Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN một số kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm trong việc phòng tránh xâm hại và quấy rối tình dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (968.87 KB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT THỌ XUÂN 5

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÁO DỤC KỸ NĂNG
SỐNG CHO HỌC SINH LỚP CHỦ NHIỆM TRONG
VIỆC PHÒNG TRÁNH XÂM HẠI VÀ QUẤY RỐI
TÌNH DỤC

Người thực hiện: Đào Thị Quỳnh
Chức vụ: Giáo viên – BCH đoàn trường
Đơn vị công tác: Trường THPT Thọ Xuân 5
SKKN thuộc lĩnh vực : Lớp chủ nhiệm


MỤC LỤC
Trang
I. MỞ ĐẦU................................................................................................................1
I.1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................1
I.2. Mục đích nghiên cứu...........................................................................................2
I.3. Đối tượng nghiên cứu.........................................................................................2
I.4. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................2
II. NỘI DUNG...........................................................................................................2
II.1. Cơ sở lí luận.......................................................................................................2
II.2. Vị thành niên, họ là ai........................................................................................3
II.2.1. Những đặc điểm tâm lý trẻ vị thành niên........................................................3
II.2.2. Những trở ngại về mặt bảo vệ sức khỏe cho vị thành niên.............................4
II.2.3 Đặc tính của vị thành niên đối với hành vi tình dục........................................4
II.2.4 Xã hội nhìn nhận vị thành niên như thế nào ...................................................5


II.3. Thế nào là xâm hại tình dục...............................................................................5
II.3.1.Các hình thức xâm
hại......................................................................................5
II.3.2 Đối tượng bị xâm hại ......................................................................................6
II.3.3. Hậu quả.......................................................................................................... 7
II.4. Giải pháp............................................................................................................8
II.4.1. Về phía cá nhân ..............................................................................................8
II.4.2 . Về phía gia đình, nhà trường..........................................................................9
II.4.3. Về phía xã hội ..............................................................................................14
II.5.
Thực
trạng
vấn
đề.............................................................................................16
II.5.1. Thuận lợi ......................................................................................................16
II.5.2.Khó khăn........................................................................................................16
II.5.2.1.Khách quan.................................................................................................
16
II.5.2.2. Chủ quan....................................................................................................16
II.6. Hiệu quả...........................................................................................................17
II.6.1. Đối với giáo viên...........................................................................................17
II.6.2.Đối với học sinh.............................................................................................17
III. Kết luận, kiến
nghị.............................................................................................18
III.1 KẾT LUẬN ....................................................................................................18
III.2. KIẾN
NGHỊ....................................................................................................18


I. MỞ ĐẦU

I.1. Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết “|trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai|” đây là một lực
lượng to lớn, là chủ nhân của đất nước. Ngoài học tập thì việc quan tâm đến các
quyền được chăm sóc nói chung và chăm sóc sức khỏe sinh sản của độ tuổi này nói
riêng là nhiệm vụ quan trọng của cá nhân cũng như của gia đình, nhà trường, xã
hội. Đối mặt với một trong những nội dung của vấn đề này không thể không kể đến
nội dung nóng bỏng và nhức nhối hiện nay: Xâm hại tình dục. [4]
Xâm hại tình dục đối với trẻ em đang là một vấn đề nhức nhối của xã hội Việt Nam
trong thời gian gần đây số ca bị xâm hại ở lứa tuổi chưa tới vị thành niên ngày càng
gia tăng, độ tuổi trẻ em bị xâm hại càng ngày càng thấp. Theo thống kê của Cục
cảnh sát điều tra tội phạm về tệ nạn xã hội - Bộ Công an, từ năm 2012 đến nay, số
vụ xâm hại tình dục trẻ em có chiều hướng gia tăng. Từ năm 2015 -2017, đã xảy ra
5.070 vụ xâm hại trẻ em trong đó xâm hại tình dục trẻ em chiếm 56,3%. Số vụ hiếp
dâm trẻ em chiếm 65,5%. Tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, bác sĩ Nguyễn Duy Ánh,
Phó giám đốc bệnh viện cho biết: "Trong khoảng 2 năm trở lại đây, mỗi năm trung
bình có 30 - 40 vụ cưỡng bức trẻ em được đưa tới xét nghiệm, khám tại bệnh viện
chúng tôi. Các tháng 11 và 12/2016 và tháng 1/2017, tháng nào cũng có tới 3-4 vụ".
Ông nhận định: "Tình trạng xâm hại tình dục trẻ em (XHTDTE) hiện nay là rất
nghiêm trọng".. [4]
Hiện nay, việc giáo dục trong các nhà trường thường chú
trọng nhiều đến việc giáo dục tri thức, việc giáo dục các kỹ năng
sống cho các em học sinh rất ít, không có hệ thống, và không
thường xuyên. [2]Thực tế cho thấy, tình trạng học sinh thiếu kỹ
năng sống vẫn xảy ra, biểu hiện qua hành vi ứng xử không phù
hợp trong xã hội, sự ứng phó hạn chế với các tình huống trong
cuộc sống như: ứng xử thiếu văn hóa trong giao tiếp nơi công
cộng; thiếu lễ độ với thầy cô giáo, cha mẹ và người lớn tuổi; chưa
có ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh công cộng, gây phiền
hà cho người khác khi sử dụng điện thoại di động .... . [3]
Vì vậy việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đang được ngành

giáo dục, các bậc phụ huynh và toàn xã hội quan tâm, bởi đây là
một chương trình giáo dục hết sức cần thiết đới với mỗi học sinh
và phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay, nhằm đào tạo con
người phát triển đầy đủ “đức-trí-thể-mĩ”. . [3]
Thông qua giáo dục kỹ năng sống sẽ giúp cho các em có
thêm các kĩ năng sống, các em biết cái đúng, cái sai, theo những
chuẩn mực của xã hội, đấu tranh với những cái sai trái, đồng tình
ủng hộ những việc làm tốt đẹp. Không phải lúc nào người lớn cũng
có thể ở bên cạnh để bảo vệ cho các em, vì thế không ai khác các
1


em phải là người tự bảo vệ mình. Vì thế cần phải dạy cho các em
kĩ năng sống, cần tuyên truyền cho các em biết cách phòng chống
xâm hại tình dục trẻ em, để các em biết cách phòng chống xâm
hại, có thể tự bảo vệ bản thân mình trở thành người hoàn hảo về
thể chất, tinh thần và sức khỏe sinh sản, có thể tự tin, khẳng định
và phát triển trong xã hội hiện đại. [3]. Chính vì những lí do đó tôi mạnh
dạn tiến hành nghiên cứu đề tài "Một số kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh lớp chủ nhiệm trong việc phòng tránh xâm hại và quấy rối tình dục "
với hy vọng đóng góp một phần công sức nhỏ nhoi của mình vào việc nâng cao kỹ
năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm trong việc phòng tránh xâm hại tình dục và
xa hơn là toàn bộ các em học sinh đang sinh sống và học tập trong vùng.
I.2. Mục đích nghiên cứu:
- Hiểu được một số kiến thức cơ bản về xâm hại tình dục nói
chung và ở tuổi vị thành niên nói riêng (hình thức, đối tượng, hậu
quả)
- Ghi nhớ được một số kiến thức cơ bản về quyền lợi, trách nhiệm
và nghĩa vụ của công dân (khi là đối tượng xâm hại hoặc bị xâm
hại tình dục) được quy định trong các bộ luật.

- Đề xuất các biện pháp cho học sinh lớp chủ nhiệm, gia đình và
những người xung quanh cần thực hiện để có thể tự trang bị kiến
thức về sức khỏe, giới tính và tự bảo vệ mình cũng như bạn bè
khỏi xâm hại tình dục.
I.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh lớp chủ nhiệm 10C3
I.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp tham khảo tài liệu
- Phương pháp điều tra thực tế
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp thực nghiệm hiện trường
II. NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lí luận.
Trong giai đoạn hiện nay,Việt Nam đang trong quá trình hội nhập với các
nước trên thế giới và từng bước phát triển vươn lên, bên cạnh việc tiếp thu những
mặt tốt thì những mặt trái của xã hội cũng xuất hiện nhiều làm ảnh hưởng đến sự
tồn tại, phát triển của mỗi cá nhân, tập thể trong đó có một bộ phận không nhỏ là
trẻ em. Theo xu thế phát triển của xã hội, một số gia đình bố mẹ mải lo làm ăn, phát
triển kinh tế mà quên đi việc giáo dục con cái, tạo cho con một môi trường sống và
phát triển nhân cách tốt đẹp. Một số gia đình lại phó mặc hoàn toàn việc dạy dỗ,
giáo dục con cái cho nhà trường. Một số gia đình có điều kiện kinh tế thì lại rất
2


nuông chiều con, dẫn đến các em luôn ỷ lại, thiếu tính tự lập, mỗi khi có việc gì thì
không thể tự xử lý, không biết bảo vệ bản thân. [4]
Đặc biệt trong xã hội hiện nay khi vấn đề xâm hại tình dục
trẻ em đang ngày càng có nguy cơ tăng cao (theo thống kê: 93%
trẻ em bị xâm hại tình dục từ người có quen biết các em, tội

phạm xâm hại tình dục trẻ em xảy ra ngày càng nhiều, bình quân
mỗi năm gần 1.000 em bị xâm hại tình dục. Xâm hại tình dục trẻ
em không những gây ra cho các em đau đớn, thương tật về thể
xác, mà về tinh thần các em cũng bị tổn hại nặng nề.). Cũng bởi
các em không có kiến thức, kĩ năng về việc phòng chống xâm hại
tình dục trẻ em nên các em không biết phải xử lí như thế nào khi
bị xâm hại, dẫn đến các em khi bị xâm hại thì chỉ biết im lặng, có
những em còn bị xâm hại nhiều lần và trong một thời gian dài. [4]
Theo kết quả điều tra 100 em về kĩ năng phòng chống
xâm hại tình dục trẻ em, thì có tới 90 em học sinh lúng túng,
không biết làm thế nào khi bị xâm hại tình dục.
Qua thực tế đời sống, tôi thấy tình trạng xâm hại tình dục
hiện nay là vấn đề đáng lưu tâm. Theo thống kê của cảnh sát,
trên cả nước:
- Tình trạng xâm hại tình dục trong những năm gần đây đã xảy ra
ở mức độ
đáng báo động. Từ 2008 - 2013, tòa án các cấp đã đưa ra xét xử
theo thủ tục
sơ thẩm 8.772 vụ với 10.265 bị cáo.
- Tòa án các cấp đưa ra xét xử, có 1.812 vụ với 2.641 bị cáo bị xét
xử về tội
“Hiếp dâm”, 3.276 vụ với 3.759 bị cáo bị xét xử về tội “Hiếp dâm
trẻ em”,….
Những số liệu này cho thấy nạn nhân của các vụ án xâm phạm
tình dục là trẻ em
chiếm tỷ lệ lớn. [4] Vậy nguyên nhân là do đâu? Đầu tiên ta tìm
hiểu một số khái niệm sau :
II.2 Vị thành niên, họ là ai?
Vị thành niên là những người ở lứa tuổi từ 10 – 19. Năm 1998, trong một
tuyên bố chung giữa Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc

(UNICEF) và Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) đã thống nhất phân loại nam
nữ còn trẻ tuổi thành 3 loại như sau: vị thành niên (adolescent) 10 – 19 tuổi, thanh
niên (youth) 15 – 24 tuổi, người trẻ (young people) 10 – 24 tuổi. [4]

3


Theo định nghĩa nối trên vị thành niên chiếm 20% dân số thế giới. Trong
khi khái niệm thanh niên có sự khác biệt tùy theo từng nền văn hóa thì toàn thế giới
ngày càng nhất trí rằng tuổi vị thành niên là một giai đoạn khác biệt và quan trọng
trong cuộc sống con người.
II.2.1/Những đặc điểm tâm lý của trẻ vị thành niên
Đây là thời kỳ phát triển đặc biêt xảy ra đồng thời với hàng loạt những biến đổi
nhanh chóng về cơ thể, biến đổi tâm lý và các mối quan hệ xã hội.
Thời kỳ vị thành niên sớm (10 – 13 tuổi): [4]
– Ý thức được bản thân không còn là trẻ con, muốn độc lập.
– Quan tâm nhiều đến quan hệ bạn bè.
– Quan tâm đến hình thức bên ngoài và những thay đổi của cơ thể.
– Tò mò, thích khám phá.
– Phát triển tư duy trừu tượng.
– Có hành vi mang tính chất thử nghiệm, bốc đồng.
Thời kỳ vị thành niên giữa (14 – 16 tuổi): [4]
– Tiếp tục quan tâm đến ngoại hình.
– Tỏ ra độc lập hơn, thích quyết định, có xu hướng tách khỏi sự kiểm soát của gia
đình.
– Chịu ảnh hưởng nhiều của bạn bè.
– Quan tâm đến bạn khác giới, dễ ngộ nhận giữa tình bạn và tình yêu.
– Tiếp tục phát triển tư duy trừu tượng.
– Phát triển kỹ năng phân tích, bắt đầu nhận biết hậu quả cảu hành vi.
– Bắt đầu thử thách các quy định, các giới hạn mà gia đình và xã hội đặt ra.

Thời kỳ vị thành niên muộn (17 – 19 tuổi): [4]
– Khẳng định sự độc lập và tạo dựng hình ảnh bản thân tương đối ổn định.
– Khả năng đánh giá và giải quyết vấn đề tốt hơn.
– Cách suy nghĩ, nhận xét và ứng xử chín chắn hơn.
– Ảnh hưởng của bạn bè giảm dần, quay lại chú trọng đến mối quan hệ gia đình.

4


– Chú trọng tới quan hệ riêng tư, tin cậy mối quan hệ giữa hai người hơn là quan hệ
theo nhóm.
– Định hướng cuộc sống và nghề nghiệp rõ ràng hơn.
– Biết phân biệt tình bạn và tình yêu, cách nhìn nhận tình yêu thực tế hơn.
II.2.2. Những trở ngại về mặt bảo vệ sức khỏe cho vị thành niên?
Phát triển nhanh về thể lực nhưng không nhận thức được một chế độ dinh
dưỡng đầy đủ (đối với đa số dân số ở khu vực các nước kém và đang phát triển);
không có đủ kiến thức, hiểu biết về sự trưởng thành của bản thân, đặc biệt là sự
phát triển tính dục; không nhận được đầy đủ thông tin hữu ích, đúng đắn về sức
khỏe sinh sản (các biện pháp tránh thai, về cách phòng tránh các bệnh lây truyền
qua đường tình dục, kể cả HIV / AIDS cho nên không biết tự bảo vệ); những người
cung cấp dịch vụ sức khỏe sinh sản (SKSS) thường được đào tạo rất ít về phương
pháp tiếp cận bảo vệ SKSS và sức khỏe tình dục vị thành niên; những dịch vụ hiện
có ít khi được thiết kế với sự quan tâm để phục vụ cho lứa tuổi vị thành niên. [4]
Những đánh giá lầm lẫn về bản năng tình dục của vị thành niên?
Rất nhiều người lớn tuổi tin rằng thanh thiếu niên thường bừa bãi trong
quan hệ tình dục. Nhiều người cho rằng nếu cung cấp thông tin cho tuổi trẻ và giúp
họ phòng tránh thai cũng như các bệnh lây tuyền theo đường tình dục thì sẽ “vé
đường cho hươu chạy”. Một giả định sai lầm nữa là cho rằng cách tốt nhất để giúp
vị thành niên là nói với họ những gì không nên làm.
Trên thực tế, nếu chỉ khơi gợi sự tò mò của vị thanh niên thì sẽ khiến cho họ

muốn “thử” làm điều mà người lớn khuyên họ không nên làm. Trong khi đó, điều
quan trọng hơn là cần giúp vị thành niên có được sự hiểu biết để tự bảo vệ. [4]
II.2.3 Đặc tính của vị thành niên đối với hành vi tính dục?
Ngay từ thời cổ đại, nhà hiền triết Hi Lạp Aristotelesđã có nhận xét đáng
ngạc nhiên về tuổi vị thành niên (đại ý): “Đó là nhưng người có xu hướng ham
muốn và sẵn sàng biến ham muốn đó thành hành động. Trong số những ham muốn
thể chất thì ham muốn tình dục dễ giải tỏa và phóng túng nhất. Tuổi vị thành niên là
tuổi luôn biến đổi và ham muốn của họ cũng thất thường, mạnh mẽ, sôi nổi nhưng
không kiên định, giống như cơn đói, cơn khát của người ốm”. Vị thành niên có
những thay đổi về sinh lý, xúc cảm, nội tiết có ảnh hưởng đến hành vi tình dục; các
hoạt động tình dục xảy ra ở lứa tuổi này thường không dự kiến trước và không
thường xuyên; thường không tin rằng những nguy cơ về hành vi tình dục có thể xảy
ra với chính mình (có thai, lây nhiễm bệnh…); Không mấy khi chủ động chuẩn bị
các biện pháp tránh thai; hoạt động tình dục thường do nhưng đòi hỏi bên ngoài
vấn đề tình dục; thích sự kín đáo, riêng tư cho nên không thích đến các phòng khám
5


kế hoạch hóa gia đình vì sợ gặp những người quen biết; lo lắng bố mẹ, bạn bè biết
mình đang sử dụng các biện pháp tránh thai. [4]
II.2.4. Xã hội nhìn nhận vị thành niên như thế nào?
Nhiều xã hội vẫn nhìn nhận vị thành niên là những người chưa phát triển
đầy đủ, thiếu trách nhiệm và chưa có khả năng để quyết dịnh trong cuộc đời. Bởi
thế, vị thành niên phải trải qua một giai đoạn dài khi họ không được coi là trẻ con
nhưng cũng chưa được coi là người lớn. Vị thành niên biết về tình dục và có hoạt
động tình dục là do sự phát triển tâm sinh lý và thường sớm hơn sự mong đợi của
người lớn và xã hội. [4]
II.3.Thế nào là xâm hại tình dục
Xâm hại tình dục trẻ em là sử dụng trẻ em để thoả mãn nhu cầu tình dục của
người lớn hơn. Xâm hại tình dục trẻ em bao gồm lạm dụng tình dục trẻ em và bóc

lột tình dục trẻ em. [4]
Vậy những hình thức xâm hại là gì?
II.3.1.Các hình thức xâm hại

+ Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi
kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp
dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại
dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức
Trẻ có thể bị xâm hại tình dục dưới nhiều hình thức khác nhau trong đó phổ
biến là xâm hại bằng cách đụng chạm và không đụng chạm.
a. Xâm hại tình dục trẻ em bằng cách đụng chạm bộc lộ qua một số hành vi như
hôn hít hoặc ôm trẻ theo kiểu tình dục, sờ mó vào bộ phận sinh dục của trẻ, hoặc
6


bắt trẻ sờ mó vào bộ phận sinh dục của người lớn hoặc của một đứa trẻ lớn hơn, ép
trẻ thực hiện hành vi mại dâm…[4]
b. Xâm hại tình dục trẻ em bằng cách không đụng chạm là những hành vi như dùng
lời nói hoặc tranh ảnh khiêu dâm để làm cho trẻ sốc, làm cho trẻ hưng phấn tình
dục hoặc làm cho trẻ quen với tình dục, cho trẻ nghe hoặc nhìn những cảnh tình
dục, bắt trẻ đứng ngồi theo tư thế gợi dục để chụp ảnh (khiêu dâm), hoặc cho trẻ
xem sách báo khiêu dâm…[4]
* Theo thống kê của Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an, mặc dù chỉ là phần nhỏ so
với thực tế nhưng mỗi năm trung bình có 1.600 - 1.800 vụ xâm hại trẻ em được
phát hiện, trong số 1.000 vụ xâm hại tình dục, số vụ mà trẻ em là nạn nhân chiếm
đến 65%, đa số nạn nhân là nữ ở độ tuổi 12-15 (chiếm 57,46%), tuy nhiên số trẻ em
dưới 6 tuổi bị xâm hại là vấn đề rất đáng báo động, chiếm tới 13,2%.[4]
II.3.2.Đối tượng bị xâm hại.
Cứ 4 bé gái thì có một bé bị xâm hại còn cứ 6 bé trai thì có một bé bị xâm
hại


Và cũng qua nghiên cứu cho thấy, mọi trẻ trong cộng đồng đều có nguy cơ
bị xâm hại tình dục kể cả những trẻ sống trong gia đình nghèo hay gia đình khá giả.
Không những trẻ em gái mà trẻ em là nam giới cũng có thể trở thành nạn nhân bị
xâm hại tình dục. Đáng nói, sau khi bị xâm hại nạn nhân thường không hoặc không
dám kể về những gì đã diễn ra với chúng. Hầu hết những người xâm hại tình dục là
7


nam giới và hầu hết các trẻ bị xâm hại bởi người quen biết, như họ hàng, bạn của
gia đình, hoặc hàng xóm…[4]
Đôi khi việc xâm hại này diễn ra trong một thời gian dài, thậm chí kéo dài
nhiều năm. Thủ đoạn phổ biến của các đối tượng là lợi dụng sự tin tưởng hay sức
ảnh hưởng của mình hoặc dùng “lòng tốt” (cho quà, bao ăn uống…) nhằm dụ dỗ,
đe doạ để thực hiện hành vi xâm hại tình dục đối với trẻ. [4]

II.3.3. Hậu quả.
Cho dù sử dụng bạo lực, sự đe doạ hay “lòng tốt” để bắt trẻ thực hiện hành
vi xâm hại tình dục thì hậu quả của việc xâm hại này đều gây tổn thương cho trẻ ở
các mức độ khác nhau. Sự xâm hại tình dục làm tổn thương trẻ vào thời điểm khi
hành vi xâm hại diễn ra và có thể tiếp tục gây tổn thương nạn nhân trong suốt
quãng đời còn lại của trẻ, đặc biệt đối với những trẻ không thể kể về sự xâm hại
này hoặc không nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ hay trị liệu từ phía gia đình và xã hội.
[4]

* Về mặt thể chất, trẻ em bị xâm hại tình dục có thể chịu tổn thương thể xác kéo dài
do các bệnh như như HIV/AIDS, viêm gan, lậu, giang mai và những bệnh lây lan
qua đường tình dục khác… Nếu không được chữa trị có thể gây nên những vấn đề
trong tương lai như có thai ngoài ý muốn, ung thư và tử vong do nhiễm trùng nặng.
Ngoài ra, trẻ còn có thể chịu những tổn thương thể chất trong quá trình phản kháng

lại hành vi xâm hại tình dục…[4]
* Về mặt tâm lý, trẻ em bị xâm hại tình dục thường sẽ cảm thấy tội lỗi, sợ hãi, xấu
xa, thất bại, cộc tính..., cho rằng mình là kẻ thất bại và có nguy cơ trở thành tội
phạm khi trường thành. Đặc biệt, nếu trẻ không được điều trị tâm lý kịp thời sau
khi bị xâm hại thì rất dễ bị ám ảnh lâu dài và khi lớn lên có thể trở thành người đi
xâm hại tình dục trẻ em khác. [4]
Ngoài ra, trẻ bị xâm hại tình dục khi còn nhỏ lớn lên có thể gặp vấn đề về
giới tính của mình, nhiều đứa trẻ bị trầm cảm, rối loạn nhân cách... Điều đáng ngại
là không phải lúc nào trẻ bị xâm hại tình dục cũng thể hiện ra bên ngoài những tổn
thương về tâm lý mà đôi khi, cơn sang chấn tâm lý phải sau nhiều năm mới thể hiện
ra. Vì thế phụ huynh thường khó phát hiện ra những bất thường của con em mình…
[4]

8


Hơn thế, trẻ bị xâm hại tình dục có thể tiếp tục bị người khác xâm hại trong
suốt quãng đời còn lại. Vì những trải nghiệm bị xâm hại khi còn là một đứa trẻ,
chúng có thể lớn lên và tin rằng tình dục là cách duy nhất để thể hiện cảm xúc và sự
an toàn. Nghiêm trọng hơn, bị đối xử tồi tệ và bị xâm hại tình dục có thể trở thành
hình mẫu trong cuộc sống của chúng. Nếu không được hỗ trợ và giúp đỡ để có thể
hàn gắn từ sự xâm hại, những trẻ em bị xâm hại có thể trở thành những người đi
xâm hại khi chúng lớn lên. [4]
Có thể thấy rằng, hậu quả của tội phạm xâm hại tình dục trẻ em là hết sức
nghiêm trọng đối với bản thân nạn nhân và gia đình, xã hội. Vì vậy, nhằm phòng
ngừa loại tội phạm này một cách hiệu quả, hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả có
thể xảy ra cho xã hội, cần triển khai đồng bộ các giải pháp [4]
Chính vì vậy mà mỗi gia đình, xã hội và chính bản thân mọi người
phải có những biện pháp phòng ngừa và bảo vệ mọi người trong
đó có những người bị xâm hại và trừng phạt những người đi xâm

hại người khác.
II.4. Giải pháp
II.4.1.Về phía cá nhân:
1.Nên nắm bắt các quy tắc phòng chống nguy cơ bị xâm hại: [4]
- Không đi một mình ở nơi tối tăm, vắng vẻ.
- Không ở trong phòng kín một mình với người lạ. Nếu đó là người quen của gia
đình thì cửa phòng phải luôn được mở.
- Không nhận tiền, quà hoặc nhận sự giúp đỡ đặc biệt của người khác mà không rõ
lý do.
- Không đi nhờ xe người lạ, hoặc sử dụng ăn uống của người lạ đưa .
- Không để cho người lạ đến gần đến mức họ có thể chạm tay vào người mình.
- Không để người lạ vào nhà, nhất là khi trong nhà chỉ có một mình.
- Không nói chuyện điện thọai với người lạ khi đang ở nhà một mình.
- Không cho ai có quyền tùy tiện động chạm, sờ mó vào chỗ kín của cơ thể hoặc
bất kỳ hành động thô lỗ nào với các em.
- Không ăn mặc hở hang, không gần gũi quá mức với người lạ, kể cả những người
thân họ hàng (trừ Bố mẹ, ông Bà, anh chị em ruột của mình) .
- Tin vào linh tính của bản thân khi thấy điều gì không bình thường cần cảnh giác
và chủ động nghĩ cách phòng tránh để thoát ra khỏi tình huống đó.
2.Nên nắm bắt những chỉ dẫn giúp bản thân tránh nguy cơ bị động chạm
không an toàn, bị xâm hại như: [4]
- Đứng ngay dậy
- Nhìn thẳng vào kẻ định sàm sỡ
- Lùi ra xa đủ để không cho họ với tay được đến mình.
- Nói to/hét to và kiên quyết : Không! Hãy dừng lại ! Tôi không cho phép! Tôi
không muốn! Nếu không dừng lại, tôi sẽ mách với mọi người …
9


(Có thể nhắc đi nhắc lại).

- Bỏ chạy đến chỗ an toàn nếu họ tìm cách sờ nắn hoặc ôm ấp mình và kêu to cầu
cứu sự giúp đỡ của mọi người xung quanh.
- Kể ngay với cha mẹ hoặc những người tin cậy. Nếu người thứ nhất chưa tin lời
em thì kể với người thứ hai, nếu người thứ hai chưa tin thì kể cho người thứ ba,…
cho đến lúc có người tin và giúp đỡ. Cha mẹ, người lớn trong gia đình, thầy cô
giáo, bạn bè, trụ sở công an gần nhất,… hay bất cứ người nào mà các em tin tưởng
là người các em cần tìm và nhờ họ giúp đỡ, bảo vệ.
- Nếu em bị sàm sỡ, xâm hại, hãy kể ngay với cha mẹ, người thân và cùng người
lớn đến cơ sở y tế để khám.
- Các em không nên phớt lờ, chối bỏ, né tránh vấn đề.
3.Nắm bắt cách xử lý khi bị xâm hại tình dục. [4]
+ Nói chuyện với bố, mẹ, người thân,… về việc đã xảy ra để có cách giải quyết.
+ Không giấu diếm mọi chuyện mà phải tìm cách vạch trần “yêu râu xanh” để tránh
gây hại cho những bạn khác.
+ Không che giấu, thu mình vào một thế giới hoang mang của riêng mình.
+ Nhờ bố mẹ, người thân đưa đi khám để xác định mức độ và điều trị tổn thương
thực tế.
Trên đây là một số kỹ năng giúp các em phòng chống quấy rối và xâm hại.
Nhà trường, gia đình và thầy, cô giáo luôn tin tưởng các em, mong các em luôn
dũng cảm, luyện tập trước những kỹ năng ứng biến để bình tĩnh, xử lý!
Hãy nhớ rằng em không phải là người có lỗi khi bị xâm hại tình dục.
Hãy nhớ rằng em có quyền được bảo vệ và có quyền được giúp đỡ để được
an toàn.
Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em số 25/2004/QH11
II.4.2.Về phía gia đình và nhà trường
* Một là, đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền pháp luật về bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em nhằm nâng cao nhận thức cho học sinh lớp chủ nhiệm
về xâm hại tình dục trẻ em và hậu quả của nó. Việc tuyên truyền, phổ biến pháp
luật này phải có kế hoạch, chương trình ngắn hạn, dài hạn cụ thể, trong đó chú
trọng đến việc lồng ghép nội dung truyền thông vào trong sinh hoạt của 15 phút

đầu giờ, sinh hoạt lớp vào thứ 7 hàng tuần, trong sinh hoạt ngoại khóa của lớp
học... [4]
* Hai là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống bảo vệ trẻ em bằng các biện pháp tuyên
truyền, giáo dục ý thức cảnh giác, phát hiện sớm, tự phòng ngừa các hoạt động xâm
hại tình dục và hỗ trợ tư vấn pháp lý khi cần thiết. Khi bị xâm hại tình dục, nạn
nhân và gia đình phải trình báo ngay cho cơ quan Công an để được hỗ trợ tư vấn,
giải quyết, tránh để lọt tội phạm…[4]

10


* Ba là, nâng cao vai trò, trách nhiệm của bản thân và người thân nhằm xây dựng
thiết chế gia đình bền vững. Để tránh những sự việc đau lòng do tội phạm xâm hại
tình dục gây nên, giáo viên, cha mẹ cần thường xuyên để mắt, quan tâm, chia sẻ với
con em mình để nhận thấy những thay đổi tâm, sinh lý cần thiết. Bên cạnh đó, khả
năng nhận thức và tự bảo vệ của trẻ em còn nhiều hạn chế nên các em chính là đối
tượng có nguy cơ bị lạm dụng, xâm hại tình dục cao nhất. Vì vậy, cũng cần phải
trang bị cho con cái biết cách thức phòng vệ trước những đối tượng có ý định thực
hiện hành vi đồi bại. [4]

* Bốn là, xây dựng và hoàn thiện các quy trình, tiêu chuẩn về bảo vệ trẻ em bị xâm
hại, thống nhất hoạt động phối hợp giữa gia đình, nhà trường, xã hội để xác minh,
điều tra, xử lý từng trường hợp trẻ em bị xâm hại, trong đó quy định rõ các thủ tục,
quy trình và trách nhiệm phòng ngừa, phát hiện, tố giác, trợ giúp và giải quyết các

11


trường hợp trẻ em bị xâm hại của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, nhà
trường, gia đình, cá nhân và trẻ em. [4]

* Năm là, chủ động xác minh, nắm tình hình, diễn biến hoạt động của tội phạm
xâm hại tình dục trẻ em, có kế hoạch phòng ngừa, ngăn chặn , xử lý tội phạm xâm
hại tình dục trẻ em kết hợp với công tác đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật
trong thanh thiếu niên, học sinh và vận động nhân dân tố giác kịp thời các hành vi
xâm hại tình dục trẻ em. Đối với người phạm tội cần xử lý nghiêm minh, kịp thời
đúng pháp luật, kiên quyết đấu tranh không để lọt tội phạm. Tổ chức tốt các phiên
tòa lưu động đối với các vụ án xâm hại tình dục trẻ em nhưng phải đảm bảo thuần
phong mỹ tục. [4]
- Tạo điều kiện để xây dựng tình bạn trong sáng, lành mạnh, phù
hợp với nhau về quan niệm sống; bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau;
chân thành, tin cậy và có trách nhiệm đối với nhau; thông cảm,
đồng cảm sâu sắc với nhau.
- Nhà trường, giáo viên tạo cơ hội cho học sinh tìm hiểu về các
kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản; tổ chức các hoạt động như
thảo luận nhóm tại lớp chủ nhiệm để xử lí các tình huống. [4] GV
đưa ra một số tình huống như:
Tình huống 1: A là một nữ sinh lớp 8. A có người bạn trai học
cùng trường trêu chọc và có hành vi đụng chạm vào người khiến
em rất khó chịu. A nên làm gì trong tình huống này?
Trả lời:
+ Đứng ngay dậy
+ Nhìn thẳng vào kẻ định xâm hại tình dục
+ Lùi ra xa đủ để kẻ đó không với tay được đến người mình.+ Nói
to/hét to và kiên quyết: Không! Hãy dừng lại! Tôi không cho phép!
Tôi không muốn! Nếu không dừng lại, tôi sẽ mách với mọi người …
Có thể nhắc lại lần nữa, nếu thấy cần thiết
+ Bỏ đi ngay
Không đi nơi tối tăm vắng vẻ, Không ở trong phòng kín một mình
với ngừơi lạ. Không để họ chạm tay vào người mình
Tình huống 2:

Nam là học sinh lớp 6,một hôm trên đường đi học về, đang đi trên
vỉa hè thì có một người đàn ông rà xe theo Nam,bảo Nam lên xe
để ông ấy chở về, Nam thấy bất an lắm,vì Nam không quen ông
ấy. Nam phải xử trí như thế nào đây?
Trả lời dứt khoát: Nhà cháu ở gần đây,Mẹ cháu sắp đến đón cháu,
Cháu sẽ hét lên nếu ông vẫn làm phiền cháu!

12


Không đi nhờ xe người lạ.
Không để cho người lạ đến gần đến mức có thể chạm tay vào người mình
Tình huống 3:
C quen với người bạn trai qua mạng Chat, Những hôm bố mẹ đi vắng, C thường
điện thoại hẹn bạn trai đến nhà, khi đến, người con trai đó thường mua nhiều quà
cho C. Cho C xem phim đen, đến khi C mang thai thì bố mẹ mới hay, còn người
con trai đó thì trốn đi đâu mất.
Ta rút ra được bài học gì từ tình huống này?
Không hẹn gặp bạn chát qua mạng.

Không nói chuyện điện thọai với người lạ là mình đang ở nhà một mình

13


Không xem phim đen

Không nhận được tiền, quà có giá trị hoặc sự chăm sóc đặc biệt của người khác
mà không rõ lý do.


Không để người lạ vào nhà, nhất là khi trong nhà chỉ có một mình

Tình huống 4: Một bạn gái D đang học lớp 7,vì nhà xa nên em ở trọ nhà người họ
hàng, nhưng D thật khó hiểu vì bà chủ nhà thường rình xem D tắm và hay ôm ấp D,
làm D nổi cả gai ốc. Tình huống này có nguy cơ gì không? D phải làm gì?
Trả lời:
Nguy cơ bị xâm hại tình dục đồng tính
Phải thật kín đáo trong cách ăn mặc và nơi riêng tư
Hãy tâm sự với người thân!
Các em hãy gọi tới số máy này khi cần giúp đỡ nhé !
14


Phiếu trắc nghiệm
Hãy khoanh tròn câu mà em cho là đúng:
1. Kẻ xâm hại có thể là những ai ?
a. Kẻ xâm hại tình dục trẻ em có thể là bất cứ ai : già hay trẻ, người quen hay
không quen, người trong gia đình hay người ngoài gia đình …
b. Chỉ xảy ra với người lớn.
c. Họ là những người đàn ông xấu xa
2.Nạn nhân có thể là những ai ? Sự việc xảy ra khi nào và ở đâu?
a. Xâm hại tình dục có thể xảy ra với bất cứ trẻ em nào : cả con nhà giàu cũng như
con nhà nghèo, bạn gái cũng như bạn trai, vào bất cứ lúc nào và ở bất cứ đâu.
b. Chỉ xảy ra với trẻ sống lang thang
c. Chỉ xảy ra với trẻ ham chơi, thường xuyên đi vắng nhà.
3.Các thủ đọan mà những kẻ xâm hại tình dục trẻ em thường sử dụng ?
a. Lợi dụng sự quen biết và tình cảm thân mật của trẻ, cho tiền, cho quà, cho đi nhờ
xe, giúp đỡ làm việc gì đó hoặc đe dọa, khống chế
b. Do người lạ khống chế, chứ người thân không có thể dụ dỗ
c.Do người quen dụ dỗ

4.Trẻ em có phải là người có lỗi khi bị xâm hại tình dục ?
a.Trẻ em không có lỗi khi bị xâm hại tình dục
b. Trẻ em luôn là người có lỗi
5.Những tác hại nào mà nạn nhân đã chịu đựng?
a. Người bị xâm hại tình dục (đặc biệt là trẻ em) thường bị tổn thưởng nặng nề cả
về cơ thể và tâm lý trong một thời gian dài
15


b. Không sao cả, dù vậy họ vẫn bình thường và khỏe mạnh.
6-Qua buổi sinh hoạt hôm nay, các em có những suy nghĩ gì và hành động gì trước
vấn nạn này ?
a.Tôn trọng nhân phẩm của mình và người khác.
b. Lên án việc xâm hại tình dục.
c. Cảm thông với người bị xâm hại tình dục vì họ không phải là người có lỗi trong
mọi trường hợp.
d. Không quan tâm
II.4.3.Về phía xã hội
Không chỉ trong nước mà quốc tế cũng có những bộ luật
riêng về quyền trẻ em trong đó cũng quy định về vấn đề xâm hại
tình dục trẻ em. Nếu đối tượng có ý định giao cấu nhưng không giao cấu được do
khách quan thì không phải là hành vi dâm ô mà tùy từng trường hợp cụ thể mà đối
tượng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 Bộ luật Hình
sự 1999), tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114 Bộ luật Hình sự 1999) hoặc giao cấu với
trẻ em (Điều 116 Bộ luật Hình sự 1999). [5]
Thực tế, vào ngày 13/01/2016, TAND Thành phố Hà Nội đã đưa ra xét xử
đối với bị cáo có quốc tịch Canada về tội dâm ô trẻ em với hình phạt 4 năm tù
giam. Đối tượng đã có hành vi dâm ô với 4 cháu nam giới dưới 16 tuổi.
Đa phần những người có hành vi liên quan đến tình dục trẻ em (có thể đồng
giới hoặc khác giới) đều là những người có những lệch lạc về tâm sinh lý do nhiều

nguyên nhân khác nhau. Bản thân các nghệ sỹ đi lưu diễn ở các nước có nền kinh tế
phát triển và văn minh thì họ đều coi trọng nhân quyền, đặc biệt là quyền đối với
trẻ em.
Xâm hại tình dục đối với trẻ em thì Nhà nước sẽ có rất nhiều qui định và
biện pháp để bảo vệ và chịu sự trừng phạt nghiêm khắc của pháp luật. Đã có rất
nhiều nghệ sỹ nổi tiếng trên thế giới đã bị tai tiếng liên quan đến xâm hại tình dục
trẻ em... [5]
5 hành vi quấy rối tình dục trẻ em sẽ bị phạt tù theo quy định mới
Bộ luật Hình sự 2015 (đã hoãn ngày có hiệu lực) dành 5 điều luật quy định
mức phạt với người có hành vi xâm hại tình dục trẻ em.
Hiếp dâm người dưới 16 tuổi
Người có hai hành vi sau đây sẽ bị cáo buộc phạm tội này. Thứ nhất, dùng
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn
nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu, thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với
16


người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ. Thứ hai, hành vi giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi.
Khung hình phạt cho hai hành vi này từ 7 đến 15 năm tù.
Nếu bị xác định có tính chất loạn luân, làm nạn nhân có thai, phạm tội hai
lần trở lên, có tổ chức, nhiều người hiếp một người, phạm tội với người dưới 10
tuổi, làm nạn nhân chết hoặc tự sát… , người phạm tội sẽ bị phạt từ 12 đến 20 năm
tù, tù chung thân hoặc tử hình. [5]
Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Bộ luật Hình sự quy định người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ
13 đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng
quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ
tình dục khác thì bị phạt tù 5-10 năm.
Những mức hình phạt sẽ tăng cao dần khi người phạm tội có nhiều tình tiết

tăng nặng nghiêm trọng như: làm nạn nhân có thai, gây rối loạn tâm thần và hành vi
của nạn nhân từ 11-45%, biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội…
Tương tự như tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi, thủ phạm cưỡng dâm người
từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi sẽ phải đối mặt khung hình phạt 12-20 năm tù, chung
thân hoặc tử hình. [5]
Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến
dưới 16 tuổi
Chủ thể phạm tội của tội này là người đủ 18 tuổi trở lên, có hành vi giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi.
Người phạm tội bị phạt sẽ bị phạt tù thấp nhất một năm, cao nhất 5 năm.
Nếu có thêm các hành vi nguy hiểm như: phạm tội hai lần trở lên, phạm tội
đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh,
biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội… sẽ bị áp dụng khung hình phạt 3-15
năm.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định 1-5 năm. [5]
Dâm ô với người dưới 16 tuổi
Hành vi này được nhận diện qua các dấu hiệu người đủ 18 tuổi trở lên dâm
ô với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực
hiện các hành vi quan hệ tình dục khác. Người phạm tội có thể bị phạt tù từ 6 tháng
đến 3 năm.

17


Khung hình phạt cao nhất của tội này đến 12 năm, kèm theo hình phạt bổ
sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định trong
1-5 năm. [5]
Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm
Để bảo vệ trẻ em khỏi những hành vi phạm tội ở mọi cấp độ, điều 147 xác

định hành vi khiêu dâm trẻ em thể hiện ở các dấu hiệu: lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc
người dưới 16 tuổi trình diễn khiêu dâm hoặc trực tiếp chứng kiến việc trình diễn
khiêu dâm dưới mọi hình thức.
Chủ thể phạm tội là người từ đủ 18 tuổi trở lên, mức án từ 6 tháng đến 3
năm.
Tương tự như các tội trên, người phạm tội cũng sẽ phải chịu khung hình
phạt mở rộng đến 12 năm nếu có thêm các tình tiết tăng nặng. Hình phạt bổ sung là
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 đến 5
năm. [5]
II.5. Thực trạng vấn đề.
II.5.1. Thuận lợi:
Trong công tác giảng và học tập, đặc biệt là công tác đoàn và phong trào
thanh niên của nhà trường luôn nhận được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà
trường, luôn tạo mọi điều kiện cho cán bộ giáo viên, cán bộ đoàn thường xuyên
được tập huấn, giao lưu, trao đổi thông tin, kinh nghiệm tổ chức các hoạt động
đoàn với ban chấp hành các chi đoàn cơ sở, ban thường vụ đoàn các xã, các trường
THPT trên địa bàn nhằm nâng cao tinh thần đoàn kết, học hỏi kinh nghiệm giảng
dạy, kỹ năng hoạt động công tác đoàn và phong trào thanh niên.
Sự ủng hộ, quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của nhân dân, phụ huynh học sinh,
của chính quyền địa phương, của các đoàn viên thanh niên, của các tổ chức đoàn
thể trong và ngoài nhà trường.
Bên cạnh đó bản thân tôi là một người luôn luôn không ngừng tự tìm hiểu,
tra cứu, truy cập thông tin, ghi chép các nguồn tài liệu qua các phương tiện thông
tin đại chúng, học tập từ bạn bè, trao đổi chuyên môn với đồng nghiệp qua các buổi
sinh hoạt tổ, đoàn thể. Nhằm nâng cao trình độ, năng lực giảng dạy, giáo dục hướng
nghiệp, kỹ năng sống, kỹ năng hoạt động công tác đoàn và phong trào thanh niên.
II.5. 2. Khó khăn:
II.5. 2.1. Khách quan:
Trường THPT Thọ Xuân 5 là loại hình trường chuyển từ Bán Công sang
Công Lập, lại là tốp đứng cuối trong huyện, chất lượng đầu vào còn thấp. Địa bàn

tuyển sinh phức tạp, đa số các em là con em nông thôn, dân công giáo và dân tộc
thiểu số, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp
II.5. 2. 2.Chủ quan:
18


Đa số cán bộ giáo viên, cán bộ đoàn tuổi đời còn trẻ, thiếu kinh nghiệm
giảng dạy, kinh nghiệm hoạt động công tác đoàn và phong trào thanh niên. Thiếu
giáo viên giáo dục hướng nghiệp, giáo dục kỹ năng sống chuyên trách
Giáo dục kỹ năng sống chưa có nội dung, định hướng cụ thể, chương trình
còn mang nặng tính lý thuyết chưa có tính thực tiễn. Phần đa dựa vào kinh nghiệm
được đúc kết từ bản thân
Tâm lý phổ biến của học sinh, cha mẹ học sinh, xã hội vẫn mong muốn con
em mình chỉ cần học giỏi, đậu đại học, cao đẳng, là được còn tất cả những vấn đề
liên quan tới kỹ năng sống tại thời điểm hiện nay không cần thiết “Tất cả ra xã hội
học sau cũng được”
Một bộ phận không nhỏ nhân dân chưa nhận thức đúng đắn được tầm quan
trọng của giáo dục, đào tạo đặc biệt là giáo dục kỹ năng sống, nên không muốn cho
con em tham gia các lớp giáo dục kỹ năng sống, thậm chí còn ngăn cấm vì cho rằng
tham gia những lớp học những lớp này chỉ mất thời gian.
II. 6. Hiệu quả của sáng kiến.
Với tư cách là một giáo viên, ủy viên BCH đoàn trường qua nhiều nhiệm kì
song song với việc dạy học qua thực tiễn giáo dục hướng nghiệp, giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh trong nhiều năm học gần đây với việc áp dụng đồng bộ những
giải pháp tôi đã trình bày ở trên đề tài đã đạt được những kết quả như sau:
II. 6.1. Đối với giáo viên
Sau khi trao đổi ý kiến với các giáo viên bộ môn và thực tế
các sinh hoạt lớp, sinh hoạt tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp...
cho thấy các giáo viên đều rất quan tâm đến việc tuyên truyền
phòng chống xâm hại tình

dục trẻ em cho học sinh.
Tuyên truyền phòng chống xâm hại tình dục trẻ em cho học sinh
thông qua các hoạt động sinh hoạt tập thể vừa khiến các em có
kỹ năng phòng chống, xử lí khi bị phòng chống xâm hại tình dục,
vừa tạo cho các em sự thích thú khi tham gia các hoạt động.
II. 6.2.Đối với học sinh
Sau khi tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể để tuyên
truyền cho các em học sinh phòng chống xâm hại tình dục trẻ em,
tôi thấy các em đã bắt đầu có kĩ năng và
bước đầu biết cách ứng phó với xâm hại tình dục trẻ em. Các em
nhận biết những biểu hiện, dấu hiệu ban đầu của sự lạm dụng tình
dục qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt khác thường: vuốt ve, sờ soạng,
ôm hôn, lời nói nịnh bợ quá khích, ánh mắt hau háu... Các em đã
biết cách nhận ra ý đồ đen tối của đối tượng để ứng phó kịp thời,
tránh xa đối tượng mà các em khả nghi và cần phải biết tự bảo vệ
khi bị lạm dụng xâm hại tình dục.

19


Các em có một số kĩ năng để xử lí tình huống an toàn, biết
cách nhận biết các nguy cơ:
Ngoài Bố mẹ ra KHÔNG ĐƯỢC CHO BẤT KỲ AI : đụng chạm vào
các bộ phận
nhạy cảm trên cơ thể mình =>NHẬN BIẾT CÁCH ĐỤNG CHẠM CƠ
THỂ:
- Đụng chạm an toàn: là cái bắt tay bình thường, cái ôm thân
thiết, vỗ vai, cầm
tay... mà trẻ em cảm thấy an toàn.
- Đụng chạm khó hiểu: khi trẻ em thấy có những đụng chạm như

trên mà cảm giác khó hiểu, hãy yêu cầu người đụng chạm dừng
ngay lại và nên tránh xa người đó.
Nếu sự đụng chạm khó hiểu này vẫn được tiếp diễn thì trẻ em dễ
rơi vào tình trạng bị xâm hại tình dục một cách dễ dàng. [4]
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
III.1. KẾT LUẬN:
Bản thân tôi vừa làm công tác chuyên môn vừa làm công tác đoàn vừa là
người phụ trách hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh của đoàn thanh
niên. Tôi nhận thấy để nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong
trường phổ thông người giáo viên cần phải đa dạng hoá các hình thức giáo dục kỹ
năng sống. Giáo dục kỹ năng sống phải thường xuyên, liên tục trong suốt cả năm
học chứ không có chuyện nay làm mai nghỉ... [1]. Bên cạnh đó người giáo viên
giáo dục kỹ năng sống phải có trách nhiệm hướng dẫn cho học sinh thấy được rằng
việc học tập, nâng cao kỹ năng sống là sự chuẩn bị cho tương lai của mình, việc
này muốn có được thì phải dựa vào những cơ sở hiểu biết nhất định một cách có
tuần tự và khoa học. Bản thân các học sinh phải có một sự lựa chọn đúng đắn, phù
hợp với sức khỏe, năng lực, điều kiện hoàn cảnh gia đình...Mỗi học sinh hãy ra sức
tự rèn luyện mình để nâng cao kỹ năng sống cho bản thân. Từ đó tạo cho mình một
vốn tri thức để vững vàng đi lên trên con đường mà mình đã lựa chọn. [2]
III.2. KIẾN NGHỊ:
Với những thuận lợi và những khó khăn như đã nêu ở trên. Để nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh phổ thông chúng ta cần tìm ra các giải
pháp căn bản, khả thi, đồng bộ, quyết liệt. Công tác giáo dục kỹ năng sống phải có
tác động, tạo ra động lực to lớn đến học sinh giúp học sinh nhận thức đúng đắn
rằng: Chỉ có bản thân mình với trí tuê, sự hiểu biết và các kỹ năng sống mà mình đã
được trang bị đầy đủ, tôi luyện trong cuộc sống mới có thể làm giàu cho bản thân,
gia đình và xã hội, làm giàu ngay trên quê hương mình là rất dễ và là một niềm
vinh dự. [3]
Đối với Sở GD & ĐT:


20


Phải có sự phối hợp đồng bộ giữa sở GD & ĐT, nhà tr ường, gia đình và xã
hội trong việc tư vấn, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh .
Đổi mới hơn nữa các phương pháp đào tạo, đặc biệt về phương pháp giảng
dạy tìm ra phương pháp đặc thù của trình độ từng lớp kích thích sự hưng phấn
trong học tập cho các em, chương trình giảng dạy phải được thường xuyên cập nhật
liên tục, thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế của nước ta và thế giới hiện nay.
Sở GD & ĐT cung cấp trang thiết bị, tài liệu, cơ sở vật chất, tổ chức tập huấn đồng
bộ cho tất cả các giáo viên, đào tạo hoặc gửi đi đào tạo, thăm quan những mô hình,
những cơ sở giáo dục hay các địa phương có cách làm hay, cách giáo dục kỹ năng
sống tốt để nâng cao trình độ của giáo viên “ Thầy tốt mới có trò tốt” có như vậy
chúng ta mới nâng cao được khẩu hiệu “Học đi đôi với hành”.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2018
CAM ĐOAN KHÔNG COPPY

Đào thị Quỳnh

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Giáo dục năm 2005
2. Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
3. Sách Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phổ thông _ nxb Giáo dục.
4. Mạng internet

- Báo điện tử Vietnamnet
- Báo mới
- Từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- Dân trí
- Giáo dục và thời đại
5.Bộ luật hình sự 1999 và 2015


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD&ĐT
Họ và tên tác giả:
Đào Thị Quỳnh
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường THPT Thọ Xuân 5
Kết quả
Cấp đánh
đánh
Năm học
giá xếp loại giá xếp
TT
Tên đề tài SKKN
đánh giá xếp
(Phòng, Sở, loại (A,
loại
Tỉnh...)
B, hoặc
C)
1 Một số kinh nghiệm lồng
Sở
C

ghép giáo dục bảo vệ môi
2010-2011
trường trong dạy học Hóa
Học
2 Kinh nghiệm vận dụng thơ ca,

Sở

C

câu đố vào bài 26 “luyện tập
nhóm halogen” (sgk lớp 10 –

2015 - 2016

ban cơ bản ) nhằm nâng cao
hiệu quả dạy và học môn hóa
học ở trường thpt
3 Lồng ghép giáo dục vệ sinh an
toàn thực phẩm thông qua bài
21: “Công thức phân tử hợp
chất hữu cơ” nhằm tạo hứng
thú học tập cho học sinh
THPT

Sở

C

2016 - 2017



×