Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

mở rộng tín dụng xuất khẩu của ngân hàng thương mại cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.66 KB, 76 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Trong thời đại toàn cầu hóa, xuất khẩu đóng vai trò quan trọng đối với tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam. Nó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh thế thông qua
sự tích luỹ từ khoản thu ngoại tệ cho đất nước, phát huy tính sáng tạo của các đơn vị
kinh tế thông qua cạnh tranh quốc tế. Kinh doanh xuất khẩu là phương tiện để khai
thác các lợi thế về tự nhiên, vị trí địa lý, nhân lực và các nguồn lực khác. Ngoài ra
hoạt động xuất khẩu còn thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế giữa các nước và đẩy
mạnh tiến trình hội nhập nên kinh tế toàn cầu.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNNVV) luụn cú vai trò đặc biệt quan trọng
trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, ngay cả các nước có trình độ phát triển cao.
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia đều chú trọng
hỗ trợ DNNVV nhằm huy động tối đa các nguồn lực phát triển kinh tế, tăng sức
cạnh tranh trên thị trường,
Theo thống kê ở Việt Nam hiện nay, DNNVV chiếm tỷ lệ khoảng trên 90%
tổng số doanh nghiệp, là nơi tạo việc làm chủ yếu cho gần 90% lực lượng lao động
trong khu vực doanh nghiệp ở cả thành thị và nông thôn, đóng góp khoảng 40%
GDP. Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu nói chung, xuất khẩu của DNNVV nói riêng là
một trong những chiến lược quan trọng nhằm thực hiện chủ trương phát triển kinh
tế đa thành phần. Tuy nhiên trong hoàn cảnh hiện nay, DNNVV chưa phát triển
mạnh, khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế cón rất hạn chế. Điều này do
nhiều nguyên nhân như máy móc thiết bị lạc hậu, hệ thống thông tin còn hạn chế,
trình độ cán bộ quản lý cũng và lao động đã qua đào tạo còn thấp… Đặc biệt, một lý
do không thể không nhắc đến và cũng là khó khăn lớn nhất đối với DNNVV là tình
trạng thiếu hụt tài chính, trong đó có nguồn vốn tín dụng.
Trải qua nhiều năm đổi mới, hệ thống các chính sách tài chính nói chung,
chính sách tín dụng xuất khẩu dành cho DNNVV của các ngân hàng thương mại nói
riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực, tạo điều kiện cho DNNVV tham gia vào
1
kinh doanh xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu đánh giá một cách toàn diện và khách quan,
chính sách tín dụng xuất khẩu vẫn còn nhiều bất cập, thông lệ hoạt động của các tổ


chức tín dụng còn nhiều ách tắc, cản trở quá trình phát triển nghiệp vụ xuất khẩu
của DNNVV.
Vì thế, tăng cường hỗ trợ tín dụng xuất khẩu cho DNNVV là giải pháp quan
trọng để thực hiện chiến lược ngoại thương, là một trong những biờn phỏp đảm bảo
sự phát triển kinh tế bền vững ở nước ta. Đề tài “Mở rộng tín dụng xuất khẩu của
Ngân hàng thương mại cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” là một đề tài có
ý nghĩa lý thuyết và thực tiễn, mang tính cấp thiết và phù hợp với chuyên ngành
Kinh tế phát triển.
Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn hướng đến những mục tiêu cụ thể sau:
Làm rõ tầm quan trọng của xuất khẩu đối với tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam, vai trò của DNNVV trong việc thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam cũng
như ý nghĩa của nguồn vốn tín dụng đối với hoạt động xuất khẩu của
DNNVV.
Phân tích thực trạng nguồn vốn tín dụng hỗ trợ xuất khẩu dành cho DNNVV,
tìm hiểu những hạn chế trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng của DNNVV
và nguyên nhân của những hạn chế trên.
Trên cơ sở phân tích cơ sở lý thuyết và tớnh hỡnh thực tiễn, luận văn sẽ đề
xuất phương hướng và giải pháp tăng cường hỗ trợ tín dụng xuất khẩu cho
DNNVV của Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu:
Các giải pháp hỗ trợ tín dụng xuất khẩu dành cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Việt Nam, bao gồm:
Cho vay tài trợ xuất khẩu;
Chiết khấu chứng từ xuất khẩu;
Bao thanh toán xuất khẩu;
Bảo lãnh xuất khẩu.
2
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian:

Chính sách tín dụng xuất dành cho DNNVV của ngân hàng thương mại
Phạm vi thời gian:
Luận văn tập trung phân tích chính sách hỗ trợ tín dụng xuất khẩu cho
DNNVV trong thời gian từ năm 2000 đến nay. Luận văn đi sâu phân tích thực trạng
tín dụng xuất khẩi tại Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank),
một trong những ngân hàng có chiến lược mở rộng tín dụng xuất khẩu rõ nét nhất.
Phương pháp nghiên cứu:
Khung lý thuyết sử dụng:
Luận văn vận dụng những lý thuyết sau:
Lý thuyết của kinh tế phát triển vế tầm quan trọng của xuất khẩu đối với tăng
trưởng kinh tế, vai trò của DNNVV đối với tăng trưởng kinh tế nói chung và xuất
khẩu nói riêng được trình bày trong Giáo trình Kinh tế phát triển, Đại học Kinh tế
Quốc dân, NXB Lao động xã hội xuất bản năm 2005.
Lý thuyết về vai trò của vốn tín dụng xuất khẩu với doanh nghiệp và nghiệp
vụ tín dụng xuất khẩu trình bày trong sách nghiệp vụ “Tớn dụng và thẩm định tín
dụng ngân hàng” do TS. Nguyễn Minh Kiều chủ biên, NXB Tài chính xuất bản năm
2009.
Nguồn dữ liệu:
Luận văn chủ yếu sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp, được thu thập từ báo cáo
tài chính của các Ngân hàng TMCP, số liệu thống kê của Tổng cục thống kê và
Ngân hàng nhà nước và các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Phương pháp phân tích dữ liệu:
Sử dụng phương pháp phân tích chỉ số tuyệt đối và tương đối, so sánh theo
thời gian, không gian, so sánh chéo.
Dự kiến các đóng góp của luận văn:
Giá trị khoa học: luận văn làm rõ điều kiện áp dụng các nghiệp vụ tín dụng
xuất khẩu cho DNNVV.
3
Giá trị ứng dụng: luận văn đề xuất một số giải pháp với chính phủ, các ngân
hàng thương mại và các doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho

DNNVV tiếp cận nguồn vốn tín dụng xuất khẩu.
Kết cấu luận văn
Luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Hoạt động tín dụng xuất khẩu của NHTM đối với DNNVV
Chương 2: Thực trạng hỗ trợ tín dụng xuất khẩu của các NHTM cho
DNNVV
Chương 3: Quan điểm và giải pháp mở rộng hỗ trợ tín dụng xuất khẩu cho
DNNVV
Giới hạn của luận văn
Mặc dù có nhiều cố gắng tìm hiểu và phân tích, nhưng do hạn chế về tầm
hiểu biết cũng như giới hạn về thời gian và số liệu thu thập, luận văn không tránh
khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của PGS.TS. Phạm Văn
Vận và các giảng viên khoa Kinh tế phát triển, trường Đại học Kinh tế Quốc dân để
đề tài được hoàn thiện hơn.
4
CHƯƠNG I
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT KHẨU CỦA NHTM
ĐỐI VỚI DNNVV
1.1. Tín dụng xuất khẩu và mở rộng tín dụng xuất khẩu của NHTM cho
DNNVV
1.1.1. Khái niệm tín dụng xuất khẩu
Tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó cũng là sản phẩm của nền kinh tế
hàng hóa. Tín dụng ra đời, tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ tín
dụng được phát sinh ngay từ thời kỳ chế độ công xã nguyên thủy bắt đầu tan rã. Khi
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện, cũng là đồng thời xuất hiện quan hệ trao
đổi hàng hóa. Thời kỳ này, tín dụng được thực hiện dưới hình thức vay mượn bằng
hiện vật - hàng hóa. Về sau, tín dụng đã chuyển sang hình thức vay mượn bằng tiền
tệ. Tín dụng là biểu hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình tạo lập và sử
dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn tạm thời cho quá trình tái
sản xuất và đời sống, theo nguyên tắc hoàn trả.

Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các ngân hàng và tổ
chức tín dụng với các đối tác kinh tế - tài chính của toàn xã hội, bao gồm doanh
nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước. Tín dụng ngân hàng có những
đặc điểm riêng:
Thứ nhất, Huy động vốn và cho vay vốn đều thực hiện dưới hình thức tiền tệ
Thứ hai, Ngân hàng đóng vai trò trung gian trong quá trình huy động vốn và
cho vay;
Thứ ba, Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung và điều hòa vốn
giữa các chủ thể trong nền kinh tế.
Tín dụng xuất khẩu là một bộ phận thuộc tín dụng ngân hàng, tập trung vào
quan hệ kinh tế trong hoạt động xuất khẩu. Hoạt động tín dụng xuất khẩu có thể
diễn ra trước hoặc sau khi giao hàng.
Tín dụng xuất khẩu dành cho DNNVV là những gói sản phẩm tín dụng được
5
các NHTM thiết kế dành riêng cho nhóm đối tượng khách hàng là DNNVV tham
gia xuất khẩu, với mục đích khuyến khích, hỗ trợ DNNVV tham gia vào thị truờng
quốc tế.
1.1.2. Nội dung họat động tín dụng xuất khẩu
1.1.2.1. Cho vay hỗ trợ xuất khẩu
Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng giao cho khách hàng
một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định
theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Lãi suất cho vay được áp
dụng trên cơ sở lãi suất huy động đầu vào và đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng.
Cho vay phục vụ xuất khẩu nhằm mục đích, một là bổ sung nguồn vốn lưu động
nhằm mua sắt nguyên vật liệu, vận hành sản xuất, trả lương cụng nhõn…. để thực
hiện các đơn hàng xuất khẩu; hai là đầu tư mua sắm tài sản cố định nhằm tăng năng
lực sản xuất. Quy trình cho vay cơ bản gồm các buớc:
Bước 1: Lập hồ sơ vay vốn
Bước này do cán bộ tín dụng thực hiện ngay sau khi tiếp xúc khách hàng.
Nhìn chung một bộ hồ sơ vay vốn cần phải thu thập các thông tin như:năng

lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự của khách hàng, khả năng sử dụng vốn
vay, khả năng hoàn trả nợ vay (bao gồm gốc và lãi)
Bước 2: Phân tích tín dụng
Phân tích tín dụng là xác định khả năng hiện tại và tương lại của khách hàng
trong việc sử dụng vốn vay và hoàn trả nợ vay. Buớc này Tìm kiếm những
tình huống có thể xảy ra dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, dự đoán khả năng
khắc phục những rủi ro đó, dự kiến những biện pháp giảm thiểu rủi ro và hạn
chế tổn thất cho ngân hàng. Phân tích tính chân thật của những thông tin đã
thu thập được từ phía khách hàng trong bước một, từ đó nhận xét thái độ,
thiện chí của khách hàng làm cơ sở cho việc ra quyết định cho vay.
Bước 3: Ra quyết định tín dụng
Trong khâu này, ngân hàng sẽ ra quyết định đồng ý hoặc từ chối cho vay đối
với một hồ sơ vay vốn của khách hàng.
6
Khi ra quyết định, ngân hàng thường mắc hai sai lầm cơ bản: Đồng ý cho
vay với một khách hàng không tốt hoặc từ chối cho vay với một khách hàng
tụt. Cả hai sai lầm đều ảnh hưởng đến hoạt đông kinh doanh tín dụng, thậm
chí sai lầm thứ hai còn ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
Bước 4: Giải ngân
Ở bước này, ngân hàng sẽ tiến hành phát tiền cho khách hàng theo hạn mức
tín dụng đã ký kết trong hợp đồng tín dụng.
Nguyên tắc giải ngân: phải gắn liền sự vận động tiền tệ với sự vận động hàng
hóa hoặc dịch vụ có liên quan, nhằm kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay của
khách hàng và đảm bảo khả năng thu nợ. Đồng thời cũng tạo sự thuận lợi,
tránh gây phiền hà cho công việc sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Bước 5: Giám sát tín dụng
Nhân viên tín dụng thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay thực tế của
khách hàng, hiện trạng tài sản đảm bảo, tình hình tài chính của khách hàng,
để đảm bảo khả năng thu nợ.
Bước 6: Thanh lý hợp đồng tín dụng

Thanh lý hợp đồng tín dụng xảy ra khi khỏan vay đến hạn hoặc khách hàng
vi phạm hợp đồng tín dụng. Truờng hợp nếu khách hàng khụng hũan trả gốc
và lãi vay đúng hạn, ngân hàng sẽ xem xét cho gia hạn hoặc chuyển sang nợ
quá hạn để có biện pháp xử lý như giải chấp tài sản đảm bảo hoặc thực hiện
khiếu kiện theo quy định của pháp luật.
1.1.2.2. Chiết khấu và bao thanh túan
Trong hoạt động tài trợ xuất khẩu của NHTM, hai nghiệp vụ chiết khấu và
bao thanh túan cú đặc điểm chung là mua lại các khỏan phải thu của người xuất
khẩu sau khi đó hũan tất việc giao hàng. Mục đích của các nghiệp vụ này giúp cho
doanh nghiệp không bị nợ đọng vốn, quay vòng và sử dụng vốn hiệu quả hơn. Nội
dung cụ thể của từng nghiệp vụ được trình bày dưới đây.
Chiết khấu là một hình thức cấp tín dụng theo đú cỏc tổ chức tín dụng nhận
các chứng từ có giá và trao cho khách hàng một số tiền bằng mệnh giá của chứng từ
7
nhận chiết khấu trừ đi phần lợi nhuận và chi phí mà ngân hàng được hưởng. So với
hình thức cho vay, chiết khấu có điểm khác biệt sau:
Một là, Không cần tài sản thế chấp mà sử dụng ngay chứng từ nhận chiết
khấu làm đảm bảo tín dụng.
Hai là, Ngân hàng thu lãi trước khi phát tiền vay bằng cách khấu trừ vào
mệnh giá.
Ba là, Qui trình xem xét cấp tín dụng đơn giản và nhanh hơn so với cho vay.
Chiết khấu đuợc phân loại thành chiết khấu miễn truy đòi, tức là NHTM mua
đứt, và chiết khấu bảo lưu quyền truy đòi.
Trong hoạt động xuất khấu, nghiệp vụ chiết khấu đuợc NHTM áp dụng chiết
khấu hối phiếu đối với phuơng thức thanh túan Thư tín dụng (L/C). Ở đây hối phiếu
là chứng chỉ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán không
điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định
trong tương lai cho người thụ hưởng. Trong thương mại hối phiếu do người xuất
khẩu ký phát để đòi tiền người trả tiền, có thể là người nhập khẩu hoặc ngân hàng
phát hành thư tín dụng theo yêu cầu của người nhập khẩu.

Khi thực hiện chiết khấu thương phiếu, ngân hàng xác định số tiền phát ra
cho khách hàng như sau :
Số tiền chuyển cho khách hàng = Giá trị hối phiếu - Lãi chiết khấu
- Hoa hồng phí chiết khấu của ngân hàng
Cách thức thu lãi được thực hiện ngay khi chiết khấu bằng cách khấu trừ vào
mệnh giá. NHTM gửi bộ chứng từ xuất khẩu đến ngân hàng của nhà nhập khẩu và
yêu cầu thanh túan. Nếu không thu được nợ ngân hàng có thể xử lý bằng cách truy
đòi người xin chiết khấu hoặc truy tố trước pháp luật.
Quy trình nghiệp vụ chiết khấu:
Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ chiết khấu
Buớc 2: Kiểm tra điều kiện chiết khấu
Buớc 3: Thực hiện chiết khấu - trả tiền cho khách hàng
Buớc 4: Gửi bộ chứng từ đòi tiền đến ngân hàng của người nhập khẩu
8
Bao thanh túan xuất khẩu là hình thức tài trợ cho những khoản thanh
toán chưa đến hạn từ các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng hàng hóa và dịch
vụ, đú chớnh là hoạt động mua bán nợ.
So với chiết khấu hối phiếu, bao thanh túan xuất khẩu áp dụng với các khỏan
nợ có thời hạn dài hơn, và áp dụng được với cả các hình thức thanh túan quốc tế
ngũai L/C như nhờ thu (D/P), điện chuyển tiền (T/T), CAD tùy theo hợp đồng
ngoại thương. Bao thanh túan cũng đựoc phân biệt thành:
Phương thức thứ nhất là Bao thanh toán truy đòi, theo đó ngân hàng có
quyền đòi lại số tiền đã ứng trước cho ngườio xuất khẩu khi bên mua hàng
không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải trả.
Phương thức thứ hai là Bao thanh toán miễn truy đòi, theo đó đơn vị bao
thanh túan chịu toàn bộ rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng hoàn
thành nghĩa vụ thanh toán các khoản phải trả.
Trong Bao thanh túan xuất khẩu, NHTM sẽ ứng truớc một phần giá trị khỏan
phải thu cho nguời xuất khẩu theo một tỷ lệ nhất định. Khi truy đũi bờn nhập khẩu
đủ giá trị hợp đồng, ngân hàng sẽ thanh túan phần còn lại cho người xuất khẩu sau

khi khấu trừ tiền ứng truớc và lợi nhuận của ngân hàng.
Quy trình Bao thanh túan xuất khẩu:
Bước 1: Nhà xuất khẩu và bên mua hàng ký kết hợp đồng mua, bán hàng
hóa, tiến hành giao hàng.
Bước 2: Nhà xuất khẩu gởi hồ sơ đến bộ phận tín dụng NHTM đề nghị thực
hiện Bao thanh toán các khoản phải thu.
Bước 3: NHTM và bên bán hàng ký kết hợp đồng Bao thanh toán, hợp đồng
bảo đảm và các thỏa thuận khác.
Bước 4: NHTM và người xuất khẩu đồng ký gởi văn bản thông báo về hợp
đồng Bao thanh toán cho bên mua hàng và cỏc bờn liên quan.
Bước 5: Bên mua hàng gởi văn bản cho NHTM và bên bán hàng xác nhận về
việc đã nhận được thông báo và cam kết thực hiện như thỏa thuận.
Bước 6: Bên bán hàng chuyển giao bản gốc hợp đồng mua bán hàng, chứng
9
từ liên quan khác cho NHTM và ký khế ước nhận nợ với NHTM. NHTM
thu phí và chuyển tiền ứng trước cho khách hàng.
Buớc 7: NHTM theo dõi thu nợ từ số tiền do bên mua hàng thanh toán.
1.1.2.3. Bảo lãnh tín dụng xuất khẩu
Bảo lãnh tín dụng là việc ngân hàng cam kết sẽ thanh toán cho bên thụ
hưởng của hợp đồng khoản đền bù trong phạm vi của số tiền được nêu rõ trong giấy
bảo lãnh nếu bên đối tác không thực hiện được trách nhiệm của mình trong hợp
đồng. Khi uy tín của người xuất khẩu chưa đủ để tạo sự tin tưởng tuyệt đối cho đối
tác, Bảo lãnh tín dụng xuất khẩu của NHTM giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn để
giành đuợc các hợp đồng. Quy trình thực hiện bảo lãnh tín dụng xuất khẩu:
Bước 1: Khách hàng gửi hồ sơ xin bảo lãnh đến ngân hàng.
Bước 2: Ngân hàng bảo lãnh thẩm định hồ sơ xin bảo lãnh.
Bước 3: Ngân hàng xác định các chỉ tiêu chủ yếu là mức tiền bảo lãnh, thời
hạn bảo lãnh và phí bảo lãnh.
Căn cứ để ngân hàng bảo lãnh xác định mức tiền bảo lãnh là: Nhu cầu bảo
lãnh của khách hàng; Giá trị tài sản thế chấp cầm cố và mức tiền bảo lãnh tối

đa theo quy định
Thời hạn bảo lãnh được xác định căn cứ vào thời hạn thực hiện nghĩa vụ
trong hợp đồng.
Phí bảo lãnh: Ngân hàng bảo lãnh thu phí bảo lãnh theo chế độ hiện hành.
Bước 4: NHTM đưa ra cam kết bảo lãnh gửi người nhập khẩu hoặc ngân
hàng của người nhập khẩu.
Bước 5: Theo dõi, giám sát việc khách hàng thực hiện các nghĩa vụ trong
hợp đồng
Bước 6: Thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nếu bên nhận bảo lãnh cung cấp các tài
liệu chứng minh việc cần phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Bước 7: Trong truờng hợp phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, NHTM sẽ thực
hiện yêu cầu khách hàng phải thực hiện việc bồi hũan.
10
“Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện ổn định các hoạt động kinh doanh”
1
. Căn cứ vào độ lớn hay quy mô của doanh
nghiệp, người ta phân loại doanh nghiệp thành doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhỏ
và vừa (DNNVV). Mặc dù có những khác biệt nhất định giữa các nước về tiêu thức
và tiêu chuẩn cụ thể, song khái niệm chung nhất về DNNVV có nội dung như sau:
DNNVV là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, có quy
mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo cỏc tiờu thức: vốn, lao
động, doanh thu, năng lực sản xuất, tổng tài sản, giá trị gia tăng thu được trong từng
thời kỳ theo quy định của từng quốc gia.
1.2. Sự cần thiết mở rộng tín dụng xuất khẩu cho DNNVV
1.2.1. Khái niệm về DNNVV
“Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện ổn định các hoạt động kinh doanh”

1
. Căn cứ vào độ lớn hay quy mô của doanh
nghiệp, người ta phân loại doanh nghiệp thành doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhỏ
và vừa (DNNVV). Mặc dù có những khác biệt nhất định giữa các nước về tiêu thức
và tiêu chuẩn cụ thể, song khái niệm chung nhất về DNNVV có nội dung như sau:
DNNVV là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, có quy
mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo cỏc tiờu thức: vốn, lao
động, doanh thu, năng lực sản xuất, tổng tài sản, giá trị gia tăng thu được trong từng
thời kỳ theo quy định của từng quốc gia.
Qua nghiên cứu tiêu thức phân loại ở một số nước cho thấy, một số tiêu thức
chung, có tính phổ biến thường đuợc sử dụng để phân loại doanh nghiệp là:
Số lượng lao động thường xuyên;
Vốn sản xuất kinh doanh;
Doanh thu; hoặc
Lợi nhuận.
1
Theo Khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005
11
Tiêu thức về số lao động và vốn phản ánh quy mô sử dụng các yếu tố đầu
vào, cũn tiờu thức về doanh thu và lợi nhuận lại đánh giá quy mô theo kết quả đầu
ra. Như vậy, để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể dụng cỏc yờu tố đầu vào,
các yếu tố đầu ra hoặc là sự kết hợp của cả hai loại yếu tố đó.
Chúng ta có thể tham khảo cách phân loại DNNVV của các nước APEC và
khối EU dưới đây:
Bảng 1.1: Tiêu chí phân loại DNNVV ở các nước APEC
Nước Tiêu chí phân loại
Australia
Canada
Hồng Kông
Indonesia

Nhật Bản
Malaysia
Mexico
Philippines
Singapore
Đài Loan
Thái Lan
Mỹ
Số lao động
Số lao động; Doanh thu
Số lao động
Số lao động; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu
Số lao động; Vốn đầu tư
Số lao động; Tỷ lệ góp vốn
Số lao động
Số lao động; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu
Số lao động; Tổng giá trị tài sản
Vốn đầu tư; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu
Số lao động; Vốn đầu tư
Số lao động
Nguồn: Ban thương mại và đầu tư, tiểu ban kinh doanh vừa và nhỏ của các
nước APEC, 2001.
12
Bảng 1.2: Tiêu chí phân loại DNNVV của khối EU:
Loại
Doanh nghiệp
Số nhân công
(Người)
Doanh số
(Triệu euro)

Tổng tài sản
(Triệu euro)
Vừa
Nhỏ
Siêu nhỏ
<250
<50
<10
50
10
2
43
10
2
Nguồn: “Tài trợ tín dụng Ngân hàng cho các Doanh nghiệp nhỏ và vừa”, Ts.
Trương Quang Thông, NXB. ĐHQG Thành Phố Hồ Chí Minh
Việc sử dụng cỏc tiờu thức để phân loại DNNVV ở các nước trên thế giới có
một số đặc điểm chủ yếu:
Một là, các nuớc sử dụng tiêu thức khác nhau. Trong số cỏc tiờu thức nêu
trên, hai tiêu thức được sử dụng nhiều nhất là quy mô vốn và lao động.
Hai là, Số lượng tiêu thức sử dụng để phân loại cũng không giống nhau. Có
nước sử dụng một tiêu thức, nhưng cũng có nước sử dụng đồng thời hai hay
nhiều tiêu thức.
Ba là, Lượng húa cỏc tiờu thức này thành các tiêu chuẩn giới hạn cụ thể ở
các nước khác nhau cũng không giống nhau. Độ lớn của các tiêu chuẩn giới
hạn phụ thuộc và trình độ, hoàn cảnh, điều kiện phát triển kinh tế, định
hướng chính sách và khả năng trợ giúp DNNVV của mỗi nước.
Ở Việt Nam,Theo Nghị định của Chính phủ về “Giỳp phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ” số 90/2001/NĐ-CP ban hành, thực hiện thống nhất ngày
23/11/2001, định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ là “cơ sở sản xuất, kinh doanh độc

lập, đã đăng kí kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có số vốn đăng kí không quá
10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người Căn cứ
vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của ngành, địa phương, hai tiêu chí trên có thể
linh hoạt áp dụng đồng thời hoặc một trong hai chỉ tiêu trên ”(Điều 3. Định nghĩa
doanh nghiệp vừa và nhỏ).
Năm 2009, Chính Phủ đã ban hành Nghị định 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp
13
phát triển DNNVV nhằm thay thế Nghị định 90/2001/NĐ-CP. Đối chiếu với Nghị
định 90/2001, Nghị định 56/2009 có những điểm mới về tiêu chuẩn phân loại
DNNVV. Theo đó, DNNVV được phân loại dựa theo các tiêu chí: Quy mô về vốn,
quy mô về số lao động và khu vực kinh tế; cụ thể như bảng sau:
Bảng 1.3: Phân loại DNNVV theo khu vực kinh tế:
Khu vực
Doanh
nghiệp siêu
nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao
động
Tổng nguồn
vốn
Số lao
động
Tổng nguồn
vốn
Số lao
động
I. Nông, lâm
nghiệp và thủy sản
10 người trở

xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
Từ trên 20 tỷ
đồng đến
100 tỷ đồng
từ trên 200
người đến
300 người
II. Công nghiệp và
xây dựng
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
Từ trên 20 tỷ
đồng đến
100 tỷ đồng
từ trên 200
người đến
300 người
III. Thương mại và
dịch vụ
10 người trở

xuống
10 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
50 người
Từ trên 10 tỷ
đồng đến 50
tỷ đồng
từ trên 50
người đến
100 người
Nguồn: Nghị định số 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV của
Chính Phủ
Tại Nghị định 56 việc phân loại DNNVV theo tiêu chí “quy mô tổng nguồn
vốn” sẽ có khó khăn trong xác định loại hình doanh nghiệp do quy mô tổng nguồn
vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế
toán) của doanh nghiệp hay thay đổi. Tổng nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm:
vốn chủ sở hữu, vốn vay ngân hàng, phải trả người bỏn,…Trong khi vốn chủ sở hữu
tương đối ổn định thì vốn vay ngân hàng và phải trả người bán lại thường xuyên
biến động. Vì vậy tổng nguồn vốn của doanh nghiệp cũng thường xuyên biến động.
Một doanh nghiệp được xếp vào loại doanh nghiệp nhỏ nhưng ngày mai có thể đã
trở thành doanh nghiệp vừa và ngược lại. Tuy nhiên, cách thức phân loại được nêu
14
trong Nghị định đã xác định rõ ràng nội dung quản lý nhà nước về trợ giúp phát
triển DNNVV. Theo đó, tất cả các bộ, ban, ngành, địa phương khi ban hành văn bản
pháp luật về trợ giúp DNNVV phải thông qua cơ quan quản lý nhà nước về trợ giúp
phát triển DNNVV. Việc này sẽ tạo sự thống nhất trong quản lý nhà nước về trợ
giúp DNNVV, tránh tình trạng phân tán, trùng lặp gây lãng phí.
Vai trò quan trọng của DNNVV trong nền kinh tế quốcdõn:

Một là, DNNVV cung cấp khối lượng lớn, đa dạng và phong phú về chủng
loại hàng hóa, dịch vụ, góp phần quan trọng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế
của mỗi quốc gia. Với các quốc gia đang phát triển, GDP hàng năm do
DNNVV tạo ra chiếm tỷ trọng khá lớn, đảm bảo thực hiện các chỉ tiêu tăng
trưởng kinh tế.
Hai là, DNNVV tạo nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên cho dân cư, giúp
phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập cho các bộ phận dân cư. Khả năng sản
xuất phân tán, sư dụng lao động tạo chỗ là điểm mạnh của DNNVV.
Ba là, khai thác và thu hút tiềm năng, nguồn lực của các địa phương, các
nguồn tài chính của dân cư trong vùng, tạo ra tính năng động cho nền kinh
tế. Do quy mô gọn nhẹ, vốn ít, DNNVV có khả năng chuyển đổi mặt hàng,
chuyển hướng sản xuõt nhanh mà ớt gõy biến động cho nền kinh tế.
Bốn là, hình thành và phát triển đội ngũ doanh nhân năng động. Cùng với sự
phát triển các DNNVV là sự xuất hiện ngày càng nhiểu hơn các nhà kinh
doanh sáng lập, là lực lượng rất cần thiết để góp phần thức đẩy sản xuất.
Năm là, tạo ra môi trường cạnh trang lành mạnh, tạo ra sức ép buộc cac
doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới sản phẩm, giảm chi phí, tăng chất
lượng để duy trì vị thế trên thị trường.
1.2.2. Lợi ích từ việc mở rộng mở rộng tín dụng xuất khẩu cho DNNVV
1.2.2.1. Thúc đẩy xuất khẩu
Xuất khẩu là đưa hàng hóa (hữu hình hoặc vô hình) ra nước ngoài và thu
ngoại tệ về. Có 2 hình thức xuất khẩu là xuất khẩu ra nước ngoài và xuất khẩu tại
chỗ (bán hàng trong nước nhưng bán cho người nước ngoài và thu ngoại tệ về). Ở
15
các nước đang phát triển, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò quan trọng đối với tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Xuất khẩu tạo nguồn vốn để phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, mang lại nguồn thu ngoại tệ cần để nhập
khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại. Xuất khẩu không chỉ tạo ra giá trị gia
tăng trực tiếp cho sản phẩm được đem trao đổi mà còn làm gia tăng nhu cầu sản
xuất, kinh doanh ở những ngành liên quan khác, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh

tế. Cạnh tranh trên thị truờng quốc tế buộc các doanh nghiệp phải không ngừng cải
tiến sản xuất, tiết giảm chi phí nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
Mục tiêu dài hạn của chiến lược xuất khẩu là để đất nước chuyển dần từ việc
xuất khẩu khẩu hàng công nghiệp giản đơn sang những sản phẩm tinh vi hơn mà từ
đó tạo ra tiền lương, lợi nhuận và thu nhập cao hơn. Những nước đang phát triển dư
thừa về lao động và thiếu vốn bán đầu cần phải cạnh tranh quốc tế về những sản
phẩm thâm dụng lao động như dệt may, giày dép, đồ chơi trẻ em Theo thời gian,
khi tiết kiệm và giáo dục làm tăng lượng vốn và lao động có kỹ năng và công nghệ
mới được giới thiệu và sử dụng, các nước đang phát triển sẽ chuyển hướng sang sản
xuất những sản phẩm thâm dụng vốn và lao động có kỹ năng, như thiết bị điện tử,
dịch vụ tài chính, thông tin…
Với ý nghĩa của xuất khẩu đối với tăng truởng và phát triển kinh tế, việc mở
rộng tín dụng xuất khẩu cho DNNVV thể hiện chủ trương thực hiện chiến lược
ngoại thương. Trong bối cảnh DNNVV còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt về vốn, sự
hỗ trợ thông qua qua tín dụng xuất khẩu của NHTM sẽ đóng vai trò quan trọng duy
trì và tăng cường quy mô xuất khẩu.
1.2.2.2. Tăng khả năng cạnh tranh cho DNNVV trên thị truờng quốc tế
Các DNNVV đóng vai trò tích cực trong việc đưa hàng hóa và dịch vụ trong
nước ra thị truờng quốc tế. Với đặc điểm quy mô nhỏ gọn, cơ cấu tổ chức năng
động, DNNVV có thể nhanh chóng đổi mới sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị
truờng thế giới, đặc biệt là với các hàng hóa gia công, hàng hóa thâm dụng lao động
- những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của các nước đang phát triển. DNNVV có ưu
thế trong việc tận dụng vốn và lao động tại chỗ, giảm chi phí, tăng khả năng cạnh
16
tranh. Nhiều DNNVV trở thành đối tác của các công ty đa quốc gia trong chuỗi sản
xuất tũan cầu.
Trong quá trình tham gia thương mại quốc tế, hạn chế lớn nhất của DNNVV
chính là nguồn lực tài chính. Thiếu hụt tài chính giống như “Cỏi khú bú cỏi khụn”,
kìm hãm năng lực cạnh tranh của DNNVV. Tiếp cận được tín dụng của NHTM,
DNNVV có thể nhận được nhiều đơn hàng và với giá trị hợp đồng lớn hơn. Thứ

nhất, tín dụng ngân hàng bổ sung nguồn vốn thiếu hụt cho DNNVV trong quá trình
sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Do những đặc điểm về khoảng cách địa lý xa
xôi, thủ tục xuất nhập khẩu phức tạp, biến động trên thị trừong thế giời phức tạp,
các đơn hàng xuất khẩu thừơng có giá trị lớn, có thể yêu cầu số lượng sản phẩm lớn
và chất lượng sản phẩm cao, nhằm làm cho chi phí vận chuyển, logistic hàng hóa
bình quân thấp xuống. Nếu không có trợ giúp các NHTM, DNNVV khó có thể đảm
đưong được nhiều đơn hàng. Thứ hai, tín dụng ngân hàng giúp DNNVV quay vòng
và sử dụng vốn hiệu quả hơn. Đặc điểm của hoạt động ngoại thương là thời gian
giao hàng kéo dài, thủ tục thanh túan phức tạp hơn rất nhiều so với thanh túan trong
nước, nhất là với phương thức thanh túan qua thư tín dụng (L/C). Chính vì vậy,
doanh nghiệp rất dễ bị nợ đọng vốn. Tài trợ của các NHTM sẽ làm tăng tính thanh
khỏan cho dòng tiền của doanh nghiệp, giải quyết tình trạng ứ đọng vốn. Thứ ba,
NHTM có thể đóng vai trò là định chế tài chính đảm bảo cho DNNVV khi làm việc
với đối tác nước ngũai. Trong bối cảnh các DNNVV nguồn lực còn hạn chế, uy tín
với đối tác chưa cao, NHTM có thể dùng uy tín của tổ chức tín dụng bảo đảm cho
DNNVV được nhận và thực hiện các hợp đồng.
1.2.2.3. Mở rộng đối tượng khách hàng cho các NHTM
NHTM có ba chức năng cơ bản, đó là chức năng trung gian tín dụng, chức
năng trung gian thanh túan và chức năng tạo tiền.
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của
ngân hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng
vai trò là cầu nối giữa người có tiền nhàn rỗi và người có nhu cầu về vốn. Ngân
hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho
17
vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho
vay. Người đi vay, đa phần là các doanh nghiệp, chính là nhân tố đảm bảo đầu ra và
lợi nhuận cho NHTM.
Với chức năng trung gian thanh toán, NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các
cá nhân và doanh nghiệp, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng với
các sản phẩm như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ … Qua đó NHTM đã thúc

đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển tiền tệ, từ
đó góp phần phát triển kinh tế.
Chức năng tạo tiền phản ánh rõ bản chất của ngân NHTM - loại hình doanh
nghiệp kinh doanh tiền tệ. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức
năng nêu ở phần trên - tín dụng và thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín
dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại
được khách hàng sử dụng để mua bán hàng hóa, dịch vụ trong khi số dư trên tài
khoản thanh toán vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch. Qua đó, hệ thống
NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu
thanh toán, chi trả của xã hội.
Qua phân tích ba chức năng của NHTM, có thể thấy sự vận động và phát
triển của NHTM luôn gắn liền với cộng đồng doanh nghiệp. NHTM muốn lớn
mạnh phải không ngừng mở rộng mạng lưới khách hàng, thiết lập quan hệ với ngày
càng nhiểu doanh nghiệp. Quan hệ tín dụng, quan hệ thanh túan giữa ngân hàng và
doanh nghiệp gắn bó không tách rời, là điều kiện cho ngân hàng thực hiện chức
năng độc quyền của mình đó là tạo tiền. Chiếm hơn 90% tổng số doanh nghiệp,
khoảng 96% doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đóng góp khoảng 40% GDP, khối
DNNVV rõ ràng là nhóm khách hàng tiềm năng cần khai thác của NHTM. Hỗ trợ
tín dụng cho DNNVV, các NHTM từng bước thiết lập tầm ảnh hưởng lớn hơn tới
nền kinh tế, tới nhiều ngành nghề, vũng miền trên khắp cả nước. Những DNNVV
tham gia xuất khẩu lại thường là những doanh nghiệp năng động, tiềm năng mới có
thể đương đầu với thị trường thế giới phức tạp và giàu tính cạnh tranh. Thông qua
cấp tín dụng xuất khẩu cho DNNVV, NHTM không những có thể tìm kiếm nhiều
18
khách hàng tốt mà còn có điều kiện nâng cao năng lực, trình độ nghiệp vụ thông
qua làm việc với các ngân hàng, định chế tài chính quốc tế, với những nghiệp vụ
phong phú, đa dạng và phức tạp.
1.3. Các tiêu chí đánh giá mức độ mở rộng tín dụng xuất khẩu
Trong khuôn khổ luận văn, người viết xin đề cập một số tiêu chí đánh giá
mức độ mở rộng tín dụng xuất khẩu của DNNVV.

Dư nợ tín dụng xuất khẩu NHTM cấp cho DNNVV. Tiêu chí này cho biết
quy mô tín dụng xuất khẩu dành cho DNNVV tại các NHTM, bao gồm các hình
thức tín dụng như cho vay, chiết khấu, bao thanh túan, bảo lãnh. Theo dõi tỷ lệ tăng
trưởng của dư nợ tín dụng xuất khẩu và so sánh với dư nợ tín dụng xuất khẩu cấp
cho DNNVV với tổng dư nợ tín dụng háng năm của NHTM và sẽ cho thấy sự quan
tâm của NHTM dành cho nhóm khách hàng này.
Các hình thức tín dụng xuất khẩu được triển khai và tỷ trọng từng loại.
Việc NHTM triển khai được các hình thức cấp tín dụng khác nhau sẽ tạo điều kiện
cho DNNVV lựa chọn sản phẩm phù hợp với nhu cầu thực tế. Nhìn chung khi
NHTM mới tham gia hội nhập quốc tế, hình thức cho vay xuất khẩu sẽ chiếm tỷ
trọng rất lớn. Tỷ trọng các hình thức tín dụng khác sẽ được nâng lên dần dần.
Tỷ lệ doanh nghiệp được tiếp cận với tín dụng xuất khẩu. Không phải tất
cả DNNVV có nhu cầu đều được cấp tín dụng xuất khẩu. Phan tích tỷ lệ doanh
nghiệp được tiếp cận với tín dụng xuất khẩu, so sánh với tỷ lệ doanh nghiệp bị từ
chối và tìm hiểu các nguyên nhân khiến doanh nghiệp không nhận được sự chấp
thuận của NHTM sẽ đưa ra những gợi ý chính sach để mở rộng tín dụng chó
DNNVV xuất khẩu.
1.4. Các nhân tố tác động đến việc cấp tín dụng xuất khẩu của NHTM
cho DNNVV
1.4.1. Các chính sách của chính phủ
1.4.1.1. Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần
Đường lối phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
được xác định là: Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
19
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng nhà nước, các
quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà
nước. Tuy nhiên, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước không phải là kinh tế nhà
nước chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân, mà là kinh tế nhà nước nắm lấy
những lĩnh vực then chốt, quan trọng của nền kinh tế quốc dân, là lực lượng vật chất

quan trọng để Nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều
kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Mặt khác các thành phần
kinh tế đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp
luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Trong thực tế, phần lớn các doanh nghiệp trong thành phần kinh tế tư nhân là
DNNVV, trong khi đa số các doanh nghiệp lớn lại là doanh nghiệp nhà nước
(DNNN), nắm giữ lượng tài sản lớn và có ưu thế trong việc tiếp cận các nguồn lực,
trong đó có nguồn vốn tín dụng. Bởi vậy, nếu các chính sách đưa ra không thực sự
tạo được sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế thỡ cỏc DNNVV gặp khó
khăn hơn rất nhiều so với DNNN khi tiếp cận với nguồn vốn tín dụng nói chung và
tín dụng xuất khẩu nói riêng.
Trong lý thuyết kinh tế vĩ mô, đã đề cập đến hiệu ứng lấn át, là hiệu ứng nhà
nước hoạt động kinh tế quá nhiều nên lấn át cơ hội sử dụng nguồn lực của tư nhân
vì tổng nguồn lực của nền kinh tế là hữu hạn. Khi phân bổ nguồn lực khan hiếm,
các DNNN luôn giành được sự ưu tiên vì tính chất then chốt trong các lĩnh vực hoạt
động của mình. Hệ thống NHTM cũng là một kênh phân bổ nguồn lực trong nền
kinh tế. Vì vậy, nguồn vốn tín dụng ưu tiên dành cho cỏc cỏc DNNN thay vì các
doanh nghiệp tư nhân, trong đó có DNNVV là tất yếu. DNNN không những có
nguồn tài sản lớn, có thể đáp ứng yêu cầu về tài sản đảm bảo của NHTM, mà còn có
lợi thế nhờ sự bảo đảm, bảo lãnh ngầm của nhà nước.
Một khi hiệu ứng lấn át xảy ra, vấn đề đặt ra là hiệu quả hoạt động kinh tế
nhà nước. Nếu khu vực kinh tế nhà nước nói chung và DNNN nói riêng sử dụng
nguồn lực một cách tiết kiệm, hiệu quả, làm gia tăng đáng kể năng lực sản xuất cho
20
nền kinh tế, tạo ra “ngoại ứng tích cực” cho nền kinh tế, thì sự chấp nhận thiệt thòi
của kinh tế tư nhân, trong đó có DNNVV hiện tại sẽ được bù đắp bằng các cơ hội
phát triển trong dài hạn. Tuy nhiên, nếu như khu vực kinh tế nhà nuớc lại sử dụng
nguồn lực lãng phí, kém hiệu quả, nguy cơ xảy ra là kinh tế nhà nuớc, trong dú cú
cỏc DNNN ngày càng dựa dẫm và luôn tìm cách giành lấy vào các nguồn lực ưu
đãi, bao gồm cả nguồn vốn tín dụng.

Vì vậy, việc chính phủ tạo ra một sân chơi bình đẵng giữa các thành phần
kinh tế sẽ có những ảnh hưởng cả trước mắt cũng như lâu dài đến việc DNNVV tiếp
cận được với tín dụng NHTM nói chung và tín dụng xuất khẩu nói riêng.
1.4.1.2. Chính sách điều hành vĩ mô đối với hoạt động của NHTM
Mục tiêu của chính phủ là sử dụng NHTM như một kênh dẫn vốn, phân bổ
trong nền kinh tế, chuyển dịch vốn đến những đơn vị có khả năng sử dụng nguồn
lực một cách hiệu quả nhất. Việc ngân hàng trao vốn cho doanh nghiệp phải nhằm
vào việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, tạo ra sự vững chắc cho những
chiến lược kinh tế lâu dài của đất nước. Chính phủ phải điều tiết hoạt động của các
ngân hàng nhằm gắn mục tiêu kinh doanh của ngân hàng với mục tiêu phát triển của
đất nuớc. Trong nền kinh tế thị truờng, khi mọi doanh nghiệp đều chạy theo lợi
nhuận, thường xuất hiện những ngành phát triển “núng”, cú tốc độ phát triển rất
nhanh, đuợc kỳ vọng nhiều, thậm chí đuợc định giá cao hơn giá trị thực như bất
động sản, chứng khúan…. Chính phủ cần tránh việc các ngân hàng dồn quá nhiều
vốn cho các ngành phát triển nóng này; vì mặc dù các NHTM có thể thu lợi truớc
mắt nhưng lại có thể dẫn đến tình trạng “bong búng”, đổ vỡ trong tuơng lai. Cuộc
khủng hỏang tài chính - tín dụng diễn ra từ cuối năm 2008 bắt nguồn từ việc các
ngân hàng quá chú trọng cho vay kinh doanh nhà đất là ví dụ điển hình cho ngân
hàng quá chú trọng đến các ngành đang phát triển núng đó gõy hậu quả nghiêm
trọng như thế nào. Chính phủ cần phải điều hành ở tầm vĩ mô để ngân hàng có sự
cân bằng trong việc phân bổ tín dụng cho các ngành kinh tế, cân đối giữa cho vay
tiêu dùng với vay để sản xuất - xuất khẩu.
Ngũai ra, chính phủ cần xem xét số luợng và quy mô các NHTM. Việc có
21
quá nhiều ngân hàng quy mô nhỏ, hoạt động không lành mạnh, thanh khỏan kém dễ
dẫn đến tình trạng vay mượn lẫn nhau giữa các ngân hàng. Các ngân hàng lớn, có
nguồn tiền dồi dào lại đem cho ngân hàng nhỏ vay. Nguồn vốn tín dụng thay vì đi
thẳng từ ngân hàng đến doanh nghiệp lại đi qua một ngân hàng nhỏ, trung gian ở
giữa, làm tăng chi phí vốn vay đối với doanh nghiệp.
1.4.1.3. Chính sách bảo lãnh và bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đối với DNNVV

Nhằm hỗ trợ DNNVV có nhu cầu vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh
và xuất khẩu nhưng không đáp ứng được yêu cầu về tài sản đảm bảo, Chính phủ có
thể thành lập các định chế tài chính, các quỹ bảo lãnh thuộc nhà nứơc hoặc địa
phương. Khi nhận được bảo lãnh, DNNVV sẽ thuận lợi hơn khi tiếp cận tín dụng
ngân hàng, NHTM cũng được chia sẻ rủi ro. Tuy nhiên, chính phủ cũng như các địa
phương cần chú trọng xem xét uy tín, năng lực doanh nghiệp, tiềm lực sản xuất -
xuất khẩu truớc khi chấp thuận bảo lãnh và giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay.
Bên cạnh bảo lãnh vay vốn, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cũng là một công
cụ hữu hiệu hỗ trợ cho DNNVV tiếp cận với NHTM. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
là loại hình bảo hiểm cho các rủi ro nợ xấu liên quan đến các hợp đồng mua bán,
xuất nhập khẩu và giữ vai trò chủ chốt trong việc thúc đẩy hoạt động thương mại
quốc tế. Đối với các doanh nghiệp, bảo hiểm tiộn dụng xuất khẩu giúp bảo vệ tài
chính cho nhà xuất khẩu trong trường hợp mất khả năng thanh toán; tạo ra sự thuận
lợi trong việc đi vay từ các tổ chức tín dụng để tăng lượng hàng hóa dịch vụ xuất
khẩu, tăng khả năng tiếp cận thị trường quốc tế giúp doanh nghiệp xuất khẩu tăng
doanh số bán hàng theo những điều khoản tín dụng cạnh tranh.
Trước thực trạng e dè của các ngân hàng trong việc cấp vốn lưu động cho
các DNNVV kinh doanh xuất khẩu, hợp đồng Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu giỳp
cỏc doanh nghiệp xuất khẩu có thể tiếp cận các nguồn vốn cho vay từ các ngân hàng
và các tổ chức tín dụng dễ dàng hơn và giúp cho việc thu tiền bán hàng để thanh
túan nợ cho NHTM của doanh nghiệp xuất khẩu trở nên hiệu quả hơn.
Để phát huy đựoc tính ưu việt của Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, Chính Phủ
cần thúc đẩy sự hình thành và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở
22
các công ty bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm cần xây dựng và phát triển những hệ
thống cơ sở dữ liệu khách hàng toàn cầu và được cập nhật thường xuyên, liên tục,
hình thành một hệ thống đánh giá rủi ro; quản lý các danh mục rủi ro, danh mục
khách hàng; thực hiện chức năng định phí, đệ trình và gia hạn; xử lý nợ quá hạn và
bồi thường.
1.4.1.4. Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ tín dụng xuất khẩu

Trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng luôn là người có ít thông tin về dự
án, về mục đích sử dụng khoản tín dụng được cấp hơn khách hàng. Do đó, để đảm
bảo an toàn trong hoạt động của mình, bản thân các tổ chức tín dụng phải xử lý
thông tin bất cân xứng để hạn chế lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại nhằm cho vay
đúng người đúng đối tượng và giám sát chặt chẽ để khách hàng vay vốn có hành vi
đúng đắn nhằm đảm việc thu hồi cả gốc và lãi khoản tín dụng đã cấp ra. Trường
hợp có doanh nghiệp vi phạm nội dung của hợp đồng tín dụng, các NHTM cần
thông tin cho nhau để thay đổi xếp hạng tín dụng của doanh nghiệp. Trong một nền
kinh tế, hầu như không một ngân hàng nào có đủ khả năng tự mình xử lý được vấn
đề thông tin bất cân xứng mà cần phải có một cơ sở hạ tầng và hệ thống thông tin
đủ mạnh hỗ trợ cho hoạt động của NHTM.
Đối với hoạt động tín dụng xuất khẩu của DNNVV, vai trò của hệ thống
thông tin về doanh nghiệp là cực kỳ quan trọng, trong khi khả năng thu thập lại khó
khăn, vì hoạt động giao thương diễn ra trong phạm vi quốc tế, muốn có số liệu
thụng kờ chính xác phải phối hợp cả với nước nhập khẩu. Bản thân hệ thống sổ sách
của các DNNVV cũng không được ghi chép đầy đủ, và các doanh nghiệp này không
phải chịu trách nhiệm công bố thông tin như những công ty đại chúng. Vai trò của
chính phủ rất quan trọng trong việc phối hợp các cơ quan chức năng để tạo ra mạng
lưới cung cấp thông tin phong phú, cập nhật, đầy đủ.
Những thông tin cơ bản mà NHTM cần thu thập khi tiến hành thẩm định tín
dụng xuất khẩu bao gồm:
Thông tin về doanh nghiệp xuất khẩu: thành tích xuất khẩu, doanh thu, lợi
nhuận hàng năm, lịch sử vay nợ và trả nợ
23
Thông tin về ngành xuất khẩu: Tiềm năng phát triển của ngành, tốc độ tăng
trưởng; tỷ suất doanh thu, lợi nhuận bình quân, định mức chi phí; vị thế của
Việt Nam trên thị trưởng quốc tế của ngành đó
Thông tin về đối tác nhập khẩu: Vị trí, quy mô của đối tác nhập khẩu ở nước
nhập khẩu, lịch sử tham gia thương mại quốc tế của đối tác đó
Một số cơ quan nhà nước có vai trò quan trọng có khả năng nắm giữ thông

tin cho hoạt động tín dụng xuất khẩu:
Trung tâm tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (CIC) là tổ chức
duy nhất thực hiện công tác thu thập thông tin của các khách hàng có quan
hệ tín dụng với tất cả các tổ chức tín dụng. Cơ chế thu thõp thông tin của
CIC theo quy chế hoạt động thông tin tín dụng do Ngân hàng Nhà nước ban
hành. Trong đó quy định các tổ chức tín dụng theo định kỳ có trách nhiệm
báo cáo các thông tin liên quan đến khách hàng cho CIC và các tổ chức tín
dụng được quyền khai thác thông tin của CIC.
Tổng cục thống kê (GSO) là cơ quan chịu trách nhiệm cập nhật các số liệu về
tình hình xuất khẩu. GSO có thể thực hiện những tổng hợp, phân tích riêng
đối với DNNVV.
Cơ quan hải quan và cơ quan thuế là các đơn vị có đầy đủ thông tin về hoạt
động xuất khẩu của tất cả loại hình doanh nghiệp, các ngành hàng xuất khẩu,
tình hình xuất khẩu của cả nước.
Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI) là đơn vị chịu trách
nhiệm hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội giao thương. Đơn vị này
cũng tiếp xúc với khối lượng thông tin lớn của doanh nghiệp xuất khẩu thong
qua việc cấp các giấy tờ liên quan cho doanh nghiệp như chứng nhận nguồn
gốc xuất xứ (VCCI)
Một số đơn vị khác như Bộ Kế họach & Đầu tư, các Đại sứ quan Việt Nam ở
nước ngũai
1.4.2. Chính sách tín dụng của NHTM
1.4.2.1. Ngân hàng huy động được nguồn vốn đầu vào
24
Nguồn vốn của các NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dõn tạm thời
nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phõn phối, tiêu dùng mà khách hàng gửi vào
Ngõn hàng. Ngõn hàng đã thưc hiện vai trò tập trung và phõn phối vốn làm
tăng nhanh quỏ trình luõn chuyển vốn trong nền kinh tế, phục vụ và kích thích
mọi hoạt động kinh tế phát triển đồng thời chớnh các hoạt động đó lại quyết định
đến sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của ngõn hàng. Đối với NHTM

vốn là đối tượng kinh doanh chủ yếu, vốn là cơ sở để ngõn hàng tổ chức mọi
hoạt động kinh doanh. Khả năng về vốn là cơ sở để ngân hàng mở rộng khối
lượng tín dụng và có thể quyết định cả mức lãi suất cho vay. Nếu đó có tiềm lực
về vốn ngân hàng có thể giảm mức lãi suất cho vay từ đó tạo cho ngân hàng ưu thế
trong cạnh tranh.
Các phương thức huy động vốn của NHTM bao gồm:
Vốn tự có: là giá trị thực có của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ và một
số tài sản nợ khác của ngõn hàng theo quy định của NHNN. Vốn tự có
chiếm tỷ trọng rất nhỏ nhưng có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động
của NHTM.
Huy động tiền gửi từ dân cư và các tổ chức kinh tế bằng hình thức tiền gửi
không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn (Tiền gửi tiết kiệm)
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất
cứ lúc nào. Khách hàng có thể yêu cầu ngân hàng trích tiền trên tài khoản để
chuyển trả cho người thụ hưởng, hoặc chuyển số tiền được hưởng vào tài
khoản này. Đối với tài khoản tiền gửi này, mục đích chính của người gửi tiền
là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các khoản thanh toán qua
ngân hàng, do vậy, nú cũn được gọi là tiền gửi thanh toán. Tiền gửi không kỳ
hạn có chi phí thấp, tuy nhiên ngoài chi phí lói, cũn cú chi phí phát sinh trong
hoạt động phục vụ thanh toán. Để tăng nguồn tiền gửi không kỳ hạn, ngân
hàng phải đa dạng hóa và phục vụ tốt các dịch vụ trung gian, huy động nhiều
khách hàng là các doanh nghiệp lớn sẽ làm cho mức dư tiền gửi bình quân tại
các ngân hàng luôn cao và ổn định, tạo điều kiện cho ngân hàng có thể sử dụng
25

×