Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

THÁO GỠ NÚT THẮC TRONG TIẾP CẬN NGUỒN VỐN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG CHO CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA: CẦN MỘT HƯỚNG ĐI MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.05 KB, 6 trang )

THÁO GỠ NÚT THẮC TRONG TIẾP CẬN NGUỒN VỐN TÍN
DỤNG NGÂN HÀNG CHO CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ
VỪA: CẦN MỘT HƯỚNG ĐI MỚI
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) ở Việt Nam nói riêng, khu vực kinh tế tư nhân nói chung,
được xác định là một động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế Việt Nam tăng trưởng bền vững trong
thời gian tới. Các SMEs còn được xác định là mãnh đất màu mỡ và giàu tiềm năng cho xu hướng
khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam. Các SMEs đang có đóng góp cho ngân sách nhà
nước, tạo công ăn việc làm và góp phần xóa đói giảm nghèo bền vững cho Việt Nam trong thời
gian tới. Tuy đóng vai trò không hề nhỏ trong nền kinh tế và xã hội nhưng các SMEs ở Việt Nam
hiện cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn trong hoạt động, trong đó có
những khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Do đó, để tháo gỡ những khó
khăn gây trở ngại cho quá trình tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của các SMEs thì bên
cạnh những nỗ lực từ phía các SMEs, cũng cần có sự cởi mở và thông thoáng từ các Tổ chức tín
dụng, cũng như những hỗ trợ cần thiết từ phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) được định nghĩa là những doanh nghiệp có vốn mỏng, sử
dụng ít lao động và có quy mô hoạt động nhỏ bé (thường được đo lường qua chỉ số doanh thu
hàng năm). Các SMEs cũng có thể được chia thành các doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp
nhỏ và doanh nghiệp vừa.
Để nhận dạng một doanh nghiệp có phải là một SME hay không, người ta phải căn cứ vào các
tiêu chí do các tổ chức hoặc các chính phủ của các nước quy định. Chẳng hạn theo Nhóm Ngân
hàng thế giới (World Bank Group), một doanh nghiệp được coi là nhỏ và vừa nếu có ít hơn 300
lao động, tổng tài sản và doanh thu hàng năm dưới 15 triệu đô la Mỹ. Bên cạnh đó, Nhóm Ngân
hàng Thế giới còn sử dụng thêm tiêu chí quy mô vay vốn để phân loại các doanh nghiệp. Ở các
quốc gia đang phát triển, những doanh nghiệp có quy mô vay vốn ít hơn một triệu đô la Mỹ được
coi là các SMEs.
Ở các nước châu Âu, SMEs có số lượng lao động dưới 250 người và doanh thu hàng năm nhỏ
hơn 50 triệu Euro. Tại Mỹ, SMEs là doanh nghiệp có số lượng người lao động dưới 500 người và
có doanh thu hàng năm dưới 7 triệu đô la đối với đa số các ngành không liên quan tới sản xuất và
mức này tăng lên 35,5 triệu đô la đối với ngành sản xuất. Ở Canada, một doanh nghiệp được coi
là SMEs nếu có số lao động từ 10 tới 250 và doanh thu hàng năm dưới 50 triệu đô la Canada.


Các tiêu chí về SMEs tại Mexico, Nam Phi, Thái Lan và Thổ Nhĩ Kỳ cũng rất khác biệt. Tại
Mexico, SMEs có số lao động ít hơn 500 người trong lĩnh vực hoạt động sản xuất và ít hơn 50
người trong hoạt động dịch vụ, trong khi tại Nam Phi là 10 - 20 tới 100 - 200, tùy thuộc vào từng
ngành, Thái Lan áp dụng quy định 200 người trong các ngành sử dụng nhiều lao động và ít hơn
người 100 trong các ngành sử dụng nhiều vốn và cuối cùng là Thổ Nhĩ Kỳ với số lao động từ 10
tới 250 cho SMEs (Trung tâm nghiên cứu kinh tế - tài chính UEL, 2017).


Ở Việt Nam, theo Điều 6 Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/03/2018 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều của Luật hỗ trợ SMEs thì tiêu chí xác định SMEs được quy định cụ thể như
sau:
1. Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực

công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không
quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 3 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn
không quá 3 tỷ đồng.
Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo
hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 10
tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng.
2. Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công
nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100
người và tổng doanh thu của năm không quá 50 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá
20 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều
này.
Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm
xã hội bình quân năm không quá 50 người và tổng doanh thu của năm không quá 100 tỷ
đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 50 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu
nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công
nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200

người và tổng doanh thu của năm không quá 200 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá
100 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy
định tại khoản 1, khoản 2 Điều này.
Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm
xã hội bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 300 tỷ
đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp
siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này.


Bảng 1. Tiêu chí xác định SMEs tại Việt Nam

Doanh nghiệp

Tiêu chí

SIÊU NHỎ
Số lao
Tổng
động
doanh
tham gia
thu của
bảo hiểm
năm
xã hội

NHỎ
Số lao
động
Tổng

Tổng
tham gia doanh
nguồn
bảo
thu của
vốn
hiểm xã năm
hội

VỪA
Số lao
động
Tổng
Tổng
tham gia doanh
nguồn
bảo
thu của
vốn
hiểm xã năm
hội

Tổng
nguồn
vốn

1. Nông
nghiệp, lâm
nghiệp, thủy
sản và công

nghiệp, xây
dựng

không không không không không không không không không
quá 10 quá 3 tỷ quá 3 tỷ quá 100 quá 50 quá 20 quá 200 quá 200 quá 100
người
đồng
đồng
người tỷ đồng tỷ đồng người tỷ đồng tỷ đồng

2.Thương
mại, dịch vụ

không
quá 10
người

không không không không không không không không
quá 10 quá 3 tỷ quá 50 quá 100 quá 100 quá 100 quá 300 quá 100
tỷ
đồng. người tỷ đồng tỷ đồng. người tỷ đồng tỷ đồng
Nguồn: Tổng hợp của tác giả.

So với các doanh nghiệp khác, các SMEs có được lợi thế là dễ dàng thành lập và rút lui khỏi thị
trường, khá linh hoạt trong các quyết định kinh doanh. Những lợi thế này đã tạo điều kiện cho
các SMEs hoạt động trên nhiều lĩnh vực và ngành nghề khác nhau. Các SMEs cũng giúp khai
thác và tận dụng nguồn lao động, nguyên liệu và tài nguyên thiên nhiên của địa phương để giải
quyết công ăn việc làm, đóng góp cho ngân sách và cho tăng trưởng kinh tế của địa phương.
Ở Việt Nam hiện nay, theo Tổng cục Thống kê, trong số gần 600.000 doanh nghiệp hiện đang
hoạt động, có đến hơn 98% là các SMEs (trong đó số doanh nghiệp vừa chỉ chiếm 2,2%, doanh

nghiệp nhỏ chiến 29,6% và còn lại 68,2% là siêu nhỏ). Tổng quy mô vốn của các SMEs chiếm
khoảng 40,9% tổng nguồn vốn huy động vào sản xuất kinh doanh của toàn khu vực doanh
nghiệp. Hàng năm, các SMEs cũng tạo ra gần 60% việc làm (chiếm 42,2% số lao động), 44,8%
doanh thu, đóng góp khoảng 40% GDP, 33% giá trị sản lượng công nghiệp, 30% giá trị hàng hóa
xuất khẩu và đóng góp 29,3% cho ngân sách nhà nước.
THỰC TRẠNG TIẾP CẬN NGUỐN VỐN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM
Tuy đóng vai trò là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, nhưng các SMEs
hiện đang gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động, đặc biệt là việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng


ngân hàng. Mặc dù Việt Nam xếp thứ 29/190 quốc gia về chỉ số tiếp cận tín dụng, nhưng hiện
vẫn có đến 60% SMEs chưa tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ngân hàng (Hồng Ánh, 2018).
Theo một Báo cáo kết quả hoạt động ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước từ năm ngoái cho thấy,
tỷ trọng vốn tín dụng cho các SMEs đến cuối năm 2018 đạt 1,307 triệu tỷ đồng, tăng 15,57% so
với cuối năm 2017, chiếm 18% tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế. Trong khi đó, dư nợ tín
dụng cho đối với các SMEs đến cuối năm 2017 đạt khoảng khoảng 1,13 triệu tỷ đồng, chiếm
khoảng 17,37% tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế, tăng 11,53% so với thời điểm cuối năm
2016.
Một số liệu thống kê khác vừa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cập nhật cho thấy, tính đến
ngày 31/5/2019, dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế tăng 5,74% so với cuối năm 2018. Trong đó,
tín dụng đối với SMEs tăng 5,04%. Bảng 2 và Hình 1 dưới đây sẽ cho thấy rõ hơn diễn biến dư
nợ tín dụng và tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng đối với các SMEs, tỷ trọng dư nợ tín dụng của
các SMEs so với tổng dư nợ của nền kinh tế từ cuối năm 2017 đến hết tháng 5-2019.
Bảng 2. Diễn biến dư nợ tín dụng đối với các SMEs
Đơn vị: triệu tỷ đồng
Thời điểm
Dư nợ tín dụng SMEs
Tỷ trọng/Tổng dư nợ
Tỷ lệ tăng


31/12/2017
1,13
17,37%
11,53%

31/12/2018
1,307
18,12%
15,57%

31/5/2019
1,373
18,0%
5,04%

Nguồn: Tính toán của tác giả

Hình 1. Diễn biến dư nợ tín dụng đối với các SMEs
Từ Bảng 2 và Hình 1 cho thấy, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín
dụng ngân hàng, tuy nhiên, dư nợ tín dụng SMEs cũng đã đạt được tốc độ tăng 11,53% trong
năm 2017 và 15,57% trong năm 2018. Tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với các SMEs chiếm được từ
17 -18% tổng dư nợ toàn bộ nền kinh tế.
Sở dĩ các SMEs ở Việt Nam còn khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng
được nhiều chuyên gia chỉ ra là khả năng đáp ứng đủ điều kiện hồ sơ vay vốn ngân hàng còn hạn
chế, năng lực tài chính yếu kém, không xây dựng được phương án/dự án sản xuất kinh doanh khả
thi và có hiệu quả; nợ phải trả tồn đọng lớn chưa có biện pháp xử lý, thiếu công khai và minh
bạch thông tin. Bên cạnh đó là tính hiệu quả trong hoạt động của SMEs chưa cao, thiếu tài sản để
bảo đảm cho khoản vay theo quy định hoặc tài sản đảm bảo có giá trị thấp; chưa có sự hợp tác
chặt chẽ với ngân hàng khi vay vốn hoặc cơ cấu lại khoản nợ đã vay…

Về phía các tổ chức tín dụng, mặc dù nguồn vốn luôn sẵn sàng nhưng các tổ chức tín dụng cũng
gặp nhiều khó khăn trong việc thẩm định phương án/dự án sản xuất kinh doanh của SMEs, nhất


là đối với các SMEs hoạt động trong các lĩnh vực mới, đặc thù, các tổ chức tín dụng cũng còn
quan trọng về tài sản đảm bảo cho khoản vay; không kiểm soát được dòng tiền của các SMEs khi
cho vay do không kiểm soát được quá trình mua bán và thanh toán của các SMEs,...
HƯỚNG ĐI MỚI ĐỂ THÁO GỠ NÚT THẮC TRONG TIẾP CẬN NGUỒN VỐN TÍN
DỤNG NGÂN HÀNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ổ VIỆT NAM
Để tạo thuận lợi cho các SMEs trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ngân hàng, bên cạnh
những nỗ lực từ các SMEs, cũng cần có sự cởi mở và thông thoáng từ các tổ chức tín dụng, cũng
như những hỗ trợ cần thiết từ phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Trước hết là đối với các SMEs, phải tuyệt đối trung thực trong việc hợp tác và cung cấp thông
tin cho các tổ chức tín dụng trong quá trình thẩm định hồ vay vốn, cũng như quá trình kiểm tra
mục đích sử dụng vốn vay và xử lý khoản vay một khi khoản vay đã trở thành nợ xấu. Việc làm
này trước hết là tạo thuận lợi cho quá trình thẩm định của các tổ chức tín dụng. Ngoài ra, nó còn
tạo được lòng tin và sự tín nhiệm cũng như thiện cảm ban đầu từ các tổ chức tín dụng cho vay.
Các chủ doanh nghiệp SMEs bên cạnh kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm có được, cũng cần
trang bị cho mình những kiến thức cần thiết về quản trị tài chính, đặc biệt các chủ doanh nghiệp
SMEs phải có kiến thức về kiểm soát chi phí và quản trị dòng tiền, phải đọc và hiểu được các
báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Các tổ chức tín dụng khi thẩm định để ra quyết định cấp tín
dụng cũng cần lưu ý đến yêu cầu quan trọng này đối với các chủ doanh nghiệp SMEs, vì thực tế
hiện nay, đa phần các chủ doanh nghiệp SMEs không phải là những người được đào tạo bài bản
về lĩnh vực tài chính kế toán, nên việc chi tiêu và cân đối dòng tiền thường không hiệu quả và
hợp lý.
Đối với các tổ chức tín dụng, cần phải có những gói tín dụng dành riêng để tài trợ cho các
SMEs, vì đây vừa là đối tượng ưu tiên được Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ khuyến khích
cho vay, vừa là xu hướng thị phần tín dụng hứa hẹn nhiều tiềm năng tăng trưởng trong tương lai,
một khi tín dụng đối với các doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp nhà nước đang có xu hướng
tăng trưởng chậm lại, không theo kịp tốc độ tăng trưởng tín dụng của khu vực kinh tế tư nhân,

các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và tín dụng cá nhân. Các tổ chức tín dụng cũng cần
ban hành quy định cấp tín dụng nội bộ dành riêng cho các SMEs trên quan điểm không kỳ thị, e
dè, thông thoáng về thủ tục, đơn giản về quy trình cấp tín dụng. Quy định cho vay nội bộ cần
thống nhất quan điểm không đòi hỏi thủ tục khi cho vay các SMEs siêu nhỏ phức tạp hơn cho
vay các khách hàng cá nhân, vì trên thực tế, các khách hàng cá nhân và các chủ doanh nghiệp
SMEs siêu nhỏ không khác nhau nhiều về hình thức sở hữu cá nhân. Quy chế cho vay nội bộ
cũng cần quy định rõ những điều kiện mà các SMEs cần có để có thể được các tổ chức tín dụng
cho vay không cần tài sản bảo đảm, và hạn mức cho vay không cần tài sản bảo đảm đối với từng
trường hợp thể. Các điều kiện để có thể được cho vay không cần tài sản bảo đảm có thể là số
năm hoạt động có lãi dựa trên báo cáo thuế được duyệt, có bộ máy kế toán tài chính hoàn chỉnh
và phải được ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn, phải công khai và minh bạch thông
tin trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp phải có kiến thức về quản trị tài chính, kiểm soát
chi phí và quản trị dòng tiền, các SMEs đã tham gia được vào các chuỗi cung ứng trong nước,
khu vực hay toàn cầu, các SMEs hiện không có nợ xấu, nợ thuế, nợ lương bị quá hạn hoặc các
tranh chấp thương mại, tranh chấp hợp đồng, các SMEs đã khởi nghiệp thành công và đã xây
dựng được uy tín, thương hiệu, có doanh số bán hàng tăng trưởng liên tục nhiều năm ở mức độ


lớn, có các đơn vị bao tiêu sản phẩm có thương hiệu và uy tín lớn trên thị trường, sản phẩm của
các SMEs đã được đăng ký độc quyền và không dễ bị thay thế, các SMEs đã được các tổ chức uy
tín hoặc các Quỹ bảo lãnh tín dụng cam kết với các điều khoản bảo lãnh rõ ràng,… Bên cạnh đó,
các tổ chức tín dụng cũng cần thành lập tổ hay bộ phận hỗ trợ các SMEs trong việc xây dựng dự
án hay các phương án vay vốn. Quan trọng nhất là các tổ chức tín dụng phải hỗ trợ các SMEs
xây dựng được các bảng dự toán dòng tiền chi tiết đến từng tháng để làm cơ sở cho việc xác định
hạn mức tín dụng và đánh giá được khá chính xác khả năng trả nợ của các SMEs.
Về phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cũng cần hỗ trợ các tổ chức tín dụng trong việc tiếp
cận các nguồn tài trợ từ các tổ chức tài chính quốc tế hay các khoản tái cấp vốn từ Ngân hàng
Nhà nước có chi phí rẻ hơn để các chức tín dụng có điều kiện giảm lãi suất cho vay các SMEs.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng cần ban hành thông tư hướng dẫn cụ thể để các tổ chức
tín dụng mạnh dạn mở rộng tín dụng đối với các SMEs. Các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước

cũng cần tích cực triển khai chương trình kết nối ngân hàng và các SMEs để thông qua đó tháo
gỡ những nút thắt cần thiết trong quan hệ tín dụng giữa các tổ chức tín dụng với các SMEs./.
Tài liệu tham khảo:
Chính phủ (2018), Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 quy định chi tiết một số điều
của luật hỗ trợ SMEs;
Hồng Ánh (2018), 60% DNNVV chưa tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng, Kinh tế và Dự Báo;
Phương Linh (2019), Tiếp tục mở rộng tín dụng có hiệu quả cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, truy
cập ngày 23/7/2019;
Nguyễn Thị Việt Nga (2019), Phát triển doanh nghiệp nhò và vừa trong bối cảnh mới, Tạp chí
tài chính;
Ngân hàng thế giới (2017), Việt Nam: Tăng Cường Năng lực Cạnh Tranh Và Liên Kết Của
SMEs; truyca65p ngày 23/7/2019;
Quốc Hội (2017), Luật số 14/2017/QH14 về Hỗ trợ SMEs;
Trung tâm nghiên cứu kinh tế - tài chính_ UEL (2017), Tiếp cận tài chính của SMEs, Truy cập
ngày 23/7/2019.



×