Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

SKKN một số kinh nghiệm giáo dục giá trị sống cho học sinh lớp chủ nhiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.56 KB, 15 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Ở bất kỳ thời điểm nào thì mục tiêu của giáo dục và đào tạo luôn là giáo dục
toàn diện cho học sinh cả về đức, trí và các năng lực khác cho học sinh. Nếu chúng
ta chỉ chú trọng đào tạo về mặt kiến thức, sẽ tạo ra một thế hệ học sinh không toàn
diện, khó ứng phó với những khó khăn trong thực tế, lãnh cảm với xã hội.
Trong hầu hết các trường phổ thông hiện nay, chúng ta chỉ quan tâm đến việc
dạy chữ, nhiều trường lấy tỉ lệ học sinh giỏi, học sinh đạt điểm cao trong kỳ thi
Trung học phổ thông Quốc gia hay tỉ lệ học sinh đậu tốt nghiệp làm thước đo mà ít
quan tâm đến học sinh chăm ngoan, chuyên cần, phát triển nhân cách học sinh. Vì
vậy trong nhiều năm gần đây, các hiện tượng bạo lực học đường, học sinh không
chủ động hứng thú học tập....Hiện nay hiện tượng học sinh sống thu mình lại, lạnh
nhạt, thờ ơ với mọi người xung quanh, vô cảm với những sự việc xẩy ra xung
quanh mình, nhiều em đắm chìm trong thế giới ảo, sống thiếu tự tin, thiếu trách
nhiệm, ích kỉ....đó là do các em thiếu hiểu biết về các giá trị sống cơ bản cũng như
chưa hình thành cho bản thân những giá trị sống cơ bản mà một con người cần có,
dẫn đến các em không có khả năng giải quyết các áp lực trong cuộc sống, không
biết giải quyết một cách tích cực các xung đột xẩy ra, không tiết chế được cảm xúc
của bản thân....Điều đó là rào cản cho sự phát triển toàn diện của các em và trở
thành gánh nặng cho xã hội. Vì vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để các em hiểu rõ
các giá trị sống cơ bản từ đó hình thành động cơ, thái độ, quyết tâm và sức mạnh
giúp các em vượt qua khó khăn, vươn tới mục đích, thúc đẩy hoạt động học tập.
Mặt khác khi các em đã hiểu biết về các giá trị sống thì các em có cơ sở để đánh
giá thái độ hành vi đúng sai, nên có và không nên có của con người cũng như xác
định được mục tiêu, phương hướng phấn đấu cho bản thân. Xuất phát từ điều đó tôi
mạnh dạn thực hiện đề tài: " Một số kinh nghiệm giáo dục giá trị sống cho học
sinh lớp chủ nhiệm"
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
- Giúp học sinh hiểu được các giá trị sống cơ bản trong cuộc sống.
- Các em có những trải nghiệm thực tế về các giá trị sống cơ bản.
- Từ đó giúp các em học sinh:


+ Sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.
+ Sống đoàn kết, thân ái và mạnh dạn nói lên tình cảm cũng như quan điểm của bản
thân cũng như chia sẽ, đồng cảm với cảm xúc, tình cảm, quan điểm của mọi người.
+ Có khả năng giao tiếp và ứng xử linh hoạt, tích cực và đạt hiệu quả cao.
+ Làm chủ cảm xúc và hành vi của bản thân cũng như ứng phó với những khó khăn
trong học tập và trong cuộc sống.
+ Biết cách giải quyết tích cực các mâu thuẫn trong cuộc sống.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
- Các giá trị sống cơ bản.
1


- Các kinh nghiệm giáo dục giá trị sống cho lớp chủ nhiệm.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan,
nhằm xây dựng cơ sở lý luận về giáo dục giá trị sống.
- Phương pháp quan sát sư phạm: Điều khiển, quan sát các hoạt động trải
nghiệm của học sinh trong giờ sinh hoạt đầu giờ, sinh hoạt lớp vào cuối tuần, hoạt
động ngoại để thấy được những thay đổi của các em sau mỗi giờ học.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
+ Phương án thực nghiệm và đối chứng được tiến hành song song, trong đó nhóm
thực nghiệm và đối chứng được duy trì từ đầu đến cuối đợt nghiên cứu.
+ Trong lớp thực nghiệm ( lớp chủ nhiệm 10A5) các em được sử dụng biện pháp
hình thành các giá trị sống, trong lớp đối chứng ( Lớp 10A6) thì tổ chức sinh hoạt
đầu giờ, sinh hoạt cuối tuần, hoạt động ngoại khóa theo kiểu truyền thống.
+ Trong quá trình dạy thực nghiệm và đối chứng tôi có đấu mối với thầy giáo viên
chủ nhiệm lớp 10A6.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Giá trị sống là cái mà con người dựa vào để xác định mục tiêu, phương

hướng hoạt động cho mình. Giá trị là cơ sở để đánh giá thái độ hành vi đúng sai,
nên có và không nên có của con người. Giá trị là cơ sở của các chuẩn mực, quy tắc
xác định cách thức hành động, điều chỉnh hành vi của mình trong một lĩnh vực nào
đó. Mỗi người đều phải dựa vào các giá trị xã hôi cho phép để lựa chọn cách thức
suy nghĩ và hành động phù hợp nhất.
Giá trị sống làm hình thành động cơ, thái độ, quyết tâm và sức mạnh vượt
qua khó khăn, vươn tới mục đích, thúc đẩy hoạt động con người. Như vậy thông
qua việc giáo dục giá trị là giáo dục cái đúng, cái tốt, cái đẹp; là giáo dục cái có khả
năng thúc đẩy con người nổ lực hành động và nỗ lực vươn tới.
Giá trị sống có tính định hướng, tức là có vai trò dẫn dắt, điều chỉnh hành vi
con người. Vì vậy giáo dục giá trị là một yêu cầu tất yếu trong giáo dục và đào tạo
hiện nay. Tuy nhiên khi giáo dục giá trị cần phải nhấn mạnh đến hoàn cảnh cụ thể.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Hiện tại giáo dục của chúng ta vẫn chưa chú trọng đến việc giáo dục giá trị
sống tức là quỹ thời gian dành cho việc giáo dục giá trị sống là chưa có, cũng chưa
có một quy định cụ thể hay một chương trình cụ thể nào cho việc này mà chỉ là
hướng tích hợp ở một số môn học. Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, tôi nhận
thấy có những khó khăn và thuận lợi nhất định.
2.2.1. Thuận lợi
- Việc triển khai áp dụng giáo dục giá trị sống cho các em học sinh trường Trung
học phổ thông Sầm Sơn được thực hiện thông qua nhiều nội dung và bằng nhiều
hình thức như: Dạy học có tích hợp giáo dục giá trị sống trong tất cả các môn học
2


trong chương trình nội khoá, ngoại khoá; giáo dục giá trị sống cho các em học sinh
thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp, qua các buổi sinh hoạt dưới cờ; qua các tiết
sinh hoạt lớp; qua các buổi liên hoan văn nghệ.
- Giáo dục giá trị sống cho các em học sinh được triển khai ngay từ đầu năm
học để tất cả các cán bộ công nhân viên trong nhà trường nắm được và thực hiện.

- Việc triển khai thực hiện giáo dục giá trị sống cho các em học sinh theo đúng
yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Với những thuận lợi trên, tôi nhận thấy việc giáo dục giá trị sống cho học sinh
trường Trung học phổ thông Sầm Sơn của các giáo viên chủ nhiệm có nhiều cơ hội
thực hiện nhằm hình thành những lớp học sinh phát triển toàn diện về mọi mặt.
2.2.2. Khó khăn.
- Giáo dục giá trị sống còn mới đối với nhà trường, với giáo viên, với
phương diện quản lí, tâm lí học sinh và phụ huynh học sinh...
- Do chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết về các nội dung giáo dục giá trị
sống nên đa phần giáo viên mò mẫm, chưa thống nhất với nhau về nội dung và
phương pháp tổ chức.
- Phân phối thời gian giáo dục giá trị sống chưa cụ thể mà chủ yếu thực hiện
trong các buổi sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt cuối tuần…
- Công tác xã hội hóa chưa thực sự được chú trọng, do đó nhiều chủ đề, đề
tài cần huy động sự tham gia của các tổ chức khác cũng gặp nhiều khó khăn.
- Khó khăn về kinh phí khi thực hiện giáo dục giá trị sống như kinh phí in ấn,
đi lại, xây dựng tư liệu phim, ảnh... thậm chí có những đề tài cần phân tích và xử lí
mẫu thì nguồn kinh phí rất lớn...
Để khắc phục được những khó khăn này, kiến nghị với nhà trường, sở GDĐT cần có nhiều văn bản hướng dẫn cụ thể hơn nữa trong việc giáo dục giá trị
sống. Cung cấp cho giáo viên chúng tôi các tài liệu tham khảo, các báo cáo hội
thảo, các kinh nghiệm...đồng thời tạo điều kiện về thời gian, cơ sở vật chất, kinh
phí... trong việc triển khai và thực hiện giáo dục giá trị sống cho học sinh.
2.3. GIẢI PHÁP
2.3.1. Quy trình giáo dục giá trị sống cho học sinh lớp chủ nhiệm:
- Giáo viên khái quát các lý thuyết về giá trị sống.
- Cho học sinh trải nghiệm thực tế thông qua các hoạt động trải nghiệm cụ
thể như trò chơi, đóng kịch, thảo luận nhóm…..
- Sau khi trải nghiệm với các tình huống thực tế học sinh nêu cảm nghĩ,
cảm nhận bản thân về các tình huống, trò chơi… đó.
- Từ đó học sinh hình thành cho mình những giá trị sống cơ bản.

2.3.2. Các nguyên tắc khi giáo dục giá trị sống cho học sinh lớp chủ nhiệm.
Việc giáo dục giá trị sống cho học sinh phải được thực hiện theo nguyên tắc là
dựa trên các ba tiền đề sau đây:
3


- Việc giáo dục các giá trị sống hướng đến sự tôn trọng nhân cách của mỗi
người và mọi người. Việc học tập để có được những giá trị này sẽ đem lại sức khỏe
cho mỗi cá nhân và cả xã hội.
- Mỗi học sinh quan tâm về những giá trị sống đều có khả năng học tập và
sáng tạo một cách tích cực mỗi khi có cơ hội học tập.
- Nếu học sinh được lớn lên trong một bầu không khí lấy các giá trị sống làm
nền tảng thì học sinh sẽ có năng lực học tập và có những chọn lựa mang ý thức xã
hội.
2.3.3. Một số kinh nghiệm khi giáo dục giá trị sống ở lớp chủ nhiệm.
Để giáo dục giá trị sống cho học sinh lớp chủ nhiệm đạt kết quả cao thì
trước hết bản thân tôi phải cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về giá trị
sống, cụ thể như sau:
2.3.3.1. Một số khái niệm cơ bản về giá trị sống.
- Khái niệm giá trị.
Có nhiều quan niệm về giá trị, nhưng ở đây tôi chủ yếu phân tích cho các em
học sinh về nội hàm các quan niệm đó. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, giá trị là ý nghĩa của những hiện tượng tinh thần có khả năng thỏa
mãn những nhu cầu tích cực của con người và góp phần thúc đẩy sự phát triển của
xã hội.[1]
Thứ hai, giá trị bao gồm các yếu tố nhận thức, tình cảm và hành vi của chủ
thể trong mối quan hệ với hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự lựa chọn, đánh giá
của chủ thể.[1]
Thứ ba, giá trị được xác định trong mối quan hệ thực tiễn với con người,
được xác định bởi sự đánh giá đúng đắn của con người, xuất phát từ thực tiễn và

được kiểm nghiệm qua thực tế.[1]
Thứ tư, giá trị luôn mang tính lịch sử khách quan, nghĩa là sự xuất hiện, tồn
tại hay mất đi của một giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý thức con người mà phụ
thuộc vào sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi của một nhu cầu nào đó của con người do
yêu cầu của thực tiễn, trong đó có con người sống và hoạt động.[1]
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, cùng một hành vi ứng xử, một thái độ biểu hiện…có
thể có giá trị đối với cá nhân, cộng đồng này nhưng lại không có giá trị đối với cá
nhân hay cộng đồng khác, hoặc có giá trị trong điều kiện lịch sử này nhưng lại
không có giá trị trong điều kiện lịch sử khác, hoặc có những giá trị ở dạng tiềm ẩn
của sự vật hiện tượng mà con người chưa khám phá được. Do đó, cần hiểu rằng, giá
trị là ý nghĩa tích cực của các quan hệ, thái độ, hành vi ứng xử…chứ không phải là
các bản thân của các quan hệ, thái độ, hành vi ứng xử…Do đó tất cả các quan hệ,
thái độ, hành vi ứng xử…chỉ có giá trị khi nó có ý nghĩa tích cực với con người và
được con người đánh giá, thừa nhận.
- Khái niệm định hướng giá trị.
4


Khái niệm định hướng giá trị được định nghĩa theo nhiều cách tiếp cận. Dưới
đây là một số cách tiếp cận:
Hướng tiếp cận thứ nhất, Định hướng giá trị là: Cơ sử tư tưởng, chính trị,
đạo đức, thẩm mỹ giúp chủ thể đánh giá thực tại xung quanh và định hướng trong
thực tại đó.[2]
Hướng tiếp cận thứ hai, cho rằng: Định hướng giá trị là một trong những
biến đổi rõ rệt của đặc trưng xu hướng nhân cách và có ý nghĩa hướng dẫn hoạt
động của con người. Nó mang đậm tính xã hội – lịch sử chung của cộng đồng, nét
riêng của từng dân tộc, những nét đặc thù của nhóm xã hội, nhóm lứa tuổi, giới
nghề nghiệp, tôn giáo, địa phương khác nhau.[3]
Hướng tiếp cận thứ ba, cho rằng: Định hướng giá trị là thái độ lựa chọn của
con người đối với các giá trị vật chất và tinh thần; là một hệ thống tâm thế, niềm

tin, sở thích được biểu hiện trong hành vi con người. Đó cũng là năng lực của ý
thức, nhận thức và đánh giá các hoạt động và các sản phẩm xã hội khác nhau.[4]
Hướng tiếp cận thứ tư “ Định hướng giá trị - định hướng của một cá nhân
hay một nhóm xã hội tới hệ thống các giá trị này hay các giá trị khác, trong đó các
hiện tượng vật chất và tinh thần, xuất hiện với tư cách giá trị, có khả năng thỏa mãn
các nhu cầu và lợi ích của họ”[5]
Hướng tiếp cận thứ năm, theo H. Rickert (1863 – 1936). Ông cho rằng: “
Các giá trị là những lý tưởng, những thực tại lý tưởng có ảnh hưởng điều khiển và
chuẩn hóa hành vi con người.”
Như vậy có thể nói định hướng giá trị là động lực thúc đẩy con người hướng
tới những giá trị. Việc cá nhân hướng tới những giá trị này hay những giá trị khác
tạo nên định hướng giá trị của họ. Mỗi cá nhân hành xử với các chuẩn mực xã hội
là những định hướng giá trị của họ. Cụ thể là cá nhân tiến hành lựa chọn các giá trị,
chuẩn bị tâm thế, niềm tin để hiện thực hóa các giá trị của họ bằng những hành vi
cụ thể. Định hướng giá trị không chỉ là quá trình nhận thức mà còn là quá trình
hành động, điều chỉnh hành vi theo giá trị. Như vậy định hướng giá trị bao hàm hai
nội dung: một là, sự lựa chọn một giá trị hay hệ giá trị của cá nhân hay cộng đồng;
hai là, giáo dục những giá trị cho cộng đồng hay cá nhân. Định hướng giá trị có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với gia đình, xã hội và nhà trường.[6]
- Khái niệm về giá trị sống: Là những điều chúng ta cho là quý giá, là quan
trọng, là có ý nghĩa đối với cuộc sống của mỗi người. Giá trị sống trở thành động
lực để người ta nỗ lực phấn đấu để có được nó. Giá trị sống được biểu hiện hằng
ngày trong quan hệ ứng xử trong học tập và lao động của các em học sinh. Chính vì
vậy giáo dục giá trị sống cho các em chính là sống với từng giá trị, chứ không phải
là nói về các giá trị đó. Giá trị sống là cái gốc, còn kỹ năng chỉ là phần ngọn. Vì
vậy, dạy về giá trị sống là dạy cái gốc rễ của cuộc sống, là dạy cho mọi người cách
sống với nhau bằng tình yêu thương và sự tôn trọng.
- Các giá trị sống cơ bản:
5



+ Hòa bình.
+ Tôn trọng.
+ Yêu thương.
+ Hạnh phúc.
+ Tự do.
+ Khiêm tốn.
+ Trung thực.
+ Khoan dung.
+ Hợp tác.
+ Trách nhiệm.
+ Giản dị.
+ Đoàn kết.
2.3.3.2. Một số kinh nghiệm được tôi sử dụng trong các giờ sinh hoạt cuối
tuần, sinh hoạt ngoại quá nhằm giáo dục các giá trị sống cho học sinh lớp chủ
nhiệm.
2.3.3.2.1. Kịch bản 1: Tổ giáo dục giá trị sống trong các tiết sinh hoạt cuối
tuần.
Trong mỗi giờ sinh hoạt cuối tuần, sau khi lớp trưởng sơ kết tuần vừa qua.
Giáo viên chủ nhiệm ghi nhận những học sinh có thành tích tốt trong tuần, nhắc
nhở học sinh vi phạm và nhận xét chung, phổ biến kế hoạch của tuần tới. Sau đó là
hoạt động tập thể theo chủ đề và kịch bản đã được giáo viên chủ nhiệm chuẩn bị
trước.
Trò chơi 1: Sự tôn trọng, giá trị và hạnh phúc.
- Chuẩn bị:
+ Giáo viên: Chuẩn bị một cái hộp không có nắp đậy (bằng giấy hoặc bằng nhựa
hoặc bằng sắt) có kích thước (30cmx20cmx15cm), giấy A0 và bút dạ.
+ Học sinh: Tất cả các học sinh trong lớp tham gia, mỗi em lấy ra một mảnh giấy
trắng và cầm bút chuẩn bị.
- Luật chơi và cách tiến hành:

+ Chia lớp thành 4 nhóm tương đương với 4 tổ của lớp, mỗi tổ cử một nhóm trưởng
và một thư ký.
+ Các em học sinh trong mỗi tổ làm việc độc lập, không nhìn và chép đáp án của
nhau.
+ Trong vòng 3 phút, mỗi học sinh trong mỗi tổ sẽ viết ra giấy một tính cách hay
thói quen mà em cho là đúng đắn nhất và đang được bản thân duy trì trong đời sống
hằng ngày.
+ Giáo viên chủ nhiệm yêu cầu nhóm trưởng mỗi nhóm thu lại tất cả những mảnh
giấy này của các thành viên nhóm mình để lẫn vào một cái hộp, sau đó yêu cầu
mỗi học sinh của nhóm chọn ra một mảnh giấy trong hộp và đọc lên cho cả lớp
cùng nghe.
6


+ Đồng thời thư ký của nhóm sẽ lên dùng bút dạ viết ra những thông tin đó lên giấy
A0 treo sẵn trên bảng.
+ Giáo viên chủ nhiệm tổng hợp lại những mong muốn, suy nghĩ, tâm tư và nguyện
vọng của các học sinh. Từ đó giáo viên chủ nhiệm đưa ra lời nhận xét về những
điều mà các em đang cần và đang quan tâm, những mơ ước và hoài bão của các em
học sinh.
- Ý nghĩa của trò chơi:
+ Học sinh được mạnh dạn nêu lên những suy nghĩ, mong muốn, hi vọng và quan
tâm.
+ Học sinh xung phong lên bảng viết nội dung các mảnh giấy vào giấy A0 đã giúp
em thêm phần mạnh dạn.
+ Giáo viên chủ nhiệm lắng nghe và thấu hiểu học sinh, từ đó đề ra biện pháp dạy
học và giáo dục phù hợp.
- Các giá trị được hình thành và củng cố:
+ Giá trị tôn trọng: Nhận biết giá trị bản thân và tôn trọng giá trị của người khác sẽ
góp phần tạo nên mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân, gia đình và cộng đồng. Khi

biết tôn trọng bản thân, ta dễ dàng tôn trọng người khác.
+ Giá trị trách nhiệm: Khi mỗi cá nhân cố gắng làm tròn bổn phận với bản thân, gia
đình và cộng đồng thì thế giới có thể tồn tại và phát triển tốt đẹp, mọi người dù là
ai, ở địa vị nào cũng đều phải sống có trách nhiệm.
+ Giá trị hạnh phúc: Hạnh phúc của bản thân mình chỉ có thể có được từ những cố
gắng của bản thân. Khi chia sẽ hạnh phúc với người khác thì chúng ta sẽ hạnh phúc
gấp đôi. Và khi trao đi hạnh phúc chắc chắn chúng ta sẽ được hạnh phúc.
+ Giá trị khiêm tốn: Luôn biết lắng nghe và chấp nhận quan điểm của người khác.
Khiêm tốn khiến người ta trở nên tuyệt vời hơn trong trái tim người khác.
Trò chơi 2: Sự bình yên và tình đoàn kết.
- Chuẩn bị
+ Giáo viên chuẩn bị máy tính, bản nhạc.
+ Học sinh: Tất cả các học sinh tham gia.
- Luật chơi và cách tiến hành:
+ Chia lớp thành 4 nhóm tương đương với 4 tổ của lớp.
+ Các thành viên của mỗi tổ cầm tay nhau xếp thành vòng tròn, nhắm mắt và
thưởng thức âm nhạc khoảng một phút. Sau đó vòng tròn sẽ dần thu hẹp lại, cho
đến khi mọi người cảm thấy chật chội, rồi chen lấn nhau khó chịu, vòng tròn sẽ
chật lại cho đến khi không thể chật hơn được nữa thì thôi. Sau đó vòng tròn lại
được mở ra.
+ Học sinh trong nhóm sẽ thảo luận về trò chơi và trình bày cảm nghĩ của mình về
trò chơi này.

7


- Ý nghĩa của trò chơi: Các em được trải nghiệm những giây phút bình yên và
thấy được giá trị quý giá của tình đoàn kết, của sự bình yên trong tâm hồn và trong
cuộc sống.
- Các giá trị được hình thành và củng cố:

+ Giá trị hòa bình: Sự bình yên trong tâm hồn. Khi mỗi người cảm thấy bình yên
trong tâm hồn thì hòa bình sẽ ngự trị trên thế giới.
+ Giá trị đoàn kết: Sự hài hòa trong bản thân mỗi người và giữa các thành viên
trong một nhóm. Tình đoàn kết được xây dựng trên cơ sở vô vị lợi, ánh nhìn sẽ
chia, có chung niềm hi vọng vào một tương lai tốt đẹp.
+ Giá trị yêu thương: Bản chất của con người là sự yêu thương. Khi sự yêu thương
được khơi dậy con người trở nên trong sáng hơn, yêu thương nhau nhiều hơn.
Trò chơi 3: Trò chơi tìm vai: Trách nhiệm và đoàn kết.
- Chuẩn bị
+ Giáo viên: Chuẩn bị 8 tờ giấy nhỏ có ghi vai trò cụ thể của học sinh.
+ Học sinh: Số lượng học sinh tham gia (8 học sinh) và khán giả là các em học sinh
còn lại trong lớp.
- Luật chơi và cách tiến hành:
+ Trò chơi diễn ra trong thời gian 15 phút.
+ Mỗi em học sinh sẽ nhận được một tờ giấy, có ghi rõ vai trò của từng em.
+ Các emhọc sinh tham gia chơi không được cho các thành viên còn lại biết vai trò
của mình.
+ Nhiệm vụ của các em là cùng nhau “diễn” để “khán giả” nhận ra người nào đang
giữ vai trò gì trong nhóm.
+ Sau khi khán giả nhận ra vai trò của từng thành viên trong nhóm, các em biểu
diễn tiếp một số hành động khác thể hiện vai trò đó trong nhóm.
- Ý nghĩa của trò chơi: Trò chơi giúp các em học sinh nhận đúng vai trò, vị trí
của từng thành viên trong nhóm, qua đó sẽ giúp các em có trách nhiệm tìm hiểu
được tâm lí, tính cách của mỗi người trong nhóm, để có cách ứng xử đúng và làm
việc nhóm hiệu quả hơn.
- Các giá trị được hình thành và củng cố:
+ Giá trị trách nhiệm: Góp phần của mình vào công việc chung. Trách nhiệm là
đang thực hiện nhiệm vụ với lòng trung thực. Một người có trách nhiệm khi đồng ý
góp phần để gánh vác công việc chung với các thành viên khác.
+ Giá trị hợp tác: Tinh thần hợp tác khi mọi người làm việc cùng nhau vì một mục

đích chung. Lòng can đảm, sự quan tâm và chia sẽ tạo nên nền tảng cho tinh thần
hợp tác.
+ Giá trị lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân: Được hình thành trong hoạt động
học sinh xác định và diễn vai của mình để khán giả nhận biết vai trò của mình.
+ Giá trị giao tiếp và ứng xử: Được hình thành trong quá trình giáo tiếp giữa các
em học sinh với nhau, giữa giáo viên và học sinh trong quá trình thực hiện trò chơi.
8


Trò chơi 4: Sự bình an qua tranh vẽ.
- Chuẩn bị:
+ Giáo viên: Chuẩn bị nam châm để treo tranh lên bảng.
+ Học sinh: Tất cả học sinh tham gia.
- Luật chơi và cách tiến hành:
+ Chia lớp thành bốn nhóm, mỗi nhóm cử một nhóm trưởng.
+ Mỗi nhóm vẽ một bức tranh theo chủ đề sự bình an( trong 15 phút).
+ Sau đó các nhóm treo tranh theo vị trí đã phân từ trước, nhóm trước lên thuyết
trình về bức tranh của mình.
- Ý nghĩa của trò chơi: Các em tự tin thể hiện quan điểm của mình, và có sự
hiểu biết về các bạn cùng lớp thông qua các bức tranh của các bạn. Mặt khác khi
thực hiện bức tranh các em có những nhìn nhận, quan điểm về sự bình an trong tâm
hồn khi làm việc.
- Các giá trị được hình thành và cũng cố:
+ Giá trị hợp tác.
+ Giá trị hòa bình, sự bình an.
+ Giá trị trách nhiệm.
+ Giá trị tôn trọng.
2.2.3.3.2. Kịch bản 2:Tổ chức giáo dục giá trị sống qua các buổi sinh hoạt
ngoại khóa.
Trong năm học, Trường Trung học phổ thông Sầm Sơn sẽ tổ chức nhiều hoạt

đông ngoại khóa chào mừng các ngày lễ trong năm học như ngày 20, tháng 10;,
ngày 20, tháng 11; ngày 8, tháng 3; ngày 26 tháng 3. Vì vậy ngay đầu năm học tôi
cũng đã có kế hoạch hoạt động cho học sinh lớp mình chủ nhiệm, cụ thể như sau:
- Chuẩn bị:
+ Trước hết giáo viên chủ nhiệm thông báo lí do lớp phải tập văn nghệ ( các tiết
mục văn nghệ có thể là hát đơn ca hay tốp ca. Múa, đóng kịch….), sau đó cho các
em học sinh trong lớp bầu ra một đội phụ trách chung của lớp, trong đó bầu một
bạn làm đội trưởng, một bạn làm đội phó
+ Giáo viên chủ nhiệm sẽ định hướng chủ đề, nội dung, hình thức, trang phục, thời
gian luyện tập và biểu diễn để các em xác định được vấn đề.
+ Các em học sinh chủ động, trao đổi, bàn bạc và lên tiết mục cho đội. Các em có
thể trao đổi, thương lượng với giáo viên chủ nhiệm về nội dung tiết mục văn nghệ
đó, về trang phục và những vấn đề khác liên quan. Từ đó giáo viên chủ nhiệm sẽ hỗ
trợ các em để tiết mục được tiến hành tập luyện một cách tốt nhất.
- Ý nghĩa của hoạt động ngoại khóa.
+ Thông qua việc tập các tiết mục văn nghệ , các em có được sự đoàn kết, thống
nhất, hiểu về nhau hơn.
+ Thông qua nội dung của tiết mục văn nghệ các em sẽ có lòng biết ơn đối với thế
hệ đi trước đã hi sinh cho các em có cuộc sống bình yên như hôm nay.
9


+ Thông qua đó các em cũng thể hiện lòng biết ơn của mình tới các thế hệ ông cha.
+ Đây cũng là thông điệp về hòa bình mà các em muốn gửi tới tất cả các thầy cô,
các bạn học sinh trong toàn trường.
+ Thể hiện tình cảm của mình đối với quê hương, đất nước và con người Việt nam.
- Các giá trị được hình thành và cũng cố:
+ Giá trị hòa bình.
+ Giá trị đoàn kết.
+ Giá trị tự do.

+ Giá trị yêu thương: Trong một thế giới tốt đẹp, quy luật tự nhiên là sự yêu thương
và trong một con người tốt lành, bảm chất tự nhiển là biết yêu thương.
+ Giá trị hợp tác.
Trong năm học vừa qua, tôi với tư cách là giáo viên chủ nhiệm đã hướng dẫn
và định hướng cho học sinh lớp mình thực hiện thành công hai tiết mục văn nghệ,
đó là tiết mục múa: Việt Nam gấm hoa và một vở kịch nhỏ: Ký ức chiến tranh.
Đóng kịch: Ký ức chiến tranh
- Chuẩn bị:
+ Kịch bản: Nói về ký ức của một người mẹ về chiến tranh, từ cuộc sống bình yên
cùng gia đình; đến khi chiến tranh nổ ra, chồng và những người con ra đi mãi mãi
không về…
+ Trang phục: Trang phục của người mẹ, trang phục của những chú bồ đội, của các
cô thanh niên xung phong…
- Nội dung tiến hành:
+ Các em viết kịch bản, giáo viên chủ nhiệm duyệt kịch bản.
+ Các em đọc kịch bản dưới sự hướng dẫn, giám sát của giáo viên chủ nhiệm.
+ Các em diễn theo kịch bản trước toàn trường trong đợt diễn văn nghệ chào mừng
ngày Nhà giáo Việt nam 20 – 11.
- Kết quả: Tiết mục kịch của lớp được giải nhất trong đợt diễn văn nghệ chào
mừng ngày Nhà giáo Việt nam 20 – 11.
Tập văn nghệ: Múa Việt Nam gấm hoa
- Chuẩn bị:
+ Kịch bản: Ca ngợi non sông, đất nước Việt Nam.
+ Trang phục: Áo dài cho các học sinh nam, nữ, quạt, non, giày múa.
- Nội dung tiến hành:
+ Các em viết kịch bản bài múa có tham khảo các động tác múa trên các video ca
nhạc, giáo viên chủ nhiệm duyệt kịch bản.
+ Các em tập theo các động tác đã được duyệt dưới sự hướng dẫn của bạn đội
trưởng và giám sát của giáo viên chủ nhiệm.
+ Các em thực hiện bài múa của mình trước toàn trường nhân dịp kỷ niệm ngày

thành lập Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh 26 tháng 3.
10


- Kết quả: Tiết mục múa “ Việt Nam gấm Hoa” của lớp đạt giải nhì cuộc thi
chung kết “ Giai điệu tuổi hồng” kỷ niệm ngày thành lập Đoàn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh.
2.2.3.3.3. Kịch bản 3: Giáo dục giá trị sống thông qua các buổi lao động.
Thông thường tại trường THPT Sầm Sơn, một năm có ba buổi lao động, đó
là lao động đầu năm học, lao động giữa năm sau khi kết thúc học kỳ I; và lao động
vào cuối năm học.Vì vậy bản thân tôi thường lên kế hoạch trước cho các buổi lao
động này; cụ thể như sau:
- Nội dung và cách tiến hành:
+ Giáo viên chủ nhiệm, sau khi nhận được phần việc mà ban lao động nhà trường
phân cho thì sẽ tập trung lớp chủ nhiệm trước ngày lao động một ngày hoặc một
buổi để: nhắc nhở các em về thời gian lao động, địa điểm lao động, phân công việc
mang dụng cụ cho buổi lao động, lưu ý các em về trang phục trong lao động và ý
thức của từng học sinh trong buổi lao động.
+ Trước khi vào lao động, giáo viên chủ nhiệm sẽ điểm danh, kiểm tra việc mang
dụng cụ theo sự phân công từ trước, chia lớp thành các nhóm để các em tự giác,
chủ động trong công việc. Trong các nhóm có nhóm trưởng, nhóm phó và các thành
viên; trách nhiệm của từng thành viên được giao cụ thể. Trong quá trình lao động,
các em phải thực hiện công việc đúng yêu cầu, đảm bảo an toàn trong lao động.
+ Cuối mỗi buổi lao động, giáo viên chủ nhiệm đi kiểm tra phần công việc đã giao
cho từng nhóm.
+ Sau mỗi buổi lao động, giáo viên chủ nhiệm sẽ nghe các nhóm trưởng báo cáo
về tiến độ thực hiện công việc được giao của nhóm mình, giáo viên chủ nhiệm sẽ
nhận xét, tuyên dương từng nhóm, từng cá nhân, động viên, khích lệ các em để các
em có tinh thần và ý thức tốt hơn ở các buổi lao động tiếp theo.
- Ý nghĩa của hoạt động lao động:

+ Học sinh chủ động, tích cực trong công việc, học sinh ở các nhóm đua nhau làm
việc.
+ Giáo viên chủ nhiệm dễ dàng quản lí lớp trong quá trình lao động (quản lí thông
qua các nhóm trưởng, nhóm phó).
+ Các em được làm việc cùng nhau (hoạt động nhóm), từ đó có thể hiểu biết thêm
về bạn của mình.
- Các giá trị sống được hình thành và củng cố:
+ Giá trị trách nhiệm: Khi mỗi cá nhân cố gắng làm tròn bổn phận với bản thân, gia
đình và cộng đồng thì thế giới có thể tồn tại và phát triển tốt đẹp, mọi người dù là
ai, ở địa vị nào cũng đều phải sống có trách nhiệm.
+ Giá trị hợp tác: Tinh thần hợp tác khi mọi người làm việc cùng nhau vì một mục
đích chung. Lòng can đảm, sự quan tâm và chia sẽ tạo nên nền tảng cho tinh thần
hợp tác.
11


+ Giá trị đoàn kết: Sự hài hòa trong bản thân mỗi người và giữa các thành viên
trong một nhóm. Tình đoàn kết được xây dựng trên cơ sở vô vị lợi, ánh nhìn sẽ
chia, có chung niềm hi vọng vào một tương lai tốt đẹp.
+ Giá trị yêu thương: Bản chất của con người là sự yêu thương. Khi sự yêu thương
được khơi dậy con người trở nên trong sáng hơn, yêu thương nhau nhiều hơn.
2.3. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHỆM ĐỐI VỚI BẢN THÂN,
ĐỒNG NGHIỆP VÀ NHÀ TRƯỜNG
Đề tài này tôi thực hiện ở lớp chủ nhiệm10A5 năm học 2017- 2018, ở trường
THPT Sầm Sơn, đây được xem là một lớp có chất lượng đầu vào thấp nhất trường
và đã đem lại hiệu quả giáo dục khá cao cao. Cụ thể là:
- Trong các mối quan hệ, các em tỏ ra mạnh dạn hơn khi thể hiện mình, bớt rụt
rè, e ngại khi đứng trước đám đông. Các em tham gia các hoạt động văn hóa, văn
nghệ, thể dục thể thao do nhà trường phát động rất tích cực. Các em đoàn kết hơn,
gắn bó hơn trong các hoạt động chung của lớp. Do đó, trong năm học 2017 - 2018

tập thể lớp 10A5 đã thu được nhiều thành tích cao trong các cuộc thi do nhà trường
phát động như: tiết mục kịch của lớp được giải nhất trong đợt diễn văn nghệ chào
mừng ngày Nhà giáo Việt nam 20 – 11, tiết mục múa đạt giải nhì cuộc thi chung
kết giai điệu tuổi hồng”, kỷ niệm ngày thành lập Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh 26 - 3, đạt lớp tiên tiến học kỳ I và cả năm.
- Tình trạng bạo lực học đường, bắt nạt bạn khác không còn ở lớp tôi chủ
nhiệm. Học sinh sống có trách nhiệm hơn với bản thân, gia đình và tập thể lớp.
Tình trạng học sinh bỏ học đi chơi bi a, điện tử, chat, ... giảm đáng kể.
- Tinh thần của các em sau các buổi sinh hoạt tập thể rất hào hứng, nhiều học
sinh bày tỏ rằng các em rất mong đến cuối tuần để được khẳng định mình trong giờ
sinh hoạt lớp, nhiều học sinh rất ao ước và muốn tham gia vào các hoạt động tập
thể của lớp. Vì qua đây các em có thể nhận thức được giá trị của bản thân, giá trị
của tinh thần đoàn kết và có thêm nhiều kỹ năng sống cần thiết cho bản thân để
phục vụ vào trong cuộc sống.
- Các em có ý thức tự giác cao hơn học tập, ngoan hơn và học tốt hơn. Thể
hiện, xếp loại học lực và hạnh kiểm cao hơn hẳn so với lớp đối chứng ( lớp 10 A6
là lớp có đầu vào tương tương lớp 10A5) Cụ thể, tôi đã thống kê kết quả về học lực
và hạnh kiểm của học sinh lớp 10A5, lớp 10A6 (lớp đối chứng) theo các bảng như
sau:
Bảng 1: Về Hạnh kiểm
Lớp
Sỉ số
Tốt
Khá
Trung
Yếu
bình
Lớp
thực
41

32
8
1
0
nghiệm
10A5
12


Lớp đối
chứng
10A6

41

14

20

4

3

Bảng 2: Về học lực
Lớp

Sỉ số

Lớp thực
nghiệm

41
10A5
Lớp đối
chứng
41
10A6

Giỏi

Khá

Trung
bình

Yếu

Kém

1

24

16

0

0

0


13

21

7

0

3.
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Trên đây cách làm của bản thân tôi, những kinh nghiệm tôi đưa ra chỉ là số ít
trong số các phương pháp giáo dục giá trị sống cho các em học sinh Trung học phổ
thông nói chung và các em học sinh lớp chủ nhiệm nói riêng. Mặc dù trong mỗi
cách thức thực hiện nêu ra vẫn có những nhược điểm nhất định, nhưng những hạn
chế đó có phần do yếu tố khách quan, những hạn chế đó dễ dàng khắc phục. Vậy
nên tôi mong rằng các đồng chí, đồng nghiêp có thể vận dụng một cách linh hoạt và
sáng tạo các phương pháp giáo dục giá trị sống này cho đúng đối tượng học sinh
của mình. Tôi tin chắc rằng các đồng nghiệp sẽ thu được những kết quả khả quan.
Cũng do thời gian nghiên cứu và áp dụng của đề tài chưa được nhiều năm, đề tài do
tôi thực hiện độc lập nên chắc chắn không tránh khỏi tính chủ quan và thiếu sót.
Một lần nữa kính mong các đồng nghiệp, các cấp quản lí gáo dục góp ý để tôi hoàn
thiện đề tài hơn nữa.
3.2. Kiến nghị:
Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị như sau:
- Hiệu trưởng các nhà trường nên định hướng cho giáo viên chủ nhiệm các
lớp thực hiện việc giáo dục giá trị sống một cách đồng thời, thống nhất nội dung
chung, tránh sự trùng lặp.
- Thầy cô hãy để cho học sinh cơ hội tự giải quyết vấn đề, cơ hội làm việc
theo nhóm, hãy hướng dẫn cho học sinh biết liên hệ và ứng dụng kiến thức đã học

để giải quyết những vấn đề thường gặp trong cuộc sống.
- Giáo viên chủ nhiệm có vai trò rất quan trọng, quyết định đối với công tác
giáo dục giá trị sống cho học sinh, giáo viên chủ nhiệm hãy coi các em như con em
13


mình, chỉ bảo tận tình để các em thấy gần gũi, thân thiện. Khi đó, việc giáo dục giá
trị sống sẽ đem lại hiệu quả cao.
- Giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp với giáo viên bộ môn, các tổ chức trong
nhà trường để lồng ghép giáo dục giá trị sống cho các em một cách đồng bộ, tránh
sự mâu thuẫn hay trùng lặp, có như thế mới đưa được nhiều nội dung vào giáo dục.
- Giáo viên chủ nhiệm cũng cần tìm hiểu hoàn cảnh từng học sinh, đặc điểm
tâm sinh lí riêng của mỗi em để có biện pháp giáo dụ phù hợp, không thể áp dụng
máy móc một kịch bản chung cho tất cả các đối tượng học sinh. Ngoài các biện
pháp giáo dục chung, một số học sinh cũng cần được Giáo viên chủ nhiệm giáo dục
bằng những phương thức riêng.
- Việc đặt mục tiêu giáo dục giá trị sống cho học sinh lớp chủ nhiệm, các thầy
cô giáo chủ nhiệm cũng cần thực hiện một cách nhẹ nhàng, đều đặn và liên tục qua
từng giờ sinh hoạt, từng buổi lao động, từng buổi sinh hoạt dưới cờ hay qua từng
buổi sinh hoạt tập thể khác.
Trên đây là một vài ý kiến, quan điểm của tôi khi nghiên cứu về giáo
dục giá trị sống cho học sinh lớp chủ nhiệm. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến
của tất cả các đồng chí đồng thời cũng mong các đồng chí tích cực nghiên cứu,
triển khai về giáo dục giá trị sống cho học sinh.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thanh Hóa, ngày 19 tháng 05 năm 2018
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của

mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Nguyễn Thị Mai

14


15



×