Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT qua công tác chủ nhiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.71 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Phần 1. Mở đầu
Phần 2. Nội dung
I. Cơ sở lý luận
II. Thực trạng trước khi thực hiện đề tài
III. Các phương pháp tiến hành giáo dục
IV. Các biện pháp cụ thể để giáo dục kỹ năng sống cho

1
4
4
5
6
8

Học sinh
V. Kinh Nghiệm

17
QUY ĐỊNH VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI

1. Giáo viên: GV
2. Giáo viên chủ nhiệm: GVCN
3. Học sinh: HS
4. Kỹ năng sống: KNS
5. Hoạt động ngoài giờ lên lớp: HĐNGLL
6. Thể dục thể thao: TDTT
7. Trung học phổ thông: THPT
8. Ban giám hiệu: BGH

PHẦN I: MỞ ĐẦU


1. Lí do chọn đề tài
1


Rèn luyện kỹ năng sống có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi người để có
thể đương đầu với thử thách trong cuộc sống và hoàn thiện mình hơn.Trong
những năm gần đây, chương trình giáo dục của Bộ Giáo Dục đã hướng đến việc
rèn luyện KNS cho học sinh ngay từ khi còn ngồi trên ghế Nhà trường và coi
đây là một trong những trọng điểm của chương trình.
Hiện nay, một bộ phận không nhỏ HS nói chung và HS THPT Quảng Xương 1
nói riêng sa vào tệ nạn xã hội, hư hỏng, làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng học tập, nề nếp của nhà trường. Sự gia tăng những biểu hiện của thiếu kỹ
năng sống như; không thể hiện được khả năng của bản thân, khó hoà nhập, lúng
túng khi xử lý tình huống, hay gây mâu thuẫn, bất hoà với bạn bè, thầy cô...
Nguyên nhân không nhỏ của tình trạng trên là do các em chưa được trang bị
KNS một cách đầy đủ, để có thể đương đầu với sự biến động và cám dỗ trong xã
hội hiện nay. Do vậy việc giáo dục KNS cho HS là rất cần thiết.
Thực tế cho thấy việc giáo dục KNS trong nhà trường chưa được quan
tâm đúng mức, mới chỉ dừng lại ở bộ môn GDCD và một số buổi sinh hoạt tập
thể. Do vậy, chưa đáp ứng được mục tiêu của Bộ Giáo Dục đề ra.
Để giáo dục KNS cho HS cần có sự phối hợp của gia đình- nhà trường và xã hội.
Một trong những yếu tố góp phần quan trọng để hoàn thành mục tiêu này là đội
ngũ GV. Đặc biệt là GVCN.
Có thể nói GVCN là người đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối giữa
nhà trường với HS, là người gần gũi, tiếp xúc thường xuyên với HS. Là kênh
truyền đạt những mong muốn, suy nghĩ của các em tới BGH nhà trường và
ngược lại.Trong tuần GVCN có ít nhất một buổi sinh hoạt lớp vào cuối tuần để
gặp gỡ, trao đổi với HS. Hiện nay Trường THPT Quảng Xương 1 có chủ trương
GVCN tham gia sinh hoạt 15 Phút đầu giờ cùng với HS. Như vậy, thời gian để
GVCN tiếp xúc với học sinh nhiều hơn. Nhưng hầu hết các buổi sinh hoạt đều

diễn ra khô khan và cứng nhắc, chủ yếu là xử lý các trường hợp vi phạm. Thời
gian sinh hoạt 15 phút đầu giờ thì diễn ra nhàm chán, lặp đi lặp lại như; tập hát,
chữa bài tập…
Từ những vấn đề nêu trên, với tư cách là một người GV, nhất là GVCN,
tôi nhận thấy việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có ý nghĩa quan trọng.
Do vậy tôi chọn đề tài “ Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
qua công tác chủ nhiệm”
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích
Mục đích của việc nghiên cứu là tìm ra một hướng đi tốt nhất, một
phương pháp tốt nhất, hướng dẫn, tăng cường kỹ năng sống cho HS THPT.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Phương pháp giáo dục đạo đức HS trong công tác chủ
nhiệm lớp
2


- Thời gian: nghiên cứu từ 2015 đến nay mới đúc rút thành kinh nghiệm.
3. Đối tượng nghiên cứu
HS lớp T4 khóa 2015 – 2018- trường THPT Quảng xương 1 nói riêng, HS
trường THPT Quảng Xương 1 nói chung.

PHẦN II: NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Trên thế giới đã tồn tại nhiều khái niệm, nhiều định nghĩa khác nhau về
KNS, mỗi định nghĩa, mỗi khái niệm được thể hiện dưới những hình thức khác
3


nhau. Thông thường, KNS được hiểu là những kỹ năng thực hành mà con người

cần để có sự an toàn , cuộc sống khoẻ mạnh với chất lượng cao.
Theo UNICEFF, KNS là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý, xã hội và giao
tiếp của mỗi cá nhân, giúp con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao
tiếp một cách có hiệu quả, phát triển kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân nhằm
giúp họ có cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Từ KNS có thể thể hiện bằng
hành động của cá nhân và những hành động của người khác cũng như những
hành động nhằm thay đổi môi trường xung quanh, giúp nó trở nên lành mạnh.
Như vậy, KNS giúp con người thay đổi nhận thức, thái độ và hành động
theo hướng tích cực và mang tính xây dựng.
Ông cha ta đã từng nói “ Nhân chi sơ, tính bản thiện” nhân cách của trẻ
chịu sự tác động của các môi trường giáo dục; gia đình, nhà trường và xã hội.
Trong đó nhà trường đóng vai trò là người phát hiện, thiết kế và hướng dẫn để
HS có thể tự nhận thức, lĩnh hội và trau dồi nhân cách, kỹ năng sống cho mình
Ở lứa tuổi mới bước vào đời , bắt đầu sống độc lập, làm việc và sẽ có
những va chạm xã hội các em cũng rất cần được trau dồi kỹ năng sống. Theo
một nghiên cứu mới được nghành giáo dục công bố, có trên 95% HS chưa nhận
thức đúng về kỹ năng sống. Từ hiện trạng này cho thấy, việc giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh là rất cần thiết nhằm góp phần đào tạo “con người mới” với
đầy đủ các mặt “đức, trí, thể , mỹ” “ nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” hay “ nhân, nghĩa,
trí, tín, dũng, liêm...”. Hồ Chủ Tịch đã từng nói:
“ Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Giáo dục KNS chính là định hướng cho các em những con đường sống
tích cực trong xã hội hiện đại trong ba mối quan hệ cơ bản: con người với chính
mình; con người với tự nhiên; con người với các mối quan hệ xã hội. Nắm được
KNS, các em sẽ biết chuyển dịch kiến thức – “cái mình biết” và thái độ, giá trị “cái mình nghĩ, cảm thấy, tin tưởng”…thành những hành động cụ thể trong thực
tế - “làm gì và làm cách nào” là tích cực và mang tính chất xây dựng. Tất cả đều
nhằm giúp các em thích ứng được với sự phát triển nhanh như vũ bão của khoa
học công nghệ và vững vàng, tự tin bước tới tương lai. Cụ thể là:
- Trong quan hệ với chính mình: Giáo dục KNS giúp HS biết gieo những

kiến thức vào thực tế để gặt hái những hành động cụ thể và biến hành động
thành thói quen, rồi lại gieo những thói quen tích cực để tạo ra số phận cho
mình.
- Trong quan hệ với gia đình: Giáo dục KNS giúp HS biết kính trọng ông
bà, hiếu thảo với cha mẹ, quan tâm chăm sóc người thân khi ốm đau, động viên,
an ủi nhau khi gia quyến có chuyện chẳng lành…
- Trong quan hệ với xã hội: Giáo dục KNS giúp HS biết cách ứng xử thân
thiện với môi trường tự nhiên, với cộng đồng như: có ý thức giữ gìn trật tự an
toàn giao thông; giữ vệ sinh đường làng, ngõ phố; bảo vệ môi trường thiên
nhiên…Từ đó, góp phần làm cho môi trường sống trong sạch, lành mạnh, bớt đi
những tệ nạn xã hội, những bệnh tật do sự thiếu hiểu biết của chính con người
4


gây nên; góp phần thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội tích cực để hài hoà
mối quan hệ giữa nhu cầu – quyền lợi – nghĩa vụ trong cộng đồng.
Do những ý nghĩa đặc biệt nêu trên, việc giáo dục hình thành nhân cách
cho HS nói chung và đối với giáo dục KNS nói riêng ngày càng trở nên quan
trọng và cấp thiết.
Tuy nhiên, việc giáo dục kỹ năng sống chưa được quan tâm đúng mức
trong nhà trường, chưa đáp ứng được nhu cầu rèn luyện kỹ năng cho các em. Vì
vậy, vai trò của GVCN rất quan trọng trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh.
II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.
1. Thuận lợi:
a. Về phía giáo viên:
- Rèn luyên kỹ năng sống cho HS là một trong những chương trình trọng
điểm của Bộ Giáo Dục. Do vậy được áp dụng cho tất cả các môn học, cấp học.
- Nhà trường đang thực hiện phong trào thi đua xây dựng “ Trường học
thân thiện, học sinh tích cực”. Trọng điểm của phong trào là rèn luyện KNS cho

HS.
- GV đã được tập huấn giảng dạy KNS cho học HS ở những khoá tập
huấn do Sở GD-ĐT tổ chức.
- Sự quan tâm của nhà trường về nề nếp, kỷ luật, cơ sở vật chất tạo điều
kiện thuận lợi cho GVCN làm tốt vai trò của mình.
b. Về phía học sinh:
- Học sinh đã được giáo dục kỹ năng sống từ các cấp học dưới.
- Sự phát triển của Internet, công nghệ thông tin đã giúp học sinh hiểu và
hình thành cho mình một số kỹ năng sống thiết yếu.
2. Khó khăn:
a. Về phía giáo viên
- Việc giảng dạy KNS trong nhà trường chưa được đồng bộ.
- Tài liệu về giáo dục KNS trong thư viện nhà trường còn ít.
- Sự phối kết hợp giữa GVCN và GV bộ môn chưa thực sự hiệu quả trong
giáo dục.
b. Về phía học sinh:
- Phần đa học sinh còn chưa chú trọng đền việc học và rèn luyện KNS cho
mình.
- Phụ huynh HS chỉ quan tâm đến việc học theo khối của con em mình,
một số mải mê với công việc phó mặc việc dạy dỗ cho nhà trường.
Khi nhận lớp chủ nhiệm, sau một tháng quan sát, theo dõi và bằng hình
thức phát phiếu trắc nghiệm, tôi thấy phần lớn HS lớp tôi chủ nhiệm chưa có
KNS.
Sĩ số
HS chưa có KNS
HS nhận thức được HS có KNS
một số KNS
43 HS 27 HS
63%
9HS

21%
7HS
16%
5


III. CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH GIÁO DỤC
1. Những yêu cầu sư phạm đối với giáo viên chủ nhiệm
GVCN phải xác định mình là người đóng vai trò quan trọng trong việc
giáo dục KNS cho HS, phải có lòng nhiệt tình và sự đam mê. Bởi vì, GVCN là
linh hồn của lớp, là người tiếp xúc thường xuyên với HS, là người nắm rõ tâm
lý, tính cách của từng HS. Do vậy, GVCN có thể hiểu được năng lực, thái độ ưu
điểm và nhược điểm của từng HS. Đây là yêu cầu rất quan trọng. Bởi công tác
chủ nhiệm lớp đòi hỏi điều đầu tiên của GV là lòng nhiệt tình và sự đam mê.
Làm chủ nhiệm là một “ nghệ thuật”, nếu không có sự nhiệt tình sẽ không đem
lại kết quả như mong muốn. Khi xác định được vai trò của mình GVCN sẽ gần
gũi được HS, chiếm được cảm tình từ phía HS, từ đó sẽ có những biện pháp thiết
thực để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
GVCN phải biết lập được kế hoạch chủ nhiệm cho riêng mình để có thể
giáo dục được KNS cho HS. Căn cứ vào kế hoạch chung của Sở GD, của nhà
trường, đặc điểm của lớp, của địa phương GVCN phải lập được cho mình một
kế hoạch cụ thể, chi tiết, khoa học cho từng tuần, từng tháng và trong cả năm
học. Phải biến việc giáo dục KNS cho HS thành một thói quen, thành kỹ năng
của mình trong suốt quá trình làm công tác chủ nhiệm.
GVCN phải là tấm gương cho HS soi vào về đạo đức, lối sống, hành vi.
Có thể nói; để giáo dục được HS thì người GV nói chung và GVCN nói riêng
phải là người biết dùng nhân cách của mình để dạy HS “Dùng nhân cách để giáo
dục nhân cách”. GVCN phải là người có tấm lòng khoan dung, độ lượng, là
quan toà mẫu mực trong khi giải quyết tình huống. Đặc biệt, GVCN phải hết
lòng thương yêu HS, xem HS như con, em của mình, phải mở lòng mình với

HS, có như vậy GVCN mới được học sinh tin tưởng, gần gũi, gửi gắm tâm sự.
Đây cũng là kênh thông tin quan trọng để GVCN có phương pháp tốt để giáo
dục đạo đức và KNS cho HS.
GVCN phải là người có năng lực quản lý và năng lực tổ chức. Không phải
lúc nào GVCN cũng ở trên lớp cùng với HS. Do vậy, GVCN phải xây dựng đội
ngũ cán sự lớp có năng lực và trách nhiệm, điều hành một tập thể tự quản.
GVCN còn phải biết ứng xử, giải quyết đúng các mối quan hệ giữa HS đối với
nhau, giữa HS với GV, giữa GV bộ môn đối với GVCN, giữa GVCN với Đoàn
thanh niên,... với cha mẹ HS. Thầy cô chủ nhiệm phải là cầu nối quan trọng kết
nối ba môi trường giáo dục; gia đình, nhà trường và xã hội.[2]
2. Những Kỹ năng cần giáo dục cho học sinh
Có rất nhiều kỹ năng cần giáo dục cho học sinh, trong phạm vi đề tài này
tôi xin đưa ra phương pháp giáo dục một số KNS như sau:
2.1. Kỹ năng tự nhận thức giá trị bản thân: Kỹ năng tự nhận thức giá trị
bản thân là nhận biết nhân cách của bản thân, các điểm mạnh, điểm yếu, những
giá trị của mình, những điều mình yêu thích, những điểm mình không thích.[3]
6


Ví dụ: Điểm mạnh của bản thân là gì, điểm yếu của bản thân là gì? Những
điều gì mình muốn trong cuộc sống? Những thành quả mình mong muốn đạt
được?
Giáo dục kỹ năng này sẽ giúp cho học sinh hiểu rõ về bản thân mình, tự
nhận thức về bản thân mình giúp các hiểu được bản chất con người mình và sẽ
vững vàng hơn trước những thay đổi mang tính quá độ. Giúp các em lựa chọn
những mục tiêu của cuộc đời phù hợp với năng lực, sở thích của mình
2.2. Kỹ năng tư duy phê phán: Đó là năng lực và thái độ luôn đánh giá
những ý kiến , đưa ra những nhận định khách quan, hợp lý dựa trên lý lẽ và bằng
chứng hơn là dựa trên tình cảm hoặc các giai thoại.[3]
Ở lứ tuổi HS suy nghĩ đang còn mang nặng cảm tính. Do vậy, khi đánh

giá một vấn đề nào đó các em còn thiếu tính khách quan, dễ rơi vào sai lầm. Kỹ
năng tư duy phê phán giúp HS có những quyết định đúng đắn, phát huy khả
năng sáng tạo và khoa học trong các môn học cũng như khi đánh giá những vấn
đề trong cuộc sống.
2.3. Kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định;
Kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định là khả năng suy nghĩ có phê
phán, tư duy một cách sáng tạo, khả năng giải quyết vấn đề một cách có cân
nhắcđến mặt được cũng như mặt chưa được của từng lựa chọn, giải pháp xử lý
để có thể có được quyết định cuối cùng đúng đắn, phù hợp.[3]
Ví dụ: Ngày mai mình sẽ làm gì? Mình sẽ lựa chọn nghề gì cho tương
lai?....
Ở lứa tuổi HS việc khi đứng trước một vấn đề cần giải quyết , các em
thường băn khoăn giữa cái đúng và cái sai. Điều này khiến các em không giúp
các em trưởng thành và chín chắn. Giáo dục kỹ năng giải quyết vấn đề và ra
quyết định giúp HS biết lựa chọn giải pháp tối ưu để giải quyết vấn đề có hiệu
quả và có trách nhiệm với bản thân. Với kỹ năng này cở hội thành công của các
em tăng lên. Các em sẽ tránh được những sai lầm và hậu của đáng tiếc xảy ra
khi đứng trước một vấn đề cần giải quyết.
2.4. Kỹ năng giải quyết xung đột:
Ở lứa tuổi vị thành niên các xung dột diễn ra ở các em rất nhiều, các xung
đột thường diễn ra rất kịch tính và thường HS không thể giải quyết xung đột một
cách độc lập. Nguyên nhân là các em thiếu kỹ năng giải quyết xung đột. Do vậy
giáo dục kỹ năng này chính là cách cung cấp cho HS quy trình giải quyết xung
đột, giúp các bên được lắng nghe, tôn trọng và cảm thấy được thoả đáng sau khi
được giải quyết.[3]
2.5.Kỹ năng hợp tác:
Kỹ năng hợp tác là khả năng làm việc, học tập với những người khác;
đngs góp ho tập thể những ý tưởng để thực hiện phần nhiệm vụ của mình, một
phần nhiệm vụ nhóm, lắng nghe, hỗ trợ và chia sẻ với các thành viên trong
nhóm; giải quyết sự khác biệt vì lợi ích tập thể.[3] Ví dụ: Hợp tác lên kế hoạch

học nhóm, lên kế hoạch tập văn nghệ, lao động ...

7


Với học sinh THPT việc giáo dục kỹ năng hợp tác nhằm trang bị cho các
em kiến thức cũng như kỹ năng giải quyết một cách chủ động, tích cực và hiệu
quả nhất các tình huống, yêu cầu của cuộc sống khi gặp phải. Giúp cho học sinh
có cơ hội tiếp xúc, cảm giác, cảm nhận, trải nghiệm trước những hiện tượng, sự
vật, sự việc đã và đang diễn ra trong tự nhiên, cũng như trong cuộc sống xã hội.
Từ đó học sinh có hiểu biết nhất định về những hiện tượng, sự vật, sự việc đó.
Học sinh sẽ biết tự điều chỉnh được những hành vi của mình sao cho đúng đắn,
và phù hợp với phạm trù đạo đức, biết thích nghi với cuộc sống hiện tại, biết
chăm sóc và bảo vệ bản thân, biết nhận xét đúng sai và bảo vệ lẽ phải. Góp phần
định hướng tương lai cho chính bản thân học sinh, cho gia đình và xã hội.
2.6. Kỹ năng kiên định:
Kỹ năng kiên định là kỹ năng thực hiện những gì mà mình muốn hoặc từ
chối những gì mình không muốn với sự tôn trọng có xem xét tới quyền và nhu
cầu của người khác với nhu cầu và quyền của mình một cách hài hoà đúng mực.
Đó là tính kiên định theo chiều hướng tích cực.[3] Ví dụ như: Một cô gái từ chối
sự tán tỉnh của người bạn trai cùng lớp hoặc của người đàn ông lớn tuổi hơn,
hoặc một em bé thuyết phục mẹ để tiếp tục được đi học. Kiên định là sự cân
bằng giữa hiếu thắng, vị kỷ và phục tùng, phụ thuộc.
Ở lứa tuổi HS trung học, kỹ năng kiên định là rất quan trọng. HS có thể
đứng trước rất nhiều tình huống phải lựa chọn hoặc có thể do bạn bè rủ rê, thậm
chí bị kjhuyến khích làm những việc trái pháp luật hoặc lao vào các tệ nạn xã
hội. Trang bị kỹ năng kiên định là cách cho HS biết cách để bảo vệ lập trường
của mình, biết cách từ chối trong các tình huống khó xử mà không mất đi tình
bạn, không sợ bạn tẩy chay...
2.7. Kỹ năng học tập và định hướng nghề nghiệp:

Kỹ năng học tập và định hướng nghề nghiệplà khả năng xác định được
thiên hướng, sở trường của mình trong học tập, trong các ngành nghề, nhóm
nghề nghiệp, từ đó có sự lựa chọn nghè nghiệp trong tương lai. Như mình thích
tìm hiểu, khám phá đất nước, mình học giỏi văn, sử, địa thì mình nên lựa chọn
nghề gì? Thi vào trường gì?[3]
Giáo dục kỹ năng này sẽ giúp các em nhận thức rõ hơn về mục đích học tập đi
đến đích lâu dài của mình là gì. Từ đó các em có mục đích, động cơ học tập, có
nỗ lực phấn đấu và sẽ kiên cường đẻ đạt được mục đích đã chọn.
IV. CÁC BIỆN PHÁP CỤ THỂ ĐỂ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH.
1. Tổ chức tốt các buổi sinh hoạt 15 phút và buổi sinh hoạt cuối tuần:
Trong các biện pháp để giáo dục KNS cho HS trong công tác chủ nhiệm tôi
coi trọng biện pháp này nhất. Bởi thời gian để GVCN tiếp xúc nhiều nhất với
HS là thông qua các buổi sinh hoạt 15 phút và sinh hoạt cuối tuần.
1.1. Lồng ghép chương trình giáo dục kỹ năng sống trong những buổi
sinh hoạt 15 phút đầu giờ.

8


Đây là giải pháp quan trọng. Trong suốt năm học, GVCN là người thường
xuyên bám lớp trong những giờ sinh hoạt 15 phút đầu giờ. Vì vậy việc lồng
ghép giáo dục KNS cho học sinh là việc làm bổ ích, tránh được những buổi sinh
hoạt nhàm chán, lặp đi , lặp lại, mà lại gây được hứng thú cho HS trong những
buổi sinh hoạt 15 phút, đồng thời, giáo dục được KNS cho HS. Trong buổi sinh
hoạt 15 phút đầu giờ thời gian ít. Vì thế, GVCN có thể áp dụng các phương pháp
giáo dục KNS như; thảo luận nhóm, động não, nghiên cứu tình huống, hoặc tổ
chức những trò chơi (có thời gian ngắn.)
1.1.1: Phương pháp hoạt động nhóm
Tổ chức tốt phương pháp này, GVCN sẽ tạo cơ hội cho HS tự tin, thoải

mái chia sẻ sự hiểu biết của mình với người khác. Đồng thời, tiếp nhận sự phê
phán, góp ý của bạn, giúp cho sự hiểu biết của HS trở nên sâu sắc hơn, toàn diện
hơn giúp cho buổi sinh hoạt trở nên sôi nổi, hứng thú.[4]
Tuy nhiên phương pháp này sẽ gây ra sự ồn ào, mất trật tự cho các lớp
bên cạnh, đặc biệt dễ gây sự nhàm chán cho một số HS. Do đó yêu cầu, GVCN
phải làm tốt những việc sau:
Phải tạo ra một không khí thảo luận cởi mở, tôn trọng lẫn nhau giữa HS
với nhau.
Vấn đề được đưa ra để HS thảo luận phải phù hợp với lứa tuổi, phải khơi
gợi được khả năng tư duy phê phán, khả năng sáng tạo của HS.
Ví dụ1:
Khi giáo dục kỹ năng “tự nhận thức giá trị bản thân”. GVCN cho HS tiến
hành các hoạt động nhóm trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ
Hoạt động : Chia sẻ về tự nhận thức bản thân
GV phát các tờ rơi in sẵn mệnh đề
Sở thích của em là gì?(đọc báo, xem TV, xem bóng đá....)
Cuốn truyện/ sách, chương trình TV mà em thích nhất.
Điểm mạnh và năng khiếu của em là gì?
Ai là người bạn thân nhất của mình? Người đó như thế nào?Có đặc điểm
gì nổi bật?
Mình muốn làm nghề gì trong tương lai?
GV chia lớp thành những
nhóm nhỏ gồm có 3 người mỗi em tự suy nghĩ và điền vào tờ rơi trong vòng 5
phút, sau đó chia sẻ với những bạn trong nhóm mình.
Tiếp theo GVCN cho đại diện các nhóm trình bày những quan điểm
chung của các thành viên trong nhóm mình, chia sẻ với các nhóm khác?
Ví dụ 2:
Khi giáo dục kỹ năng kiên định, trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ
GVCN cho HS tiến hành hoạt động - Tranh luận đôi bên.
GVCN chia lớp thành hai nhóm: Yêu cầu các em đưa ra các tình huống lôi

kéo của bạn bè hay gặp nhất( hút thuốc, trốn học, chơi điện tử...). Phân một
nhóm chuẩn bi lý lẽ ủng hộ ý kiến (nên hút thuốc), một nhóm chóng lại ý kiến
(không nên hút thuốc).Để hai nhóm chuẩn bị lý lẽ trong vòng 7 phút. Sau đó cho
hai nhóm tranh luận, chất vấn.
9


Sau khi HS tranh luận xong GVCN hướng dẫn HS đi đến thống nhất ý
kiến là “nên” hoặc “không nên”. Nếu không nên hút thuốc thì phải làm gì?
GVCNcung cấp cho HS các bước để hình thành kỹ năng kiên định. Tầm quan
trọng của kỹ năng kiên định đối với HS.
1.1.2: Phương pháp nghiên cứu tình huống:
Áp dụng phương pháp này GVCN sẽ huy động khả năng động não, khả
năng tư duy, khả năng giải quyết vấn đề và ra quyết định của HS, lôi kéo các em
vào những ình huống có thực và bắt buộc các em phải giải quyết[4].
Tuy nhiên để thành công khi áp dụng phương pháp này GVCN phải đưa
ra những tình huống sát thực với cuộc sống của các em, đang đựơc các em quan
tâm và suy nghĩ, các em phải quyết định. Tất nhiên đó phải là tình huống giáo
dục, để đem lại kết quả giáo dục.
Ví dụ:
Khi giáo dục kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định, kỹ năng học tập
và định hướng nghề nghiệp. GVCN ra tình huống cho HS.
Giả sử em rất muốn thi vào trường đại học mà em thích, nhưng bố mẹ em
không đồng ý. Em sẽ làm gì? Tại sao em quyết định nhu vậy
GVCN chia lớp thành bốn nhóm, cho các em trao đổi, tranh luận với nhau
trong vòng 5 phút. Sau đó, cử đại diện các tổ đưa ra ý kiến tranh luận của mình
trong vòng 10 phút. Vào các buổi sinh hoạt tếp theo, GVCN tổng kết và đưa ra
nhận xét, hướng dẫn HS trong cách chọn nghề phải căn cứ vào các yếu tố: Năng
lực, sở trường của mình, nhu cầu và sự phát triển của xã hội.
Ví dụ em thích được du ngoạn, khám phá những điều mới lạ, em có khả

năng về các môn văn, ngoại ngữ... nên thi vào trường du lịch.
1.1.3. Phương pháp trò chơi:
Phương pháp này mang lại cho HS khả năng giao tiếp , khả năng quyết
định lưạ chọn, kỹ năng nhận xét đánh giá .Tạo không khí vui vẻ, sôi động trong
buổi sinh hoạt.[4]
Tuy nhiên, phương pháp này dễ gây sự lộn xộn trong lớp, gây ồn ào cho
các lớp bên cạnh. Do vậy, GVCN phải chuẩn bị được những trò chơi có nội
dung phù hợp với thời gian ngắn, hấp dẫn, ít gây sự xáo trộn trong tổ chức lớp.
Ví dụ: Khi giáo dục kỹ năng tư duy phê phán, GVCN tổ chức cho HS chơi
trò chơi “cùng nhau viết tiếp câu chuyện” trong vòng 15 phút. Cho HS đứng
thành vòng tròn trong lớp, GVCN ra nhan đề cho câu chuyện như “ Tôi học như
thế nào”. Sau đó GVCN cho một em viết câu mở đầu như “trước tiên tôi học
bằng chính nghị lực của mình”. Sau đó chuyền cho các em tiếp theo viết tiếp các
câu sau theo logic của câu trước thành một câu truyện.
1.2. Tổ chức tốt các buổi sinh hoạt cuối tuần:
Phần lớn các tiết sinh hoạt chủ nhiệm hiện nay chủ yếu được thực hiện
dưới hình thức là tổng kết, đánh giá và đề ra phương hướng tuần tới. Hình thức
sinh hoạt này dễ gây cho học sinh sự nhàm chán, đặc biệt là gây áp lực về các
lỗi mà các em mắc phải trong tuần qua. Vì lẽ đó mà một số em cảm thấy không
10


thích tiết sinh hoạt chủ nhiệm, thậm chí là sợ hãi. Người thầy chủ nhiệm trong
quá trình đánh giá ưu khuyết điểm của học sinh trong tuần vừa qua thường chủ
quan xem việc vi phạm nội quy và những biểu hiện chưa tốt của học sinh là do
các em không cố gắng, đôi khi xem đó là biểu hiện đạo đức không tốt. Biện
pháp thường được áp dụng là xử lí kỉ luật, làm tờ tự kiểm và đôi lúc là hạ hạnh
kiểm.
Điều này dễ dẫn đến việc học sinh không tin vào thầy cô, bạn bè và có khi
là không tin vào bản thân mình. Các em cần sự hướng dẫn và giáo dục của giáo

viên chủ nhiệm. Trong tiết sinh hoạt lớp, GVCN sẽ cung cấp cho học sinh những
hiểu biết thông qua các hoạt động sinh hoạt chuyên đề sinh động và vui nhộn.
Sự sinh động và hứng thú của việc được tham gia vào các hoạt động có liên
quan sẽ giúp học sinh nâng cao ý thức một cách tự nhiên và dễ dàng. Cũng nhờ
vào các hoạt động này cùng với sự tin tưởng và sẻ chia của thầy cô mà các em sẽ
có được niềm tin, định hướng và nghị lực để phát triển nhân cách.
Thứ nhất: GVCN xử lý hành vi vi phạm của HS phải gắn việc giáo dục
kỹ năng sống , xử lý khoa học, nhẹ nhàng nhưng phải nghiêm khắc, gắn với kỷ
luật.
Ví dụ1: Trong buổi lao động của lớp , mặc dù tôi đã phân công cụ thể cho
từng tổ nhưng trong quá trình thực hiện, nhưng một số HS vẫn còn đùn đẩy
nhau, dẫn đến công việc hoàn thành không đúng kế hoạch. Mặc dù rất bực bội
nhưng tôi không nói gì. Vào buổi sinh hoạt cuối tuần tôi đã gọi lớp trưởng trình
bày lý do, lớp trưởng cho biết: Một số bạn đến muộn hơn nên các bạn đến sớm
chừa lại phần việc cho các bạn ấy làm. Tôi dùng phương pháp giáo dục KNS “
nghiên cứu tình huống”, bình tĩnh kể cho HS nghe mẫu chuyện “ sức mạnh” và
nhấn mạnh lời người cha căn dặn con “ trong cuộc sống, không phải lúc nào
chúng ta cũng có thể tự mình làm tất cả mọi việc. Sức mạnh của chúng ta
còn nằm ở những người thân, bạn bè- những người luôn quân tâm và giúp
đỡ ta”. Sau khi kể xong tôi đã hỏi một số HS không đi lao động và đến muộn?
Em không đi làm, hoặc đến muộn thì các bạn phải làm thay em phần việc đó,
em có suy nghĩ gì? Sau đó tôi hỏi một số HS đến sớm? Nếu lần sau, em có một
lý do nào đó mà cũng đến muộn, các bạn cũng chừa lại phần việc cho em,
một mình em làm và công việc không hoàn thành, thì em sẽ suy nghĩ như thế
nào? Quay sang tôi hỏi cả lớp? Nếu muốn công việc hoàn thành nhanh chóng
thì chúng ta phải làm gì?. Thông qua cách này, tôi đã giáo dục cho HS kỹ năng
hợp tác trong cộng đồng và ý nghĩa của sự hợp tác đó. Tôi vừa phê bình, kiểm
điểm được thái độ, tinh thần của HS vi phạm, vừa giáo dục được kỹ năng cho
HS, mà không biến tiết sinh hoạt trở nên căng thẳng.
Ví dụ 2: Để xử lý HS vi phạm tôi dùng phương pháp “mô hình mẫu”, tôi

dùng ngay chính hành vi ứng xử,giao tiếp của mình để xử lý. Trước tiên tôi cho
HS trình bày nguyên nhân tại sao lại dẫn đến những vi phạm đó, nếu HS khó nói
thì có thể gặp riêng tôi. Qua đó nhẹ nhàng phân tích cho HS vi phạm cái đúng
và cái sai trong hành vi của em, hướng khắc phục, sữa chữa. Nếu lỗi nặng tôi sẽ
áp dụng hình phạt theo nội quy của lớp, nếu lỗi nhẹ tôi có thể cho qua. Vì vậy,
11


khi HS bị phạt mà vẫn không thấy oan ức, hoặc phản ứng tiêu cực, mà còn rút ra
được kỹ năng khi xử lý tình huống cho mình.
Ví dụ 3: Vào buổi sinh hoạt cuối tuần, khi xử lý hai HS trong giờ học đã
có hành vi đánh nhau. Tôi dùng phương pháp phát vấn, để hỏi hai HS: Vì sao lại
dẫn dến xung đột giữa hai người? Nếu bình tĩnh như bây giờ em có hành
động như vậy không? Em sẽ xử lý như thế nào? Sau khi cho HS trình bày ý
kiến của mình GV tổng kết lại và phổ biến trước lớp kỹ năng giải quyết xung đột
như: kiềm chế cảm xúc, sử dụng kỹ năng thư giãn ( như thở vào, hít ra, nói ra
cảm xúc của mình bằng giọng kiên định nhưng nhẹ nhàng). Cuối cùng tôi cho
hai HS giảng hoà với nhau và mỗi bạn viết một bản kiểm điểm trình bày trước
lớp về hành vi sai trái của mình.
Thứ hai: Thông qua các buổi sinh hoạt cuối tuần GVCN có thể lồng ghép
các chuyên đề giáo dục KNS cho học sinh
Trong giờ sinh hoạt cuối tuần GVCN dành 15 hoặc 20 phút để tổng kết tuần và
đề ra phương hướng cho tuần sau, hoặc xử lý học sinh vi phạm. Thời gian còn
lại( hoặc có thể là cả buổi tuỳ theo công việc của tuần ít hay nhiều) GVCN có
thể lồng ghép các chuyên đề giáo dục KNS cho HS. GVCN có thể dùng các
phương pháp sau:
1.2.1. Phương pháp “trò chơi”.
Những ưu điểm và nhược điểm của phương pháp này tôi đã trình bày ở
trên. Để thành công khi áp dụng phương pháp này trong buổi sinh hoạt cuối tuần
GVCN cần phải làm tốt công việc sau:

GVCN phải đưa ra trò chơi mang tính cộng đồng, tập thể, kích thích khả
năng tư duy, động não của các em.
GVCN phải tìm ra một người điều khiển trò chơi có khả năng giao tiếp tốt
và đóng vai trò như một MC để dẫn dắt trò chơi.
GVCN nên áp dụng phương pháp này nhiều trong các buổi sinh hoạt cuối
tuần.
Ví dụ1: Khi giảng dạy kỹ năng “ Hợp tác” trong buổi sinh hoạt cuối tuần
tôi tổ chức hoạt động trò chơi “bão biển ” trong vòng 20 phút. Tôi chia HS
thành những nhóm nhỏ, mỗi nhóm không quá 4 người, mỗi nhóm được trang bị
một tờ báo trải dưới đất, bốn học sinh cùng đứng trên tờ báo. Người điều khiển
trò chơi hô “ bão tới”. Bốn người trên thuyền phải tìm cách chống lại cơn bão,
sau 10 phút bão tan, thuyền bị rách, HS rời khỏi thuyền. Gấp tờ báo lại thành
một phần, GVCN cho HS tiếp tục trò chơi. Trong vòng 10 phút tiếp theo bão
đến và thuyền lại bị rách, cứ như vậy GVCN cho HS chơi ba lần. Khi thuyền đã
bị rách hết rồi, giữa biển bốn người sẽ phải làm gì để vào bờ. GVCN cho cả lớp
thảo luận và giải quyết tình huống. GVCN kết luận, nêu ra bài học và KNS cần
cho HS là phải hợp tác với nhau.
Ví dụ 2:Để giáo dục kỹ năng “Tự nhận thức bản thân” GVCN tiến hành
hoạt động trò chơi “Người khác nghĩ về mình”.( thời gian 20phút)
Dụng cụ: giấy A0 khổ to, bút dạ màu, giấy khổ to cắt thành chiếc áo khoác

12


Tiến hành: Cho HS khoác lên mình chiếc áo giấy. Chia lớp thành bốn
nhóm, cho các thành viên trong nhóm viết lên lưng nhau, những ưu điểm, nhược
điểm, tính cách của bạn mình trong vòng 20 phút. .( Tinh thần góp ý, không phê
phán, không làm trò cười cho nhau)
Sau đó GVCN cho một số HS mạnh dạn đứng dậy trình bày những đặc
điểm của mình, vừa được bạn viết lên áo. HS trình bày xong GV đưa ra kết luận:

Một điểm quan trọng của tự nhận thức bản thân đó nhận biết sự đánh giá , nhìn
nhận của mọi người về mình. Sau trò chơi này GVCN lưu ý HS giữ và đọc
những ưu điểm, nhược điểm của mình đã được bạn chỉ ra để có hướng phát huy,
đồng thời khắc phục những điểm còn thiếu sót để hoàn thiện mình hơn.
Ví dụ 3: Khi giáo dục KNS “ Tư duy phê phán” GVCN cho HS chơi trò
chơi “ đoán chữ”. GVCN cho HS đoán chữ “ Đoàn kết” bằng cách đưa ra câu
hỏi thứ nhất.
Cụm từ này gồm tám chữ, đây là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta!.
Nếu HS chưa đoán ra GVCN đưa ra tiếp gợi ý. Truyền thống này được Hồ Chí
Minh đúc kết thành một chân lý, bài học lịch sử của dân tộc ta trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc!. Nếu HS vẫn chưa đoán được. GV đưa ra gợi ý
cuối cùng. Cụm từ này bắt đầu bằng chữ Đ!
1.2.2: Phương pháp thuyết trình kết hợp với các phương pháp khác.
Áp dụng phương pháp này trong buổi sinh hoạt cuối tuần sẽ giúp cho
GVCN và HS có thời gian trò chuỵện, trao đổi với nhau nhiều hơn, giúp HS
hiểu được các KNS có ý nghĩa với con người như thế nào.[4]
Tuy nhiên áp dụng phương pháp này dễ gây cho HS sự nhàm chán nếu
GVCN không khéo léo kết hợp tốt với các phương pháp khác. Do vậy, GVCN
phải lựa chọn các phương pháp tạo ra sự thu hút và nhu cầu muốn tìm hiểu ở
HS.
Ví dụ: Để giáo dục kỹ năng “ giải quyết vấn đề và ra quyết định”. GVCN
đọc cho học sinh nghe mẫu truyện “ Hãy thử một cách khác” ( Hạt giống tâm
hồn và ý nghĩa cuộc sống). Câu chuyện kể về một chú ruồi cố tìm cách thoát
thân bằng cách chui qua tấm kính của cửa sổ, mặc dù chú đã dồn hết sức lực
nhưng vẫn không qua được và cuối cùng chú đã chết. Trong khi đó chỉ cách
mười buớc chân là một cánh cửa đang rộng mở GV nhấn mạnh chi tiết “Nếu chú
ruồi không khoá chặt mình vào một lối nghĩ duy nhất và thử tìm cách khác, chú
đã tìm ra lối thoát một cách dễ dàng”.
Sau khi đọc xong, GVCN dùng phương pháp thuyết trình kết hợp với
phương pháp động não để tiến hành vói những câu hỏi sau: Em có thích mẫu

truỵên này không? Vì sao em thích? Nếu em ở trong trường hợp như chú ruồi
em sẽ làm gì để thoát thân? Tại sao em lại làm như vậy? Câu chuyện nhắc nhở
chúng ta điều gì?
Cho HS lần lượt trả lời xong, GVCN thuyết trình cho các em hiểu về ý
nghĩa của mẫu truyện. Từ đó thuyết trình cho HS hiểu về ý nghĩa của KNS giải
quyết vấn đề và ra quyết định. Năm bước căn bản để giải quyết vấn đề và ra
quyết định như; Xác định vấn đề; động não về các khả năng; đánh giá các khả
13


năng; lên kế hoạch hành động; đánh giá và điều chỉnh. Trong khi thuyết trình
GVCN phân tích ví dụ để chứng minh.
1.2.3Phương pháp đóng vai:
Nếu áp dụng tốt phương pháp này GVCN sẽ tạo được sự hứng thú và khả
năng sáng tạo của HS, khích lệ được sự thay đổi thái độ, hành vi của HS theo
hướng tích cực. Tuy nhiên, nếu tổ chức không tốt có thể trở thành cơ hội để HS
chơi đùa, trêu chọc nhau.[4]
Do vậy, GVCN phải tổ chức sao cho phần “diễn” chỉ là phụ mà quan
trọng hơn là phần thảo luận sau đó. Tình huống đưa ra phải thể hiện được tư duy
phê phán và khả năng sáng tạo. Vừa là nội dung của KNS vừa là phương tiện để
hình thành KNS khác.
Ví dụ: Khi giáo dục kỹ năng giải quyết xung đột (35 phút). GVCN ra tình
huống cho học sinh đóng vai. Lấy nhóm HS khoảng 5-6 bạn, để đóng vai một
tình huống; Các bạn đang chơi trong sân trường một bạn từ đâu tới xô vào người
bạn trong nhóm, cả hai người cùng ngã. Mặc dù người kia sai, nhưng bạn trong
nhóm vẫn đỡ người đó dậy, nói lời xin lỗi. Tuy nhiên, đáp lại thái độ lịch sự của
bạn trong nhóm, người kia chửi tục và đe doạ bạn trong nhóm.
Khi nhóm HS diễn xong, GVCN đưa ra câu hỏi; Nếu là các em trong tình
huống trên em sẽ xử lý như thế nào? GVCN phân lớp thành bốn nhóm cùng thảo
luận tình huống (10 phút). Sau đó cho đại diện các nhóm đứng lên trình bày ý

kiến của mình bằng cách đóng vai.
Cuối buổi GVCN tổng kết và đưa ra cho HS biết các bước giải quyết mâu
thuẫn.
Bước 1: Kiềm chế cảm xúc- sử dụng kỹ năng thư giãn. Tự đưa mình thoát
khỏi tâm trạng/tình huống đó.
Bước 2: Xác định nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn. cần suy nghĩ tích cực,
vì nó tác động mạnh đến cảm xúc và hành vi tích cực.
2.Phối kết hợp với GV bộ môn, Ban giám hiệu, Đoàn thanh niên và
các tổ chức khác trong nhà trường.
2.1. GVCN kết hợp với GV bộ môn :
Hiệu quả giáo dục của một lớp phụ thuộc một phần quan trọng vào hoạt
động và phẩm chất của giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên bộ môn. Vì vậy
giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên bộ môn phải có sự phối hợp, trao đổi thống
nhất tác động sư phạm đến học sinh thông qua một số hoạt động:- Giáo viên chủ
nhiệm thường xuyên theo dõi kết quả học tập của học sinh thông qua giáo viên
bộ môn (trao đổi trực tiếp với giáo viên bộ môn, thông qua nhận xét đánh giá
của giáo viên bộ môn ở sổ theo dõi tiết học, sổ gọi tên ghi điểm của lớp mình
quản lý).- Giáo viên chủ nhiệm thông qua việc dự giờ trên lớp các giáo viên bộ
môn lớp mình quản lý để quan sát thái độ, hứng thú học tập từng bộ môn của
học sinh lớp mình chủ nhiệm.- Giáo viên chủ nhiệm có thể trao đổi với giáo viên
bộ môn về hoàn cảnh gia đình, sức khỏe, tâm lý,năng lực, sở trường… của từng
học sinh. Từ đó có những đề xuất với giáo viên bộ môn về phương pháp hướng
dẫn học sinh học tập và cũng thông qua đó tiếp thu những ý kiến phản ánh của
14


giáo viên bộ môn về lớp mình phụ trách. Bên cạnh đó, giáo viên chủ nhiệm cũng
nên nêu những nguyện vọng của lớp đối với giáo viên bộ môn.Thông qua nhận
xét của giáo viên bộ môn, kết hợp với sự theo dõi và quan sát của giáo viên chủ
nhiệm, mỗi người giáo viên chủ nhiệm sẽ tìm được một giải pháp phù hợp với

thực trạng của lớp, với việc giảng dạy kỹ năng sống phù hợp với đặc điểm học
sinh của mình.
Ví dụ: Học sinh A có khả năng về môn toán, GVCN có thể gặp giáo viên
môn toán để phối kết hợp, có biện pháp bồi dưỡng và định hướng tương lai cho
HS.
2.2. GVCN phối kết hợp với Đoàn thanh niên, Ban giám hiệu và các tổ
chức khác trong Nhà trường.
Trước hết GVCN phải phối kết hợp thường xuyên với Ban giám hiệu và
tổ chức Đoàn thanh niên. Dưới sự chỉ đạo của Ban giám hiệu, một trong những
vai trò của Đoàn là đảm nhận hoạt động bề nổi như: tổ chức các hoạt động 26/3;
kỷ niệm ngày 20/11... thông qua các hoạt động của đoàn GVCN có thể dễ dàng
giáo dục KNS cho HS. Bởi vì, nhân cách của HS được hình thành qua hai con
đường cơ bản: con đường dạy học trên lớp và con đường hoạt động ngoài giờ
lên lớp. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp(HĐGDNGLL) là một bộ phận
hữu cơ của quá trình giáo dục ở nhà trường THPT. HĐGDNGLL là sự tiếp nối
của hoạt động dạy học trên lớp, là con đường gắn lý thuyết với thực tiễn , tạo
nên sự thống nhất giữa nhận thức và hành động , góp phần hình thành tình cảm,
niềm tin cho sự hình thành nhân cách cho các em, là điều kiện thuận lợi để học
sinh phát huy vai trò chủ thể của mình trong hoạt động, nâng cao tính tích cực
hoạt động rèn luyện để phát triển nhân cách.
Ví dụ: Thông qua hội thi văn nghệ, làm báo tường, thi kéo co đê chào
mừng ngày thành lập nhà giáo Việt Nam, ngày thành lập Đoàn (26/3)GVCN có
thể lồng ghép giáo dục KNS: hợp tác, hoà nhập, kỹ năng lãnh đạo cho HS lớp
mình thông qua cách phân công nhiệm vụ cho từng cá nhân trong lớp, phát huy
tinh thần chủ động , tích cực của các em để làm sao đó để lớp mình có thể đem
lại thành tích cao nhất trong cuộc thi.
Ngoài ra, GVCN phải thường xuyên kết hợp với các tổ chức khác trong
nhà trường như tổ giám thị ... để xử lý vi phạm của học sinh một cách thuyết
phục và có hiệu quả.
3. GVCN phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh.

Nhân cách của học sinh được hình thành dưới tác động của ba môi
trường: gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó gia đình là môi trường mang
tính trực tiếp quyết định đến sự hình thành nhân cách của các em. Do vậy,
GVCN cần phải có mối liên hệ chặt chẽ với phụ huynh học sinh, thông qua phụ
huynh, GVCN có thể nắm bắt được: đặc điểm, cá tính, sở thích của từng học
sinh, bởi hai phần ba thời gian HS tiếp xúc với gia đình. Do vâỵ, không ai hiểu
rõ con mình hơn là phụ huynh. Mặt khác thông qua phụ huynh, GVCN có thể
biết được hiệu quả giáo dục KNS cho học sinh của mình đến đâu. Mặc dù , hiệu
15


quả giáo dục KNS không đo được bằng những con số chính xác nhưng được
biểu hiện bằng những thái độ và hành vi cụ thể như: khi về nhà các em có tự tin
hơn không, có còn lúng túng khi giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống
không? Trong quan hệ với bạn bè, làng xóm có hoà nhập hơn không? Các em có
ý thức sống tự lập hơn không?...Để tạo thành kỹ năng, phản xạ tốt thì cần phải
được rèn luyện thường xuyên, liên tục đến mức thuần thục.. Do đó vai trò của
gia đình là không thể thiếu và giữ vị trí hết sức quan trọng.
4. GVCN cung cấp cho phụ huynh HS những kiến thức cần giáo dục
kỹ năng sống cho HS thông qua các buổi họp phụ huynh.
Ở các nước phát triển, trẻ em sống độc lập, vì vậy tránh được những rủi ro
đáng tiếc. Nhưng ở Việt Nam vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức. Phần
lớn trong các gia đình vẫn còn tâm lý xem các em như là những đứa trẻ, cần
được bao bọc. Dẫn đến các em thiếu kỹ năng tự vệ, kỹ năng xử lý tình huống, kỹ
năng lựa chọn nghề nghiệp...Một số phụ huynh thiếu kiến thức về giáo dục kỹ
năng sống cho con em mình( nhất là các vùng nông thôn). Một số phụ huynh do
mải mê với công việc làm ăn nên lãng quên việc giáo dục con. Do vậy trong mỗi
lần họp phụ huynh, tôi thường cung cấp và tư vấn cho phụ huynh HS những nội
dung giáo dục KNS như; Kiến thức về giáo dục HS phù hợp với tâm lý, lứa tuổi,
đặc biệt việc phát hiện sớm biểu hiện rối loạn tâm thần của học sinh, bệnh tật

học đường, định hướng nghề nghiệp, năng khiếu của từng HS...
5. Xây dựng quy tắc ứng xử giữa HS với GVCN, với GV bộ môn
Trong xã hội hiện nay, mối quan hệ thầy trò có phần thay đổi hơn so với
thời xưa. Thể hiện rõ nhất ở những khía cạnh như; dân chủ hơn, thân thiện và
hoà đồng hơn. Tuy nhiên, để việc giáo dục đạo đức và KNS cho HS có hiệu quả
hơn GVCN phải xây dựng cho lớp mình một quy chế giao tiếp và ứng xử giữa
“thầy với thầy, trò với trò”gần gũi, thân thiện, rèn luyện cho HS kỹ năng ứng xử
văn hoá, phòng chống tệ nạn xã hội, bạo lực. Tránh tình trạng thầy không ra
thầy, trò không ra trò.
GVCN phải dùng đúng ngôn từ, chuẩn mực lời nói trước học sinh, vừa
giữ đúng vị trí của giáo viên đối với học sinh, vừa gây được tình cảm thân thiết
giữa cô và trò. Ví dụ trong cách “xưng hô” giáo viên nói chung và GVCN nói
riêng không nên dùng những từ gây khoảng cách đối với học sinh như; “tôi” và
“anh, chị”, hoặc dùng những lời lẽ không chuẩn mực đối với học sinh như “
mày, tao”....
GVCN cũng phải yêu cầu HS trong cách xưng hô với GVCN và GV bộ
môn phải đúng chuẩn mực, giữ đúng khoảng cách của người học đối với thầy,
đúng nguyên tắc lễ phép, tôn sư, trọng đạo,không được dân chủ quá trớn.
Tuy vậy, GVCN cũng phải tạo ra bầu không khí cởi mở, thân thiện đối với
HS, bằng cách gần gũi, thân thiện, tâm sự với HS như một người bạn thân
thiết.Trong những năm làm chủ nhiệm tôi thường tổ chức những buôỉ dã ngoại
hoặc những buổi họp mặt tại nhà GVCN. Thông qua hình thức này tôi có thể
16




×