Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

SỰ cân đối của NHÓM RĂNG TRƯỚC ở NGƯỜI KINH TUỔI từ 18 25 có KHỚP cắn LOẠI i năm 2016 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 98 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

BỘ Y TẾ

NGUYỄN THỊ NHƯ NGỌC

SỰ CÂN ĐỐI CỦA NHÓM RĂNG TRƯỚC
Ở NGƯỜI KINH TUỔI TỪ 18-25 CÓ KHỚP CẮN
LOẠI I NĂM 2016-2017

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

HÀ NỘI - 2018


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

BỘ Y TẾ

NGUYỄN THỊ NHƯ NGỌC

SỰ CÂN ĐỐI CỦA NHÓM RĂNG TRƯỚC
Ở NGƯỜI KINH TUỔI TỪ 18-25 CÓ KHỚP CẮN
LOẠI I NĂM 2016-2017
Chuyên ngành : Răng Hàm Mặt


Mã số
: 62720601
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. ĐÀM NGỌC TRÂM

HÀ NỘI - 2018


3

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
VIỆN ĐÀO TẠO RĂNG HÀM MẶT

BẢN CAM KẾT
Tên tôi là:

Nguyễn Thị Như Ngọc

Học viên lớp:

Cao học răng hàm mặt

Khóa: 25

Tôi xin cam đoan toàn bộ nội dung trong đề cương luận văn là của tôi, không
hề có sự sao chép của người khác.
Hà Nội, ngày 6 tháng 10 năm 2018
Người viết cam đoan



4

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
X

: Giá trị trung bình

BW

: Độ rộng gò má (bizygomatic width)

CAW

: Tổng chiều rộng các răng trước
(the combined width of the six anterior teeth)

CAW/BW

: Tỷ lệ giữa tổng chiều rộng các răng trước và độ rộng gò má.

CAW/IAW

: Tỷ lệ giữa tổng chiều rộng các răng trước và độ rộng cánh mũi

CAW/ICD

: Tỷ lệ giữa tổng chiều rộng các răng trước và khoảng cách hai
góc mắt trong


CAW/IPD

: Tỷ lệ giữa tổng chiều rộng các răng trước và khoảng cách
giữa hai đồng tử

CCIW

: Tổng chiều rộng gần xa hai răng cửa giữa
(the combined width of the central incisors)

CCIW/BW
CCIW/IAW

: Tỷ lệ giữa tổng chiều rộng hai răng cửa giữa và độ rộng gò má.
: Tỷ lệ giữa tổng chiều rộng hai răng cửa giữa và độ rộng cánh mũi

CCIW/ICD

: Tỷ lệ giữa tổng chiều rộng hai răng cửa giữa và khoảng cách
hai góc mắt trong.

CCIW/IPD

: Tỷ lệ giữa tổng chiều rộng hai răng cửa giữa và khoảng cách
giữa hai đồng tử

CL95%

: Khoảng tin cậy 95%


Caucasoid

: Chủng tộc da trắng người Anh và Irish cổ

IAW

: Độ rộng cánh mũi (interalar width)

ICD

: Khoảng cách giữa hai góc mắt trong (intercanthal distance)

IPD

: Khoảng cách giữa hai đồng tử (interpupillary distance)

L

: Kích thước chiều cao thân răng trên mẫu (length)

Max

: Giá trị lớn nhất (maximum)


5

Min

: Giá trị nhỏ nhất (minimum)


Mongoloid

: Chủng tộc người châu Á, Eskimo, da đỏ Bắc Mỹ với đặc
điểm tóc đen, thẳng, mắt nhỏ và một mí

N

: Cỡ mẫu

Negroid

: Chủng tộc người châu Phi hoặc New Guinea, Melanesia với
đặc điểm da đen, tóc rất xoăn

r

: Hệ số tương quan Pearson

R1

: Răng cửa giữa hàm trên không phân biệt hai bên

R1/R2

: Tỷ lệ kích thước giữa răng cửa giữa và răng cửa bên

R11

: Răng cửa giữa hàm trên bên phải


R12

: Răng cửa bên hàm trên bên phải

R13

: Răng nanh hàm trên bên phải

R2

: Răng cửa bên hàm trên không phân biệt hai bên

R21

: Răng cửa giữa hàm trên bên trái

R22

: Răng cửa giữa hàm trên bên trái

R23

: Răng nanh hàm trên bên trái

R3

: Răng nanh hàm trên không phân biệt hai bên

R3/R2


: Tỷ lệ kích thước giữa răng cửa bên và răng nanh

RED

: Tỷ lệ tái lập thẩm mỹ hàm răng

SD

: Độ lệch chuẩn

W

: Kích thước chiều rộng gần xa thân răng trên mẫu (width)

W/L

: Tỷ lệ giữa kích thước chiều rộng và chiều cao thân răng
(width/length)

WP

: Kích thước chiều rộng thân răng trên ảnh chuẩn hóa
(the perceived mesiodistal width)


6

MỤC LỤC



7

DANH MỤC BẢNG


8

DANH MỤC BIỂU ĐỒ


9

DANH MỤC HÌNH


10

ĐẶT VẤN ĐỀ

Theo thời gian, con người luôn hướng tới sự hoàn thiện vẻ đẹp chân,
thiện, mỹ. Vì thế, khái niệm thẩm mỹ thường xuyên được nhắc đến từ rất lâu
đời với thẩm mỹ gương mặt luôn được chú trọng hàng đầu. Leonardo da Vinci
- thiên tài toàn năng người Ý thế kỉ XV đã nói: “Gương mặt nổi trội trong vẻ
đẹp khi được so sánh với các bộ phận giải phẫu khác của cơ thể con người”
[1]. Và ngày nay, cùng với sự phát triển vượt bậc của kinh tế xã hội, nhu cầu
về thẩm mỹ gương mặt của con người cũng ngày càng tăng cao.
Trong số các yếu tố tạo nên vẻ đẹp của khuôn mặt, nụ cười là yếu tố
đóng vai trò vô cùng quan trọng. Một nụ cười đẹp tạo nên bởi sự hài hòa giữa
các thành phần bao gồm: tương quan răng, môi và đường viền lợi. Trong đó,

kích thước, hình dạng cũng như sự sắp xếp của các răng trước hàm trên là yếu
tố quan trọng nhất cho một diện mạo cân đối và vì vậy, cũng luôn là thách thức
lớn cho các bác sĩ lâm sàng [2].
Trên thế giới, đã có rất nhiều nghiên cứu được tiến hành nhằm đưa ra
những nguyên tắc thống nhất có thể áp dụng được cho các điều trị phục hình
thẩm mỹ. Và kết quả: tỷ lệ vàng, tỷ lệ phần trăm vàng, tỷ lệ tái lập thẩm mỹ
hàm răng... đã được đề xuất như những công cụ phân tích toán học có thể áp
dụng để đánh giá tính ưu thế và sự cân đối trong việc sắp xếp các răng hàm
trên. Các nguyên tắc này đã được chứng minh, tuy vẫn còn gây tranh cãi,
trong việc đem lại một nụ cười đẹp và ước lượng tính cân đối [3].
Những nghiên cứu về sự cân đối ở các răng trước hàm trên có thể kể
đến như Levin và Edwin I. (1978), Stephen R. Snow (1999), Hasanreisoglu
U. và cộng sự (2005), Ali Fayyad M. và cộng sự (2006), Daniel H. Ward


11

(2007), Nikgoo A. và cộng sự (2009), Pini N. P. và cộng sự (2012),
Meshramkar và cộng sự (2013), Nalla Sandeep và cộng sự (2015) [4], [5], [6],
[7], [8], [9], [10], [11], [12]…
Tuy nhiên, các nghiên cứu đại diện cho các cộng đồng khác nhau, khi
áp dụng cho cộng đồng người Việt thì chưa phù hợp. Trong khi đó tại Việt
Nam mới chỉ có một vài nghiên cứu mô tả về kích thước các răng mà chưa có
tác giả nào nghiên cứu về sự cân đối trong sắp xếp và tương quan của nhóm
răng trước hàm trên - nhóm răng có vai trò đặc biệt quan trọng trong thẩm mỹ
nụ cười nói riêng và thẩm mỹ khuôn mặt nói chung. Vì vậy, chúng tôi quyết
định chọn đề tài: “Sự cân đối của nhóm răng trước ở người Kinh tuổi từ
18-25 có khớp cắn loại I năm 2016-2017” với các mục tiêu sau:
1.


Xác định một số kích thước của nhóm răng trước hàm trên ở người

2.

Kinh từ 18-25 tuổi tại Hà Nội có khớp cắn loại I năm 2016-2017.
Nhận xét mối tương quan giữa kích thước nhóm răng trước hàm
trên với một số kích thước khuôn mặt ở nhóm đối tượng trên.


12

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm giải phẫu học nhóm răng trước hàm trên
1.1.1. Đặc điểm chung
Nhóm răng trước hàm trên gồm có 2 răng cửa giữa, 2 răng cửa bên và 2
răng nanh.
Các răng trước có tầm quan trọng rất lớn về thẩm mỹ vì luôn được
trông thấy khi ăn, nói và các cử chỉ biểu lộ nhiều sắc thái tình cảm của con
người. Trong thẩm mỹ, người ta quan niệm răng cửa giữa chính là biểu trưng
cho độ tuổi: theo thời gian, trong quá trình ăn nhai, răng cửa giữa mòn dần, tỷ
lệ giữa chiều rộng và chiều cao thân răng thay đổi. Răng cửa bên đặc trưng
cho giới tính với các góc cắn tròn ở giới nữ. Trong khi đó, răng nanh trên đặc
trưng cho tính cách với gờ ngoài cao hay sắc nhọn.
Ngoài ra các răng trước còn đóng vai trò quan trọng trong phát âm, ví
dụ một trẻ 6 tuổi không thể phát âm đúng được các âm “v”, “ph” trước khi
các răng cửa trên mọc đầy đủ.
Trong quá trình ăn nhai: răng cửa có tác dụng cắt thức ăn để chuẩn bị
cho quá trình nhai và hướng dẫn vận động trượt ra trước, răng nanh hỗ trợ xé,
cắt thức ăn và hướng dẫn vận động sang bên.

Đặc điểm chung của nhóm răng trước:
- Đều hình thành từ bốn thùy: ba thùy phía ngoài, phân cách nhau bởi
hai rãnh và một thùy phía trong tạo nên gót răng.
- Có gót răng ở phần ba cổ răng và hõm lưỡi ở trung tâm mặt răng phía lưỡi.
- Bề mặt răng phía ngoài cong lồi và phía trong lõm.


13

- Đường cổ răng là một cung tròn lồi đều đặn về phía chóp hơn so với
tất cả các răng còn lại của hàm răng.
- Kích thước thân răng theo chiều gần xa lớn hơn chiều ngoài trong,
[13],[14].
1.1.2. Các kích thước thân răng
Các kích thước thân răng được đo như sau:
- Chiều cao thân răng: tính bằng khoảng cách lớn nhất từ ranh giới men - xê
măng (cổ răng giải phẫu) đến rìa cắn trên đường thẳng song song với trục
đứng dọc.

Hình 1.1. Chiều cao toàn bộ và chiều cao thân răng.
- Kích thước gần xa thân răng: tính bằng khoảng cách lớn nhất giữa hai điểm
tiếp xúc gần và xa của thân răng với các răng bên cạnh trên đường thẳng
vuông góc với trục đứng dọc.

Hình 1.2. Kích thước gần xa cổ răng và thân răng.


14

- Kích thước ngoài trong thân răng: tính bằng khoảng cách lớn nhất giữa hai

điểm giới hạn mặt ngoài và mặt trong thân răng trên đường thẳng vuông góc
với trục đứng ngang.

Hình 1.3. Kích thước ngoài trong cổ răng và thân răng.
Bảng 1.1. Kích thước thân răng trung bình của nhóm răng trước hàm trên [13]
Kích thước (mm)

Răng cửa giữa

Răng cửa bên

Răng nanh

Cao thân răng

10,5

9,0

10

Gần xa thân răng

8,5

6,5

7,5

Ngoài trong thân răng


7,0

6,0

8,0

Gần xa cổ răng

6,3

4,4

5,5

Ngoài trong cổ răng

6,0

5,0

7,0

Cao toàn bộ

23,5

22,0

27,0


1.1.3. Răng cửa giữa hàm trên


15

Hình 1.4. Răng cửa giữa hàm trên nhìn từ phía ngoài [16]
Các răng cửa giữa hàm trên luôn đáng chú ý nhất về mặt thẩm mỹ trong
miệng. Bất kì khuyết tật nào ở hình dạng hay sự sắp xếp các răng này đều dễ
dàng nhận thấy và ảnh hưởng xấu đến diện mạo bình thường.
Răng cửa giữa hàm trên là răng lớn nhất trong nhóm, thân răng có dạng
hình thang với hai cạnh không đều, đáy lớn ở phía cắn.
Nhìn từ phía ngoài:
-

Đường viền gần: khá thẳng và tạo với rìa cắn góc cắn gần hơi nhọn.

-

Điểm lồi tối đa gần ở một phần ba cắn.
Đường viền xa: cong hơn và tạo góc cắn xa tròn hơn. Điểm lồi tối đa

-

xa ở một phần ba cắn nối phần ba giữa.
Bờ cắn: có ba nụ, tương ứng với ba thùy, được phân cách bằng hai
rãnh. Thùy gần và thùy xa xấp xỉ nhau và lớn hơn thùy giữa. Các

-


rãnh rất cạn và mờ dần về phía cổ răng.
Đường cổ răng: là một cung tròn đều đặn lồi về phía chóp.
Mặt ngoài: lồi nhiều ở một phần ba cổ răng, một phần ba giữa và một
phần ba cắn nhìn chung phẳng [13], [14], [15], [16].

1.1.4. Răng cửa bên hàm trên


16

Hình 1.5. Răng cửa bên hàm trên nhìn từ phía ngoài [16]
Hình thể ngoài răng cửa bên hàm trên gần tương tự răng cửa giữa hàm
trên, tuy nhiên các kích thước đều nhỏ hơn. Răng cửa bên nhỏ hơn răng cửa
giữa theo chiều gần xa và chiều cao. Hình dạng tương tự răng cửa giữa nhưng
rìa cắn tròn hơn, góc cắn gần và góc cắn xa cũng tròn hơn nên nhìn chung
thân răng trông tròn hơn răng cửa giữa.
Nhìn từ phía ngoài:
-

Đường viền gần cong, điểm lồi tối đa gần ở phần ba cạnh cắn nối

-

phần ba giữa. Góc cắn gần khá tròn.
Đường viền xa ngắn hơn đường viền gần, điểm lồi tối đa xa ở phần

-

ba giữa. Góc cắn xa tròn rõ.
Bờ cắn nửa bên gần khá thẳng, nửa bên xa cong lồi nhẹ.

Đường cổ răng cong đều đặn nhưng hẹp hơn so với răng cửa giữa.
Mặt ngoài có hai rãnh dọc chia thành ba thùy. Mặt ngoài răng cửa
bên cong lồi hơn so với răng cửa giữa [13], [14].

Răng cửa bên hàm trên rất hay dị dạng, tỉ lệ dị dạng chỉ xếp sau răng
khôn [17].

1.1.5. Răng nanh trên


17

Hình 1.6. Răng nanh trên nhìn từ phía ngoài [16]
Răng nanh là răng có chiều dài lớn nhất trên cung hàm và mang một số
đặc điểm của cả răng cửa và răng hàm nhỏ. Bằng nhiều cách, nó hoạt động
như một sự chuyển tiếp giữa phần trước và phần sau của cung răng [14].
Nhìn từ phía ngoài:
-

Đường viền gần: cong lồi, điểm tiếp giáp gần nằm ở phần ba cắn

-

nối phần ba giữa. Góc cắn gần rõ.
Đường viền xa: cong lồi nhiều hơn, điểm tiếp giáp xa ở phần ba

-

giữa hơi thiên về phía cắn. Góc cắn xa tròn hơn.
Bờ cắn: có một múi với đỉnh nhọn đặc trưng. Đỉnh múi thiên về

phía gần. Nhìn toàn thể, bờ cắn chiếm khoảng một phần ba, có thể
xấp xỉ một nửa chiều cao thân răng. Gờ múi gần ngắn hơn và ít

-

xuôi hơn, gờ múi xa dài hơn và xuôi hơn.
Đường cổ răng cong lồi đều đặn về phía chóp.
Mặt ngoài: hình thành một gờ rõ (gờ ngoài) chạy từ đỉnh múi về
phía cổ răng. Ở hai bên gờ có hai lõm dọc, giới hạn ba thùy của mặt
ngoài. Thùy gần thường nhỏ hơn thùy xa, thùy giữa lớn nhất [13].

1.2. Phân loại khớp cắn theo Angle


18

Edward H. Angle (1899) đã coi răng hàm lớn thứ nhất hàm trên, răng
vĩnh viễn to nhất của cung hàm trên, có vị trí tương đối ổn định so với nền sọ,
khi mọc không bị chân răng sữa cản trở và còn được hướng dẫn mọc vào
đúng vị trí nhờ vào hệ răng sữa là một mốc giải phẫu cố định và là chìa khóa
của khớp cắn. Căn cứ vào mối tương quan của nó và răng hàm lớn vĩnh viễn
thứ nhất hàm dưới cùng sự sắp xếp của các răng liên quan tới đường cắn ông
đã phân khớp cắn thành 3 loại [18], [19]:
-

Khớp cắn lệch lạc loại I: Khi núm ngoài gần của răng hàm lớn thứ
nhất hàm trên khớp với rãnh ngoài gần của răng hàm lớn thứ nhất
hàm dưới (quan hệ răng hàm lớn thứ nhất trung tính), đường cắn
khớp không đúng (do các răng trước khấp khểnh, xoay...).


Hình 1.7. Khớp cắn lệch lạc loại I [19]
-

Khớp cắn lệch lạc loại II: Khi núm ngoài gần của răng hàm lớn thứ
nhất hàm trên ở về phía gần so với rãnh ngoài gần của răng hàm lớn

thứ nhất hàm dưới.
Khớp cắn lệch lạc loại II được chia thành 2 tiểu loại:
Tiểu loại 1: cung răng hàm trên hẹp, hình chữ V với các răng cửa trên
nghiêng về phía môi (vẩu), độ cắn chìa tăng, môi dưới thường chạm vào mặt
trong các răng cửa trên.
Tiểu loại 2: các răng cửa giữa hàm trên nghiêng vào trong nhiều, trong khi
các răng cửa bên hàm trên nghiêng ra phía ngoài khỏi răng cửa giữa, độ cắn phủ
tăng, cung răng hàm trên ở vùng răng nanh thường rộng hơn bình thường.


19

Hình 1.8. Khớp cắn lệch lạc loại II [19]
-

Khớp cắn lệch lạc loại III: Núm ngoài gần của răng hàm lớn thứ
nhất hàm trên về phía xa so với rãnh ngoài gần của răng hàm lớn
thứ nhất hàm dưới. Các răng cửa dưới có thể ở phía ngoài các răng
cửa trên (cắn ngược vùng cửa).

Hình 1.9. Khớp cắn lệch lạc loại III [19]
1.3. Các nghiên cứu về sự cân đối của nhóm răng trước hàm trên
1.3.1. Sự cân đối trong sắp xếp các răng trước hàm trên
Hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa có nghiên cứu nào được thực hiện đi

sâu về sự cân đối của nhóm răng trước hàm trên. Tuy nhiên trên thế giới, vấn
đề này đã được nhiều tác giả quan tâm và tiến hành nghiên cứu ở nhiều đối
tượng khác nhau, nhằm mục đích ứng dụng đem lại vẻ đẹp hài hòa cho khuôn
mặt và nụ cười.
1.3.1.1. Tỷ lệ vàng


20

Tỷ lệ vàng đã xuất hiện từ rất lâu đời trong các công trình kiến trúc kim
tự tháp của người Ai Cập cổ đại. Tuy nhiên, cho đến thế kỉ thứ ba trước công
nguyên, tỷ lệ vàng lần đầu tiên được định nghĩa bởi nhà toán học người Hy
Lạp Euclide trong tác phẩm bất hủ “Những nguyên tắc cơ bản” như sau:
Điểm C nằm trên đoạn thẳng AB, chia đoạn thẳng này thành hai phần:
AC lớn hơn CB, sao cho: tỉ lệ giữa AC trên BC đúng bằng tỉ lệ giữa AB trên
AC và bằng x. Khi đó, C được gọi là điểm vàng của đoạn AB và x là tỷ lệ
vàng [20].

=

= x

Hình 1.10. Sự phân chia đoạn thẳng AB theo tỷ lệ vàng [20].
Người ta biết đến Tỷ lệ vàng dưới nhiều tên gọi khác nhau như: Tỷ số
vàng, Tỷ lệ thần thánh, Con số vàng… Ngày nay Tỷ lệ vàng thường được ký
hiệu bằng ký tự φ (phi) trong bảng chữ cái Hy Lạp nhằm tưởng nhớ
đến Phidias, nhà điêu khắc đã xây dựng nên đền Parthenon.
Tỷ lệ vàng được biểu diễn như sau:

Phương trình này có nghiệm đại số xác định là một số vô tỷ:


Trong lĩnh vực răng hàm mặt, Lombardi [4] là người đầu tiên đề cập
đến tỷ lệ vàng và dự đoán những ứng dụng của tỷ lệ vàng trong răng hàm mặt
nói chung và trong việc sắp xếp các răng phía trước nói riêng.
Từ quan điểm của Lombardi, năm 1978 Levin [5] chủ trương đưa tỷ lệ
vàng vào việc tái lập kích thước răng. Ông chỉ ra rằng: chiều rộng của răng cửa


21

giữa hàm trên tỷ lệ với chiều rộng răng cửa bên hàm trên theo tỷ lệ vàng
(1:0,618). Tương tự như vậy, chiều rộng của răng cửa bên hàm trên cũng tuân
theo tỷ lệ vàng với chiều rộng răng nanh trên. Chú ý rằng tỷ lệ này chỉ tính cho
chiều rộng các thân răng đo được theo hướng quan sát trực diện từ phía trước.
Levin đã thiết kế ra một bảng kẻ với các khoảng cách tuân theo tỷ lệ vàng và sử
dụng bảng này để ước lượng những tỷ lệ cân đối nhất giữa các răng.

Hình 1.11. Bảng kẻ theo Tỷ lệ vàng của Levin [5]
Nghiên cứu của Levin trở thành cơ sở cho rất nhiều nghiên cứu sau này
về sự tồn tại của tỷ lệ vàng trong việc sắp xếp cân đối các răng trước hàm trên
và ứng dụng của tỷ lệ vàng trong các điều trị phục hình thẩm mỹ. Tuy nhiên,
nhược điểm trong ý tưởng của Levin là việc sử dụng bảng kẻ để xác định chiều
rộng thân răng quan sát được sẽ không cho kết quả chính xác do đầu các thước
đo điện tử luôn lớn hơn kích cỡ của các đường kẻ trên giấy, cũng như việc tái
hiện các điểm tiếp xúc răng lên giấy sẽ cho nhiều sai số và bảng này không thể
áp dụng trong các trường hợp không tồn tại tỷ lệ vàng.
Preston (1993) [21] và Condon (2011) [22] đã áp dụng phương pháp đo
kích thước thân răng trực tiếp trên mẫu và đo chiều rộng gần xa nhìn từ phía
trước trên ảnh chụp chuẩn hóa mẫu hàm. Nghiên cứu của Preston trên 58 sinh
viên nha khoa năm thứ hai tại trường Đại học Nam California và nghiên cứu



22

của Condon tiến hành trên 109 người Ailen tuổi từ 18 - 25 cho kết quả tương tự
nhau : Tỷ lệ răng tương tự nhau ở cả hai giới và tỷ lệ vàng chỉ có thể được áp
dụng cho tỷ lệ giữa chiều rộng răng cửa bên và răng cửa giữa trên ảnh chụp
chuẩn hóa.

Hình 1.12. Ảnh chụp mẫu hàm và thước đo của Preston [21]

Hình 1.13. Kích thước chiều rộng và chiều cao thân răng đo trên mẫu
hàm của Condon [22]
Mặc dù vậy, phương pháp đo trên ảnh chụp chuẩn hóa mẫu hàm vẫn có
nhược điểm là sai số xảy ra trong quá trình lấy dấu và đổ mẫu sẽ dẫn đến sai số
nhiều hơn khi đo chiều rộng thân răng trên ảnh chụp. Do đó, một số tác giả đã
lựa chọn phương pháp đo trên ảnh chụp trực tiếp các đối tượng khi cười bộc lộ
toàn bộ nhóm răng trước để hạn chế các sai số không mong muốn, ví dụ như
nghiên cứu của Nigoo và cộng sự (2009) [9] trên 903 sinh viên từ 18-30 tuổi
nhằm xác định tỷ lệ vàng trên những khuôn mặt hấp dẫn và không hấp dẫn.


23

Phần mềm đo lường được sử dụng để đánh giá chiều rộng gần xa quan sát
được từ phía trước của răng hàm trên trên các bức ảnh. Kết quả cho thấy tỷ lệ
vàng giữa răng cửa giữa và răng cửa bên hàm trên xuất hiện ở 50,3% sinh
viên có nụ cười hấp dẫn so với 38,1% ở nhóm có nụ cười không hấp dẫn (p =
0,014). Tác giả kết luận: tỷ lệ vàng có thể hữu ích để phục hồi thẩm mỹ của
răng cửa giữa và răng cửa bên hàm trên để mang lại một nụ cười hấp dẫn.

1.3.1.2. Tỷ lệ tái lập thẩm mỹ hàm răng (RED)
Nhiều tác giả cho rằng khi áp dụng tỷ lệ vàng trong việc sắp xếp các
răng trước thì khi quan sát từ phía trước, chiều rộng thân răng cửa bên là quá
hẹp và răng nanh không hiện diện đầy đủ. Báo cáo của Preston [21] cũng chỉ
ra rằng tỷ lệ vàng giữa răng cửa giữa và răng cửa bên chỉ tồn tại ở 17% mẫu
hàm đối tượng được nghiên cứu.
Do vậy, từ ý tưởng về một tỷ lệ tiếp nối hay một tỷ số lặp lại của
Lombardi [4], Ward [23] đã đề xuất việc sử dụng một tỷ lệ tiếp nối không
nhất thiết phải giới hạn ở 62% (tương đương với tỷ lệ vàng) mà thay vào đó là
một tỷ lệ mà tùy trường hợp lâm sàng, các nha sĩ cho là phù hợp. Tỷ lệ
Recurring Esthetic Dental (RED) theo sáng kiến của Ward thỏa mãn điều
kiện: khi quan sát từ phía trước, chiều rộng các thân răng bắt đầu từ răng cửa
giữa sang hai bên duy trì cùng một hằng số tỷ lệ.


24

Hình 1.14. Sơ đồ tỷ lệ RED [23]
Mặc dù hướng tới cá nhân hóa tỷ lệ tái lập thẩm mỹ hàm răng sao cho
phù hợp với mỗi cá nhân, nhưng Ward vẫn gợi ý tỷ lệ RED 70% mà theo tác
giả là được ưu tiên hơn cả trong nghiên cứu về sự ưa thích của các nha sĩ về
tỷ lệ và kích thước thân răng trước.
1.3.1.3. Tỷ lệ phần trăm vàng
Khi áp dụng tỷ lệ vàng vào sự sắp xếp sáu răng trước hàm trên, Snow
[3] đã phát hiện ra một điểm đáng chú ý: nếu lần lượt chia mỗi chiều rộng
thân răng quan sát được cho tổng chiều rộng sáu răng trước rồi nhân với
100% thì kết quả nhận được sẽ cho ra “tỷ lệ phần trăm vàng” tương ứng với
sự xuất hiện của mỗi răng là 10%:15%:25%:25%: 15%: 10%.
Snow chỉ ra rằng tỷ lệ phần trăm vàng rõ ràng có hữu ích trong việc
phân tích nụ cười do:

- Không phụ thuộc vào chiều rộng răng bên cạnh để phân tích, thay vào
đó đánh giá chiều rộng của mỗi răng dựa trên sự đóng góp của các
răng này vào sự đối xứng và ưu thế của toàn bộ nhóm răng trước.
- Một hàm răng với các răng tương ứng có chiều rộng đồng nhất sẽ
có tỷ lệ phần trăm đồng nhất.


25

- Sự bất đối xứng rõ ràng có sự không đồng nhất và hoàn toàn có thể
định lượng được.
- Tỷ lệ 25% của mỗi răng cửa giữa (hay 50% của cả hai răng cửa
giữa với chiều rộng như nhau) có thể dễ dàng phân tích và ước
lượng mà không cần đến thước đo điện tử hay máy tính.
Mặc dù cần có những nghiên cứu trong tương lai với các thiết kế
nghiên cứu khách quan và chính xác hơn để xác định tỷ lệ phần trăm vàng
thực sự, nhưng tác giả cho rằng tỷ lệ phần trăm vàng đưa ra trong nghiên cứu
trên có thể hữu ích trong việc phân tích, chẩn đoán và điều trị phục hồi thẩm
mỹ nụ cười.
Từ lý thuyết của Levin, Snow và Ward, Ali Fayyad và cộng sự [7] nghiên
cứu trên 376 sinh viên từ 20-23 tuổi nhằm xác định sự tồn tại của tỷ lệ vàng, tỷ
lệ RED và tỷ lệ phần trăm vàng trên cung răng tự nhiên. Phần mềm đo lường
được sử dụng để đánh giá chiều rộng gần xa quan sát được từ phía trước của
răng hàm trên trên các bức ảnh. Kết quả cho thấy tỷ lệ vàng được tìm thấy
giữa chiều rộng răng cửa giữa và răng cửa bên hàm trên ở 31,3% nam giới và
27,1% nữ giới. Trong khi tỷ lệ RED không hằng định ở các đối tượng nghiên
cứu. Tỷ lệ phần trăm vàng với giá trị được đề xuất là 10%, 15%, 25% không
thích hợp cho các đối tượng trong nghiên cứu này, tuy nhiên một sự điều
chỉnh nhỏ về tỷ lệ phần trăm có thể phù hợp hơn cho các chủng tộc khác
nhau, cụ thể trong nghiên cứu của Ali Fayyad và cộng sự đó là: chiều rộng

thân răng cửa giữa chiếm 23%, răng cửa bên chiếm 15% và răng nanh chiếm
12%. Tác giả kết luận: cả tỷ lệ vàng và tỷ lệ RED đều không phù hợp để phục
hồi thẩm mỹ răng cửa giữa và răng cửa bên hàm trên. Tỷ lệ phần trăm vàng có
thể được áp dụng trong việc sắp xếp các răng trước nếu được điều chỉnh tỷ lệ
phần trăm cho phù hợp với từng chủng tộc.


×