Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

NÂNG CAO KHẢ NĂNG TIẾP CẬN VỐN TÍN DỤNG CHO DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.13 KB, 7 trang )

NÂNG CAO KHẢ NĂNG TIẾP CẬN VỐN TÍN DỤNG
CHO DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM
I. Các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển khu vực DNNVV
trong bối cảnh hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới.
Đại hội XII của Đảng khẳng định “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng
của nền kinh tế” là bước đột phá trong nhận thức lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã
hội. Doanh nghiệp nhỏ và vừa là bộ phận quan trọng của thành phần kinh tế tư nhân và
đóng vai trò quan trọng trong tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giúp huy
động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, xóa đói, giảm nghèo…Thực hiện chủ
trương này, Nhà nước đã thể chế hóa, ban hành luật và nhiều văn bản quy phạm pháp
luật liên quan để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) hoạt động sản
xuất, kinh doanh. Trong đó có thể kể đến:
+ Quyết định số 1231/QĐ-TTg ngày 07/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2011 – 2015 đề ra các giải pháp, chương
trình hỗ trợ DNNVV trọng tâm gồm: (i) Hoàn thiện khung pháp lý về gia nhập, hoạt
động và rút lui khỏi thị trường của DN; (ii) Hỗ trợ tiếp cận tài chính, tín dụng và nâng
cao hiệu quả sự dụng vốn; (iii) Hỗ trợ đổi mới công nghệ và áp dụng công nghệ mới;
(iv) Phát triên nguồn nhân lực cho các DNNVV, tập trung vào nâng cao năng lực quản
trị; (v) Đẩy mạnh hình thành các cụm liên kết, cụm ngành công nghiệp, tăng cường
tiếp cận đất đai; (vi) Cung cấp thông tin hỗ trợ DNNVV và xúc tiến mở rộng thị
trường; (vii) Xây dựng hệ thống tổ chức trợ giúp phát triển; (viii) Quản lý thực hiện
Kế hoạch phát triển; trong đó tập trung vào những giải pháp về thành lập Quỹ hỗ trợ,
tổ chức thực hiện các Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020,
Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020, Chương trình phát
triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020; thí điểm xây dựng vườn ươm DN; thí điểm
xây dựng mô hình hỗ trợ toàn diện cho DNNVV trong một số lĩnh vực; thúc đẩy các
liên kết kinh tế, cụm liên kết ngành.
+ Quyết định 601/2013/QĐ-TTg ngày 17/04/2013 của Thủ tướng Chính phủ về
việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển DNNVV.
+ Luật số 04/2017/QH14 luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nghị định
39/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa


với nhiều điểm mới về tiêu chí xác định DNNVV; ưu tiên hỗ trợ doanh nghiệp do nữ
làm chủ, được áp dụng mức thuế suất thuế TNDN thấp hơn; được thuê mặt bằng giá
mềm trong 05 năm; được miễn giảm chi phí đào tạo về quản trị doanh nghiệp; ưu đãi
với doanh nghiệp chuyển đổi từ hộ kinh doanh và doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo;

+ Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/03/2018 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều của luật hỗ trợ DNNVV.
+ Nghị định về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng
cho DNNVV; đầu tư cho DNNVV khởi nghiệp sáng tạo….
+…
Đồng thời, Chính phủ đã chỉ đạo, đôn đốc triển khai quyết liệt các giải pháp đẩy
mạnh công tác cải cách hành chính tạo sự chuyển biến, nâng cao chất lượng phục vụ
của Chính phủ, chính quyền các cấp đối với người dân và doanh nghiệp, xoá bỏ mọi
rào cản, đảm bảo quyền tự do bình đẳng kinh doanh của cá nhân và doanh nghiệp.
1


II. Vai trò và những đóng góp to lớn của các DNNVV cho phát triển kinh tế,
xóa đói, giảm nghèo ở nước ta.
Ở mỗi nền kinh tế có đặc điểm phát triển khác nhau, vai trò của doanh nghiệp
nhỏ và vừa được thể hiện ở các mức độ khác nhau. Nhưng thực tế cho thấy tầm quan
trọng của doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng lớn khi quy mô, phạm vi hoạt động của
các DNNVV ngày càng mở rộng thể hiện thông qua số lượng doanh nghiệp, hoạt động
có mặt ở tất cả các ngành nghề, lĩnh vực và tồn tại như một bộ phận không thể thiếu
của nền kinh tế quốc gia.
Thứ nhất, doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo công ăn việc làm cho người lao động,
góp phần giảm thất nghiệp. Do các DNNVV tham gia kinh doanh ở tất cả các ngành
nghề, lĩnh vực của nền kinh tế với đa dạng các sản phẩm nên có thể đảm bảo cơ hội
việc làm cho nhiều đối tượng lao động ở nhiều cùng miền khác nhau. Mặt khác, do đặc
điểm sản xuất kinh doanh không yêu cầu trình độ cao, đặc biệt với điều kiện nền kinh

tế Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển nên có thể sử dụng được cả
lao động ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế chưa phát triển. Trung bình ở Việt Nam
cứ 10 người lao động thì 7 người làm việc cho các DNNVV. Từ năm 2015 tại Việt
Nam số lao động làm việc trong các DNNVV chiếm đến 76,8% trong tổng số lao
động.
Thứ hai, doanh nghiệp nhỏ và vừa giữ vai trò quan trọng trong việc ổn định và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với lợi thế về vốn đầu tư ít và nguồn lao động dồi dào,
trong những năm qua DNNVV phát triển ngày càng nhanh và chiếm tỉ trọng ngày càng
lớn trong tổng số doanh nghiệp. DNNVV cung cấp cho thị trường nhiều mặt hàng
phong phú, đa dạng ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, tạo ra nhiều sự lựa chọn, đáp
ứng được mọi nhu cầu của người tiêu dùng, từ đó thúc đẩy sức tiêu thụ của nền kinh
tế. Vì thế mức độ đóng góp của các DNNVV vào tổng sản lượng của nền kinh tế là rất
lớn. Số liệu chỉ ra rằng trong năm 2000, các DNNVV đóng góp tới 40% GDP của cả
nước. Đến năm 2015, mức độ đóng góp của các DNNVV vẫn duy trì ở mức 43,2%
Thứ ba, doanh nghiệp nhỏ và vừa khai thác và phát huy các nguồn lực địa
phương, góp phần chuyền dịch cơ cấu kinh tế. Với quy mô vốn đầu tư nhỏ, bộ máy tổ
chức gọn nhẹ, dễ khởi sự, các DNNVV có thể tham gia vào nhiều thị trường nhằm
khai thác tiềm năng và thế mạnh về đất đai, tài nguyên và lao động của từng vùng, đặc
biệt là các ngành nông – lâm – hải sản và ngành công nghiệp chế biến. DNNVV cũng
chính là chủ thể tác động tích cực nhất vào việc duy trì và phát triển các ngành nghề
truyền thống như mây tre đan, gốm sứ, dệt… DNNVV đóng vai trò hết sức quan trọng
trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông thôn góp phần thu hẹp khoảng
cách phát triển giữa thành thị và nông thôn, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại
dịch vụ, tiểu thương phát triển góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nghiên cứu cho
thấy các DNNVV ở Việt Nam đã làm kinh tế nông thôn Việt Nam dịch chuyển sang
công nghiệp chế biến và dịch vụ phục vụ nông nghiệp.
Thứ tư, doanh nghiệp nhỏ và vừa thúc đẩy nền kinh tế năng động. Với một tỉ lệ
thích hợp các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, dễ điều chỉnh hoạt động, nền kinh tế sẽ trở
nên năng động, linh hoạt hơn, thích nghi được với những biến động thị trường bắt kịp
xu hướng của nền kinh tế thế giới.

III. Những đóng góp tích cực của ngành ngân hàng phục vụ, hỗ trợ cho sự
phát triển của các DNNVV.
Trong thời gian qua, ngành Ngân hàng đã phối hợp với các cấp chính quyền địa
phương triển khai có hiệu quả và đồng bộ các chính sách hỗ trợ DNNVV như: chương
2


trình kết nối Ngân hàng – Doanh nghiệp; chính sách bảo lãnh tín dụng cho DNNVV;
tổ chức đối thoại trực tiếp giữa ngân hàng, doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV, hợp tác
xã;… Các TCTD chủ động làm việc trực tiếp với khách hàng vay vốn để tháo gỡ khó
khăn trong quan hệ tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn
tín dụng ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật; ưu tiên nguồn vốn cho vay đối
với doanh nghiệp tham gia mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, ứng dụng công
nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp sạch và các doanh nghiệp
khởi nghiệp. Đồng thời các TCTD đã xây dựng các chương trình cho vay với lãi suất
hợp lý, phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng, dịch vụ ngân hàng phù hợp
với các đối tượng doanh nghiệp (đặc biệt là DNNVV, hợp tác xã), kết hợp với đổi mới
quy trình cho vay, đơn giản hóa thủ tục vay vốn, nâng cao khả năng thẩm định để rút
ngắn thời gian giải quyết cho vay, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn phục
vụ phát triển sản xuất kinh doanh, tăng cường phối hợp với Quỹ bảo lãnh tín dụng địa
phương trong việc cho vay có bảo lãnh của Quỹ, tháo gỡ khó khăn cho DNNVV trong
tiếp cận vốn.
Ngành Ngân hàng đã thực hiện đánh giá, nhận diện những khó khăn của người
dân, doanh nghiệp, hợp tác xã; trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp cụ thể để tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc cho từng doanh nghiệp thông qua đó góp phần tăng cường sự kết
nối, thúc đẩy quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Trong đó phải kể đến
việc Ngành Ngân hàng đã chủ động phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để thực hiện
việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản (nhà kính, nhà lưới,…) trên đất nông
nghiệp trong đầu tư nông nghiệp công nghệ cao để làm tài sản đảm bảo vay vốn ngân
hàng và hỗ trợ các tổ chức tín dụng trong quá trình xử lý tài sản đảm bảo của các

khoản nợ xấu.
Hiện nay, NHNN đã điều hành lãi suất theo hướng phù hợp với diễn biến lạm
phát, thị trường tiền tệ, kiểm soát và điều tiết lãi suất thị trưởng ở mức hợp lý nhằm
đảm bảo khả năng huy động của TCTD, góp phần ổn định thị trường tiền tệ và tháo gỡ
khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và DNNVV
nói riêng. Theo Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN), tính đến cuối tháng 12/2018,
tín dụng đối với lĩnh vực DNNVV đạt trên 1,3 triệu tỷ đồng, tăng 15,57% so với cuối
năm 2017. Theo số liệu báo cáo từ các TCTD, đến hết tháng 2/2019, tín dụng đối với
lĩnh vực DNNVV đạt trên 1,3 triệu tỷ đồng, tăng 9,32% so với cùng kỳ năm 2018.
IV. Thực trạng tiếp cận vốn của các DNNVV từ các tổ chức tài chính cung
ứng vốn khác nhau, đặc biệt là vốn trung và dài hạn.
1. DNNVV tiếp cận vốn tín dụng chính thức từ các TCTD. NHNN Việt Nam đã
quy định trần lãi suất đối với các lĩnh vực ưu tiên phát triển, trong đó có DNNVV
được hưởng lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VNĐ thấp hơn 1%-2%/năm so với
các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường (hiện nay là 6,5%/năm). Thậm chí với
các doanh nghiệp tốt, ngân hàng cho vay với lãi suất 6%/năm. Với dư nợ tín dụng đối
với lĩnh vực DNNVV đạt trên 1,3 triệu tỷ đồng vào thời điểm tháng 2/2019, tăng
15,57% so với cuối năm 2017 và tăng 9,32% so với cùng kỳ năm 2018 đã và đang có
những hỗ trợ tích cực đối với sự phát triển của DNNVV Việt Nam. NHNN Việt Nam
tích cực, chủ động tổ chức đối thoại kết nối ngân hàng doanh nghiệp, kiểm soát linh
hoạt việc cho vay bằng ngoại tệ, huy động nguồn lực từ các tổ chức quốc tế, xây dựng
các chính sách tín dụng đặc thù đối với một số ngành lĩnh vực trong đó có DNNVV.
2. DNNVV tiếp cận nguồn tín dụng thông qua bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín
dụng địa phương. Qua hơn 10 năm triển khai tính đến tháng 9/2017 đã có 28 tỉnh,
3


thành phố trực thuộc trung ương thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng (Quỹ BLTD). Tổng
số vốn điều lệ của các Quỹ BLTD ước khoảng 1.579 tỷ đồng. Doanh số bảo lãnh của
các Quỹ BLTD lũy kế từ năm 2002 đến tháng 9/2017 là khoảng 4.126 tỷ đồng với

khoảng trên 2.000 doanh nghiệp được bảo lãnh vay vốn tại các TCTD. Số dư bảo lãnh
đến 9/2017 ước đạt 411 tỷ đồng, số trả nợ thay khoảng 83 tỷ đồng.
3. DNNVV tiếp cận nguồn tín dụng thông qua Quỹ phát triển DNNVV. Quỹ phát
triển DNNVV được thành lập vào năm 2016 theo Quyết định 601/2013/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ với vốn điều lệ là 2.000 tỷ đồng do ngân sách nhà nước cấp.
Quỹ phát triển đã thành lập bộ phận tư vấn, hỗ trợ DNNVV và hot line tại văn phòng
Quỹ để tiếp nhận hồ sơ, giải đáp thắc mắc, tư vấn, hỗ trợ DNNVV hoàn thiện hồ sơ
vay vốn, với các kênh tiếp nhận thông tin đa dạng như tư vấn trực tiếp, tư vấn qua điện
thoại, email, mạng xã hội. Qua quá trình triền khai hoạt động thúc đẩy DNNVV tiếp
cận nguồn vốn của quỹ, tính đến tháng 4/2017 đã có trên 1.000 lượt DNNVV tiếp cận
trực tiếp với quỹ qua các hội thảo, các kênh truyền thông và callcenter để tìm hiểu
chương trình hỗ trợ của quỹ. Từ tháng 12/2016, quỹ và 3 ngân hàng nhận ủy thác đã
lựa chọn các hồ sơ của DNNVV thuộc phạm vi hỗ trợ của quỹ. Tổng số hồ sơ
DNNVV đạt yêu cầu do 3 ngân hàng ủy thác đề nghị quỹ chấp thuận ủy thác là 20 hồ
sơ với tổng nhu cầu vay vốn là 250 tỷ đồng. Đến nay, quỹ ủy thác cho các ngân hàng
cho vay 12 dự án, phương án sản xuất kinh doanh của DNNVV với tổng số vốn hỗ trợ
hơn 100 tỷ đồng, đạt 17,85% hạn mức cho vay của quỹ. Việc giải ngân cho DNNVV
đạt yêu cầu được quỹ và ngân hàng nhận ủy thác thực hiện theo tiến độ triển khai dự
án và nhu cầu của DNNVV. Trong năm 2017, quỹ tiếp tục triển khai 4 chương trình
cho vay với hạn mức 560 tỷ đồng.
Ngoài ra còn một số chương trình cụ thể khác để hỗ trợ DNNVV như: chương
trình ưu đãi tài chính cho ngành công nghiệp hỗ trợ; chương trình đầu tư tín dụng của
nhà nước; chương trình tín dụng xuất khẩu của nhà nước; cho vay ưu đãi của quỹ phát
triển khoa học và công nghệ quốc gia.
V. Một số kinh nghiệm quốc tế về các biện pháp, chính sách hỗ trợ phát triển
DNNVV.
1. Về Kinh nghiệm của Nhật Bản. Nhật Bản được đánh giá là quốc gia số một
trong việc giải quyết khó khăn về vốn cho doanh nghiệp và được nhắc đến với cái tên
"vương quốc của các doanh nghiệp". Các DNNVV ở Nhật Bản đóng vai trò quan trọng
trong nền kinh tế, chiếm tới 99% tổng số doanh nghiệp, đóng góp cho phát triển kinh

tế, tạo việc làm cho khoảng 70% tổng số lao động trong khu vực doanh nghiệp và ổn
định xã hội. Vì những lý do đó, chính phủ Nhật Bản luôn duy trì chính sách hỗ trợ tối
đa cho nhóm đối tượng này, trong đó hỗ trợ tiếp cận tài chính – tín dụng là một trong
những biện pháp ưu tiên hàng đầu. Cụ thể:
- Hệ thống tài chính hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật Bản
là các tổ chức tài chính công phục vụ chính sách gồm: Tổ chức tài chính chính sách
Nhật Bản, Ngân hàng trung ương hiệp hội công thương (Shoko Chukin) và Hiệp hội
bảo lãnh tín dụng.
Tổ chức tài chính chính sách Nhật Bản sẽ cho vay đối với DNNVV. Năm 2013,
khoảng 958 nghìn doanh nghiệp quy mô nhỏ và 47 nghìn doanh nghiệp quy mô vừa
được vay từ tổ chức này. Tổ chức này hiện nay được chia làm hai bộ phận là bộ phận
hỗ trợ tài chính dân sinh và bộ phận DNNVV.
Ngân hàng trung ương hiệp hội công thương Nhật Bản chủ yếu cung cấp vốn
hoặc góp vốn vào các doanh nghiệp thành viên. Trong đó, tùy thuộc vào lượng vốn
4


cho vay mà các điều kiện phê duyệt, lãi suất và chính sách ưu đãi khác nhau. Các
doanh nghiệp mới thành lập có thể được chấp thuận cho vay không cần tài sản đảm
bảo tối đa là 10 triệu yên.
Hiệp hội bảo lãnh tín dụng được các địa phương thành lập nhằm bảo lãnh cho
các khoản nợ của DNNVV với các tổ chức tài chính phi chính phủ. Các hiệp hội bảo
lãnh tín dụng ủy thác cho các tổ chức tài chính hoặc các cơ quan xã hội xác minh
thông tin về các doanh nghiệp xin cấp bảo lãnh và trích từ 0.5% đến 1% giá trị khoản
vay để làm phí bảo lãnh. Tiếp sau đó, chính phủ thành lập quỹ bảo hiểm tín dụng vào
năm 1958. Một mặt, quỹ này đảm bảo cho các khoản vay được cấp bởi các hiệp hội
bảo lãnh tín dụng; mặt khác, quỹ bảo hiểm cấp những khoản vốn vay ngắn và dài hạn
cho các hiệp hội bảo lãnh tín dụng. Trong vai trò là người cho vay cuối cùng, quỹ bảo
hiểm đảm bảo sự vận hành ổn định của các hiệp hội bảo lãnh tín dụng. Đến năm 2014,
Nhật Bản có 52 hiệp hội trên toàn quốc với 188 chi nhánh và số dư cho vay bảo lãnh

tín dụng trên 32 nghìn tỷ yên.
- Các chính sách hỗ trợ tài chính của Nhật Bản gồm: chính sách trợ cấp tài
chính; chính sách tín dụng ưu đãi; cho phép và khuyến khích các DNNVV phát hành
cổ phiếu và các loại giấy tờ khác ra công chúng; thành lập sàn giao dịch thứ cấp độc
lập với sàn giao dịch sơ cấp.
- Tổ chức hỗ trợ lựa chọn doanh nghiệp cấp vốn hoặc hỗ trợ tài chính. Tổ chức
này sẽ thông báo các chương trình hỗ trợ và những thông tin có liên quan; sau đó tổ
chức hoạt động tư vấn cấp vốn trước khi vay. Doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn dựa
trên cơ sở được tư vấn, nộp đơn xin cấp vốn cùng với giấy đăng ký kinh doanh và báo
cáo tài chính mới nhất. Tổ chức hỗ trợ sẽ thực hiện sàng lọc, xếp loại hồ sơ đăng ký và
lựa chọn doanh nghiệp được hỗ trợ sau khi tiến hành thẩm tra.
- Các kênh tài trợ trực tiếp như xây dựng các công ty xúc tiến đầu tư phục vụ
các DNNVV; cho thuê trang thiết bị mới hiện đại.
2. Về kinh nghiệm của Đài Loan. Chính phủ Đài Loan không can thiệp sâu vào
các quyết định của doanh nghiệp lớn và DNNVV nhưng đóng vai trò là chất xúc tác
thông qua việc hỗ trợ tài chính và hỗ trợ kỹ thuật tư vấn quản lý. Chính phủ hỗ trợ tài
chính tín dụng cho các DNNVV thông qua các chính sách như:
- Khuyến khích các ngân hàng cho DNNVV vay vốn. Để tháo gỡ khó khăn
không có tài sản thế chấp, thiếu phương án kinh doanh khả thi và tín nhiệm tín dụng,
chính phủ Đài Loan đã thực hiện các biện pháp khuyến khích ngân hàng cung cấp tín
dụng cho các DNNVV như điều chỉnh lãi suất, quy định tỷ lệ cung cấp tín dụng cho
DNNVV tăng lên hàng năm. Ngân hàng trung ương yêu cầu các NHTM thành lập
phòng tín dụng cho DNNVV tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này tăng khả năng
tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Đồng thời ngân hàng trung ương sử dụng chuyên gia tư
vấn cho DNNVV về biện pháp củng cố cơ cấu tài chính, tăng khả năng tài trợ cho
doanh nghiệp. Thành lập trung tâm hướng dẫn và hỗ trợ chung cho doanh nghiệp
nhằm cung cấp tài chính, phối hợp giải quyết khó khăn, hỗ trợ đào tạo quản lý. Đồng
thời có các chương trình miễn phí cho DNNVV cải thiện hệ thống kế toán, tăng cường
khả năng lập kế hoạch kinh doanh, tăng khả năng thu hồi vốn.
- Thành lập quỹ phát triển DNNVV: Đài Loan cho phép thành lập các quỹ có

chức năng cấp vốn cho DNNVV thông qua hệ thống ngân hàng. Hàng năm, chính
quyền phân bổ ngân sách cho các quỹ phát triển 12 tỷ Đài tệ và quỹ có trách nhiệm
cung cấp khoản vốn nhất định cho DNNVV thỏa mãn mà chính quyền đưa ra với mức
5


lãi suất ưu đãi. Lợi nhuận thu được từ các quỹ phát triển này dùng cho chương trình hỗ
trợ phát triển DNNVV tại địa phương.
- Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng: Năm 1974, Đài Loan đã yêu cầu các thể chế
tài chính góp vốn cùng chính quyền địa phương thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng
DNNVV với mục đích hỗ trợ tài chính cho các DNNVVN có tiềm năng phát triển
nhưng thiếu tài sản thế chấp có thể vay vốn tín dụng ngân hàng với sự bảo lãnh của
quỹ. Quỹ bảo lãnh khoảng 70%-80% mức vay nhằm chia sẻ rủi ro với ngân hàng. Cuối
năm 2010, Quỹ đã bảo lãnh tín dụng cho 4,2 triệu trường hợp với số tiền bảo lãnh
tương đương là 5.443,13 tỷ Đài tệ, dư nợ tín dụng được hỗ trợ thông qua bảo lãnh cho
DNNVV chiếm khoảng 16,25% dư nợ tín dụng cho DNNVV được thực hiện bởi các
tổ chức tài chính.
VI. Vấn đề hợp tác giữa TCTD với các quỹ, các tổ chức tài chính để chia sẻ
thông tin, kết nối doanh nghiệp.
Một trong những giải pháp được các nhà chuyên gia kinh tế đề xuất chính là
“kết nối và hợp tác” để cùng nhau phát triển. Như vậy, các doanh nghiệp sẽ tận dụng
được các thế mạnh của nhau như: danh tiếng, thương hiệu, sản phẩm, thậm chí nguồn
khách hàng. Hai doanh nghiệp đứng một mình sẽ chỉ sử dụng được “vốn tự có”, nhưng
khi cùng bắt tay và hợp tác các doanh nghiệp sẽ không chỉ kết nối được với mạng lưới
của mình mà còn của đối tác, nhằm mang lợi ích thiết thực cho cả đôi bên. Hiện nay ở
Việt Nam có thế kể đến:
- Cộng đồng JOY-Maritime Bank - Kết nối để doanh nghiệp phát triển vững
mạnh. Khi tham gia vào cộng đồng JOY- Maritime Bank, các doanh nghiệp được cùng
Maritime Bank song hành trong hành trình củng cố nội lực, mở rộng nguồn khách
hàng và xây dựng thương hiệu để có thể phát triển lâu dài, bền vững. Bên cạnh những

ưu đãi về vay vốn thông thường, các doanh nghiệp khi tham gia cộng đồng sẽ nhận
được quyền lợi quảng bá miễn phí trên các phương tiện truyền thông và tiếp cận với
hơn 1,5 triệu khách hàng của Maritime Bank.
- Cổng thông tin “CIC Credit Connect - Kết nối nhu cầu vay”. Qua Cổng thông
tin này, khách hàng vay có thể dễ dàng tìm hiểu, lựa chọn các gói tín dụng và đăng ký
nhu cầu vay vốn tại TCTD phù hợp, tiết kiệm được chi phí đi lại, thời gian khi sử dụng
dịch vụ ngân hàng và tiếp cận với nguồn vốn vay ngân hàng dễ dàng và nhanh chóng
hơn. Cổng thông tin kết nối khách hàng vay còn nhằm mục tiêu cải thiện và minh bạch
hóa thông tin tín dụng. Theo đó, khách hàng vay được khai thác thông tin tín dụng và
điểm tín dụng miễn phí về bản thân, giám sát được các thông tin và mức độ tín nhiệm
của mình, phòng tránh gian lận và được CIC tư vấn cải thiện điểm tín dụng, nâng cao
khả năng tiếp cận tín dụng tại các TCTD. Các TCTD tham gia cổng thông tin được
giới thiệu các gói tín dụng, chính sách ưu đãi để khách hàng vay lựa chọn; thực hiện
kết nối, tiếp cận với các khách hàng vay có nhu cầu, giảm thiểu thời gian, chi phí tìm
kiếm, lựa chọn khách hàng, đảm bảo tính công khai, minh bạch trong quan hệ giữa các
TCTD và khách hàng vay.
VII. Các giải pháp và khuyến nghị chính sách nhằm mở rộng và nâng cao
khả năng tiếp cận vốn của các DNNVV nước ta trong thời gian tới.
1. Đối với DNNVV.
- Chủ động tích cực tự đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý, quản trị,
tiếp cận kiến thức khoa học kỹ thuật hiện đại, thông qua việc tham gia các chương
trình đào tạo, tham gia tích cực vào các hiệp hội nghề; tham quan tập huấn ở trong và
ngoài nước để chia sẻ học hỏi kiến thức kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh
6


- Nâng cao kỹ năng tìm kiếm cơ hội đầu tư, lập phương án sản xuất kinh doanh
khả thi, tăng tính thuyết phục trong việc tìm kiếm nguồn vốn tài trợ
- Chủ động tiếp cận các nguồn thông tin thị trường trong và ngoài nước, các
chính sách của Chính phủ, thị trường nước ngoài nhằm chủ động trong quản lý, giám

sát rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững.
- Tái cơ cấu lại hoạt động sản xuất kinh doanh cho phù hợp với tình hình tài
chính hiện có, sở trường của doanh nghiệp
- Liên hệ với quỹ bảo lãnh tín dụng để đề nghị bảo lãnh nến không đủ tài sản
đảm bảo.
- Quản lý chuỗi cung ứng, thanh toán an toàn cho các nhà cung cấp, tận dụng uy
tín của người mua để tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
2. Đối với các quỹ (phát triển DNNVV, bảo lãnh tín dụng)
- Hoàn thiện mô hình hoạt động và bộ máy tổ chức nhằm đảm bảo được cơ chế
huy động đủ vốn cho quỹ hoạt động.
- Có chính sách ưu đãi để thu hút vốn điều lệ cho quỹ bảo lãnh.
3. Đối với các TCTD và tổ chức tài chính khác.
- Mạnh dạn dành một phần vốn cho vay đối với các DNNVV hoặc tranh thủ
tiếp cận các nguồn vốn hỗ trợ chính thức hoặc thông qua các chương trình, dự án của
tổ chức, tạo nguồn với lãi suất thấp.
- Xem xét, đẩy mạnh việc cho vay thông qua tín chấp, đánh giá hiệu quả và lợi
nhuận của các dự án đầu tư để cấp vốn cho DNNVV
- Chủ động cùng các DNNVV đánh giá lại các khoản nợ, cùng doanh nghiệp
tháo gỡ khó khăn, phục hồi sản xuất.
- Kết hợp nhiều sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho các DNNVV để giảm lãi suất
cho vay, hỗ trợ doanh nghiệp quản trị hiệu quả, thích ứng với sự biến động của nền
kinh tế.
- Đẩy mạnh cho thuê tài chính để giúp DNNVV nhanh chóng đổi mới công
nghệ.
- Tăng cường huy động nguồn vốn trung và dài hạn dành cho khu vực DNNVV.
4. Đối với Nhà nước, các bộ, ngành; các địa phương:
- Hỗ trợ tín dụng không thể tiến hành đại trà mà phải có chọn lọc, các tiêu chí
công khai minh bạch. Nên triển khai thì điểm, rút kinh nghiệm, vừa hỗ trợ, vừa hoàn
thiện cơ sở pháp lý để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ổn định và phát triển.
- Hỗ trợ DNNVV tiếp cận các nguồn tài chính, tín dụng về công nghệ mới

nhằm tiết giảm chi phí.
- Tiếp tục cải thiện môi trường pháp lý và hệ thống thông tin nhằm giảm thiểu
rủi ro cho các TCTD trong việc cung ứng vốn cho các DNNVV.
- Cải thiện môi trường kinh doanh để tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh
nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngoài nhà nước./.

7



×