Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

KIẾN THỨC, THỰC HÀNH và yếu tố LIấN QUAN đến TIÊM AN TOÀN của điều DƯỠNG VIÊN TRUNG tâm y tế QUẬN NAM – bắc từ LIÊM hà nội năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.36 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

DUY THỊ THANH HUYỀN

KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VÀ YẾU TỐ LIÊN QUAN
ĐẾN TIÊM AN TOÀN CỦA ĐIỀU DƯỠNG VIÊN TRUNG
TÂM Y TẾ QUẬN NAM – BẮC TỪ LIÊM HÀ NỘI
NĂM 2018
Chuyên ngành: Quản lý Bệnh viện
Mã số: 60720701

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ BỆNH VIỆN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Trần Như Nguyên

HÀ NỘI – 2019


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Quản
lý bệnh viện, ngoài những nỗ lực, cố gắng của bản thân, tôi luôn nhận được
sự giúp đỡ động viên của các thầy cô, Ban giám đốc TTYT quận Nam Từ
Liêm nơi công tác, bạn bè đồng nghiệp và người thân trong gia đình.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới:
Ban giám hiệu nhà trường, các thầy cô giáo, các bộ môn và phòng sau
đại học Trường Đại học Y Hà Nội - Viên Đào tạo Y học dự phòng và Y tế
công cộng đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời


gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
PGS.TS. Trần Như Nguyên, người thầy nhiệt tình, trách nhiệm đã tận
tình chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Ban giám đốc Trung tâm Y tế quận Nam – Bắc Từ Liêm, các anh/chị em
đồng nghiệp của các khoa, phòng khám đa khoa và 23 trạm y tế là nơi tôi
công tác và thực hiện đề tài nghiên cứu, đã tạo điều kiện giúp đỡ cung cấp
thông tin cần thiết để tôi thực hiện được nghiên cứu.
Các bạn lớp cao học Quản lý bệnh viện khóa 26 đã chia sẻ kinh nghiệm,
trao đổi kiến thức, giúp đỡ nhau trong quá trình học tập.
Cuối cùng tôi gửi lời cảm ơn đến tất cả mọi người trong gia đình đặc biệt
là chồng và các con yêu quí là nguồn động viên, khích lệ để tôi hoàn thành
được luận văn này.
Trân trọng cảm ơn!

HỌC VIÊN

Duy Thị Thanh Huyền


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là: Duy Thị Thanh Huyền, học viên cao học khóa 26 Viện Đào
tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng - Trường Đại học Y Hà Nội, chuyên
ngành Quản lý bệnh viện, xin cam đoan như sau:
1. Đây là luận văn do tôi trực tiếp thực hiện, dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS. Trần Như Nguyên.
2. Đề tài nghiên cứu này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác
đã được công bố tại Việt nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,
trung thực, khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của đơn vị nơi
nghiên cứu.

Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về lời cam kết trên.

Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2019
NGƯỜI VIẾT BẢN CAM ĐOAN

Duy Thị Thanh Huyền


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BKT
CDC
ĐDV
ĐTV
HBV
HCV
HIV
KSNK
KT
NB
NVYT
PPE
SK
SKT
TAT
TTYT
UNDP
USAID
VSN
VST
WHO


Bơm kim tiêm
Centerfor Diseasesprevention and Control
Trung tâm Phòng ngừa và kiểm soát bệnh Hoa Kỳ
Điều dưỡng viên
Điều tra viên
Hepatitis B Virus
Virus viêm gan B
Hepatitis C Virus
Virus viêm gan C
Human Immunodeficiency Virus
Virus gây suy giảm miễn dịch ở người
Kiểm soát nhiễm khuẩn
Kim tiêm
Người bệnh
Nhân viên y tế
Personal protective equipment
Phương tiện phòng hộ cá nhân
Sát khuẩn
Sát khuẩn tay
Tiêm an toàn
Trung tâm y tế
United Nation Development Program
Chương trình phát triển liên Hiệp Quốc
United Agency for Internation Development
Cơ quan phát triển Quốc tế Hoa Kỳ
Vật sắc nhọn
Vệ sinh tay
World Health Organization
Tổ chức Y tế Thế giới


MỤC LỤC


ĐẶT VẤN ĐỀ..................................................................................................1
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU................................................................3
1.1. Tổng quan chung về tiêm an toàn
3
1.2. Kiến thức và thực hành về tiêm an toàn
9
1.3. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành tiêm an toàn
14
1.4. Một số thông tin về địa bàn nghiên cứu
19
Chương 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...................23
2.1.Địa điểm và thời gian nghiên cứu
23
2.2. Đối tượng nghiên cứu: 25
2.3. Phương pháp nghiên cứu25
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu.......................................................................25
2.3.2. Mẫu nghiên cứu.............................................................................25
2.3.3. Các biến số, chỉ số, phương pháp và công cụ thu thập số liệu......26
2.3.4. Kỹ thuật và phương pháp thu thập thông tin................................33
2.3.5. Sai số và khống chế sai số.............................................................35
2.3.6. Quản lý và phân tích số liệu..........................................................36
2.3.7. Đạo đức trong nghiên cứu.............................................................36
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU............................................................37
3.1. Kiến thức, thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng viên 37
3.2. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành TAT của ĐDV
49

Chương 4 BÀN LUẬN...................................................................................52
4.1. Kiến thức và thực hành TAT của ĐDV
52
4.2. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành TAT của ĐDV
58
KẾT LUẬN....................................................................................................60
KHUYẾN NGHỊ............................................................................................61
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1:
Bảng 3.2.
Bảng 3.3.
Bảng 3.4.
Bảng 3.5.
Bảng 3.6.
Bảng 3.7.
Bảng 3.8.
Bảng 3.9.
Bảng 3.10.
Bảng 3.11.
Bảng 3.12.
Bảng 3.13.
Bảng 3.14.
Bảng 3.15.
Bảng 3.16.

Một số đặc điểm thông tin của điều dưỡng viên

37
Kết quả đánh giá đạt kiến thức TAT của ĐDV
38
Kiến thức chung về tiêm an toàn của điều dưỡng viên
Kiến thức chuẩn bị người bệnh của điều dưỡng viên
Kiến thức chuẩn bị dụng cụ của điều dưỡng viên 41
Kiến thức chuẩn bị thuốc tiêm của điều dưỡng viên
Kiến thức về kỹ thuật tiêm thuốc của ĐDV 43
Kiến thức xử lý chất thải sau tiêm của điều dưỡng viên
Kết quả đánh giá đạt thực hành TAT của ĐDV
45
Thực hành chuẩn bị người bệnh của ĐDV 45
Thực hành chuẩn bị dụng cụ tiêm của ĐDV 46
Thực hành lấy thuốc và kỹ thuật tiêm thuốc của ĐDV
Thực hành xử lý chất thải sau tiêm của ĐDV
48
Liên quan giữa yếu tố cá nhân với kiến thức của ĐDV
Liên quan giữa yếu tố cá nhân với thực hành của ĐDV
Liên quan giữa kiến thức và thực hành TAT của ĐDV

39
40
42
44

47
49
50
51



DANH MỤC

Biểu đồ 3.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi

37

Biểu đồ 3.2. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo trình độ chuyên môn 38
Biểu đồ 3.3. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo thâm niên công tác

38


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiêm là một trong các biện pháp để đưa thuốc, chất dinh dưỡng vào cơ
thể nhằm mục đích chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh. Đối với điều trị, tiêm
có vai trò đặc biệt quan trọng trong trường hợp cấp cứu người bệnh nặng. Đối
với công tác phòng bệnh, chương trình tiêm chủng mở rộng đã tác động và có
hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ mắc, tử vong đối với 6 bệnh truyền nhiễm ở trẻ
em có thể phòng bệnh bằng vắc xin [1].
Theo báo cáo của WHO, mỗi năm có khoảng 16 tỷ mũi tiêm, trong đó
90% -95% mũi tiêm nhằm mục đích điều trị, chỉ 5%-10% mũi tiêm dành cho
dự phòng. Bất cứ một kỹ thuật đâm xuyên da nào, bao gồm cả tiêm đều có
nguy cơ lây truyền tác nhân gây bệnh qua đường máu như vi rút viêm gan
hoặc HIV làm nguy hại đến cuộc sống của con người. Ước tính tình trạng
bệnh do tiêm không an toàn gây ra mỗi năm hàng triệu trường hợp viêm gan
B, viêm gan C và 260.000 trường hợp nhiễm HIV [1]. Có thể thấy rằng tiêm
là một kỹ thuật có vai trò rất quan trọng trong công tác khám chữa bệnh tại

các cơ sở y tế, vì thế tiêm không đúng kỹ thuật có thể gây ra những nguy cơ
có hại đối với cơ thể con người nói chung và người bệnh nói riêng, đối với
NVYT và cộng đồng.
Tại Việt Nam từ những năm 2001, 2002, 2005 và 2008 Bộ Y tế phối hợp
với Hội Điều dưỡng Việt Nam phát động phong trào tiêm an toàn trong toàn
quốc, đồng thời tiến hành những khảo sát thực trạng về tiêm an toàn. Kết quả
nghiên cứu cho thấy 55% nhân viên y tế chưa được cập nhật thông tin về tiêm
an toàn, lạm dụng thuốc tiêm cao chiếm 71,5%, chưa tuân thủ quy trình kỹ
thuật và các thao tác KSNK trong thực hành tiêm như: Vệ sinh tay, lạm
dụnggăng tay, sử dụng panh chưa hợp lý, dùng tay đậy nắp kim tiêm, phân
loại và thu gom chất thải y tế sai quy định [3], [4], [7]. Năm 2012, Bộ Y tế đã


2

ban hành Hướng dẫn Tiêm an toàn tại Quyết định 3671/QĐ-BYT ngày 27
tháng 9 năm 2012 nhằm cung cấp kiến thức và kỹ năng trong thực hành tiêm
an toàn, triển khai áp dụng thực hiện thống nhất trong tất cả các cơ sở khám
chữa bệnh, cơ sở đào tạo cán bộ y tế, các cá nhân liên quan [10], [13].
Tại Trung tâm Y tế quận Nam - Bắc Từ Liêm, Hà Nội từ trước tới nay
chưa tìm thấy có nghiên cứu nào đầy đủ và hệ thống về tiêm an toàn. Là cơ sở
y tế tuyến đầu trực thuộc Sở Y tế Hà Nội, đơn vị đã triển khai thực hiện nội
dung Hướng dẫn tiêm an toàn đến toàn bộ điều dưỡng viên. Trên thực tế, kiến
thức và thực hành tiêmgiữa các điều dưỡng viên chưa đồng đều, hiểu biết về
tiêm an toàn còn hạn chế, chưa tuân thủ đầy đủ quy trình tiêm. Đặc biệt hiện
nay tiêm an toàn vẫn là vấn đề liên quan đến sức khỏe con người cần được ưu
tiên, những yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng tiêm an toàn tại đơn vị chưa có
nghiên cứu cụ thể. Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành đề tài: “Kiến
thức, thực hành và yếu tố liên quan đến tiêm an toàn của điều dưỡng viên
Trung tâm Y tế quận Nam – Bắc Từ Liêm Hà Nội năm 2018” với 2 mục tiêu

sau:
1. Mô tả kiến thức và thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng viên Trung
tâm Y tế quận Nam-Bắc Từ Liêm Hà Nội năm 2018.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành tiêm an toàn
của điều dưỡng viên Trung tâm Y tế quận Nam - Bắc Từ Liêm Hà Nội năm
2018.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan chung về tiêm an toàn
1.1.1. Các khái niệm, định nghĩa sử dụng trong nghiên cứu
1.1.1.1. Các khái niệm
Mũi tiêm an toàn trong nghiên cứu
Mũi tiêm an toàn trong nghiên cứu là mũi tiêm đạt đủ 17 tiêu chí thực
hành trong bảng kiểm đánh giá thực hành TAT [1].
Mũi tiêm không an toàn trong nghiên cứu
Mũi tiêm không an toàn trong nghiên cứu là mũi tiêm có từ một tiêu chí
thực hành không đạt trở lên bao gồm: Sử dụng BKT không vô khuẩn, tiêm
thuốc không đúng chỉ định, thực hiện không đầy đủ các tiêu chí trong bảng
kiểm, phân loại chất thải sau tiêm sai quy định, đặc biệt chất thải sắc nhọn
không được phân loại và cô lập ngay theo quy định Quản lý chất thải y tế của
Bộ Y tế[1].
Đậy nắp kim tiêm
Kỹ thuật đậy nắp kim một tay: Nhân viên y tế cầm bơm kim tiêm bằng
một tay và đưa đầu nhọn của kim vào phần nắp đặt trên một mặt phẳng sau đó
dùng hai tay đậy (hình 1) [1].


Đậy nắp kim không dùng hai bàn tay
Kỹ thuật vô khuẩn
Là các kỹ thuật không làm phát sinh sự lan truyền của vi khuẩn trong


4

quá trình thực hiện như: Vệ sinh bàn tay, mang trang phục phòng hộ cá nhân,
sử dụng chất khử khuẩn da, cách mở các bao gói vô khuẩn, cách sử dụng
dụng cụ vô khuẩn [1].
Phơi nhiễm nghề nghiệp
Phơi nhiễm nghề nghiệp là sự tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết, chất
bài tiết (trừ mồ hôi) có chứa tác nhân gây bệnh trong khi nhân viên y tế thực
hiện nhiệm vụ dẫn đến nguy cơ lây nhiễm bệnh [1].
Phương tiện phòng hộ cá nhân
PPE bao gồm găng tay, khẩu trang, áo khoác phòng thí nghiệm, áo
choàng, tạp dề, bao giày, kính bảo hộ, kính có tấm chắn bên, mặt nạ. Mục
đích sử dụng PPE là để bảo vệ NVYT, người bệnh, người nhà người bệnh và
người thăm bệnh khỏi bị nguy cơ phơi nhiễm và hạn chế phát tán mầm bệnh
ra môi trường bên ngoài. WHO không khuyến cáo sử dụng khẩu trang, găng
tay, kính bảo vệ mắt, quần áo bảo vệ trong thực hiện tiêm. Các PPE này chỉ sử
dụng trong trường hợp người tiêm có nguy cơ phơi nhiễm với máu, dịch tiết,
chất tiết (trừ mồ hôi) [1].
Vệ sinh tay
Là bất cứ hình thức nào làm sạch tay gồm: Rửa tay bằng xà phòng và
nước hoặc sát khuẩn tay với dung dịch chứa cồn [1].
Tác nhân gây bệnh đường máu
Các vi sinh vật có độc lực (có khả năng gây bệnh) lây truyền do phơi
nhiễm với máu, sản phẩm máu và gây bệnh trên người. Các tác nhân gây bệnh
đường máu thường gặp bao gồm HBV, HCV, HIV và một số loại vi khuẩn

khác [1].
Tiêm
Kỹ thuật đưa thuốc, dịch hoặc chất dinh dưỡng và một số chất khác (Iốt,
đồng vị phóng xạ, chất màu) qua da vào trong cơ thể để phục vụ chẩn đoán và
điều trị. Có nhiều loại đường tiêm và được phân loại theo vị trí tiêm (ví dụ tiêm
trong da, dưới da, bắp, tĩnh mạch, trong xương, động mạch, màng bụng) [1].
Tiêm bắp


5

Đưa mũi tiêm vào phần thân của cơ bắp với góc kim từ 60 0-900 so với
mặt da (không ngập hết phần thân kim tiêm) thường chọn các vị trí sau:
- Cánh tay: 1/3 trên mặt trước ngoài cánh tay.
- Vùng đùi: 1/3 giữa mặt trước ngoài đùi.
- Vùng mông: 1/4 trên ngoài mông hoặc 1/3 trên ngoài của đường nối từ
gai chậu trước trên với mỏm xương cụt [1].
Tiêm dưới da
Là kỹ thuật tiêm sử dụng bơm kim để tiêm thuốc vào mô liên kết dưới da
của người bệnh, kim chếch 300-450 so với mặt da. Vị trí tiêm thường 1/3 giữa
mặt trước ngoài cánh tay (đường nối từ mỏm vai đến mỏm khuỷu chia làm 3
phần) hay 1/3 giữa mặt trước ngoài đùi (đường nối từ gai chậu trước trên đến bờ
ngoài xương bánh chè) hoặc dưới da bụng (xung quanh rốn cách rốn 5 cm) [1].
Tiêm truyền tĩnh mạch
Là kỹ thuật dùng kim đưa thuốc dịch vào tĩnh mạch với góc tiêm 300 so
với mặt da. Khi tiêm chọn tĩnh mạch nổi rõ mềm mại không di động da vùng
tiêm nguyên vẹn [1].
Tiêm trong da
Mũi tiêm nông giữa lớp thượng bì và hạ bì đâm kim chếch với mặt da
100-150, tiêm xong tạo thành một cục sẩn như da cam trên mặt da. Thường

chọn vùng da mỏng, ít va chạm, trắng, không sẹo, không có lông, vị trí 1/3
trên mặt trước trong cẳng tay, đường nối từ nếp gấp cổ tay đến nếp gấp khuỷu
tay (thông dụng nhất), 1/3 trên mặt ngoài cánh tay (đường nối từ mỏm vai đến
mỏm khuỷu), bả vai, cơ ngực lớn [1].
Tổn thương do kim tiêm
Vết thương do kim tiêm đâm [1].
Thùng đựng chất thải sắc nhọn
Còn gọi là “hộp đựng vật sắc nhọn”, “hộp kháng thủng” hay “hộp an
toàn”. Thùng đựng chất thải sắc nhọn được sản xuất bằng chất liệu cứng,
chống thủng, chống rò rỉ được thiết kế để chứa vật sắc nhọn một cách an toàn
trong quá trình thu gom, hủy bỏ và tiêu hủy [1].
Vật sắc nhọn
Bất cứ vật nào có thể gây tổn thương xâm lấn da hoặc qua da; Vật sắc


6

nhọn bao gồm kim tiêm, đầu kim truyền dịch, dao mổ, thủy tinh vỡ, ống mao
dẫn bị vỡ và đầu dây nẹp nha khoa bị phơi nhiễm [1].
1.1.1.2. Định nghĩa tiêm an toàn
Tiêm an toàn là quy trình tiêm không gây nguy hại cho người nhận mũi
tiêm, không gây phơi nhiễm cho người thực hiện mũi tiêm và không tạo chất
thải nguy hại cho người khác và cộng đồng [1].
1.1.2. Tình hình tiêm an toàn
Trên thế giới
Trên thế giới, tiêm được ứng dụng trong điều trị từ những năm 1920 và
thịnh hành từ chiến tranh thế giới thứ II sau khi Penicilline được phát minh và
đưa vào sử dụng rộng rãi. WHO ước tính hằng năm tại các nước đang phát
triển có khoảng 16 tỷ mũi tiêm, trong đó 95% mũi tiêm với mục đích điều trị,
3% mũi tiêm là tiêm chủng, 1% mũi tiêm với mục đích kế hoạch hóa gia đình,

1% mũi tiêm được sử dụng trong truyền máu và các sản phẩm của máu [1].
Thực tế đã cho thấy tiêm là một thủ thuật phổ biến có vai trò rất quan
trọng trong các lĩnh vực phòng bệnh và chữa bệnh. Tuy nhiên, tiêm cũng gây
ra hậu quả nghiêm trọng cho cả người nhận mũi tiêm, người thực hiện tiêm và
cộng đồng nếu như không có những giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện mũi
tiêm an toàn [1]. Theo nghiên cứu “Gánh nặng toàn cầu của bệnh do tiêm bị ô
nhiễm được đưa ra trong các thiết lập chăm sóc sức khỏe” của Hauri và cộng
sự cho thấy trung bình hàng năm mỗi người nhận 3,4 mũi tiêm, 39,3% sử dụng
bơm tiêm dùng lại. Trong năm 2000, nhiễm khuẩn do tiêm gây ra ước tính
khoảng 21 triệu ca nhiễm HBV, 2 triệu ca nhiễm HCV và 260.000 ca nhiễm
HIV tương ứng chiếm tỷ lệ 32%, 40% và 5%, các bệnh nhiễm trùng mới này
cho một gánh nặng 9.177.679 DAILYs giữa năm 2000 đến năm 2030 [26].
Mặc dù, những hậu quả do tiêm không an toàn gây ra rất nghiêm trọng.
Tuy nhiên theo Trung tâm kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ và WHO, có tới 80%
tổn thương do kim tiêm có thể phòng ngừa được bằng các biện pháp hết sức


7

đơn giản như sử dụng trang thiết bị tiêm vô khuẩn và thực hiện đúng quy trình
tiêm. Sự mất an toàn trong tiêm có thể được giảm nhẹ đi rất nhiều khi ta hiểu
rõ những hình thức tiêm không an toàn, nguyên nhân của các hiện tượng đó
và các biện pháp kiểm soát chúng. Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm
soát nhiễm khuẩn (KSNK) và an toàn trong tiêm, những khó khăn của các
nước thành viên và trách nhiệm của mình trước sự an toàn trong chăm sóc y
tế, WHO đã thành lập Mạng lưới TAT Toàn cầu (SIGN) vào năm 1999. Mục
đích của SIGN là giảm tần số tiêm và thực hiện TAT, cải thiện chính sách, quy
trình kỹ thuật tiêm, thay đổi hành vi của người sử dụng và người cung cấp
dịch vụ tiêm. Có 5 nội dung chính trong chính sách TAT: Áp dụng hợp lý các
biện pháp điều trị tiêm; Ngăn ngừa việc sử dụng lại bơm tiêm và kim tiêm;

Hủy bơm tiêm và kim tiêm đã qua sử dụng ngay tại nơi sử dụng; Phân loại
chất thải ngay tại nơi phát sinh chất thải; Xử lý an toàn và tiêu hủy dụng cụ
tiêm đã qua sử dụng. Các tổ chức trên cũng đã xây dựng Chiến lược toàn cầu
vì mũi TAT bao gồm: (1) Thay đổi hành vi của cán bộ y tế, NB và cộng đồng;
(2) Đảm bảo có sẵn vật tư, trang thiết bị; (3) Quản lý chất thải an toàn và
thích hợp. Các biện pháp KSNK do tiêm không an toàn được chia thành 5
nhóm chính: (1) Loại bỏ nguy cơ; (2) Biện pháp kỹ thuật; (3) Biện pháp kiểm
soát hành chính; (4) Biện pháp kiểm soát tập quán làm việc; (5) Dụng cụ bảo
hộ cá nhân [2].
Từ đó đến nay, SIGN đã xây dựng và ban hành chiến lược an toàn trong
tiêm trên toàn thế giới và nhiều tài liệu hướng dẫn liên quan đến tiêm. Với
chính sách của SIGN đã tạo ra một sự thay đổi lớn trong nhận thức, hành vi
của NB và cộng đồng, đặc biệt với chiến dịch hỗ trợ về truyền thông, kỹ thuật
và thiết bị cho các nước chậm phát triển đã dần nâng cao tỷ lệ TAT và góp
phần giảm thiểu các nguy cơ và gánh nặng của tiêm không an toàn tại mỗi
quốc gia và trên toàn thế giới.


8

Tại Việt Nam
Thực hiện khuyến cáo và được sự hỗ trợ kỹ thuật của WHO, năm 2010
Bộ trưởng Bộ Y tế Việt Nam ra Quyết định số 2642/QĐ-BYT ngày 21 tháng 7
năm 2011 thành lập Ban soạn thảo các tài liệu hướng dẫn KSNK, trong đó có
Hướng dẫn TAT. Ban soạn thảo tài liệu gồm các thành viên có kinh nghiệm
lâm sàng, giảng dạy và quản lý liên quan đến tiêm như ĐDV, Bác sĩ, Dược sĩ,
Chuyên gia KSNK, Chuyên gia quản lý khám, chữa bệnh và đại diện Hội
Điều dưỡng Việt Nam. Tài liệu được biên soạn trên cơ sở tham khảo chương
trình, tài liệu đào tạo TAT do Cục Quản lý khám, chữa bệnh phối hợp với Hội
Điều dưỡng Việt Nam xây dựng và áp dụng thí điểm tại 15 BV trong toàn

quốc trong hai năm 2009 - 2010; Tham khảo các kết quả khảo sát thực trạng
TAT của Hội Điều dưỡng Việt Nam các năm 2005, 2008, 2009; Tham khảo
kết quả rà soát các tài liệu về tiêm, vệ sinh tay, quản lý chất thải y tế và
KSNK Việt Nam và các tổ chức WHO, CDC, UNDP, tài liệu hướng dẫn TAT
của một số Bộ Y tế các nước, các trường đào tạo điều dưỡng, y khoa, các tạp
chí an toàn cho NB và KSNK của khu vực và của toàn thế giới [1], [17].
Ngày 27 tháng 9 năm 2012 Bộ Y tế đã ban hành Hướng dẫn TAT với
nhiều nội dung cập nhật so với quy trình tiêm hiện đang được thực hiện và
yêu cầu: (i) Các cơ sở KBCB sử dụng tài liệu này để tập huấn, hướng dẫn,
kiểm tra, giám sát việc cung ứng phương tiện tiêm, thuốc tiêm và thực hành
TAT tại đơn vị mình: (ii) Các cơ sở đào tạo điều dưỡng, các trường đại học,
cao đẳng và trung học y tế sử dụng tài liệu này để cập nhật chương trình, tài
liệu đào tạo; (iii) Các cá nhân liên quan đến thực hành tiêm, cung ứng phương
tiện và thuốc tiêm, các nhân viên thu gom chất thải y tế sử dụng tài liệu này
trong thực hành, kiểm tra, giám sát nội dung tiêm, truyền tĩnh mạch ngoại vi [1].
Ngày 02 tháng 8 năm 2013, Cục Quản lý khám, chữa bệnh, Bộ Y tế cũng
đã có Công văn số 671/KCB-ĐDV yêu cầu các đơn vị trực thuộc trong toàn


9

quốc tổ chức, thực hiện nghiêm túc Hướng dẫn TAT. Sở Y tế Hà Nội là cơ
quan chuyên môn thuộc UBND thành phố Hà Nội, chịu sự chỉ đạo, hướng
dẫn, thanh tra, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Y tế. Thực hiện chỉ
đạo của Bộ Y tế, Sở Y tế Hà Nội đã có Công văn số 2369 ngày 19 tháng 8
năm 2013 yêu cầu các Bệnh viện trực thuộc triển khai thực hiện Hướng dẫn
TAT [17].
Từ khi triển khai chương trình tiêm an toàn trên toàn quốc, đã có một số
nghiên cứu, khảo sát về tiêm an toàn được tiến hành.
1.2. Kiến thức và thực hành về tiêm an toàn

1.2.1. Trên thế giới
Nghiên cứu so sánh kiến thức, thái độ thực hành tiêm an toàn của điều
dưỡng được tiến hành tại Bệnh viên Đại học y và Bệnh viện Sản ở Ibadan của
Adejumo và Dada trên tổng số 385 ĐDV cho thấy 100% ĐDV đã nghe nói
về TAT, mức độ kiến thức được đánh giá là cao và không có sự khác biệt
đáng kể giữa hai BV, 70,4% biết được tiêm không an toàn có nguy cơ lây
nhiễm bệnh qua đường máu, 55,9% cho rằng dùng hai tay đậy nắp kim tiêm
không phải là thực hành TAT đúng, 76,1% cho rằng BKT sau sử dụng phải
được bỏ vào thùng đựng chất thải sắc nhọn [30].
Báo cáo đánh giá thực hiện TAT và quản lý chất thải do tiêm tại 71 cơ sở
y tế của 4 huyện trực thuộc Ethiopia của tổ chức USAID năm 2009 cho thấy
sau năm triển khai Chương trình can thiệp, thực hành tiêm của cán bộ y tế
được cải thiện đáng kể: 80% vệ sinh tay trước khi tiêm; 78% thực hiện phân
loại BKT ngay sau tiêm trong khi đó tỷ lệ này vào năm 2004 chỉ đạt lần lượt
là 4% và 8% [28].
Nghiên cứu cắt ngang trên 80 ĐDV tại BV miền Tây Ấn Độ năm 2009
cho thấy, chỉ có 12,5% rửa tay bằng xà phòng và nước trước khi thực hành
tiêm có 42,5% dùng hai tay đậy lại nắp kim tiêm sau tiêm [27].


10

1.2.2. Tại Việt Nam
Phạm Đức Mục (2005), đã tiến hành nghiên cứu mô tả cắt ngang 529
Điều dưỡng – hộ sinh đang công tác tại các khoa lâm sàng trong một số cơ sở
y tế tại 8 tỉnh trong thời gian từ 15/6/2005 đến 15/7/2005 nhằm “Đánh giá
kiến thức TAT và tần xuất rủi ro do vật sắc nhọn đối với điều dưỡng, hộ sinh
tại 8 tỉnh đại diện, 6 tháng đầu năm 2005” bằng bộ câu hỏi phát vấn gồm 11
câu hỏi về kiến thức và nguyên nhân tiêm không an toàn, kết quả 95,3% ĐDV
trả lời đúng TAT có thể lây truyền HIV, 97,4% trả lời đúng có thể lây truyền

viêm gan B và 74,4% trả lời đúng có thể lây truyền HCV [21]. Tuy nhiên bộ
công cụ phát vấn này chưa đi sâu vào kiến thức thực hành TAT và những nội
dung cập nhật về kiến thức TAT.
Phan Cảnh Chương (2010), tiến hành nghiên cứu mô tả cắt ngang “Khảo
sát thực trạng TAT tại BV Trung ương Huế” bằng phương pháp quan sát 1000
mũi tiêm cho thấy các tiêu chí sử dụng dụng cụ tiêm thích hợp, an toàn được
thực hiện rất tốt, 100% các mũi tiêm sử dụng bơm tiêm vô khuẩn dùng 1 lần,
bông SK được hấp tiệt khuẩn 95,2%, dung dịch SK tay nhanh có sẵn trên xe
tiêm đạt 98,1%, hộp kháng thủng gần nơi tiêm đạt 97,5%. Tuy nhiên thực
hành tiêm còn một số vấn đề tồn tại: 37,7% ĐDV không rửa tay trước khi
chuẩn bị dụng cụ, 29,0% khi rút thuốc tiêm chạm tay vào vùng vô khuẩn,
48,6% ĐDV SK da vùng tiêm không đúng quy định, 34,5% không giao tiếp,
quan sát người bệnh trong và sau khi tiêm, 61,7% ĐDV dùng hai tay đậy nắp
kim tiêm, 64,3% ĐDV dùng tay để tháo kim sau khi tiêm, 74,5% ĐDV không
mang găng tay khi tiêm truyền tĩnh mạch. Nghiên cứu chưa tìm được mối liên
quan đến thực hành tiêm an toàn của ĐDV tại bệnh viện [7].
Đào Thành (2010), tiến hành nghiên cứu đánh giá tại 13 BV đại diện
toàn quốc, khảo sát nhận thức của 830 ĐDV qua bộ công cụ gồm 32 câu hỏi
để đánh giá nhận thức, kiến thức và thái độ về TAT, kết quả cho thấy tỷ lệ có


11

kiến thức về chuẩn bị trước tiêm đạt trên 82%, riêng kiến thức về tiêu chuẩn
của hộp kháng thủng chỉ đạt 54,6%, kiến thức về quy trình tiêm đạt 65,3%, vệ
sinh tay sau khi tiêm 50,5%, phòng ngừa và xử lý tai nạn do vật sắc nhọn còn
rất hạn chế, chỉ có 30,9% có kiến thức đạt. Về thực trạng thực hiện quy trình
tiêm cho thấy: điểm trung bình đạt 2,33/3, có 24,7% các mũi tiêm được thực
hiện rất tốt, còn lại đều chưa đạt ở mức độ khác nhau, thậm chí có 14% các
mũi tiêm không đạt theo quy định về vô khuẩn. Có 44,9% mũi tiêm không có

hộp chống sốc, 2,8% không có hộp đựng VSN, 70,7% không rửa tay đúng kỹ
thuật. 63,1% không thực hiện tốt SK đầu ống thuốc, 24% SK vùng tiêm
không bảo đảm đúng quy định [7]. Nghiên cứu này đánh giá rất chi tiết, cụ thể
về thực hành TAT của ĐDV và đưa ra một số khuyến nghị. Tuy nhiên nhóm
nghiên cứu chưa có tổng hợp đánh giá tỷ lệ mũi tiêm đạt tiêu chuẩn TAT và
chưa tìm hiểu mối liên quan với việc thực hành mũi tiêm đó của ĐDV.
Tô Thị Minh Châm (2010), nghiên cứu mô tả cắt ngang nhằm đánh giá
thực trạng các mũi TAT qua quan sát ngẫu nhiên thực hành tiêm của 22 ĐDV
các khoa lâm sàng, mỗi ĐDV quan sát 2 mũi tiêm bằng bảng kiểm gồm 20
tiêu chí. Kết quả nghiên cứu cho thấy 100% các mũi tiêm chuẩn bị đầy đủ các
dụng cụ, phương tiện như bơm tiêm trong bao gói và có hạn dùng, có hộp
chống sốc đủ cơ số trên xe tiêm, 99,55% không dùng tay để đậynắp và tháo
kim sau khi tiêm, 97,7% đi găng khi tiêm tĩnh mạch. 100% thực hiện tốt “5
đúng” và đúng các kỹ thuật tiêm, 87,5% vệ sinh tay trước khi tiêm, chỉ có
54,5% SK nắp lọ thuốc và đầu ống thuốc khi lấy thuốc. 100% bỏ ngay BKT
vào hộp đựng CTSN ngay sau khi tiêm, chỉ có 1,1% phân loại rác thải sai. Tỷ
lệ mũi TAT trong nghiên cứu là 35,3% [9].
Đoàn Hoàng Yến (2011), nghiên cứu “Khảo sát thực trạng tiêm an toàn
tại Bệnh viện Tim Hà Nội” với phương pháp mô tả cắt ngang. Nghiên cứu
tiến hành quan sát 378 mũi tiêm tại 3 khoa lâm sàng vào các thời điểm khác


12

nhau trong ngày và đánh giá theo 4 nhóm tiêu chí: Sử dụng dụng cụ thích
hợp, an toàn – không gây hại cho người được tiêm, không gây nguy cơ phơi
nhiễm cho người thực hiện tiêm, không thải chất thải nguy hại cho người
khác. Kết quả: Trung bình mỗi ngày có khoảng 136 mũi tiêm được thực hiện
tại BV; Mỗi ĐDV thực hiện khoảng 3 mũi tiêm/ngày; Các dụng cụ, phương
tiện thực hành TAT đã được chuẩn bị đầy đủ; 100% ĐDV thực hiện đúng kỹ

thuật tiêm; Tỷ lệ sát khuẩn vị trí tiêm đúng quy định là 97,8%; Cô lập ngay
vật sắc nhọn sau khi tiêm 98,4%. Tuy nhiên, còn một số thực hành của NVYT
chưa tốt như tỷ lệ kiểm tra sự nguyên vẹn của bơm tiêm còn thấp 27,5%; SK
đầu ống thuốc, lọ thuốc 13,4%. Nghiên cứu chưa đưa ra được tỷ lệ mũi tiêm
đạt đủ cả 4 nhóm tiêu chuẩn đề ra [11].
Trần Thị Minh Phượng (2012), nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích,
kết hợp định lượng và định tính được tiến hành tại Bệnh viện đa khoa Hà
Đông, Hà Nội cho thấy tỷ lệ mũi tiêm thực hành đúng 23 tiêu chí TAT là
22,2%. Trong đó, thực hành đúng 5 tiêu chuẩn về phương tiện, dụng cụ là
86,5%; Đúng 5 tiêu chuẩn về kỹ thuật tiêm là 66,5%; Đúng 5 tiêu chuẩn về
giao tiếp tương tác với NB là 47% và đúng 4 tiêu chuẩn về an toàn người tiêm
và cộng đồng là 77,8%; Đúng theo 4 tiêu chuẩn về vô khuẩn đạt thấp nhất
45,0% [12]. Nghiên cứu này đánh giá rất chi tiết, cụ thể các tiêu chí thực hành
TAT, tổng hợp điểm để đánh giá mũi tiêm đạt tiêu chí thực hành TAT tuy
nhiên có một số nội dung thực hành cập nhật trong Hướng dẫn TAT chưa
được đưa vào để đánh giá: Không sử dụng khẩu trang khi đi tiêm bắp, tiêm
tĩnh mạch ngoại biên; Không sử dụng cồn iod để sát khuẩn da vùng tiêm;
Không dùng panh để gắp bông sát khuẩn vùng tiêm; Không lạm dụng găng
tay khi tiêm tĩnh mạch; Bơm thuốc chậm 1ml/10 giây.
Phan Thị Thanh Thủy (2010), tiến hành “Nghiên cứu tình hình tiêm an
toàn tại Bệnh viện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2010” cho thấy kiến


13

thức Điều dưỡng viên - Nữ hộ sinh trả lời không đầy đủ các tiêu chí quan
trọng trong khi tiêm là 35 %, không biết cách phòng ngừa và xử lý vật sắc
nhọn là 40% [10].
Trần Thị Minh Phượng (2012), “Thực trạng kiến thức, thực hành tiêm an
toàn và các yếu tố liên quan tại bệnh viện đa khoa Hà Đông, Hà Nội năm

2012” cho thấy tỷ lệ ĐDV có kiến thức TAT đạt là 82,6%; Tỷ lệ đạt thấp nhất
là cách hạn chế lây truyền qua đường máu (65,1%) và cách tiêu hủy vật sắc
nhọn đúng (67,9%). Trong nghiên cứu này Trần Thị Minh Phượng đã sử dụng
phương pháp phát vấn 109 ĐDV với bộ câu hỏi gồm 21 câu được thiết kế sẵn
dựa trên mục tiêu nghiên cứu để đánh giá kiến thức TAT của ĐDV. ĐDV được
đánh giá là có kiến thức đạt khi trả lời đạt từ 80% số điểm trở lên [7]. Tuy
nhiên bộ công cụ này có một số nội dung chưa cập nhật so với Hướng dẫn
TAT và chưa đi sâu tìm hiểu kiến thức thực hành về TAT [12].
Hà Thị Kim Phượng (2014), nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích,
kết hợp định lượng và định tính về “Kiến thức, thực hành tiêm an toàn của
điều dưỡng viên lâm sàng và các yếu tố liên quan tại 3 bệnh viện trực thuộc
Sở Y tế Hà Nội năm 2014” cho thấy tỷ lệ ĐDV có kiến thức đạt về tiêm an
toàn là 64,3%, trong đó: BV Đức Giang (87,0%), Đống Đa (73,3%) và BV
Thạch Thất (20,3%) [13].
Phạm Ngọc Tâm (2014), nghiên cứu “Đánh giá thực trạng mũi tiêm an
toàn tại một số khoa nội bệnh viện quân y 103 năm 2014” cho thấy các nhân
viên y tế được đào tạo về tiêm an toàn với tỷ lệ cao (trên 90%); các hành vi
nguy cơ như sử dụng bơm kim tiêm không tiệt trùng 5,97%, không có khay
(11,97%), không có vệ sinh tay trước khi tiêm 16,04%; kỹ thuật tiêm không
đúng, và đậy nắp kim sau khi tiêm (19,49%); Găng tay không sử dụng trong
quá trình truyền tĩnh mạch với 11,96% [14].
Vũ Thị Liên (2015), nghiên cứu “Khảo sát về thực hành mũi tiêm an
toàn của Điều dưỡng viên và Hộ sinh tại Bệnh viện đa khoa khu vực Định


14

Quán năm 2015” cho thấy đa số điều dưỡng - hộ sinh nhận thức được nguyên
nhân chính và các bệnh lây truyền khi tiêm như shock phản vệ 98,89%, Virus
viêm gan B, HIV/AIDS 93,33% [16].

Đặng Thị Thanh Thủy (2016), nghiên cứu “Kiến thức, kỹ năng thực hành
và một số yếu tố liên quan của học sinh trường Trung cấp Y tế tỉnh KonTum
năm 2016” cho thấy tỷ lệ học sinh có kiến thức đạt về tiêm an toàn là 51,4%,
tỉ lệ học sinh thực hành tiêm an toàn đạt là 54,4%[17].
Quách Thị Hoa (2017), nghiên cứu về “Thực trạng kiến thức và thực
hành tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng tại Bệnh viện Nhi Trung ương
năm 2017” cho thấy 61% ĐDV đạt về kiến thức tiêm an toàn (TAT) và 39%
ĐDV đạt về thực hành TAT [18].
1.3. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành tiêm an toàn
1.3.1. Trên thế giới
Nghiên cứu của Yan Y và cộng sự được tiến hành tại Trung Quốc đã
đánh giá về kiến thức TAT có 90,3% đối tượng biết rằng tiêm không an toàn
có thể lây truyền các bệnh qua đường máu trong đó: HIV là 74,4%, viêm gan
B là 55,8%, viêm gan C là 22,9%. Phân tích hồi quy cho thấy tuổi, trình độ
học vấn và địa bàn dân cư là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kiến
thức của họ về an toàn tiêm [28].
Nghiên cứu tại Bệnh viện đại học y và Bệnh viện Sản ở Ibadan, sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê trong thực hành TAT của ĐDV 2 Bệnh viện với
t(398)= 4,32, p < 0,05. ĐDV có kiến thức cao thì thực hành TAT tốt hơn
người có kiến thức thấp t(385) = 7,31, p<0,05 [30].
1.3.2. Tại Việt Nam
Nghiên cứu cắt ngang mô tả của Nguyễn Thị Mỹ Linh, Tạ Văn Trầm và
cộng sự năm 2008 về "Khảo sát về TAT của điều dưỡng - hộ sinh tại BV Phụ
Sản Tiền Giang năm 2008" cho thấy thực hành rửa tay/ sát khuẩn tay nhanh


15

trước khi tiêm chỉ đạt < 15,9%, rút thuốc không đủ liều như sót thuốc, phụt
thuốc khi đuổi khí chiếm gần 12%, hơn 20% ĐD-HS còn lưu kim trên lọ sau

khi rút thuốc, >50% ĐD-HS không quan sát bệnh nhân (BN) khi tiêm và
>30% không tiện nghi lại cho họ sau khi tiêm. Xử lý chất thải, VSN sau khi
tiêm được ĐD-HS cô lập kim rất tốt 100% nhưng vẫn còn 1,3% ĐD-HS dùng
tay tháo lắp kim tiêm. So sánh nội dung TAT giữa kiến thức và thực hành cho
thấy thực hành rửa tay trước khi tiêm so với kiến thức của ĐD-HS chỉ đạt
16,9%. Có sự liên quan giữa thâm niên công tác của ĐD-HS với các nội dung
TAT: thâm niên công tác càng lâu (>5 năm) thì việc thực hiện rửa tay hoặc sát
khuẩn tay nhanh trước khi tiêm, không lưu kim sau khi rút thuốc trong lọ,
quan sát người bệnh khi tiêm, tư thế người bệnh sau khi tiêm càng tốt. Thâm
niên < 5 năm thì việc giao tiếp khi tiêm, thực hiện kỹ thuật sát khuẩn hoàn
chỉnh hơn [6].
Phạm Tuấn Anh (2009), nghiên cứu “Đánh giá thực trạng TAT tại Bệnh
viện Y học cổ truyền TW năm 2009” tại 7 khoa lâm sàng bằng quan sát trực
tiếp, chấm điểm theo bảng kiểm bằng phương pháp quan sát 210 mũi tiêm là
một trong số ít các nghiên cứu đã xác định có sự khác biệt tỷ lệ TAT trong các
nhóm yếu tố như tuổi, giới nhưng vẫn chưa tìm hiểu các mối liên quan đến tỷ
lệ TAT tại Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương [5].
Trần Thị Minh Phượng (2012), “Thực trạng kiến thức, thực hành tiêm an
toàn và các yếu tố liên quan tại bệnh viện đa khoa Hà Đông, Hà Nội năm
2012” cho thấy có các yếu tố liên quan đến thực hành TAT của ĐDV là nhóm
tuổi (OR=3,1; p<0,05) và thâm niên công tác (OR=2,8; p<0,05). Ngoài ra còn
một số yếu tố như thời điểm tiêm, đường tiêm, thứ tự thực hiện mũi tiêm cũng
có mối liên quan tới tỷ lệ TAT (p<0,05) [12].
Qua một số nghiên cứu đại diện trên các vùng miền khác nhau, tại các
thời điểm khác nhau, thiết kế nghiên cứu khác nhau và bộ công cụ đo lường


16

kiến thức, thực hành TAT của ĐDV khác nhau các tác giả đã đưa ra một bức

tranh về tình trạng TAT. Tỷ lệ mũi TAT chưa cao phụ thuộc vào qui mô và
thiết kế của nghiên cứu, dao động từ 2,88% - 35,3%) [8]. Xét riêng về góc độ
thực hành TAT tại các cơ sở y tế có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tiêm
không an toàn: 50,1% ĐDV sát khuẩn da nơi tiêm không đúng quy định [22];
37,7% không rửa tay, sát khuẩn tay nhanh trước khi chuẩn bị dụng cụ [8];
Thiếu trang thiết bị, dụng cụ do không được cung cấp đầy đủ hoặc do sự
chuẩn bị không đầy đủ của NVYT; Sự tuân thủ các nguyên tắc vô khuẩn kém,
điều này rất nguy hiểm vì đây chính là những nguy cơ gây nhiễm khuẩn cho
NB đặc biệt là tiêm truyền qua đường tĩnh mạch; Chưa thực hiện đúng các qui
trình kỹ thuật khi tiêm dẫn đến những nguy cơ không nhỏ cho NB và cho cả
người tiêm; Xử lý chất thải sắc nhọn sau khi tiêm không đúng cách gây nguy
cơ tai nạn thương tích cho cộng đồng. Một số nghiên cứu đã chỉ ra mức độ
thực hiện các tiêu chuẩn TAT như Nghiên cứu của Phan Cảnh Chương (2010)
đã tiến hành quan sát, đánh giá, so sánh sự khác biệt giữa các nhóm kết quả
khác nhau [8]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Như Tú (2005) Đánh giá cả phần
kiến thức và thực hành của ĐDV [4]. Tuy nhiên, do cách chọn mẫu chưa có
sự kết nối giữa kiến thức TAT và thực hành TAT của NVYT nên chỉ có thể
nhận xét riêng biệt từng cấu phần, từng chỉ số, tiêu chuẩn đánh giá. Đa số là
các nghiên cứu định lượng, chỉ dừng lại ở việc quan sát, đánh giá mức độ thực
hiện các tiêu chuẩn, và liệt kê những nguyên nhân mà chưa đi sâu tìm hiểu và
đo lường sự tác động của các nguyên nhân đó, chưa đi sâu phân tích, tìm hiểu
các yếu tố ảnh hưởng đến thực hành TAT.
Phan Thị Thanh Thủy (2012), “Nghiên cứu tình hình tiêm an toàn tại
Bệnh viện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2010” cho thấy yếu tố giới
tính, ngành học và kiến thức TAT có mối liên quan với kỹ năng thực hành
TAT và đều có ý nghĩa thống kê. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy


17


nhóm học sinh có kiến thức TAT đạt có khả năng thực hành TAT đạt cao gấp
2,1 lần so với nhóm HS có kiến thức TAT không đạt. Vì vậy việc đào tạo TAT
theo quy trình chuẩn ngay từ khi còn ở trong trường sẽ giúp cho các em thực
hành TAT tốt khi làm việc tại các cơ sở y tế trong tương lai [10].
Hà Thị Kim Phượng (2014), “Kiến thức, thực hành Tiêm an toàn của
điều dưỡng viên lâm sàng và các yếu tố liên quan tại 3 bệnh viện trực thuộc
Sở Y tế Hà Nội năm 2014” cho thấy nhóm tuổi, thời gian thực hành tiêm,
trình độ học vấn và kiến thức TAT có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với
thực hành TAT của ĐDV. Nhóm ĐDV có kiến thức TAT không đạt có khả
năng thực hành TAT không đạt cao gấp 10,3 lần so với nhóm ĐDV có kiến
thức TAT đạt. Mối quan hệ này có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Đào tạo TAT
theo quy trình chuẩn ngay từ khi còn ở trong trường sẽ giúp ĐDV thực hành
TAT tốt khi làm việc tại bệnh viện [13].
Đỗ Thị Lê Hằng (2014) “Thực trạng và các yếu tố liên quan đến tiêm an toàn
tại Bệnh viện trường đại học y dược Thái Nguyên” cho thấy 100% điều dưỡng
nhất trí rằng khó khăn thứ nhất là quá đông người bệnh. Việc quá đông người
bệnh sẽ ảnh hưởng đến tâm lý, thể chất của điều dưỡng dẫn đến tình trạng mệt
mỏi và vội vàng do lo lắng sẽ không hoàn thành công việc. Thực hành tiêm cho
quá nhiều người bệnh trên một điều dưỡng có thể là do nhân lực điều dưỡng thiếu
hoặc do tổ chức chăm sóc chưa hợp lý. Nghiên cứu cũng chỉ ra 29% ĐDV báo
cáo chưa được tập huấn về TAT. Điều này sẽ ảnh hưởng tới kiến thức và kỹ năng
của ĐDV trong thực hiện tiêm an toàn. Hầu hết ĐDV (80.6%) nhất trí rằng bệnh
viện không có đủ trang thiết bị, dụng cụ để thực hiện tiêm an toàn cụ thể như chưa
cung cấp đủ nước xà phòng khăn lau tay sạch cho mỗi lần rửa tay (l00%), không
có gạc bẻ thuốc (96.8% không dùng gạc bẻ thuốc), thiếu găng tay (25.8% ĐDV
không sử dụng và 54.8% có sử dụng nhưng chưa đạt tiêu chuẩn), thiếu phương
tiện đựng chất thải sắc nhọn (93.5% hộp đựng chất thải sắc nhọn chưa đạt tiêu


18


chuẩn, 22.6% để bơm kim tiêm đầy quá 3/4 hộp kháng thủng) [15].
Phạm Đức Mục (2005), Nghiên cứu đánh giá kiến thức về tiêm an toàn và
tần xuất rủi ro do vật sắc nhọn đối với Điều dưỡng – Hộ sinh tại 8 tỉnh đại
diện, 6 tháng đầu năm 2005, cho thấy có 63,1% và 62,6% số người được hỏi
cho rằng thiếu dụng cụ xử lý chất thải và thiếu hộp đựng VSN chuẩn là
nguyên nhân dẫn đến mũi tiêm không an toàn [21].
Đặng Thị Thanh Thúy (2016), “Kiến thức, kỹ năng thực hành và một số
yếu tố liên quan của học sinh trường Trung cấp Y tế tỉnh Kon Tum năm 2016”
chỉ ra rằng các yếu tố như giới tính, ngành học, và kiến thức có mối liên quan
với kỹ năng thực hành tiêm an toàn của học sinh [17].
Qua một số nghiên cứu đại diện trên các vùng miền khác nhau, tại các
thờiđiểm khác nhau, thiết kế nghiên cứu khác nhau và bộ công cụ đo lường
kiến thức, thực hành TAT của ĐDV khác nhau các tác giả đã đưa ra một bức
tranh về tình trạng TAT hiện nay. Tỷ lệ mũi TAT chưa cao phụ thuộc vào qui
mô và thiết kế củanghiên cứu (tỷ lệ từ 2,88% - 35,3%). Xét riêng về góc độ
thực hành TAT tại các cơsở y tế có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tiêm không
an toàn: Thiếu trang thiết bị, dụng cụ do không đươc cung cấp đầy đủ hoặc do
sự chuẩn bị không đầy đủ của NVYT; Sự tuân thủ các nguyên tắc vô khuẩn
kém, điều này rất nguy hiểm vì đây chính là những nguy cơ gây nhiễm khuẩn
cho NB đặc biệt là tiêm truyền qua đườngtĩnh mạch; Chưa thực hiện đúng các
qui trình kỹ thuật khi tiêm dẫn đến những nguy cơ không nhỏ cho NB và cho
cả người tiêm; Xử lý chất thải sắc nhọn sau khi tiêm không đúng cách gây
nguy cơ tai nạn thương tích cho cộng đồng. Một số nghiên cứu đã chỉ ra mức
độ thực hiện các tiêu chuẩn TAT. Có những nghiên cứu (Phan Cảnh Chương,
2010) [8] đã tiến hành quan sát, đánh giá, so sánh sự khác biệt giữa các nhóm
kết quả khác nhau. Một số nghiên cứu đánh giá cả phần kiến thức và thực
hành của ĐDV (Nguyễn Như Tú, năm 2005; VNA, năm 2010) [4]. Nghiên



×