Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Pháp luật điều chỉnh hoạt động thâu tóm thù địch doanh nghiệp tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

PHAN TRỌNG TIÊN

PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG THÂU TÓM
THÙ ĐỊCH DOANH NGHIỆP
TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

PHAN TRỌNG TIÊN

PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG THÂU TÓM
THÙ ĐỊCH DOANH NGHIỆP
TẠI VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: Luật Kinh tế
MÃ SỐ: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN HUỲNH THANH NGHỊ

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2016




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các tác phẩm, bài viết được trích dẫn trong luận văn theo nguồn đã được
công bố đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của Luận văn là trung thực mà chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
TP. Hồ Chí Minh, năm 2016
Tác giả luận văn

Phan Trọng Tiên


MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA

-

LỜI CAM ĐOAN

-

MỤC LỤC

-

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


-

TÓM TẮT LUẬN VĂN

-

PHẦN MỞ ĐẦU

1

Chương 1. KHUNG LÝ THUYẾT VỀ HOẠT ĐỘNG THÂU TÓM THÙ ĐỊCH
DOANH NGHIỆP
11
1.1. M&A và hoạt động thâu tóm doanh nghiệp

11

1.2. Thâu tóm thân thiện và thâu tóm thù địch

13

1.3. Phương pháp thâu tóm

15

1.3.1. Thâu tóm bằng cách lôi kéo cổ đông bất mãn

15

1.3.2. Thu mua cổ phiếu trên thị trường chứng khoán


16

1.3.3. Chào mua công khai

16

1.4. Động cơ của hoạt động thâu tóm thù địch

18

1.4.1. Giảm thiểu đối thủ cạnh tranh

18

1.4.2. Giảm thiểu chi phí, nâng cao hiệu quả

19

1.4.3. Giảm chi phí gia nhập thị trường

19

1.5. Biện pháp tự vệ (Takeover defences)

20

1.5.1. Các biện pháp phòng ngừa thâu tóm

21


1.5.2. Các biện pháp chống thâu tóm

22

1.6. Trách nhiệm của người quản lý công ty

23

1.7. Sự cần thiết điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động thâu tóm thù địch

25

Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG THÂU
TÓM THÙ ĐỊCH DOANH NGHIỆP TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA PHÁT
TRIỂN VÀ VIỆT NAM
30
2.1. Pháp luật điều chỉnh hoạt động thâu tóm thù địch doanh nghiệp tại Anh

30


2.1.1. Hội đồng về Thâu tóm và Sáp nhập và Bộ quy tắc về Thâu tóm và Sáp
nhập
30
2.1.2. Quy định bảo vệ cổ đông công ty mục tiêu

32

2.1.3. Trách nhiệm của người quản lý công ty và việc áp dụng các biện pháp

tự vệ
34
2.2. Pháp luật điều chỉnh hoạt động thâu tóm thù địch doanh nghiệp tại Mỹ 37
2.2.1. Pháp luật điều chỉnh hoạt động thâu tóm thù địch doanh nghiệp của liên
bang
37
2.2.2. Pháp luật điều chỉnh hoạt động thâu tóm thù địch doanh nghiệp của tiểu
bang
40
2.3. Pháp luật điều chỉnh hoạt động thâu tóm thù địch doanh nghiệp tại Việt
Nam
43
2.3.1. Thực trạng hoạt động thâu tóm thù địch doanh nghiệp tại Việt Nam 43
2.3.2. Đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động thâu tóm thù địch
doanh nghiệp tại Việt Nam
47
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THÂU
TÓM THÙ ĐỊCH DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
60
3.1. Các giải pháp chung
3.1.1. Xây dựng cơ chế đối trọng điều chỉnh hoạt động thâu tóm thù địch

60
60

3.1.2. Xây dựng khung pháp lý thống nhất điều chỉnh hoạt động thâu tóm thù
địch
63
3.2. Các đề xuất cụ thể
3.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về bảo vệ cổ đông


65
65

3.2.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm của người quản lý công ty
và việc áp dụng các biện pháp tự vệ
67
3.2.3. Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế

70

3.2.4. Hoàn thiện pháp luật về quản lý đầu tư nước ngoài và tỷ lệ sở hữu của
nhà đầu tư nước ngoài
71
KẾT LUẬN

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

-


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1.

CTMT

: Công ty mục tiêu


2.

CTTT

: Công ty thâu tóm

3.

ĐHĐCĐ

: Đại hội đồng cổ đông

4.

HĐQT

: Hội đồng quản trị

5.

NHNN

: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

6.

NQLCT

: Người quản lý công ty


7.

SGDCK

: Sở giao dịch chứng khoán

8.

TTCK

: Thị trường chứng khoán

9.

TTKT

: Tập trung kinh tế

10. TTTĐ

: Thâu tóm thù địch

11. UBCKNN

: Ủy ban chứng khoán nhà nước


TÓM TẮT LUẬN VĂN
Chương 1: (“Khung lý thuyết về hoạt động thâu tóm thù địch doanh nghiệp”) sẽ
trình bày những vấn đề lý luận chung về thâu tóm thù địch doanh nghiệp, làm nền

tảng lý thuyết cho việc tiếp cận và giải quyết các nội dung sau của Luận văn. Các
vấn đề sẽ được làm sáng tỏ bao gồm: (i) M&A và hoạt động thâu tóm doanh
nghiệp; (ii) Thâu tóm thân thiện và thâu tóm thù địch; (iii) Phương pháp thâu tóm;
(iv) Động cơ thực hiện thâu tóm; (v) Trách nhiệm được ủy thác của người quản lý
và (vi) Nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động thâu tóm thù địch doanh
nghiệp.
Chương 2: (“Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động thâu tóm thù địch doanh
nghiệp tại một số quốc gia phát triển và Việt Nam”) sẽ trình bày hệ thống quy định
pháp luật điều chỉnh hoạt động thâu tóm thù địch doanh nghiệp tại Anh và Mỹ, hai
quốc gia có kinh nghiệm lập pháp phong phú đối với hoạt động này. Ở Anh, Luận
văn sẽ trình bày về Bộ quy tắc Thâu tóm và Sáp nhập, văn bản pháp lý cơ bản điều
chỉnh hoạt động thâu tóm với hai quy tắc nền tảng: quy tắc không can thiệp và quy
tắc chào mua bắt buộc. Ở Mỹ, Luận văn sẽ trình bày về hệ thống pháp luật hai cấp,
với pháp luật liên bang điều chỉnh những vấn đề chung về thị trường chứng khoán
và hoạt động chào mua công khai và pháp luật tiểu bang với các đạo luật chống thâu
tóm. Từ đó, sẽ trình bày về diễn biến hoạt động thâu tóm tại Việt Nam với hai ví dụ
điển hình về hoạt động thâu tóm thù địch, tiến hành phân tích các quy định pháp
luật điều chỉnh hoạt động thâu tóm thù địch doanh nghiệp tại Việt Nam. Qua đó,
làm rõ những vướng mắc, bất cập còn tồn tại, cần được điều chỉnh cho phù hợp.
Chương 3: (“Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thâu tóm thù địch doanh nghiệp tại
Việt Nam”) sẽ trình bày một số giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý về thâu
tóm thù địch doanh nghiệp tại Việt Nam trên cơ sở tiếp thu những tiến bộ, thành tựu
lập pháp phù hợp của các quốc gia phát triển. Giải pháp chung bao gồm các đề xuất,
kiến nghị về việc xây dựng cơ chế đối trọng trong việc điều chỉnh hoạt động thâu
tóm thù địch và xây dựng khung pháp lý thống nhất để điều chỉnh hành vi này. Các
giải pháp cụ thể bao gồm: (i) Hoàn thiện quy định pháp luật về bảo vệ cổ đông; (ii)
Hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm của người quản lý công ty và việc áp
dụng các biện pháp tự vệ; (iii) Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế
và (iv) Hoàn thiện pháp luật về quản lý đầu tư nước ngoài và tỷ lệ sở hữu của nhà
đầu tư nước ngoài.



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thâu tóm doanh nghiệp (Takeovers) là một hoạt động phổ biến trên thế giới
và đã được pháp luật nhiều quốc gia lưu ý điều chỉnh từ lâu. Ở Anh, Bộ quy tắc về
Thâu tóm và Sáp nhập (City Code on Takeovers and Mergers) đã được ban hành từ
năm 1968; đồng thời, Hội đồng về Thâu tóm và Sáp nhập (Panel on Takeovers and
Mergers) được thành lập nhằm thực thi các quy định của Bộ quy tắc. Ở Mỹ, hoạt
động thâu tóm doanh nghiệp được điều chỉnh bởi pháp luật liên bang và tiểu bang
với phạm vi điều chỉnh khác nhau.1 Gần Việt Nam hơn, Trung Quốc đã ban hành
quy định về “Biện pháp quản lý thâu tóm doanh nghiệp” từ năm 2002.2
Ở Việt Nam, công chúng quen thuộc với thuật ngữ M&A hơn là thâu tóm.
Thực tế, M&A (Merge & Accquisition) bao hàm nhiều hoạt động kinh tế khác
nhau, có thể là hoạt động tái tổ chức doanh nghiệp và/hoặc hoạt động TTKT, như:
hợp nhất, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp, mua lại tài sản... Luật Doanh nghiệp,
Luật Cạnh tranh cũng đã có định nghĩa về một số hoạt động này. Trong công trình
nghiên cứu này, thuật ngữ “thâu tóm” (Takeovers) sẽ được sử dụng với ý nghĩa là
bất kỳ hành vi M&A nào nhằm đạt được sự kiểm soát đối với một công ty.
Hành vi thâu tóm có thể là thân thiện hoặc thù địch. Sự phân biệt thông
thường dựa trên việc thâu tóm được thực hiện có chống lại mong muốn của người
quản lý hiện tại của CTMT3 (Target board) hay không. Thâu tóm một công ty bằng
cách chào mua cổ phần của các cổ đông CTMT một cách trực tiếp mà không thông
qua NQLCT được xem là hoạt động TTTĐ. Một thương vụ TTTĐ thành công khi
CTTT đạt được đủ số lượng cổ phần cần thiết để có thể kiểm soát CTMT. Mục đích
Ở Mỹ, pháp luật liên bang chủ yếu điều chỉnh các vấn đề về chứng khoán, chào thầu, chống độc
quyền…Trong khi đó, pháp luật của các tiểu bang lại điều chỉnh các vấn đề về Điều lệ doanh nghiệp, nội
quy, trách nhiệm của Người quản lý và biện pháp chống thâu tóm… Hầu hết các tiểu bang của Mỹ đã thông

qua luật về chống thâu tóm (Anti-takeover laws).
2
“Biện pháp quản lý thâu tóm doanh nghiệp” năm 2002 được Ủy ban điều tiết chứng khoán Trung Quốc
(CSRC) ban hành ngày 28/09/2002, có hiệu lực từ ngày 01/12/2002 và hết hiệu lực ngày 01/09/2006; được
thay thế bằng “Biện pháp quản lý thâu tóm doanh nghiệp” năm 2006.
3
CTMT (Target Company): là đối tượng được công ty khác nhắm đến để thực hiện hoạt động thâu tóm.
1


2

thực hiện hoạt động TTTĐ rất khác nhau, nhưng thông thường liên quan đến nhu
cầu tích lũy tài chính thông qua việc thay thế cơ cấu quản trị điều hành kém hiệu
quả của CTMT để tạo ra nhiều lợi nhuận hơn trong tương lai hoặc bán tài sản có giá
trị của CTMT để thu lợi nhuận. Đối với hoạt động thâu tóm công ty, TTTĐ được
quan tâm nghiên cứu nhiều hơn bởi lẽ nó mang đầy đủ những đặc trưng của hoạt
động này. Đồng thời, song song với hành vi TTTĐ là các biện pháp chống thâu tóm
– là vấn đề pháp lý cần được quan tâm nghiên cứu.
Ở Việt Nam, hoạt động TTTĐ tuy chưa quá phổ biến nhưng đã không còn là
hiện tượng hiếm hoi trong nền kinh tế. TTTĐ nhất là trong lĩnh vực ngân hàng,
được xã hội quan tâm và đặc biệt gây chú ý bởi sự không rõ ràng về mặt pháp lý,
thậm chí sẵn sàng vi phạm pháp luật. Thật vậy, qua sự kiện thâu tóm Ngân hàng
TMCP Sài Gòn Thương tín, nhiều cá nhân đã vi phạm quy định về thông báo về
việc thu mua cổ phiếu đạt ngưỡng cổ đông lớn. Vụ việc này khép lại với việc thâu
tóm thành công một ngân hàng lớn và những án phạt muộn màn của UBCKNN đã
để lại rất nhiều câu hỏi về khung pháp lý điều chỉnh hoạt động TTTĐ công ty ở Việt
Nam.
Pháp luật Việt Nam chưa có một khung pháp lý thống nhất điều chỉnh hoạt
động thâu tóm. Hoạt động thâu tóm doanh nghiệp được điều chỉnh rải rác trong

nhiều văn bản pháp luật như Bộ luật Dân sự năm 2015 (Điều 88, 89); Luật Cạnh
tranh năm 2004 (Điều 16 đến 24); Luật Doanh nghiệp năm 2014 (Điều 194, 195);
Luật Đầu tư năm 2014 (Điều 23, 24); Luật Chứng khoán năm 2006, sửa đổi bổ sung
năm 2010 (Điều 29, 32, 69). Tuy nhiên, mỗi quy định hướng tới những mục tiêu
điều chỉnh khác nhau, trong đó các quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng
khoán là nguồn luật chủ yếu điều chỉnh hoạt động thâu tóm. Các quy định pháp luật
khác chỉ nhắc đến và điều chỉnh một số vấn đề cụ thể phát sinh trong quá trình thâu
tóm, mà nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng
khoán.
TTTĐ là hoạt động tương đối phức tạp. Kết quả của một thương vụ thâu tóm
gây ra tác động lớn đến nhiều bên liên quan và vì vậy, cần thiết phải chi tiết hóa quy


3

định thâu tóm. Các mục tiêu căn bản mà một thương vụ thâu tóm cần đạt được là
bảo vệ được quyền lợi của cổ đông thiểu số; bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, người lao
động và khách hàng. Để đạt được các mục tiêu này, nhiều chi tiết kỹ thuật, hoặc tối
thiểu là nguyên tắc thực hiện nên được thể chế hóa bằng quy định pháp luật. Nhìn
chung, tại Việt Nam đã tồn tại những quy định cơ bản nhất về hoạt động thâu tóm.
Trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng phát triển, cạnh tranh ngày càng khốc
liệt và TTKT trở thành một xu thế không thể đảo ngược. Hoạt động thâu tóm doanh
nghiệp (đặc biệt là TTTĐ) hứa hẹn sẽ sôi động và ngày càng phức tạp trong tương
lai. Do đó, cần có một khung pháp lý hoàn thiện để điều chỉnh một cách toàn diện
hoạt động thâu tóm doanh nghiệp. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật điều
chỉnh hoạt động thâu tóm thù địch doanh nghiệp tại Việt Nam” làm đề tài Luận
văn thạc sĩ cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Thâu tóm doanh nghiệp bằng các hoạt động M&A đã được quan tâm nghiên
cứu tại Việt Nam. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu đều tập trung ở khía

cạnh kinh tế hơn là pháp lý. Dưới góc độ pháp lý, cũng đã có nhiều công trình
nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau, có thể kể đến một vài công trình nghiên
cứu sau:
Các luận án tiến sĩ: “Pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam” của tác
giả Trần Thị Bảo Ánh (2014); “Sáp nhập, hợp nhất và mua bán Ngân hàng Thương
mại Cổ phần ở Việt Nam” của tác giả Phan Diên Vỹ (2013); “Đảm bảo quyền cổ
đông thiểu số trong mua bán, sáp nhập công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam”
của tác giả Cao Đình Lành (2014).
Các luận văn thạc sĩ: “Hoàn thiện pháp luật về sáp nhập và mua lại doanh
nghiệp (M&A) phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam” của tác giải Phùng
Ngọc Việt Nga (2012); “Sự điều chỉnh pháp luật về thị trường mua bán, sáp nhập
doanh nghiệp – Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Thị Hoàng Oanh (2010); “Khía cạnh pháp lý của hoạt động sáp nhập và mua lại các
tổ chức tài chính ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Mai Hương (2010); “Sáp


4

nhập và mua lại doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam – Thực trạng và phương
hướng hoàn thiện” của tác giả Đào Trọng Nhân (2009); “Sáp nhập và mua bán
doanh nghiệp – Nghiên cứu so sánh giữa pháp luật Việt Nam và Anh Quốc” của tác
giả Trần Văn Khanh (2009)...
Một số bài viết, bài nghiên cứu, báo cáo trên các báo, tạp chí chuyên ngành
nổi bật như: “Thâu tóm và hợp nhất từ khía cạnh quản trị công ty: Lý luận, kinh
nghiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đình Cung và Lưu
Minh Đức – Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (Tạp chí quản lý kinh tế
số tháng 6/2012); “Một số vấn đề trong hoạt động M&A ở Việt Nam trong thời gian
qua” của Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công thương; “Làm rõ khái niệm sáp nhập
doanh nghiệp” của tác giả Nguyễn Thị Minh Huyền (Tạp chí kinh tế và dự báo số 6,
tháng 3/2009); “Một số vấn đề về sáp nhập, mua lại doanh nghiệp và tình hình Việt

Nam” của tác giả Nguyễn Thường Lạng, Nguyễn Thị Quỳnh Thư (Tạp chí Ngân
hàng số 15/2008)…
Đồng thời, trên bình diện quốc tế, vấn đề thâu tóm doanh nghiệp (Takeovers)
cũng được quan tâm nghiên cứu với rất nhiều công trình nghiên cứu (luận văn, tiểu
luận, bài nghiên cứu, báo cáo…) có giá trị được đăng tải trên mạng Internet như:
“The Regulation of Takeovers” của tác giả Alcock A (2001); “The Evolution of
Hostile Takeover Regimes in Developed and Emerging Markets: An Analytical
Framework” của các tác giả Jacobs J và Milhaupt C (2011)4, “Do Hostile Mergers
Destroy Jobs?” của các tác giả M. Conyon, S. Girma, P. Wright và S. Thompson
(2000)5, “Who Writes the Rules for Hostile Takeovers, and Why? The Peculiar
Divergence of US and UK Takeover Regulation” của các tác giả John Armour và
David A. Skeel Jr. …

Công trình nghiên cứu tập trung phân tích sự phát triển của chế độ pháp lý điều chỉnh hoạt động TTTĐ và
các biện pháp chống thâu tóm tại ba nền kinh tế lớn Mỹ, Anh và Nhật, giải thích những sự khác biệt, nguyên
nhân của những khác biệt đó. Từ đó, đưa ra các gợi ý cho các nền kinh tế đang phát triển như Trung Quốc,
Ấn Độ và Brazil.
5
Công trình tập trung nghiên cứu tác động của hoạt động TTTĐ đối với người lao động tại nước Anh trong
giai đoạn 1983-1986.
4


5

Nhìn chung, trên bình diện quốc tế, thâu tóm và các hoạt động M&A đã được
nghiên cứu sâu rộng, ở nhiều góc độ và vấn đề liên quan. Tuy nhiên, các nghiên cứu
về pháp luật liên quan đến hoạt động thâu tóm nói riêng và M&A nói chung tại Việt
Nam vẫn còn ít ỏi, điều này đã được phản ánh phần nào thông qua sự hạn chế của
các quy định pháp luật có liên quan.

Các công trình hầu hết chỉ chú ý nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ pháp lý
nhưng lại chưa toàn diện, chưa tập trung nghiên cứu bản chất của hoạt động thâu
tóm và chỉ đơn thuần phân tích, đánh giá các quy định pháp luật thực định hoặc chỉ
nghiên cứu một khía cạnh, lĩnh vực nhỏ (thâu tóm trong hoạt động đầu tư; lĩnh vực
ngân hàng) hoặc phân tích các tình huống, vụ việc phát sinh trên thực tế. Nhiều
công trình đã thực hiện nghiên cứu pháp luật nước ngoài về hoạt động mua bán, sáp
nhập; so sánh với pháp luật Việt Nam để đưa ra hướng điều chỉnh phù hợp. Tuy
nhiên, cũng chỉ dừng lại ở việc phân tích, so sánh pháp luật giữa các nước.
Đến nay, qua tra cứu của tác giả, hiện vẫn chưa có bất kỳ công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu về bản chất hoạt động TTTĐ cũng như các vấn đề liên quan,
chưa làm sáng tỏ vai trò của các bên tham gia hoạt động này. Do đó, tác giả tự nhận
thấy đề tài đảm bảo yêu cầu về tính mới, cần thiết tiếp tục nghiên cứu.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Công trình nghiên cứu sau khi được hoàn thành sẽ giải quyết được những câu
hỏi nghiên cứu sau đây:
Câu hỏi 1: Trong điề u kiê ̣n kinh tế thi ̣ trường, thâu tóm là hoạt động diễn ra
phổ biế n và được nhìn nhận với nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, nói đến
TTTĐ, hầu hết mọi người đều có ấn tượng không tốt và cho rằng đây là hành vi tiêu
cực, cần được điều chỉnh theo hướng cấm. Mặc dù vậy, TTTĐ lại là một hoạt động
phổ biến trong nền kinh tế của các quốc gia phát triển. Như vâ ̣y, liệu TTTĐ là hành
vi tốt hay xấu và vai trò của nó đối với quản trị công ty? Pháp luật có nên điều chỉnh
hoạt động TTTĐ hay không? Và nếu có thì lý do và nô ̣i dung của pháp luật điều
chỉnh vấ n đề này là gì?


6

Câu hỏi 2: Vai trò của chủ sở hữu và NQLCT khi đối mặt với một đề nghị
thâu tóm là một vấn đề cần quan tâm và điều chỉnh pháp luật phù hợp vì nó tác
động lớn đến quyền, lợi ích của rất nhiều bên mà đặc biệt là cổ đông thiểu số, pháp

luật nên giao thẩm quyền quyết định cho ai và với những điều kiện như thế nào để
bảo đảm sự cân bằng về quyền và lợi ích cho tất cả các bên. Như vâ ̣y, ai là người có
thẩm quyền tối hậu trong việc quyết định chấp nhận hay từ chối đề nghị TTTĐ:
NQLCT – người được trao quyền thực hiện quản lý hàng ngày đối với công ty hay
cổ đông – người chủ sở hữu thực tế của công ty? NQLCT có trách nhiệm gì đối với
cổ đông? NQLCT có quyền quyết định áp dụng các biện pháp tự vệ mà không cần
sự chấp thuận của cổ đông hay không?
Câu hỏi 3: Pháp luật điều chỉnh hoạt động TTTĐ hiện nay còn hạn chế và chỉ
dừng lại ở những quy định tản mát. Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi kinh nghiệm
của các quốc gia phát triển trong việc điều chỉnh hoạt động này để có thể đưa ra
hướng điều chỉnh phù hợp nhất với tình hình phát triển của mình. Cách thức điều
chỉnh hoạt động TTTĐ sẽ được làm sáng tỏ thông qua việc giải quyết câu hỏi
nghiên cứu thứ ba, đó là: trong hoạt động TTTĐ, pháp luật cần điều chỉnh như thế
nào để bảo đảm quyền lợi của các bên?
Trả lời câu hỏi này sẽ làm sáng tỏ những lợi ích cần được bảo vệ, điều chỉnh
pháp lý trong hoạt động TTTĐ. Đưa ra những định hướng, khuyến nghị, đề xuất
nhằm hoàn thiện thể chế, khung pháp lý điều chỉnh đối với hoạt động TTTĐ nói
riêng và thâu tóm doanh nghiệp nói chung nhằm bảo đảm quyền lợi của các bên
cũng như sự phát triển ổn định, lành mạnh của môi trường kinh doanh.
4. Các giả thuyết nghiên cứu
Để đảm bảo cho việc nghiên cứu được thực hiện đúng hướng và đạt được mục
đích đã đặt ra, tác giả đã xây dựng một số giả thuyết nghiên cứu tạm thời như sau:
Thứ nhất, TTTĐ (Hostile Takeovers) là một hoạt động bình thường trong nền
kinh tế thị trường. Mặc dù chưa phổ biến ở Việt Nam nhưng hoạt động này mang
tính khách quan và cần được pháp luật điều chỉnh để đảm bảo sự phát triển bình


7

thường và lành mạnh của nền kinh tế quốc gia. TTTĐ cần được điều chỉnh bởi các

quy định đặc thù để bảo đảm quyền lợi của các bên.
Thứ hai, TTTĐ không phải là một hoạt động tiêu cực trong mọi trường hợp.
Hoạt động TTTĐ diễn ra trong bối cảnh thông tin không được công khai; đề nghị
thâu tóm không được thực hiện theo những trình tự với các thời hạn được đặt ra một
cách phù hợp và đề nghị thâu tóm không công bằng giữa các cổ đông là hành vi tiêu
cực, xâm phạm đến quyền lợi của cổ đông CTMT (nhất là cổ đông thiểu số), cần
được pháp luật điều chỉnh.
Thứ ba, cổ đông CTMT (Target Shareholders) có quyền quyết định trong việc
chấp thuận hoặc từ chối đề nghị thâu tóm (Tender Offers/Takeover Bids). Bên đề
nghị thâu tóm có trách nhiệm công khai hóa toàn bộ thông tin cần thiết liên quan
đến thương vụ thâu tóm. Đồng thời, bản thân người quản lý CTMT (Target
Directors) có trách nhiệm công khai thông tin, cung cấp những tư vấn phù hợp để tư
vấn, hỗ trợ cổ đông quyết định một cách phù hợp. Việc NQLCT tự ý áp dụng các
biện pháp tự vệ (Takeover Defences) mà không có sự đồng ý của cổ đông để duy trì
quyền quản lý của mình là hành vi không phù hợp và phải được điều chỉnh theo
hướng nghiêm cấm.
Thứ tư, người quản lý CTMT phải giữ gìn và thực hiện đúng trách nhiệm được
ủy thác của NQLCT (Directors’ Fiduciary Duties). Trách nhiệm được ủy thác cho
phép NQLCT được quyền tự do định đoạt trong việc giải quyết các vấn đề của công
ty nhân danh cổ đông cho đến khi nào hành động của NQLCT là ngay tình (bona
fide) và vì lợi ích tối đa của công ty. Vì vậy, NQLCT không có quyền cản trở cổ
đông CTMT đưa ra quyết định chấp thuận đề nghị thâu tóm nếu cổ đông xét thấy
giao dịch thâu tóm đó là có lợi.
Thứ năm, khung pháp lý điều chỉnh hoạt động thâu tóm ở Việt Nam chưa hoàn
chỉnh và cần được xây dựng, cải tiến trong tương lai gần nhằm đáp ứng nhu cầu
hoàn thiện pháp luật, cũng như bắt kịp xu hướng tiến bộ trên thế giới. Đối với việc
điều chỉnh hoạt động TTTĐ, một số nước phát triển có kinh nghiệm lập pháp và


8


trình độ quản lý tốt mà Việt Nam có thể học hỏi, vận dụng cho phù hợp với điều
kiện và hoàn cảnh của mình.
5. Mục đích và các mục tiêu nghiên cứu
Mục đích của tác giả khi nghiên cứu đề tài này là mong muốn làm sáng tỏ vai
trò, trách nhiệm của các bên có liên quan trong hoạt động TTTĐ (CTTT; người
quản lý CTMT; cổ đông CTMT; các bên có liên quan khác) và vai trò của các cơ
quan quản lý nhà nước. Qua đó, đưa ra định hướng, những đề xuất, khuyến nghị
phù hợp trong việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật để điều chỉnh đối với loại hoạt
động này nhằm bảo đảm quyền lợi của tất cả các bên cũng như sự phát triển của nền
kinh tế.
Để đạt được mục đích nêu trên, tác giả thấy rằng cần lần lượt đạt được các
mục tiêu cụ thể như sau:
Thứ nhất, tìm hiểu, nghiên cứu đầy đủ, kỹ lưỡng và toàn diện các quy định
pháp lý về hoạt động TTTĐ doanh nghiệp. Qua đó, đưa ra đánh giá chi tiết về thực
trạng quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến hoạt động TTTĐ doanh nghiệp.
Thứ hai, tham khảo kinh nghiệm lập pháp, quản lý hoạt động thâu tóm doanh
nghiệp của các nước phát triển (Anh, Mỹ). Nghiên cứu nguồn gốc, học thuyết dẫn
đến sự ra đời và phát triển của các quy định về TTTĐ doanh nghiệp tại các quốc gia
này. Đánh giá các quy định tiến bộ, có giá trị, phù hợp để tiếp thu và áp dụng tại
Việt Nam.
Thứ ba, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về TTTĐ
doanh nghiệp tại Việt Nam.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện Luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau đây:
Phương pháp phân tích, tổng hợp: để xác định và luận giải các quy định của
pháp luật, các học thuyết về TTTĐ doanh nghiệp.



9

Phương pháp nghiên cứu học thuyết pháp lý mà chủ yếu là phân tích luật viết
để làm sáng tỏ những hạn chế, thiếu sót trong quy định pháp luật về TTTĐ doanh
nghiệp.
Phương pháp so sánh pháp luật: thông qua việc trình bày các quy định pháp
luật về TTTĐ doanh nghiệp ở một số quốc gia phát triển (Anh, Mỹ), tiến hành so
sánh với các quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam để làm sáng tỏ những hạn
chế, thiếu sót của quy định pháp luật hiện tại, học hỏi cách giải quyết đã có để đưa
ra đề xuất, kiến nghị phù hợp nhằm hoàn thiện pháp luật về TTTĐ doanh nghiệp ở
nước ta.
Phương pháp phỏng vấn chuyên gia: thông qua việc tiếp xúc, phỏng vấn
những chuyên gia có hiểu biết sâu sắc về thâu tóm doanh nghiệp sẽ giúp ích cho
việc làm rõ thực tiễn TTTĐ doanh nghiệp hiện nay, thực trạng áp dụng quy định
pháp luật, nhu cầu, mong muốn điều chỉnh pháp luật để tạo ra cơ chế, điều kiện cần
thiết để điều chinh phù hợp đối với hoạt động TTTĐ doanh nghiệp.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Trong điều kiện giới hạn về thời gian nghiên cứu, tài liệu tham khảo và trong
khuôn khổ của một Luận văn cao học, tác giả tự định ra cho mình góc độ tiếp cận
như sau:
Thứ nhất, Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động TTTĐ doanh nghiệp.
Những phân tích, trình bày liên quan đến hoạt động thâu tóm thân thiện hoặc thâu
tóm doanh nghiệp nói chung chỉ nhằm làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu.
Thứ hai, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động TTTĐ đối với các công ty
cổ phần là công ty đại chúng và có cổ phiếu đã niêm yết trên thị trường chứng
khoán.
Thứ ba, Luận văn chỉ tập trung phân tích bản chất hoạt động TTTĐ và các
giao dịch có liên quan dưới góc độ Luật Cạnh tranh (khía cạnh thâu tóm dẫn đến
tình trạng TTKT, hạn chế cạnh tranh), Luật Chứng khoán (thủ tục, quy định liên
quan đến chào mua cổ phiếu). Luận văn này không bao hàm việc nghiên cứu các



10

vấn đề sau đây: lao động, đất đai, hợp đồng, kế toán, thuế khi thực hiện hoạt động
thâu tóm.
Thứ tư, đối với nội dung liên quan đến pháp luật nước ngoài về hoạt động
TTTĐ, tác giả chỉ dừng lại ở việc trình bày khái quát các khái niệm, học thuyết, quy
định pháp luật và lịch sử hình thành các quy định này ở những khía cạnh, nội dung
mà tác giả đánh giá là quan trọng, cần thiết để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của
luận văn. Tác giả không có ý định và cũng không phân tích, trình bày đầy đủ, toàn
diện quy định pháp luật nước ngoài về TTTĐ.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn được trình bày trong 03 chương như sau:
Chương 1. Khung lý thuyết về hoạt động thâu tóm thù địch doanh nghiệp
Chương 2. Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động thâu tóm thù địch doanh
nghiệp tại một số quốc gia phát triển và Việt Nam
Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về thâu tóm thù địch doanh
nghiệp tại Việt Nam


11

Chương 1
KHUNG LÝ THUYẾT VỀ HOẠT ĐỘNG THÂU TÓM THÙ ĐỊCH
DOANH NGHIỆP
1.1. M&A và hoạt động thâu tóm doanh nghiệp
M&A là thuật ngữ phổ biến tại Việt Nam. Theo cách hiểu thông thường nhất,
phần lớn mọi người hiểu M&A là mua lại và sáp nhập dựa trên nghĩa tiếng Anh đầy
đủ của M&A là: Mergers and Acquisition, mà không cần bất kỳ sự diễn giải nào.

Thực tế, theo đánh giá của các chuyên gia, việc dịch thuật ngữ M&A theo nghĩa
tiếng Anh như vậy là chưa thật sự chính xác và đầy đủ.6
Trên thực tế, vẫn chưa có bất kỳ khái niệm pháp lý chính thức nào về hoạt
động M&A. Phần lớn chỉ khái niệm một số hình thức chủ yếu của hoạt động M&A
như sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp dưới góc độ tài chính. Tại Hoa Kỳ,
theo pháp luật liên bang, sáp nhập có nghĩa là sự kết hợp giữa hai công ty mà một
bên hoàn toàn bị thâu tóm bởi công ty kia. Công ty kém quan trọng hơn sẽ mất đi
đặc điểm nhận diện của mình và trở thành một phần của công ty quan trọng hơn nơi
vẫn giữ được đặc điểm nhận diện của mình. Khác với hoạt động sáp nhập, hoạt
động hợp nhất làm cho hai công ty cùng bị mất đi những đặc điểm nhận dạng của
mình và tạo nên một hình thức công ty hoàn toàn mới. Còn đối với hoạt động mua
bán doanh nghiệp, pháp luật không đưa ra định nghĩa cụ thể mà chỉ quy định các
hình thức thực hiện như mua tài sản của CTMT; mua lại phần vốn góp của các cổ
đông CTMT; thay đổi cấu trúc vốn của công ty và tái cơ cấu công ty.7
Còn theo pháp luâ ̣t chung của Liên minh Châu Âu thì sáp nhập và mua lại
doanh nghiệp là: (i) sự sáp nhập giữa hai pháp nhân độc lập hoặc hai bộ phận của
hai pháp nhân; hoặc (ii) thâu tóm quyền kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua

Xem: Lưu Minh Đức (2008), “Thâu tóm và hợp nhất nhìn từ khía cạnh quản trị công ty: Lý luận, Kinh
nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam”, Tạp chí Quản lý kinh tế, năm 2008, số 15-7+8, tr.38-44.
7
Xem: Trần Thị Bảo Ánh (2014), Pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.32.
6


12

việc mua lại chứng khoán hoặc tài sản của một công ty khác; (iii) hoặc tạo ra một
liên doanh mới.8

Đế n thời điể m tháng 10/2016, pháp luật Việt Nam vẫn chưa có bất kỳ định
nghĩa pháp lý chính thức nào về hoạt động M&A. Tuy nhiên, các hình thức của hoạt
động M&A đã được quy định trong nhiều văn bản pháp luật như Bộ luật Dân sự
năm 2015, Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Cạnh tranh năm 2004, cụ thể:
+ Khái niệm về hoạt động sáp nhập doanh nghiệp được quy định tại Khoản 1
Điều 195 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Luật Cạnh tranh năm 2004 cũng đưa ra
định nghĩa tương tự tại Khoản 1 Điều 17.
+ Khái niệm về hoạt động hợp nhất doanh nghiệp được quy định tại Khoản 1
Điều 194 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Đối với hoạt động này, Luật Cạnh tranh
năm 2004 đưa ra định nghĩa chi tiết hơn tại Khoản 2 Điều 17.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 không đưa ra bất kỳ khái niệm nào liên quan
đến mua bán doanh nghiệp. Việc bán doanh nghiệp chỉ được nhắc đến một lần duy
nhất ở điều khoản về bán doanh nghiệp tư nhân (Điều 187 Luật Doanh nghiệp năm
2014). Trong khi đó, Luật Cạnh tranh năm 2004 lại đưa ra định nghĩa về “mua lại
doanh nghiệp” (Khoản 3 Điều 17). Mặc dù đưa ra các định nghĩa về các hình thức
M&A, nhưng Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Cạnh tranh năm 2004 tiếp cận
và điều chỉnh các hoạt động theo hướng hoàn toàn khác nhau. Đối với Luật Doanh
nghiệp năm 2014, các hình thức M&A được xem là các hoạt động tổ chức lại doanh
nghiệp. Trong khi đó, Luật Cạnh tranh năm 2004 lại xem đây là các hoạt động
nhằm TTKT.
Dù hình thức M&A được định nghĩa và tiếp cận khác nhau dưới các góc độ
khác nhau nhưng đều dẫn đến một hệ quả: đó là khả năng kiểm soát, chi phối hoạt
động kinh doanh của CTMT. Và nếu chỉ tiếp cận dựa trên hệ quả này thì tất cả các
hình thức M&A đều có thể được gọi với một tên chung, đó là hoạt động “thâu tóm
doanh nghiệp” (takeover). Cũng giống như M&A, hoạt động thâu tóm doanh nghiệp
Xem: “Quy định về Sáp nhập của Cộng đồng Châu Âu số 139/2004 ngày 20/01/2004 (EC Merger
Regulation)”, < [Ngày truy
cập: 12/09/2016].
8



13

không có một định nghĩa chính thức. Theo cách hiểu thông thường, thâu tóm doanh
nghiệp chính là hoạt động sáp nhập hoặc mua lại một công ty. Trong một số công
trình nghiên cứu, thâu tóm được định nghĩa là hoạt động mua lại hay mua bán
doanh nghiệp (acquisition).9
Trong Luận văn này, thuật ngữ “thâu tóm” được định nghĩa là hành vi của một
công ty tìm cách kiểm soát, chi phối một công ty khác thông qua việc thu mua toàn
bộ hoặc một tỷ lệ cổ phiếu hoặc tài sản nhất định của CTMT để có thể khống chế
toàn bộ các quyết định của công ty đó mà không quan tâm đến việc hình thức M&A
cụ thể nào đã được sử dụng. Cách tiếp cận này là phù hợp với pháp luật của các
quốc gia trên thế giới khi mà nhà làm luật chủ yếu quan tâm đến hệ quả của hoạt
động M&A (quyền chi phối, kiểm soát của CTTT đối với CTMT) hơn là xem xét
nó là hành vi sáp nhập, mua lại hay hợp nhất...
1.2. Thâu tóm thân thiện và thâu tóm thù địch
Hoạt động thâu tóm là thân thiện hay thù địch được phân biệt chủ yếu dựa vào
việc hoạt động này có trái với mong muốn của NQLCT bị thâu tóm hay không.
Theo đó, việc thâu tóm công ty bằng cách đưa ra đề nghị thâu tóm trực tiếp đối với
các cổ đông mà không xem xét, cân nhắc ý kiến của NQLCT bị thâu tóm thì được
xem là TTTĐ (hostile takeover). Ngược lại, một đề nghị thâu tóm được ban quản lý
CTMT chào đón, hoan nghênh thì được xem là thâu tóm thân thiện (friendly
takeover).10 Hoạt động TTTĐ có thể được nhận dạng thông qua các đặc điểm sau:
(i) Một công ty (CTTT) thực hiện các phương pháp nhất định (luật định hoặc
pháp luật không cấm) để có được quyền sở hữu đủ số lượng cổ phiếu cần thiết, qua
đó có thể kiểm soát công ty khác (công ty bị thâu tóm).
(ii) Động cơ thực hiện hoạt động TTTĐ có thể khác nhau, nhưng luôn luôn
nhắm đến lợi ích tài chính có được thông qua việc thay thế người quản lý (bị cho là)
yếu kém của công ty bị thâu tóm để tạo ra lợi nhuận lớn hơn trong tương lai, hoặc
Xem: Trần Văn Khanh (2009), Merger and acquisition a comparative study on Vietnam and the United

Kingdom legal regulation, Master’s Thesis in Law, Falcuty of Law Lund University, p.6.
10
Xem: Xiaofan Wang (2013), Takeover law in the UK, US and China: a comparative analysis and
recommendations for Chinese takeover law reform, Degree of Doctor of Philosophy, Salford Law School,
p.17-18.
9


14

đơn giản chỉ nhằm hạ bệ một công ty cạnh tranh, bán các tài sản có giá trị để thu lợi
nhuận và giảm bớt áp lực cạnh tranh.
(iii) Hoạt động TTTĐ mang đến cho CTTT cơ hội để tiếp cận trực tiếp các cổ
đông của CTMT mà không cần phải đàm phán với người quản lý của CTMT. Như
vậy, người quản lý CTMT có thể không nhận biết được thương vụ thâu tóm (ít nhất
là trong giai đoạn đầu) hoặc thương vụ thâu tóm chống lại ý chí, mong muốn của họ
khi nhận được đề nghị thâu tóm.
(iv) TTTĐ làm cho CTTT mất nhiều chi phí hơn so với thâu tóm thân thiện do
CTTT có thể phải bỏ ra một số tiền lớn hơn để mua đủ số lượng cổ phiếu cần thiết
từ các cổ đông riêng lẻ của CTMT và mất các chi phí khác cho các thủ tục pháp lý,
biện pháp cần thiết chống lại các hành vi tự vệ của công ty bị thâu tóm để hoàn
thành việc thâu tóm. Người quản lý của công ty bị thâu tóm có thể áp dụng các biện
pháp tự vệ (sẽ được trình bày bên dưới) nhằm chống lại hành vi TTTĐ của CTTT.
Các biện pháp tự vệ này rất đa dạng và có thể đẩy lùi hành vi thâu tóm nếu được áp
dụng phù hợp.
Mặc dù TTTĐ có những đặc điểm nhất định mang tính đặc thù nhưng sự phân
biệt giữa TTTĐ và thâu tóm thân thiện trên thực tế lại không rõ ràng như việc sử
dụng thuật ngữ.11 Nhiều giao dịch thâu tóm tưởng chừng là thân thiện nhưng lại có
thể có các yếu tố thù địch vì quyết định của người quản lý về việc có nên xem xét
giao dịch thâu tóm này hay không có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố; ví dụ, một

giao dịch thâu tóm thân thiện có thể được tiến hành dưới sự đe dọa của CTTT về
việc sẽ tiến hành TTTĐ nếu CTMT không chấp nhận đề nghị này.12 Tương tự như
vậy, một thương vụ thâu tóm lúc bắt đầu mang tính thù địch nhưng có thể hoàn tất
một cách thân thiện.

11

Xem: Xiaofan Wang (2013), Takeover law in the UK, US and China: a comparative analysis and
recommendations for Chinese takeover law reform, Degree of Doctor of Philosophy, Salford Law School,
p.18-19.
12
Lúc bắt đầu, CTTT có thể nhắm đến người quản lý của CTMT. Nếu bị người quản lý của CTMT từ chối,
CTTT có thể đe dọa rằng đề nghị thâu tóm sẽ được gửi trực tiếp cho các cổ đông của CTMT.


15

1.3. Phương pháp thâu tóm
1.3.1. Thâu tóm bằng cách lôi kéo cổ đông bất mãn
Ở các công ty niêm yết quy mô lớn, số lượng cổ đông rất nhiều và mỗi cổ
đông, nhóm cổ đông đều có những lợi ích riêng, thường đối lập nhau. Tâm lý bất
mãn của một số hoặc một nhóm cổ đông đối với NQLCT đương nhiệm là một thực
tế không thể phủ nhận đặc biệt khi công ty lâm vào hoàn cảnh khó khăn về tài
chính. Điều này trở thành một cơ hội tốt để công ty khác thực hiện ý đồ thâu tóm.
Như đã trình bày ở trên, TTTĐ diễn ra khi CTTT đưa ra đề nghị thâu tóm trực
tiếp đối với các cổ đông mà không xem xét, cân nhắc ý kiến của NQLCT. Lợi dụng
tâm lý bất mãn sẵn có, CTTT có thể dễ dàng hơn trong việc tiếp cận, thuyết phục
các cổ đông của CTMT nhằm đạt được số lượng cổ phiếu cần thiết để hoàn thành
nhanh chóng việc thâu tóm. Trên thực tế, CTTT có thể căn cứ vào các sai lầm của
NQLCT nhằm tạo xung đột, mâu thuẫn lớn giữa cổ đông với NQLCT, tác động đến

việc ra quyết định của CTMT. Mâu thuẫn ngày càng lớn, cổ đông sẽ ngày càng thất
vọng và mất niềm tin vào sự phát triển của công ty. Lúc này, CTTT có thể thỏa
thuận mua lại cổ phiếu của các cổ đông bất mãn này để tăng tỷ lệ sở hữu tại CTMT
hoặc liên kết với các cổ đông bất mãn ở lại thông qua cơ chế ủy quyền để giành
quyền kiểm soát công ty. Đây là một trong những phương án thâu tóm phổ biến, tấn
công trực tiếp vào tâm lý của các cổ đông để thực hiện hành vi thâu tóm.
Tỷ lệ thành công của phương pháp thâu tóm này phụ thuộc chính vào tâm lý
bất mãn, dao động, mất niềm tin vào công ty của các cổ đông. Các yếu tố này mang
đậm tính định tính, rất khó xác định, đo lường chính xác, rõ ràng và do đó cơ hội
thành công cũng không chắc chắn. Cơ hội của CTTT sẽ tăng lên nếu CTMT đang
lâm vào tình cảnh khó khăn, khủng hoảng về tài chính, nhân sự hoặc NQLCT mắc
phải những sai lầm nghiêm trọng trong hoạt động quản lý, điều hành.
Pháp luật không điều chỉnh đối với phương pháp thâu tóm này do tính định
tính và không rõ ràng của nó. Tuy nhiên, trường hợp CTTT cố tình nói xấu, có
những hành vi làm mất uy tín của người quản lý CTMT, qua đó tạo ra tâm lý bất
mãn của cổ đông thì CTMT hoàn toàn có quyền khởi kiện để yêu cầu bồi thường


16

thiệt hại đồng thời làm rõ ý đồ thâu tóm của công ty khác trước các cổ đông của
công ty.
1.3.2. Thu mua cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
Đối với các công ty niêm yết, cổ phiếu của công ty được tự do giao dịch trên
TTCK.13 Vì vậy, CTTT hoàn toàn có thể thực hiện dự định thâu tóm thông qua việc
thu mua cổ phiếu của CTMT thông qua các giao dịch tự nguyện trên TTCK.
Nhìn chung, thu mua cổ phiếu trên TTCK để thực hiện thâu tóm là việc CTTT
chi tiền để thu mua cổ phiếu của CTMT thông qua giao dịch trên TTCK hoặc mua
lại cổ phiếu của các cổ đông lớn của CTMT. Phương pháp này đặc biệt được các
CTTT ưa chuộng khi CTMT có ít cổ đông lớn và tồn tại sự mâu thuẫn giữa cổ đông

và NQLCT. Khi đó, CTTT sẽ dễ dàng thương lượng với các cổ đông lớn về việc
mua lại số lượng cổ phiếu cần thiết trên TTCK trong một thời gian nhất định.
Phương pháp này mất nhiều thời gian để thực hiện và hoàn thành do cổ đông
CTMT không phải lúc nào cũng có nhu cầu bán cổ phiếu đang sở hữu (trừ trường
hợp tình hình công ty hoặc thị trường đang có biến động lớn). Mặt khác, CTTT phải
đối mặt với rủi ro thông tin về đề nghị thâu tóm bị tiết lộ, khi đó giá trị cổ phiếu của
CTMT có thể tăng cao trên TTCK, làm tăng chi phí của thương vụ thâu tóm. Khi đó
CTTT chắc chắn phải cân nhắc về quyết định thâu tóm của mình. Ngược lại, trường
hợp được thực hiện một cách suôn sẻ, CTTT có thể đạt được mục đích thâu tóm mà
chỉ phải trả một cái giá rẻ hơn rất nhiều so với phương pháp chào mua công khai
(nô ̣i dung này sẽ được trình bày ở các phầ n tiế p theo của Luận văn).
1.3.3. Chào mua công khai
Chào mua công khai được thực hiện bởi CTTT bằng cách đưa ra đề nghị mua
lại cổ phiếu đối với toàn bộ cổ đông của CTMT. CTTT sẽ mua lại tất cả hoặc một
số lượng cổ phiếu nhất định của CTMT với một mức giá xác định trong một thời
hạn nhất định. Qua đó, CTTT chấp nhận thanh toán đầy đủ để có được quyền kiểm
soát CTMT. Chào mua công khai được xem là phương pháp thuận lợi nhất để kiểm

Trên nguyên tắc cổ phần được tự do chuyển nhượng trừ trường hợp bị hạn chế chuyển nhượng theo quy
định pháp luật hoặc điều lệ công ty.
13


17

soát một công ty cổ phần.14 Hoạt động TTTĐ chủ yếu được thực hiện bằng phương
pháp này, do việc chào mua nhắm thẳng đến các cổ đông của CTMT mà bỏ qua
người quản lý của nó. Mặt khác, việc chào mua có thể được tiến hành một cách thân
thiện nếu nó được hỗ trợ bởi người quản lý của CTMT.
Chào mua công khai là phương pháp thâu tóm tốn nhiều chi phí do CTTT phải

mua lại cùng lúc một số lượng cổ phiếu không nhỏ với mức giá cao hơn giá thị
trường (premium price) để đủ hấp dẫn các cổ đông hiện hữu của CTMT. Phương
pháp này thường được áp dụng trong các giao dịch thâu tóm giữa các công ty là đối
thủ cạnh tranh trên thị trường. CTMT thường ở thế yếu trong tương quan so sánh
với CTTT. Tuy nhiên, trên thực tế không hiếm trường hợp công ty nhỏ hơn tiến
hành thâu tóm các công ty lớn, bằng cách huy động các nguồn tài chính từ bên
ngoài để thực hiện thương vụ thâu tóm như: vay vốn ngân hàng, phát hành cổ phiếu
mới, huy động vốn từ cổ đông…
Tại Việt Nam, “chào mua công khai” là một hoạt động được pháp luật điều
chỉnh cụ thể.15 Pháp luật quy định CTTT tìm cách thu mua cổ phiếu của CTMT, khi
đạt đến 5% tỷ lệ sở hữu thì phải gửi thông báo là cổ đông lớn đến UBCKNN,
SGDCK và CTMT. Sau khi báo cáo, CTTT sẽ tiếp tục mua vào cổ phiếu và trước
mỗi mức tỷ lệ sở hữu 25%, 51%, 65% và 75% CTTT sẽ phải tiến hành thủ tục chào
mua công khai. Khi nhận được thông báo chào mua công khai từ CTTT, HĐQT của
CTMT sẽ họp và thông báo với UBCKNN và cổ đông biết ý kiến của công ty đối
với đề nghị chào mua công khai. Trường hợp, HĐQT của CTMT xét thấy việc đề
nghị chào mua bảo đảm mục đích hợp tác và phát triển (có lợi cho cổ đông và vị trí
của NQLCT vẫn được giữ vững) và đạt được thỏa thuận với CTTT thì đề nghị chào
mua này mang hình thức thâu tóm thân thiện. Trái lại, đề nghị chào mua sẽ được
xem là TTTĐ khi HĐQT của CTMT không thể thỏa thuận được với CTTT về tỷ lệ

Xem: Daniel R. Fischel (1978), “Efficient Capital Market Theory, the Market for Corporate Control, and
the Regulation of Cash Tender Offer”, Texas Law Review 1, p.6.
15
Được quy định cụ thể trong Thông tư số 194/2009/TT-BTC ngày 02/10/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn
việc chào mua công khai cổ phiếu của công ty đại chúng, chứng chỉ quỹ của quỹ đầu tư đại chúng dạng đóng.
14


18


sở hữu và CTTT vẫn tiếp tục thu mua cổ phiếu bất chấp sự phản đối từ HĐQT của
CTMT.
1.4. Động cơ của hoạt động thâu tóm thù địch
1.4.1. Giảm thiểu đối thủ cạnh tranh
Thâu tóm doanh nghiệp là một nhu cầu không thể phủ nhận trong nền kinh tế
thị trường vì các doanh nghiệp luôn luôn mong muốn tăng cường năng lực cạnh
tranh để chiếm lĩnh thị trường. Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt, tư duy “cá lớn
nuốt cá bé” vẫn luôn thường trực ở các công ty lớn với nguồn tài chính dồi dào. Do
đó, sự phổ biến của hoạt động TTTĐ là có thể hiểu được trong bối cảnh cạnh tranh
gay gắt.
Tuy nhiên, nếu việc TTTĐ diễn ra tràn lan, thiếu kiểm soát sẽ dẫn đến tình
trạng các công ty hòa lẫn vào nhau. Từ chỗ thị trường tồn tại nhiều đối thủ cạnh
tranh, thông qua hoạt động TTTĐ, số lượng đối thủ cạnh tranh bị suy giảm hoặc
không còn đối thủ cạnh tranh. Từ đó, cạnh tranh có thể bị triệt tiêu. Đây là khía
cạnh tiêu cực và ít được mong muốn nhất của hoạt động TTTĐ.
Dưới góc độ tích cực, bằng hoạt động TTTĐ, thị trường có thể loại bỏ được
những công ty trì trệ, chậm phát triển thay vào đó là những công ty lớn mạnh hơn,
tạo ra những sản phẩm, dịch vụ tốt hơn cho xã hội. Thực tế cho thấy những công ty
bị thâu tóm thường là những công ty nhỏ, năng lực sản xuất và cạnh tranh không
cao hoặc những công ty lớn với nhiều tài sản có giá trị nhưng lâm vào tình trạng
khó khăn mà nguyên nhân do công tác quản lý, điều hành yếu kém, không chịu cải
tiến, đổi mới. Sau thâu tóm, các công ty bị thâu tóm hoặc sẽ biến mất, toàn bộ tài
sản sẽ chuyển vào CTTT để tạo ra những công ty lớn hơn, kinh doanh hiệu quả hơn
hoặc bản thân công ty bị thâu tóm sẽ hoạt động hiệu quả hơn do được quản lý bởi
một ban điều hành mới đến từ CTTT. Như vậy, đối thủ cạnh tranh có thể giảm đi
nhưng sự cạnh tranh trên thị trường lại được nâng cấp với các đối thủ cạnh tranh
mạnh mẽ và hoạt động hiệu quả hơn. Qua đây, có thể thấy hoạt động TTTĐ hoàn
toàn có thể mang lại lợi ích tích cực cho các bên có liên quan và cả xã hội. Vấn đề



×