoại trú (cơ sở theo dõi, điều trị HIV cho trẻ em).
Nhìn chung, các can thiệp phòng ngừa LTMC có thể lồng ghép vào các
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, khám và quản lý thai nghén,
chăm sóc sức khoẻ sinh sản, phòng khám ngoại trú và các chương trình điều
trị và chăm sóc HIV nói chung (Phụ lục 1).


17

1.3.2. Các dịch vụ PLTMC tại cơ sở y tế

1.3.2.1. Xét nghiệm HIV[5],[16],[19]
Xét nghiệm HIV cho thai phụ là điểm cần thiết, khởi đầu cho các dịch vụ
can thiệp phòng lây truyền mẹ con[19].
Thực hiện xét nghiệm HIV cho thai phụ càng sớm càng tốt, xét nghiệm
này có thể tiến hành ở các cơ sở quản lý thai nghén cấp huyện, tỉnh và trung
ương. Nếu phát hiện thai phụ nhiễm HIV sớm và áp dụng các phác đồ phòng
lây truyền mẹ con sẽ giảm được tỷ lệ nhiễm HIV ở trẻ.
Xét nghiệm HIV cho phụ nữ mang thai là tự nguyện và được khuyến cáo
lồng ghép với các xét nghiệm sàng lọc khác như viêm gan B, giang mai[5].
Đánh giá giai đoạn lâm sàng và làm XN CD4 là cần thiết để đưa ra
phác đồ điều trị cũng như dự phòng HIV/AIDS[5].
1.3.2.2. Sử dụng thuốc kháng vi rút
* Mục đích sử dụng ARV[17]:
- Giảm số lượng virus HIV nhân lên trong cơ thể người bệnh:
• Giảm sự tấn công của vi rút vào hệ miễn dịch,
• Giảm tải lượng virút.
- Tạo cơ hội cho hệ thống miễn dịch của người bệnh phục hồi:
• Giúp làm tăng số lượng tế bào CD4
- Cải thiện chất lượng sống của người bệnh.
Các thuốc ARV làm giảm sự nhân lên của vi rút, đồng thời có tác dụng
trong phòng lây truyền từ mẹ sang con.
Các thuốc ARV hiện đang dùng ở Việt Nam được chia thành 3 nhóm
chủ yếu [17]:
a, Nucleoside/Nucleotid RTI (NRTI)
Nhóm thuốc này ức chế tổng hợp ADN của HIV bởi enzyme sao
chép ngược.
Nhóm này bao gồm Zidovudin (AZT), Stavudin (d4T), Lamivudin
(3TC), Didanosine (ddI), Abacavir (ABC), Combivir, Tenofovir (TDF),…



18

b, Non-nucleoside RTI (NNRTI)
Nhóm thuốc này ức chế enzyme sao chép ngược không phải nucleoside.
Nhóm này gồm có: Nevirapine (NVP), Efavirenz (EFV),…
c, Các thuốc ức chế enzyme Protease (PI)
Nhóm này gồm: Ritonavir (RTV), Indinavir (IDV), Lopinavir+
ritonavir (LPVr),…
Ngoài 3 nhóm thuốc trên, trên thế giới còn sử dụng nhóm thuốc ức chế
men tích hợp (Raltegravir/RAL); nhóm thuốc ức chế hoà màng/xâm nhập
(Mariviroc/MVC, Enfuvirtide/ENF)
Các thuốc ARV được lựa chọn cho phụ nữ mang thai thường không ảnh
hưởng tới thai nhi. Một số tác dụng phụ đáng chú ý là[6]:
- AZT có thể gây thiếu máu ở trẻ sinh ra từ mẹ sử dụng dự phòng AZT
và trẻ dùng AZT nhưng sẽ được cải thiện sau khi ngừng thuốc, vì vậy AZT
chống chỉ định cho những trường hợp có xét nghiệm Hb < 70 g/l. Ngoài ra,
AZT dùng phối hợp 3TC có thể gây tình trạng thiếu máu nặng hơn.
Theo WHO[20], mức độ thiếu máu được phân loại như sau:
+ Không thiếu máu:

Hb ≥ 110g/l

+ Thiếu máu: Nhẹ

Hb = 100- 109 g/l

Trung bình

Hb = 70- 99g/l


Nặng

Hb < 70 g/l

- Điều trị kéo dài NPV có thể gây độc tính ở gan.
- TDF gây độc tính cho thận.
Do đó, trong nghiên cứu này, về các xét nghiệm của sản phụ, tôi chỉ mô
tả một số chỉ số như số lượng Hb, SGOT, SGPT, Creatinin.
Tuy nhiên, nếu dùng ARV đúng chỉ định và phác đồ thì tính an toàn của
thuốc rất cao và nếu thai phụ dùng thuốc càng sớm thì hiệu quả PLTMC càng
cao [21], [22].
Tiêu chuẩn điều trị ARV từ 2005- 2014 đã có 3 lần thay đổi, hiện nay tại


19

các cơ sở y tế áp dụng theo quyết định 4139/2011/QĐ-BYT:
+ Số lượng tế bào CD4 ≤ 350, không phụ thuộc giai đoạn lâm sàng;hoặc
+ Giai đoạn lâm sàng 3 hoặc 4, không phụ thuộc số lượng tế bào CD4.
1.3.2.3. Xử trísản khoa cho sản phụ nhiễm HIV[8], [23], [24], [25]
* Mục đích chính của xử trí sản khoa là giảm đến mức tối thiểu sự phơi
nhiễm của thai nhi với HIV từ các dịch cơ thể của người mẹ, giảm thiểu các
yếu tố nguy cơ lây truyền mẹ con. Vì vậy trong thực hành sản khoa nên tránh
một số can thiệp tổn thương cho mẹ hoặc con như:
- Tránh bấm ối sớm: ối vỡ sớm là yếu tố thuận lợi lây nhiễm HIV cho con,
vì vậy chỉ bấm ối khi cổ tử cung mở hết.
- Cắt tầng sinh môn: chỉ cắt tầng sinh môn khi đầu lọt thấp sẽ giảm bớt sự
chảy máu mẹ và giảm tải lượng HIV ở dịch âm đạo.
- Tránh forceps và ventoux: nếu buộc phải can thiệp, chỉ nên thực hiệnkhi
đủ điều kiện và đúng kỹ thuật để tránh tổn thương mẹ và con.

* Xử trí sản khoa có thể là:
- Theo dõi cho đẻ đường dưới: tuân thủ sinh lý cuộc chuyển dạ. Giữ
đầu ối đến cùng. Chỉ cắt tầng sinh môn khi cần và đầu lọt thấp.
- Mổ lấy thai:
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh mổ lấy thai có thể làm giảm
tỷ lệ lây truyền từ mẹ sang con [26], [27], [28]. Tuy nhiên việc mổ lấy thai cũng
có nhiều nhược điểm, các tác giả đều nhận thấy rằng làm tăng một số nguy cơ
đối với sản phụ như nhiễm trùng, chảy máu trong và sau mổ,tử vong mẹ. Do đó
WHO chưa khuyến cáo mổ lấy thai rộng rãi mà phải cân nhắc cho từng trường
hợp cụ thể và có tư vấn cho thai phụ. Ở Việt Nam, theo quyết định 4361 của Bộ
Y tế, chỉ mổ lấy thai khi có chỉ định sản khoa [4].


20

1.3.2.4. Các can thiệp với trẻ phơi nhiễm[15],[25]
- Sau sinh, trẻ sơ sinh được hút sạch dịch ở mũi, họng với thao tác nhẹ
nhàng, tránh tổn thương niêm mạc. Lau khô bằng khăn mềm, thấm nước.
- Tư vấn và cấp sữa thay thế sữa mẹ.
- Uống ARV dự phòng tuỳ theo phác đồ dùng cho mẹ.
- Xét nghiệm phát hiện nhiễm HIV.
Tại BVPSTW, theo quy trình cung cấp dịch vụ, các thai phụ có xét
nghiệm khẳng định HIV dương tính được hướng dẫn và sử dụng dịch vụ
PLTMC; ra viện, các bà mẹ được giới thiệu đến bệnh viện Nhiệt đới, còn tất
cả các trẻ sinh từ mẹ nhiễm HIV đều được giới thiệu chuyển tiếp tới phòng
khám ngoại trú (PKNT) nhi tại Bệnh viện Nhi Trung ương hoặc tại các tỉnh
nơi bà mẹ sinh sống, hoặc đồng thời cung cấp địa chỉ của các phòng khám
ngoại trú nhi, để bà mẹ sau đẻ có thể lựa chọn đưa trẻ đi khám tiếp tục, theo
dõi phát triển thể chất, theo dõi dự phòng các bệnh nhiễm trùng cơ hội, cấp
sữa tiếp tục và được làm xét nghiệm HIV.

1.4. Các phác đồ điều trị và các công trình nghiên cứu PLTMC đã có
1.4.1. Trên thế giới
Đã có rất nhiều phác đồ khác nhau được nghiên cứu về hiệu quả
PLTMC. Nhìn chung, xu hướng chuyển từ phác đồ 1 thuốc sang phác đồ 3
thuốc, áp dụng với thời gian dài ngày hơn và từ tuổi thai ngày càng sớm hơn.
- Năm 1994, nhóm các thử nghiệm lâm sàng AIDS Nhi khoa (PACTG)
076 đã chứng minh rằng cho sớm dự phòng AZT kéo dài trong thời kỳ mang
thai (TKMT) và dùng đường tĩnh mạch trong khi đẻ đối với người mẹ và
dùng trong 6 tuần đối với con làm giảm nguy cơ lây truyền dọc từ 25% xuống
8%[29]. Phác đồ AZT PACTG 076 đã nhanh chóng được triển khai trong thực
hành ở châu Âu và Bắc Mỹ, nhưng nó đắt và quá phức tạp. Vì vậy các phác
đồ ARV ngắn hơn và đơn giản hơn đã được đánh giá trong các thử nghiệm ở
các nước thu nhập thấp và trung bình.


21

- Vào cuối những năm 1990, một nghiên cứu trên những phụ nữ không
NCBSM ở Thái Lan [30] thấy rằng các phác đồ AZT bắt đầu lúc cuối TKMT
và cho trong khi chuyển dạ cùng với hoặc không dự phòng cho con hoặc một
tuần dự phòng cho mẹ thì có hiệu quả trong việc giảm LTMC.
Một vài thử nghiệm lâm sàng khác và những nghiên cứu quan sát trên
các quần thể không NCBSM cũng như NCBSM đã khẳng định hiệu quả của
nhiều phác đồ ARV khác nhau trong đó có phác đồ AZT đơn thuần [1], [31],
hai thuốc AZT + 3TC [32],[33], [34]; Sd-NVP [32] và rất gần đây là kết hợp
AZT + Sd-NVP[2], [35], [36] hoặc AZT và 3TC + Sd-NVP [36].
- Từ khoảng năm 1998, các kết hợp ba thuốc ARV ngày càng được dùng
trong phòng ngừa LTMC; hiện nay đa số phụ nữ mang thai sống chung với HIV
ở châu Âu và Bắc Mỹ được dùng những phác đồ như vậy [37], [38]. Gần đây
hơn, các phác đồ dự phòng ba thuốc ARV để phòng LTMC đã được khuyến cáo

và sử dụng rộng rãi ở Brazil và các nước Nam Mỹ khác, với mức độ hiệu quả
ngang với những gì quan sát được ở các nước thu nhập cao [39], [40].
Nguy cơ LTMC trong thử nghiệm ở một quần thể không NCBSM ở
Thái Lan là khoảng 2%, trongđó người phụ nữ được dùng AZT từ tuần 28 của
TKMT và Sd-NVP và AZT trong chuyển dạ, còn những đứa trẻ được dùng
Sd-NVP + AZT trong một tuần. Tỷ lệ này là tương tự tỷ lệ lây truyền đạt được
với các phác đồ ba thuốc ARV[2].
- Từ năm 2006, WHO khuyến cáo phác đồ ưu tiên cho cho PLTMC đối
với những phụ nữ chưa cần điều trị là AZT từ tuần thai thứ 28; AZT + 3TC
cùng với SD- NVP khi chuyển dạ đẻ; AZT+ 3TC một tuần sau đẻ cho mẹ; và
SD- NVP với AZT 7 ngày sau đẻ cho trẻ sơ sinh[41], [42].
Trên cơ sở xem xét nhiều bằng chứng nghiên cứu, WHO đã khuyến cáo
“để tiến tới đạt được mục tiêu loại trừ nhiễm HIV ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, tất


22

cả những phụ nữ đủ tiêu chuẩn điều trị ARV cho bản thân cần được điều trị
ngay” và “những phụ nữ mang thai chưa cần điều trị ARV cần được dự phòng
ARV một cách hiệu quả để PLTMC”. Hiện nay, WHO cũng khuyến cáo phác
đồ ưu tiên cho PLTMC đối với những phụ nữ chưa cần điều trị là AZT từ tuần
thai thứ 14; AZT+3TC cùng với NVP liều duy nhất khi chuyển dạ đẻ;
AZT+3TC một tuần sau đẻ cho mẹ; và NVP liều duy nhất với AZT trong 4
tuần sau đẻ cho trẻ sơ sinh [43].
- Tuy nhiên, tỷ lệ lây truyền HIV sang con còn phụ thuộc vào các can
thiệp sản khoa khi sản phụ chuyển dạ đẻ. Nếu tải lượng virus dưới 1000 bản
sao/ml ở những sản phụ không dùng bất cứ ARV nào là 9,8%, tỷ lệ này là 1%
nếu sản phụ được dùng thuốc ARV trong thời kỳ mang thai. Chính vì vậy, một
số nghiên cứu khuyến cáo nếu sản phụ dùng ARV tải lượng virus dưới 1000
bản sao/ml có thể theo dõi đẻ đường dưới, còn nếu sản phụ có tải lượng virus

trên 1000 bản sao/ml thì nên mổ lấy thai [43].
Nghiên cứu của Mandebrot và cộng sự tại Pháp [27] cho thấy nếu được
dùng ARV dự phòng trong thai kỳ và khi chuyển dạ phối hợp với mổ lấy thai
thì tỷ lệ lây nhiễm cho con ít hơn 1%. Đó là tỷ lệ thật lý tưởng mà mỗi người
làm công tác điều trị cho những sản phụ nhiễm HIV/AIDS mong đợi.
Mổ lấy thai không dùng thuốc dự phòng tỷ lệ LTMC là 15,3%, khi kết
hợp với điều trị thuốc dự phòng và mổ lấy thai tỷ lệ LTMC là 4,2% [44], [45].
1.4.2. Ở Việt Nam
1.4.2.1. Các phác đồ PLTMC
Tháng 3 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức ký phê duyệt
Chiến lược Quốc gia Phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010 và
tầm nhìn 2020. Dựa trên Chiến lược quốc gia, Bộ Y tế đã xây dựng một
Chương trình Hành động quốc gia về PLTMC giai đoạn 2006-2010. Mục tiêu
chung của Chương trình Hành động này là kiểm soát làm giảm tỷ lệ lây


23

truyền HIV từ mẹ sang con xuống còn dưới 10% cho đến năm 2010. Chương
trình Hành động cũng đưa ra mục tiêu cụ thể là cung cấp các dịch vụ tư vấn
cho 90%, xét nghiệm HIV tự nguyện cho 60% phụ nữ mang thai cũng như
điều trị PLTMC cho 100% các trường hợp xét nghiệm HIV dương tính.
Các phác đồ này đã được cập nhật, sửa đổi theo từng thời kỳ, một phần
lớn dựa trên khuyến cáo của các tổ chức quốc tế lớn như WHO.
Năm 2005, phác đồ PLTMC đầu tiên được Bộ Y tế ban hành thành văn
bản pháp quy theo quyết định 06/2005/QĐ - BYT “Hướng dẫn Chẩn đoán và
Điều trị nhiễm HIV/AIDS”[3] với ba phác đồ khác nhau là:
(1) AZT từ tuần thai 28 + SD-NVP khi chuyển dạ;
(2) SD-NVP khi chuyển dạ;
(3) Phác đồ ba thuốc AZT/d4T + 3TC + NFV/SQV/r từ tuần thai 36.

Trong các phác đồ này, phác đồ ba thuốc được ngừng sử dụng từ cuối
năm 2007 (quyết định 4361/2007/QĐ- BYT) sau khi có khuyến cáo thu hồi
NFV toàn cầu của WHO và nhà sản xuất [4].
Đến cuối năm 2008, phác đồ một lần nữa được cập nhật, theo quyết
định 3821/2008/QĐ –BYT [5], sử dụng một phác đồ thống nhất (phụ lục 2).
So với năm 2005, 2007; phác đồ có bổ sung siro 1 tuần cho trẻ sau sinh.
Theo quyết định 3003/2009/QĐ-BYT ngày 19/8/2009[6], có bổ sung:
- Siro dự phòng cho con là 4 tuần thay vì 1 tuần như quyết định năm 2008.
- Quy định các đối tượng cần thiết điều trị DPLTMC bằng ARV có bao gồm
PNMT nhiễm HIV chưa đủ tiêu chuẩn điều trị ARV (giai đoạn lâm sàng 1-2 và
CD4 > 250 tế bào/ mm3, giai đoạn lâm sàng 3 và CD4 > 350 tế bào/ mm3).
Quyết định 4139/2011/QĐ-BYT ngày 2/11/2011[7], sửa đổi quyết định
3003/2009/QĐ-BYT phần “PNMT nhiễm HIV chưa đủ tiêu chuẩn điều trị
ARV” là ở giai đoạn lâm sàng 1-2 và TCD4 >350 tế bào/ mm3; Bổ sung:
- Về “Phác đồ ưu tiên AZT + liều đơn NVP” trong PLTMC thì AZT
uống từ tuần thai thứ 14 thay vì từ 28 tuần như trước đây.


24

- Bổ sung phác đồ: AZT + 3TC + LPV/r, giữ nguyên phác đồ AZT +
NVP + 3TC nhưng cũng áp dụng từ tuần thai thứ 14. Từ 2011, phác đồ này
được áp dụng tại BVPSTW.
Theo quyết định 3047/2015/QĐ-BYT, để hướng đến chẩn đoán sớm để
điều trị sớm, việc tư vấn- xét nghiệm HIV sớm cần được chú trọng và xu
hướng các phác đồ hiện nay được áp dụng điều trị sớm hơn; phụ nữ có thai
nhiễm HIV có thể điều trị và bắt đầu sử dụng phác đồ phòng lây truyền mẹ
con ở bất cứ tuổi thai nào.
1.4.2.2. Tình hình dịch vụ PLTMC tại Việt Nam
Qua một số đánh giá về PLTMC gần đây cho thấy tỷ lệ phụ nữ mang thai

nhiễm HIV tại các bệnh viện phụ sản lớn đã tăng nhanh: từ 0,21% đến 0,55%
tại BVPSTW, từ 0,22% đến 0,84% tại Bệnh viện Hùng vương trong 8 năm
qua (2000-2008) [46], tuy nhiên tỷ lệ này đang có xu hướng chững lại trong
thời gian gần đây. Lý do là dịch HIV/AIDS vẫn đang âm ỉ phát triển và tập
trung vào những nhóm nguy cơ thấp mà PNMT sẽ là nhóm bị ảnh hưởng
chính, ngoài ra việc mở rộng chương trình sàng lọc HIV miễn phí cho các thai
phụ và nhận thức của người dân về HIV/AIDS ngày càng được nâng cao do
đó ngày càng phát hiện được nhiều thai phụ nhiễm HIV [47],[48].
Khi đánh giá chương trình phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con tại
Bệnh viện Hùng Vương năm 2005-2008, tác giả Vũ Thị Nhung cho biết tỷ lệ sản
phụ nhiễm HIV sinh con là 0,81%. Trong những sản phụ nhiễm HIV: 91,5% sản
phụ được sử dụng thuốc PLTMC, tỷ lệ trẻ nhiễm HIV từ mẹ là 5,15%[49].
Một đánh giá của dự án LIFE-GAP khi tổng kết các trường hợp sản phụ
nhiễm HIV sinh con từ 2004- 2009 tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, Hải
Phòng, Bệnh viện tỉnh Quảng Ninh và An Giang cho thấy tỷ lệ phát hiện
nhiễm HIV trong chuyển dạ chiếm 57%, 84% sản phụ nhiễm HIV được sử
dụng thuốc PLTMC, 98% số trẻ phơi nhiễm được sử dụng thuốc ARV, 75,2%
trẻ được làm xét nghiệm PCR hoặc kháng thể[16].


25

1.4.2.3. Một số nghiên cứu liên quan PLTMC tại BVPSTW
Bệnh viện Phụ Sản Trung ương là cơ sở Sản khoa tuyến cao nhất ở khu
vực phía Bắc, đã tham gia chương trình PLTMC ngay từ giai đoạn đầu của dịch
HIV/AIDS, đồng thời tham gia là Tiểu ban PLTMC (Cục PC HIV/AIDS), tham
gia hướng dẫn và chỉ đạo chuyên môn, hỗ trợ kỹ thuật cho các tuyến dưới trong
PLTMC. Cho đến nay, BVPSTW là một trong những cơ sở điều trị PLTMC có
số lượng phụ nữ nhiễm HIV sinh con cao nhất, hàng năm tiếp nhận khoảng 100
ca. Các phác đồ PLTMC áp dụng tại BVPSTW được tuân thủ hoàn toàn theo

các hướng dẫn của Bộ Y tế, tùy thuộc thời điểm phát hiện và tình trạng nhiễm
HIV/AIDS của người phụ nữ mang thai. Cụ thể, trong giai đoạn 2010-2014,
các phác đồ PLTMC áp dụngtheo 2 giai đoạn như sau:
- Năm 2010 - 10/2011 phác đồ PLTMC theo quyết định 3003/QĐ - BYT.
- Tháng 11/2011 đến nay phác đồ PLTMC theo quyết định 4139/QĐ - BYT.
Với sự hỗ trợ của Cục PC HIV/AIDS, nguồn thuốc ARV ngày càng được
đảm bảo. Đồng thời, chất lượng tư vấn, chăm sóc và điều trị PLTMC tại
BVPSTW cũng liên tục được cải thiện. Một số nghiên cứu tại BVPSTW cũng đã
cho thấy tỷ lệ phụ nữ được sử dụng ARV đã tăng lên đáng kể [50], [51], [52].
Tuy nhiên, hiện nay chưa có một nghiên cứu nào mô tả xu hướng và
thực trạng các dịch vụ PLTMC được cung cấp tại Bệnh viện trong 5 năm trở
lại đây.
Các chỉ số đánh giá các dịch vụ PLTMC tại BVPSTW trong nghiên
cứu này dự kiến bao gồm:
- Xét nghiệm HIV: thời điểm phát hiện nhiễm HIV.
- Xét nghiệm CD4 (nếu có): thời điểm và số lượng
- Sử dụng ARV: thời điểm dùng, phác đồ dùng cho mẹ và con.
- Các can thiệp sản khoa: cách thức đẻ.


×