Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN xây dựng mối quan hệ gần gũi giữa thầy và trò trong trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.36 KB, 13 trang )

PHẦN A : ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
Giáo viên chủ nhiệm(GVCN) lớp là người chịu trách nhiệm thực hiện mọi quyết
định quản lý của hiệu trưởng đối với lớp và các thành viên trong lớp. GVCN lớp
là người vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp mình thực hiện các chủ đề theo kế
hoạch và theo dõi, đánh giá việc thực hiện của các học sinh(HS). GVCN lớp
phải biết phối kết hợp với các GV bộ môn, chỉ đạo quản lý học sinh trong lớp
học tập, lao động, và công tác khác. Chủ nhiệm cũng là người phối hợp với các
tổ chức, đoàn thể trong trường ,trong đó quan hệ nhiều ở cấp THPT là đoàn
trường, chi đoàn GV, hội CMHS, để làm tốt công tác dạy- học- giáo dục HS
trong lớp phụ trách.
Làm sao để lớp mình chủ nhiệm đạt những thành tích cao trong học tập, cũng
như tham gia các phong trào thi đua của nhà trường. Đó chính là những trăn trở
của không ít thầy cô chủ nhiệm.Với đội ngũ giáo viên trẻ, tuy được trang bị
những kiến thức khá chuẩn trong công việc dạy học, nhưng khi đứng trước công
tác chủ nhiệm, không ít người cảm thấy bở ngỡ và lúng túng.
Như vậy khi nói đến giáo viên chủ nhiệm là đề cập đến vị trí, vai trò, chức năng
của người làm công tác chủ nhiệm lớp, còn nói đến công tác chủ nhiệm lớp là đề
cập đến những nhiệm vụ, nội dung công việc mà người giáo viên chủ nhiệm
phải làm, cần làm và nên làm.
Để chia sẻ những trăn trở trên,với những gì mình đã tích lũy được suốt một thời
gian dài làm công tác chủ nhiệm, tôi xin được đúc kết những điều kiện cần và đủ
để XÂY DỰNG MỐI QUAN HỆ GẦN GŨI GIỮA THẦY VÀ TRÒ TRONG
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG. Tôi đã rút ra được những bài học
kinh nghiệm và hệ thống nó bằng các bước thực hiện cụ thể.
II . Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
1. Mục tiêu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp
trong mối quan hệ Thầy – Trò với học sinh mà đề ra những giải pháp hợp lý
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh và góp phần hoàn thiện
nhân cách học sinh ở trường THPT.


2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu lý luận về GVCN lớp đã thể hiện vai trò của mình trong công tác
quản lý và giáo dục học sinh và đã đạt kết quả như thế nào?
- Đề ra những giải pháp hiệu quả và cụ thể về việc áp dụng nhằm nâng cao khả
năng tiếp cận học sinh trong trường THPT ra sao ?
- Tôi đã rút ra được những bài học kinh nghiệm và hệ thống nó bằng các bước
thực hiện cụ thể.
III. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Khách thể.
- Thực trạng và giải pháp cho GVCN lớp trong việc tiếp cận học sinh, nhằm xây
dựng mối quan hệ thầy – trò để giáo dục nhân cách cho học sinh lớp chủ nhiệm.
1


2. Đối tượng.
- Nghiên cứu tiến trình chủ nhiệm lớp.
3. Phạm vi nghiên cứu.
- Lớp 12 B11 năm học 2015 – 2016.
- Lớp 12 C12 năm học 2016 – 2017.
4. Giả thuyết khoa học.
- Xây dựng một hệ thống khoa học cho đội ngũ giáo viên trẻ trước những tiết lên
lớp chủ nhiệm đầu tiên.
- Việc nghiên cứu trên nếu áp dụng đại trà thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
giáo dục toàn diện trong trường THPT.
5. Phương pháp nghiên cứu.
5.1. Phương pháp tham khảo:
+ Tham khảo các nguồn : Kinh nghiệm thực tiễn của đồng nghiệp, sách ; báo ;
tạp chí , các bài tham luận trên Internet.
5.2. Phương pháp quan sát:
+ Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của học sinh.

5.3. Phương pháp điều tra:
+ Tiếp cận trò chuyện, trao đổi với các GVBM, HS, cha mẹ học sinh...
5.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
+ Tham khảo những bản báo cáo , tổng kết hàng năm của nhà trường.
+ Tham chiếu kết quả của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác trong trường mình.
5.5. Phương pháp thử nghiệm
+ Thử áp dụng các giải pháp tiếp cận học sinh để giáo dục hành vi học sinh ở
lớp 12 B11 năm học 2015 – 2016 và lớp 12 C12 năm học 2016 – 2017.
6. Thời gian thực hiện.
- Bắt đầu : 05. 09. 2015
- Kết thúc : 31 . 05 . 2017
PHẦN B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông hiện
nay:
Thầy – trò được hiểu đó là Người dạy chữ và người học chữ. Nếu nhìn ở góc độ
hẹp thì có thể xem đây là mối quan hệ một chiều áp đặt của người dạy đến người
học. Mở rộng hơn thì Thầy được coi như người được cha mẹ học sinh ủy nhiệm
thay mặt mình để dạy cho con cái họ.
Thầy dạy chữ là thế, còn thầy chủ nhiệm thì trách nhiệm sẽ nhiều hơn. Thầy
không chỉ là người dạy chữ, mà Thầy còn là cha, là anh chị trong gia đình. Thầy
còn là người chịu trách nhiệm thực hiện mọi quyết định quản lý của hiệu trưởng
đối với lớp và các thành viên trong lớp, là người vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp
mình thực hiện các chủ đề theo kế hoạch và theo dõi, đánh giá việc thực hiện
của các học sinh. Nhưng để có được một tập thể lớp vững mạnh, giáo viên chủ
nhiệm không chỉ đơn thuần là người dạy chữ, là người quản lý học sinh mà giáo
viên chủ nhiệm phải thực sự là một nhạc trưởng, là một quản gia đầy quyền lực .
2


Trong giai đoạn những năm gần đây, trước sự phát triển không ngừng của khoa

học công nghệ đã mang lại nhiều thuận lợi cho những nhu cầu thiết yếu trong
cuộc sống vật chất và tinh thần của con người. Việc dạy học cũng được thừa
hưởng những thành quả trên , bên cạnh đó Đảng, nhà nước và xã hội cũng đã và
đang đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục nói chung và việc hoàn thiện nhân
cách của học sinh nói riêng. Cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục của nhà
trường ngày một khang trang, đầy đủ, đảm bảo cho việc dạy và học. Đội ngũ
giáo viên không ngừng được bồi dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ , đặc biệt
trong trong nghiệp vụ chủ nhiệm lớp .
Bên cạnh những thuận lợi của ngành giáo dục, cũng đang đứng trước những khó
khăn. Kế hoạch hóa gia đình là một chủ trương đúng nhằm hạn chế sự bùng nổ
dân số.Tuy nhiên việc sinh ít con, kinh tế ngày càng được cải thiện đã tạo thuận
lợi cho trẻ em được quan tâm và chăm sóc tốt hơn. Sự phát triển như vũ bão của
khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã khiến cho rất nhiều em
đã tiếp cận với máy tính và mạng Inernet từ khá sớm. Công việc tất bật đã khiến
cho các bậc cha mẹ thiếu quan tâm đến việc điều chỉnh hành vi của con .Tình
trạng đua đòi chưng diện theo trang phục, mái tóc của các ca sĩ, diễn viên trong
phim ảnh không lành mạnh và đặc biệt là game online. Chính những vấn đề này
ảnh hưởng không ít đến việc học tập, việc hình thành nhân cách, đạo đức của
học sinh. Nhiều phụ huynh đã bất lực trước những hành vi suy đồi đạo đức của
con mình, nên đã giao tất cả cho nhà trường và đã gây ra rất nhiều khó khăn cho
giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
Hơn nữa, công tác chủ nhiệm chủ yếu là kiêm nhiệm, thực tế hiện nay chưa có
một khoá đào tạo chính thức nào cho GVCN. Chính vì vậy, không có nhiều
GVCN thực sự có năng lực, làm chủ nhiệm chủ yếu bằng kinh nghiệm của bản
thân, cộng với trao đổi học hỏi trong nhà trường. Bên cạnh đó, số tiết dành cho
GVCN còn quá ít, chỉ 4 tiết trên tuần, chưa tương xứng với công sức giáo viên
đầu tư vào công tác chủ nhiệm, dẫn đến nhiều giáo viên chưa hăng say với công
tác chủ nhiệm. Nội dung chương trình giảng dạy còn nặng về kiến thức ,số tiết
giành cho giáo dục công dân, giáo dục đạo đức học sinh còn quá ít, trong khi xã
hội ngày càng phát triển. Hơn nữa ở lứa tuổi này, tâm sinh lí của các em đang

phát triển mạnh, các em ngày càng có nhiều nhu cầu hiểu biết, thích tìm tòi,
thích bắt chước, thích giao lưu, thích đua đòi, thích sự khẳng định mình..., trong
khi kiến thức về xã hội, gia đình, sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, nên
chiều hướng học sinh hư, lười học, hiện tượng bỏ giờ, vi phạm pháp luật, vi
phạm đạo đức ngày càng nhiều. Đó là những khó khăn về mặt khách quan gây
cản trở cho những người làm công tác chủ nhiệm lớp.
Ngoài ra , cũng phải nhìn nhận những thiếu sót về phía đội ngũ giáo viên chủ
nhiệm. Một bộ phận giáo viên chưa thật nhiệt tình, một phần do công việc giảng
dạy chiếm nhiều thời gian, hiệu quả công tác chủ nhiệm ít nhiều bị ảnh hưởng.
Một thiếu sót khác là nhiều giáo viên chủ nhiệm tiến hành công việc khá cảm
tính, chưa có phương pháp chủ nhiệm sáng tạo thích hợp. Có người quá nghiêm
khắc, có người quá dễ dãi. Người nghiêm khắc gò ép học sinh theo khuôn khổ
3


một cách máy móc. Và như thế, về mặt tâm lí, cả giáo viên và học sinh đều như
bị áp lực. Người dễ dãi thì lại buông lỏng công tác quản lí, thiếu quan tâm đến
học sinh.
2. Một số giải pháp thực hiện trong công tác chủ nhiệm lớp
2.1. Tố chất để làm nên một GVCN lớp tốt.
Chúng ta phải tách rạch ròi cách nhìn nhận đó là một giáo viên dạy giỏi chưa
hẳn là một giáo viên chủ nhiệm giỏi. Tuy nhiên nếu không có được sự yêu nghề
và tâm huyết với nghề thì sẽ không có một giáo viên chủ nhiệm giỏi.
Một giáo viên khi làm tốt công việc dạy học, có đầu tư cho công tác chuyên
môn , gần gũi học sinh để nâng cao nghiệp vụ , thực hiện đầy đủ, có chất lượng
các phương pháp giáo dục thì chắc chắn sẽ đảm bảo thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ của công tác chủ nhiệm lớp. Giáo viên chủ nhiệm còn phải có “Nghệ
thuật giáo dục”, nhất là trong cách ứng xử với học sinh, quí trọng học sinh, sẵn
sàng dành mọi điều kiện có thể để đầu tư cho công tác chủ nhiệm.Chính vì lẻ đó,
giáo viên chủ nhiệm phải mất rất nhiều thời gian để có được một nội dung công

tác phong phú, đa dạng, phức tạp, toàn diện liên quan đến tất cả các mặt hoạt
động của học sinh trong lớp.
Ở mỗi cấp học , “ sự phát triển ” của học sinh khác nhau. Mỗi lớp học các học
sinh cũng không đồng nhất nhau. Chúng xuất phát những nguồn khác nhau, chịu
sự chi phối của môi trường và điều kiện sống khác nhau, cho nên giáo viên
bước đầu cần phải có một cách nhìn tổng thể đối với lớp mình nhận chủ nhiệm.
Tố chất quan trọng của GVCN là tố chất của một con người hành động. Cũng
như hiệu trưởng, chủ nhiệm lớp phải nghiêm túc và cần một bộ óc biết lập kế
hoạch hoá. Đối tượng quản lý trường học, lớp học là con người phải giáo hoá do
đó không thể có một chương trình cài đặt sẵn. Thấy đúng thì tổng kết và áp dụng
tiếp, thấy sai phải điều chỉnh kế hoạch kịp thời hoặc huỷ bỏ theo quy trình: xây
dựng kế hoạch - thực hiện kế hoạch - kiểm tra kế hoạch - tổng kết và vạch kế
hoạch mới. Rất cần ở chủ nhiệm lớp các phẩm chất nhiệt tình, sát sao, cần cù ,
chịu khó, quan sát , tâm lí , có khả năng xây dựng đội ngũ cán bộ HS. GVCN
phải vừa là thầy vừa là bạn của học trò.
Không ít giáo viên tự mãn trước một khối kiến thức mà mình sở hữu.Thực sự
khối kiến thức ấy chỉ để đáp ứng với công việc dạy học mà thôi. Điều mà các
em học sinh mong đợi đó là sự cảm thông và chia sẻ trên tất cả các lĩnh vực của
cuộc sống. Lứa tuổi học sinhTHPT đâu còn là những “ cô bé ,cậu bé ” ở Trường
tiểu học. Các em đang tập triết lý, tập làm người lớn. Cho nên trên cương vị là
một giáo viên chủ nhiệm, người thầy cần phải có một vốn sống đủ để đáp ứng
được những tình huống từ phía học sinh. Những thầy cô giáo trẻ thực sự khiếm
khuyết điều này. Họ có lợi thế là trẻ tuổi ,năng động,cầu tiến. So với tuổi của các
em học sinh, họ không quá chênh lệch. Dưới con mắt của các em, thầy cô giáo
trẻ là những người anh,người chị trong gia đình. Buổi đầu tiếp xúc với thầy cô
chủ nhiệm các em lúc nào cũng nhìn thầy cô dưới ánh mắt dò xét. Ngay phút
gặp gỡ đầu tiên các thầy cô cần phải chứng minh bản lĩnh của mình bằng cách
tạo cảm hứng cho học sinh thông qua các mẫu chuyện vui. Muốn vậy các thầy
4



cô giáo trẻ phải tiếp cận nhiều hơn những vốn sống từ sách vỡ, tap chí…đủ để
tạo một ấn tượng đẹp khi lần đầu tiếp xúc với lớp chủ nhiệm
Trong lớp học, GVCN là người để các em noi theo. Cách hành động, suy nghĩ,
cư xử của GV sẽ ảnh hưởng rất nhiều về quan niệm của học sinh và phụ huynh
về GV. Bản thân tôi vừa là GVCN đồng thời là GVBM Tiếng Anh. Chính vì vậy,
khi đến trường hoặc lên lớp, tôi đều có những tác phong làm gương cho học
sinh.
Phải chuẩn bị bài vỡ và những kiến thức liên quan trước khi đến lớp. Theo tôi,
một tiết dạy có hồn thì thầy cô mới truyền cảm hứng sang học sinh. Với đặc thù
của môn Tiếng Anh , tôi cần phải chuẩn bị đầy đủ tài liệu, đồ dùng dạy học, phải
nghiên cứu nội dung bài học , chuẩn bị tình huống cho học sinh luyện tập, giao
tiếp với bạn một cách cẩn thận , tạo không khí học tập cho học sinh tiếp cận
ngôn ngữ. Chính vì thế,tôi không thể “ dạy chay ”hoặc "tùy cơ ứng biến".
Khi lên lớp, theo tôi GV cần có lời nói gọn, rõ ràng, dứt khoát. Khi nói nhìn
thẳng vào học sinh, nói thẳng với các em , không nên nói bâng quơ, nói bóng gió
Nên dùng từ, câu dễ hiểu , hợp với trình độ học sinh. Biết lắng nghe học sinh
nói. Mỗi khi các em phát biểu ý kiến hay nói một điều gì, thầy cô dù bận rộn
cũng nên lắng nghe các em nói. Có như vậy khi thầy cô nói các em mới chú ý
nghe .
Bên cạnh đó, GVCN phải biết thông cảm và chia sẻ những khó khăn của các em.
Trả lời những câu hỏi của các em một cách thấu đáo (nếu chưa có câu trả lời,
hứa sẽ tìm câu trả lời chính xác). Cho các em biết là các em có thể điện thoại
cho thầy cô để nói chuyện hay hỏi bài vở (cách làm bài, giải thích chữ khó, cách
trả lời ...). Hỏi các em về những khó khăn trong đời sống, những khó khăn ở
trường,... giúp các em giải quyết những khó khăn này. Trong lớp học hay ngoài
lớp học, thầy cô còn phải đóng vai người anh, người chị mà các em có thể tin
tưởng, nhờ cậy được. Qua đó, các em sẽ biết sống nhẫn nại, kiên trì và giàu lòng
nhân ái.
- Phối hợp với Ban giám hiệu nhà trường: Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa

hiệu trưởng với học sinh, truyền đạt chủ trương chính sách của ngành, nội quy
của nhà trường đến học sinh không phải bằng mệnh lệnh mà bằng sự thuyết
phục cảm hoá, gương mẫu của bản thân mình. Bên cạnh đó GVCN phát hiện kịp
thời các hành vi xấu của học sinh, đề nghị nhà trường xét kỷ luật nghiêm khắc
nhằm ngăn chặn hành vi xấu khác có thể xẩy ra tiếp theo .
- Phối hợp với giáo viên bộ môn: Biết lắng nghe những nhận xét của giáo viên
bộ môn thậm chí là những phê phán cá nhân, tập thể lớp mình sau đó chọn lọc,
phân tích thông tin để phối hợp tác động giáo dục cùng chiều, khắc phục khó
khăn, vướng mắc của học sinh trong quá trình học tập, đề đạt nguyện vọng của
học sinh với giáo viên bộ môn để nâng cao chất lượng giáo dục.
- Phối hợp với cha mẹ học sinh.Giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh phải
thống nhất được phương hướng phấn đấu của lớp đặt trong kế hoạch chung của
nhà trường, đặc biệt là thống nhất được các biện pháp thực hiện. Đây là điều
kiện đầu tiên để giáo viên chủ nhiệm có được sự ủng hộ của phụ huynh trong
5


công tác tổ chức lớp học. Đặc biệt với những học sinh vi phạm nội quy của
trường, lớp, tuỳ theo mức độ vi phạm GVCN thông báo với phụ huynh bằng văn
bản (giấy thông báo), bằng điện thoại hoặc trực tiếp gặp để thống nhất biện pháp
giáo dục. Trong thực tế biện pháp này tôi và nhiều giáo viên đã làm và có hiệu
quả: học sinh tiến bộ và phụ huynh cũng cảm thấy thoải mái mỗi khi được mời
đến gặp.
- Nhìn chung nếu biết kết hợp các lực lượng giáo dục, chắc chắn công tác chủ
nhiệm sẽ đạt hiệu quả cao.
Khi nhận sự phân công chủ nhiệm của lãnh đạo nhà trường , người thầy cần phải
Tìm hiểu thật kỹ các đối tượng học sinh của lớp mình
Nhà giáo dục Nga K.D Usinski từng nói: “Muốn giáo dục con người về mọi mặt
thì phải hiểu con người về mọi mặt”. Để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, giáo
viên chủ nhiệm phải nắm vững tâm sinh lí, nhu cầu, nguyện vọng, ước mong,

khả năng trình độ của học sinh, nắm vững hoàn cảnh sống, những tác động của
gia đình, mối quan hệ xã hội, bạn bè của học sinh. Cụ thể như sau:
- Tìm hiểu học sinh qua các tài liệu liên quan: Xem học bạ, sơ yếu lí lịch, bản tự
nhận xét của học sinh, nhận xét của GVCN cấp THCS ( nếu là học sinh lớp 10 )
hoặc của GVCN cũ. Đây là tài liệu đáng tin cậy ban đầu giúp tôi nhận biết và
phân loại học sinh.
- Tìm hiểu học sinh thông qua quan sát trực tiếp: Quan sát trực tiếp học sinh
hằng ngày trong các hoạt động trên lớp, ngoài lớp để biết hành vi thái độ học
sinh. Qua đó giáo viên cố gắng tìm ra những nét cá tính nhất của từng em. Quá
trình quan sát thường xuyên cả trong giờ học; giờ chơi để nắm cặn kẽ từng đối
tượng học sinh.
- Tiến hành những thử nghiệm tìm hiểu thái độ học sinh qua các tình huống. Đây
là cách làm giúp cho người giáo viên chủ nhiệm có thể thu được thông tin về
một hay nhiều vấn đề cần làm sáng tỏ. Ví dụ như yêu cầu học sinh tiến hành
nhặt rác trong phòng;vệ sinh bảng ; hoặc cho học sinh trả lời nhanh vào phiếu in
sẵn một số câu hỏi về vấn đề định tìm hiểu... Những thử nghiệm nhỏ này có thể
áp dụng linh hoạt sao cho phù hợp với học sinh ở từng vùng dân cư. Kết quả thử
nghiệm sẽ giúp giáo viên chủ nhiệm lớp có thể nắm bắt được thêm những thông
tin mới, bổ sung cho những nhận định của mình về học sinh.
Khi đã nắm được đặc tính của lớp , giáo viên chủ nhiệm cần cụ thể hóa công
việc chủ nhiệm thông qua việc xây dựng kế hoạch chủ nhiệm. Đây là chiến lược
và chiến thuật mà ta sẽ thực hiện trong suốt năm học.
Kế hoạch chủ nhiệm phải có nội dung công tác phong phú, đa dạng, phức tạp,
toàn diện liên quan đến tất cả các mặt hoạt động của học sinh trong lớp. Vì vậy
muốn đạt kết quả cao cần phải quan sát đúng, phù hợp.
Kế hoạch chủ nhiệm phải bám sát mục tiêu, nhiệm vụ của nhà trường trong năm
học, đặc điểm tình hình lớp, địa phương, cơ sở vật chất của nhà trường, phải xác
định rõ ràng mục đích, chỉ tiêu phấn đấu và các biện pháp chính. Đặc biệt chú
trọng chiến lược phối hợp giữa các lực lượng giáo dục để đạt mục đích đề ra,
cần có phương hướng phát triển lớp, sự thực hiện tuần tự hợp lí nhằm đi đến

6


mục đích. Kế hoạch phải phát huy được mặt mạnh, khắc phục được hạn chế của
lớp. Biện pháp thực hiện cần thể hiện tính phong phú, đa dạng. Tuy nhiên các
biện pháp đề ra trong kế hoạch chỉ là “phần cứng”. Trong quá trình thực hiện
cần phải vận dụng, điều chỉnh một cách linh hoạt các biện pháp giáo dục sao cho
phù hợp với tình hình thực tế để công việc đạt hiệu quả cao.
Sau khi đã tìm hiểu tường tận lớp chủ nhiệm và cụ thể hóa các công việc thông
qua việc xây dựng kế hoạch chủ nhiệm. Bước tiếp theo là tiếp cận thường xuyên
với các đối tượng của lớp. Quan hệ Thầy – Trò ở đây cần phải được thân thiết
hóa. Có nhiều cách để gần gũi với các em học sinh : sau tiết dạy , thầy có thể
nán lại vài phút để gặp gỡ các em cán sự lớp , các em học sinh có hoàn cảnh khó
khăn , các em học sinh cá biệt…Những ngày nghỉ giáo viên chủ nhiệm có thể tổ
chức các em cán sự lớp đi thăm gia đình các bạn cùng lớp, gặp gở trao đổi với
phụ huynh…Trong quá trình tiếp cận học sinh tránh việc áp đặt, …cần khai thác
tính trẻ trung và năng động của các em. Thầy cô phải luôn lắng nghe và tôn
trọng ý kiến của trò. Những ý kiến chưa đúng thầy có thể đưa ra ý kiến : “ ý
kiến của em rất hay, …nhưng…, vậy nếu như làm như thế này…thì sẽ tốt hơn.
Em thấy ý kiến của cô thế nào ? ”. Trong sinh hoạt lớp ngoài những nội dung
được coi là những qui định của nhà nước, của nhà trường bắt buộc học sinh phải
tuân thủ., còn lại những kế hoạch hoạt động của lớp ở từng giai đoạn…giáo viên
chủ nhiệm nên tư vấn để Ban cán sự lớp thực hiện, thậm chí khi sơ kết hoạt
động của lớp cũng để cho lớp trưởng, lớp phó phát biểu, giáo viên chủ nhiệm chỉ
hệ thống lại và nêu ý kiến để rút kinh nghiệm. Giáo viên chủ nhiệm phải bám sát
vào các đoàn viên của lớp, phải xây dựng được đội ngũ hậu thuẫn mình từ phía
học sinh. Đây là lực lượng đi đầu trong các phong trào của lớp và quyết định
đến sự thành bại trong công tác chủ nhiệm của mình.
2. 2 . Giáo dục học sinh bằng sức mạnh tâm lí
Trong một lớp học bao giờ cũng có học sinh ngoan ngoãn, học sinh nghịch , học

sinh cá biệt. Do đó tìm hiểu nắm vững từng đối tượng học sinh sẽ giúp GVCN
sử dụng vũ khí tâm lí để giáo dục học sinh có hiệu quả.
Đối với những học sinh ngoan, có ý thức thì chỉ cần nhắc nhở chung. Nhưng đối
với những học sinh nghịch ,phá rối và cá biệt, thì lại phải vừa nghiêm khắc khi
xử lý những sai phạm của các em, vừa phải tình cảm, động viên, thậm chí phải
dỗ dành. Giáo dục những học sinh cá biệt điều quan trọng là phải tạo được mối
quan hệ gần gũi, cảm thông giữa thầy và trò. Muốn vậy GVCN không chỉ đứng
ở cương vị người thầy mà phải biết nhập vai, biết lắng nghe các em nói, tìm hiểu
tâm tư của các em, tạo cho các em có cảm giác mình được chia sẻ, cảm thông,
được giúp đỡ thì các em sẽ tự giác sửa chữa khuyết điểm, tự giác phấn đấu hơn.
Có những học sinh khi mắc khuyết điểm đã nói với bạn bè rằng: không sợ bị kỷ
luật, bị phạt mà chỉ sợ làm ảnh hưởng đến thành tích thi đua của lớp, sợ làm thầy
cô buồn…
Qua những trường hợp cụ thể vừa nêu, tôi thấy việc sắp xếp thời gian đến thăm
gia đình học sinh (đặc biệt là những học sinh cá biệt) cũng đem lại nhiều hiệu
quả trong công tác chủ nhiệm.
7


2.3. Thực hiện nghiêm túc các giờ sinh hoạt lớp
Thông qua các tiết sinh hoạt lớp giáo viên chủ nhiệm cần tổ chức các tổ tự quản
để báo cáo các hoạt động trong tuần. Giáo viên chủ nhiệm thiết kế biểu mẫu
định lượng , định chất để học sinh tự đánh giá mức độ thực hiện của mình.Các
giờ sinh hoạt trên lớp cũng nên linh hoạt. Giờ sinh hoạt lớp không nên chỉ kiểm
điểm học sinh, hoặc có kiểm điểm thì cũng không nên máy móc. Đôi khi có thể
biến giờ sinh hoạt thành những hội thảo nhỏ với những chủ đề phù hợp với học
đường như: chọn nghề cho tương lai, sự lạc quan trong cuộc sống, những mơ
ước tuổi trẻ, làm thế nào để sống đẹp mỗi ngày, văn minh trong cách tặng quà,...
Có thể thay những lời phê bình gay gắt bằng một câu chuyện nào đó. Như vậy
không kiểm điểm mà lại hoá ra kiểm điểm nhưng giờ sinh hoạt rõ ràng đỡ căng

thẳng hơn và lại có hiệu quả.
2.4 . Đề cao việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
Kĩ năng sống của con người nói chung đó là sự tự ý thức vai trò trách nhiệm
của bản thân mình trong việc ứng xử với mọi người xung quanh và môi trường
tự nhiên trong đó con người đang tồn tại. Những kĩ năng này không chỉ đòi hỏi
cho một giai đoạn nào đó mà nó cần thiết cho cả đời người đặc biệt là chuỗi
ngày đi học. Kĩ năng sống được biểu hiện đa dạng tuỳ từng người, từng sự việc
và từng hoàn cảnh cụ thể. Nhưng dù trong trường hợp nào, đối với ai thì kĩ năng
sống nhất thiết phải vươn tới chân lý tốt đẹp: nhân ái, vị tha, bản lĩnh tự tin,
khiêm tốn, văn minh lịch sự, dám nghĩ dám làm, hoà đồng và tôn trọng người
khác.
Giáo viên chủ nhiệm có thể kể những mẫu chuyện về những tấm gương vượt
khó trong học tập, có thể đọc cho các em nghe những bài viết trên báo có liên
quan đến cách ứng xử…và nên giới thiệu cho các em truy cập trên Internet về
những buổi huấn luyện kỹ năng sống của Học kỳ quân đội, của Thầy Trần Đăng
Khoa,Thầy Nguyễn Thành Nhân…
Ngoài ra tùy điều kiện mà giáo viên chủ nhiệm có thể tổ chức các chuyến dã
ngoại để tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong lớp , giữa giáo viên chủ nhiệm
với học sinh.
Sau khi đã ổn định xong lớp, giáo viên chủ nhiệm cần phải có biện pháp để khen
thưởng kịp thời những học sinh đạt thành tích trong học tập ở mỗi tuần, chú ý
đến những điểm tiến bộ của các học sinh cá biệt. Mức độ khen thưởng có thể là
tuyên dương trước tập thể lớp, có thể là những phần quà tượng trưng của thầy
cô…Những khen thưởng kịp thời là niềm khích lệ lớn lao đối với các em học
sinh, nhất là những học sinh cá biệt.
Bên cạnh khen thưởng thì hình thức phạt ở đây là biện pháp giáo dục những học
sinh chưa tiến bộ. Giáo viên chủ nhiệm cần nắm vững vận dụng mọi phương
pháp giáo dục cá biệt, phương pháp giáo dục tập thể và biết kết hợp chúng trong
hoàn cảnh cụ thể. Phương pháp giáo dục cá biệt ở đây không nên hiểu là giáo
dục học sinh đặc biệt như quan niệm của một số người, mà cần hiểu phương

pháp giáo dục cá biệt là sự tác động tới từng cá nhân một cách chuyên biệt để
đảm bảo tính phù hợp với đối tượng. Ví dụ: cùng một biểu hiện hư như nhau,
8


nhưng có em phải phê bình nghiêm khắc, có em thì nhắc nhẹ, có khi chỉ nhắc
chung hoặc có khi phải trực tiếp, có khi thông qua bạn bè, gia đình tập thể…
Bằng uy tín và vị thế của giáo viên chủ nhiệm, phương pháp tác động trực tiếp
đem lại hiệu quả giáo dục tức thời. Giáo viên không nên la mắng quát tháo học
sinh, hay giữ thành kiến đối với những học sinh vi phạm. Thầy cô phải bao
dung và rộng lượng; dừng quá cố chấp trước những vi phạm của các em, giáo
viên chủ nhiệm nên thường xuyên quan tâm; động viên và phát huy những điểm
tiến bộ của các em. Đối với trường hợp những học sinh cá biệt có những hoàn
cảnh éo le,giáo viên chủ nhiệm cần phải thường xuyên thăm hỏi, cần chú ý đến
gia đình nghèo, kiến nghị lên hội cha mẹ học sinh hổ trợ các khoản đóng góp,
vận động các nhà hảo tâm, chính quyền hỗ trợ như: áo quần, tập vở , sách giáo
khoa….
3 .Bài học thực tiễn.
3.1 Lớp 12B11 ( năm hoc 2015 – 2016 )
- Đặc điểm tình hình :
+ Sỉ số 38 ( Nam : 26, Nữ :12 ). 10 % là học sinh khá , 70 % là học sinh TB.
Còn lại lại là học sinh yếu kém.
+ Thái độ không hợp tác, tiếp thu chậm, nhiều phụ huynh phó thác việc học và
rèn luyện đạo đức cho nhà trường, nhiều học sinh đén tù các xã khó khăn
( Hoằng Thanh, Hoằng Hải..) .
- Biện pháp thực hiện
+ Tiếp cận khai thác thế mạnh của BCS lớp, đội ngũ Đoàn viên và học sinh khá.
+ Thường xuyên thăm lớp và đến thăm gia đình các em học sinh.
+ Xây dựng kế hoạch thi đua giữa các tổ, khuyến khích thi đua giữa các thành
viên lớp với nhau.

+ Kịp thời uốn nắn những trường hợp học lệch, khen thưởng kịp thời những học
sinh đạt thành tích trong thi đua hàng tuần của lớp.
+ Mở hộp thư riêng của lớp, yêu cầu các em tham gia. Thường xuyên nhắc nhở
học sinh thực hiện tốt nội quy trường lớp, tập trung ôn tập.
+ Gvcn cũng là giáo viên bộ môn quan trọng trong các kì thi, thông qua hộp thư
riêng của lớp, gvcn giải quyết những thắc mắc về bộ môn, hoặc đưa ra bài tập để
các em cùng làm , cùng giải quyết, sau đó giáo viên giải thích đáp án.
- Kết quả đạt được:
+100 % Học sinh thi đậu kì thi THPTQG, và 20% Thi đậu các trường đại học
trong và ngoài tỉnh
3.2 Lớp 12 C12 ( năm học 2016 – 2017)
- Năm học 2016 – 2017 tôi được lãnh đạo nhà Trường THPT Lê Viết Tạo phân
công chủ nhiệm lớp 12C12 thay cho cô Nguyễn Thị Hạnh nghỉ sinh .
- Đặc điểm tình hình của lớp :
+ Sỉ số 39 ( Nam : 8, Nữ : 31 ).Trong đó : 10 hs Khá, Giỏi. còn lại là TB, yếu.
+ Thái độ xem thường giáo viên mới ,thiếu ý thức tập thể, chia bè kết phái, chơi
theo nhóm, không có tính tập thể.
9


- Biện pháp thực hiện
+ Tiếp cận khai thác thế mạnh của BCS lớp, đội ngũ Đoàn viên và Thanh niên
tiến bộ.
+ Thường xuyên thăm lớp và đến thăm gia đình các em học sinh.
+ Xây dựng kế hoạch thi đua giữa các tổ, khuyến khích thi đua giữa các thành
viên trong lớp với nhau.
+ Kịp thời uốn nắn những trường hợp học lệch, khen thưởng kịp thời những học
sinh đạt thành tích trong thi đua hàng tuần của lớp.
+ Gặp riêng những học sinh cá biệt để nói chuyên , tìm hiểu, động viên các em ,
giúp các em xác định rõ mục đích học tập.

+ Mở tài khoản facebook của lớp và động viên các em đăng ký thành viên. Qua
tài khoản facebook giáo viên chủ nhiệm thường xuyên nhắn tin động viên, nhắc
nhở các em học tập, phục vụ tốt cho kì thi cuối cùng. Hơn nữa giáo viên chủ
nhiệm cũng là giáo viên của một bộ môn quan trọng trong kì thi nên thường
xuyên đăng bài theo giờ đã qui định, yêu cầu các em cùng làm bài và tìm cách
giải quyết khi gặp dạng khó.
- Kết quả :
+ Trong kì thi HSG cấp trường lớp chủ nhiệm đã có: 2 Hs đạt giải môn Tiếng
Anh, 4 Hs môn Ngữ Văn, 5 Hs môn Địa, 4 HS môn Lịch Sử, 5 Hs môn GDCD,
và 1 Hs môn Toán .
+ Trong kì thi HSG cấp tỉnh: Môn Lịch Sử và môn Quốc Phòng
+ 97,4% học sinh đậu tốt nghiệp THPTQG
+ Đậu Đại học : NV1 08 học sinh ( 20,5 % )
PHẦN C. KẾT LUẬN
I. Bài học kinh nghiệm
Sáng kiến kinh nghiệm(SKKN) này, qua trải nghiệm thực tế, tôi nhận thấy rằng
việc xây dựng mối quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm với học sinh thành công
hay thất bại còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Chúng ta không nên áp
dụng rập khuôn máy móc bất kỳ một phương pháp giáo dục tiên tiến nào, mà
nên “ Dĩ bất biến,ứng vạn biến ” đó là bản lĩnh của người thầy và đối tượng tiếp
nhận là “con người”.
Để đạt được mục đích giáo dục, ta cần phải biết chọn điểm xuất phát thích hợp
với đặc điểm riêng của từng trường, từng lớp, từng HS,…
Muốn duy trì tốt thành quả giáo dục cần có sự phối hợp chặt chẽ với các phong
trào khác, những hoạt động khác, và đặc biệt cần phối hợp chặt chẽ giữa nhà
trường với Chi Hội CMHS, được sự quan tâm lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền,
các đoàn thể và nhân dân địa phương để tạo sức mạnh đồng bộ, toàn xã hội cùng
giáo dục thế hệ trẻ đồng thời giữ vững được hướng đi đúng .
Sự thành công trong công tác chủ nhiệm lớp, một nhân tố quan trọng mà chúng
ta nên thận trọng cân nhắc khi quyết định lựa chọn, đó chính là BCS Lớp.

Muốn làm tốt được những điều trên đòi hỏi người GVCN lớp phải là người có
uy tín, toàn diện, có năng lực thực sự để chỉ đạo, dám nghĩ, dám làm, đề xuất
10


được các vấn đề giá trị, tập hợp được sức mạnh tập thể, vai trò con chim đầu đàn
là yếu tố có phần lớn lao, tạo nên sự thành công hay thất bại ở mỗi HS, mỗi lớp
học, mỗi trường học…
Sau một thời gian thực hiện và áp dụng SKKN này tôi nhận thấy một vấn đề cần
phải nghiên cứu, đó là: “Vai trò giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc nâng cao
chất lượng học tập của học sinh cuối cấp THPT”.
II. Kiến nghị
Đây là lần đầu tiên tôi viết SKKN về công tác chủ nhiệm. Những chia sẻ của tôi
trên bài viết này hy vọng sẽ là hành trang vào nghề của đội ngũ giáo viên trẻ.
Đối với nhà trường, tôi mong lãnh đạo sẽ có kế hoạch nhân rộng các điển hình
Giáo viên chủ nhiệm giỏi của trường và tăng cường dự giờ những tiết sinh hoạt
chủ nhiệm.
Đối với cấp quản lý cao hơn là Sở Giáo dục – Đào tạo cần có nhiều hơn các đợt
tập huấn về Công tác chủ nhiệm, xây dựng một giáo trình hoàn thiện về công tác
chủ nhiệm .
Trên đây là một vài ý kiến của tôi trong quá trình giáo dục đạo đức HS trong vai
trò GVCN lớp. Tôi rất mong nhận được sự góp ý quý báu của Hội đồng xét
duyệt SKKN cùng các đồng nghiệp .
Xin trân trọng cám ơn Hội đồng và các bạn đồng nghiệp đã dành thời gian để
đọc bài viết này của tôi!
Thanh Hóa, ngày 9 tháng 5 năm 2019
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

SKKN này là do tôi tự viết, không

sao chép của bất cứ ai. Nếu sai tôi chịu
hoàn toàn trách nhiệm.
GV viết SKKN
Bùi Thị Hòa

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật GD 2005 - Bộ GD & ĐT.
2. Pháp lệnh cán bộ công chức - Bộ GD & ĐT.1. Wedsite :
3. Điều lệ trường trung học - Bộ GD & ĐT.
4. Tâm lí học đại cương - Hà Nội 1995 - PGS. Nguyễn Quang Uẩn(chủ biên).
5. Thông tư 23/29 v/v hướng dẫn đánh giá, xếp loại học sinh THPT - Bộ GD &
ĐT.
6. Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục - Hà Nội 1996 - PTS. Phạm Viết
Vượng.
7. Giáo dục học đại cương II - Hà Nội 1996 - GS. Đặng Vũ Hoạt.

12


MỤC LỤC
NỘI DUNG
PHẦN A. ĐẶT VẤN ĐỀ

13

TRANG


Lý do chọn đề tài.
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
PHẦN B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

01
01

Thực trạng công tác giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường

03

phổ thông hiện nay.
Một số giải pháp thực hiện trong công tác chủ nhiệm.
Bài học thực tiễn
PHẦN C. KẾT LUẬN

04
10

- Bài học kinh nghiệm

11

- Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

13




×