Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Đánh giá kết quả phẫu thuật cong dương vật bẩm sinh bằng phương pháp yachia tại trung tâm nam học bệnh viện hữu nghị việt đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.82 KB, 36 trang )

1

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Cong dương vật bẩm sinh (CDVBS) là một dị tật hiếm gặp biểu hiện
bởi sự lệch trục thân dương vật do sự phát triển mất cân xứng của lớp bao
trắng thể hang ở một hoặc cả hai bên. Theo một số nghiên cứu trên thế giới,
cong dương vật bẩm sinh chiếm tỷ lệ khoảng 0,04 - 0,6%, còn ở Việt Nam tỷ
lệ CDVBS chưa được nghiên cứu.
Đối với nam giới trưởng thành, dương vật cong không những gây ảnh
hưởng về mặt chức năng như giao hợp khó, giao hợp đau, không thể giao hợp
mà còn ảnh hưởng đến tâm lý của bệnh nhân như lo lắng, mặc cảm, không tự
tin khi giao hợp, lẩn tránh quan hệ tình dục hoặc sợ bạn tình bỏ do không đáp
ứng sự thỏa mãn về tình dục.
Có nhiều phương pháp phẫu thuật chỉnh cong dương vật, nổi bật là hai
nhóm chính: (1) kéo dài dương vật bằng cách rạch ngang bao trắng ở phía
bụng góc gập và dùng mảnh ghép tự thân, và (2) làm ngắn dương vật ở phía
lưng góc gập, vì kích thước dương vật khi cương trong bệnh lý này thường
dài hơn bình thường nên người ta chọn phương pháp thứ hai. Năm 1965,
Nesbit mô tả kỹ thuật cắt bỏ một hay nhiều mảnh bao trắng hình elip thể hang
bên dài, sau đó khâu lại bằng chỉ tiêu. Năm 1985, Essed - Chröeder đã mô tả
kỹ thuật khâu gấp bao trắng thể hang kèm theo bóc tách bó mạch thần kinh
lưng dương vật. Năm 1990, Yachia mô tả kỹ thuật mở dọc bao trắng thể hang
và khâu ngang trong điều trị bệnh Peyronie, tuy nhiên nó cũng rất hữu ích
trong điều trị cong dương vật bẩm sinh.
Năm 2000, với sự nhất trí của Tổ chức Y tế Thế giới, Ủy ban về bệnh
Peyronie và cong dương vật bẩm sinh đã thống nhất rằng các trường hợp cong


2



2
dương vật bẩm sinh ở thanh niên, phương pháp điều trị tốt nhất là khâu gấp
bao trắng hoặc tạo hình thể hang (rạch dọc hay cắt bao trắng thể hang, trong
đó có phẫu thuật Yachia), không dùng mảnh ghép để điều trị.
Mỗi kỹ thuật đều có những ưu, nhược điểm riêng do đó sự lựa chọn
phương pháp điều trị còn phụ thuộc vào từng cơ sở điều trị, kinh nghiệm phẫu
thuật viên. Dù phẫu thuật theo phương pháp nào thì các phẫu thuật đều nhằm
mục đích làm thẳng dương vật giúp đảm bảo chức năng, thẩm mỹ và cải thiện
tâm lý cho bệnh nhân.
Tại Việt Nam, mặc dù Nam học là chuyên ngành còn mới nhưng đã thu
được nhiều kết quả khả quan trong điều trị bệnh lý cong dương vật bẩm sinh,
một số báo cáo trong nước cho thấy kết quả thành công của phẫu thuật từ
84,6% - 91,7%, khác nhau từng cơ sở và kỹ thuật áp dụng . Tại khoa Nam học
bệnh viện Bình Dân, CDVBS phần lớn được điều trị bằng phẫu thuật khâu
gấp bao trắng thể hang theo Baskin - Lue. Còn ở trung tâm Nam học - bệnh
viện Hữu Nghị Việt Đức thì bệnh lý CDVBS được phẫu thuật chủ yếu theo kỹ
thuật của Yachia. Tuy nhiên, do tỷ lệ bệnh ít gặp và số lượng bệnh nhân đến
khám còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, trình độ dân trí, nên các đề tài
trong nước nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng và kết quả phẫu thuật điều trị
bệnh lý này còn rất ít. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài “Đánh giá kết
quả phẫu thuật cong dương vật bẩm sinh bằng phương pháp Yachia tại
Trung tâm Nam học- Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức” với hai mục tiêu:
1. Mô tả một số đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân cong dương vật
bẩm sinh được phẫu thuật tại Trung tâm Nam học - Bệnh viện
Hữu Nghị Việt Đức.
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật cong dương vật bẩm sinh bằng
phương pháp Yachia.



3

3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giải phẫu dương vật
Dương vật thuộc bộ phận sinh dục ngoài của nam giới, đảm nhiệm hai
chức năng là tiểu tiện và sinh dục. Khi mềm, dương vật dài khoảng 10 cm nằm
trước bìu, dương vật gồm hai phần: phần trước di động và phần sau cố định.
1.1.1. Hình thể ngoài
Dương vật gồm rễ, thân và quy đầu dương vật
Rễ dương vật
Rễ dương vật dính vào cung mu và màng đáy chậu gồm có trụ dương
vật và hành dương vật
Trụ dương vật: đầu sau của hai vật hang, bám vào xương ngay phía
trước ụ ngồi, rồi dính dọc theo ngành dưới xương mu được bao bọc bởi cơ
ngồi hang, hai trụ dương vật hội tụ ở phía trước bờ dưới khớp muồi cong ra
trước xuống dưới liên tiếp với vật hang thân dương vật.
Hành dương vật: đầu sau của vật xốp, nằm trong rãnh giữa hai trụ
dương vật dính vào mặt nông của hoành niệu dục dưới.
Thân dương vật
Thân dương vật có hình trụ dẹt được tạo nên bởi các tạng cương, gồm 2
mạt: mặt mu dương vật và mặt niệu đạo.
Thân dương vật được treo bởi hai dây chằng do mạc dương vật tạo nên
là dây chằng đỡ dương vật và dây chằng treo dương vật.
Quy đầu dương vật


4


4
Quy đầu được bao bọc nhiều hay ít trong một nếp nửa niêm mạc, nửa
da gọi là bao quy đầu mà ở mặt dưới dày lên thành một nếp gọi là hãm bao
quy đầu. Quy đầu màu hồng nhạt, ở đỉnh quy đầu có miệng niệu đạo và ở đáy
giới hạn bởi vành quy đầu. Vành quy đầu là một bờ lồi chạy chếch xuống
dưới và ra trước nên quy đầu ở trên dài gấp đôi ở dưới. Cổ quy đầu nằm giữa
thân dương vật và vành quy đầu.
1.1.2. Cấu tạo
Dương vật được cấu tạo bởi các tạng cương và các lớp bọc dương vật.
Các tạng cương
Các tạng cương của dương vật gồm hai thể hang và một thể xốp, trong
đó hai thể hang là tạng cương chính.
Thể hang dương vật gồm hai thể hình trụ dẹt dài khoảng 15 cm thu hẹp
ở hai đầu. Phần sau gọi là trụ của vật hang, dính vào ngành dưới xương mu và
có cơ ngồi hang ôm quanh ba mặt của thể hang. Phần trước của thể hang tựa
vào nhau như hai nòng súng, thu hẹp lại ở hai đầu và được ôm gọn trong đáy
của quy đầu.
Thể xốp dương vật hình trụ dẹt nằm trong rãnh ở phía dưới của thể
hang, phía trước úp vào hai mặt trước của thể hang tạo thành quy đầu, ở giữa
thể xốp có niệu đạo. Thể xốp và quy đầu liên tiếp với nhau tạo thành một thể
thống nhất. Phần sau của thể xốp phình to thành hành xốp dương vật, hai cơ
hành xốp dương vật dính vào nhau ở đường giữa như một võng để thể xốp
nằm lên trên, cơ hành xốp còn tách ra một bó vòng lên phía lưng dương vật để
nối với bó đối diện. Khi các cơ ngồi hang và cơ hành xốp co thì máu trong các
tạng cương sẽ dồn về phía trước làm cho dương vật trở nên cương cứng hơn
Các lớp bọc dương vật
Dương vật được bao bọc từ nông vào sâu gồm các lớp sau



5

5
- Da ở ngoài cùng, mềm mại và liên tiếp với da của bao quy đầu
- Lớp tổ chức tế bào nhão dưới da
- Mạc nông dương vật nằm trong lớp tổ chức tế bào nhão
- Mạc sâu dương vật bọc quanh thể hang và thể xốp. Các mạch máu và
thần kinh nằm trong mạc này
- Bao trắng bao bọc xung quanh hai thể hang, bao trắng của hai thể
hang gặp nhau ở giữa tạo thành vách dương vật và bao trắng thể xốp.
Trong phẫu thuật điều trị cong dương vật bẩm sinh, cần bóc tách được
da và lớp mạc nông dương vật về gốc dương vật để tạo hình dương vật bằng
cách can thiệp trực tiếp trên bao trắng của thể hang.
1.1.3. Mạch máu và thần kinh
Động mạch
Động mạch dương vật bắt nguồn từ động mạch thẹn trong chia thành
các nhánh nhỏ là động mạch thể hang, động mạch lưng dương vật, động mạch
niệu đạo và động mạch hành. Động mạch thể hang hay động mạch sâu dương
vật chạy giữa trục thể hang, ở đó nó chia thành nhiều nhánh xoắn gọi là động
mạch xoắn và đổ máu vào các xoang hang. Động mạch lưng dương vật chạy ở
lưng và ở dưới lớp mạc sâu dương vật.
Động mạch nông dương vật là những nhánh nhỏ nằm trong các lớp tổ
chức tế bào nhão dưới da có nguồn gốc từ động mạch thẹn ngoài và động
mạch đáy chậu nông
Tĩnh mạch
Dẫn lưu tĩnh mạch gồm dẫn lưu nội hang và ngoại hang
Dẫn lưu nội hang nằm giữa mô cương ngoại vi và bao trắng, gồm một
nhóm các tiểu tĩnh mạch xuất, các tĩnh mạch này chui qua bao trắng đổ vào
các tĩnh mạch ngoài bao trắng. Khi dương vật mềm, máu trong các xoang tĩnh



6

6
mạch có thể dễ dàng ra ngoài qua tĩnh mạch xuất nhưng khi dương vật cương
các tĩnh mạch xuất bị đè ép lại giữa bao trắng và xoang hang không cho máu
tĩnh mạch ra ngoài xoang để duy trì trạng thái cương.
Dẫn lưu ngoại hang hay dẫn lưu ngoài bao trắng thể hang có 3 đường:
Tĩnh mạch lưng sâu nhận máu chủ yếu từ đoạn xa của thể hang rồi đổ vào
đám rối Santorini. Tĩnh mạch lưng nông nhận máu từ da và quy đầu, thông
với tĩnh mạch lưng sâu. Tĩnh mạch thể hang và tĩnh mạch đùi nhận máu phần
gốc thể hang rồi đổ vào đám rối Santorini và tĩnh mạch thẹn trong.
Thần kinh
Thần kinh chi phối cho dương vật gồm thần kinh thẹn và thần kinh tự
chủ. Thần kinh lưng dương vật tách ra từ thần kinh thẹn, thần kinh thể hang
dương vật thuộc hệ thần kinh tự chủ
Thần kinh thẹn khi đến niệu đạo màng, phân chia những nhánh nông đi
vào phía bên mặt ngoài của cơ thắt niệu đạo vị trí 03 giờ và 09 giờ, những
nhánh sâu đâm xuyên vào cơ này và chia những nhánh nhỏ ở đoạn niệu đạo
màng. Chúng kết hợp thành từ 01 đến 03 bó riêng biệt khi đến dương vật và
liên quan với niệu đạo màng ở vị trí 11 giờ và 01 giờ, đi phía trên của tĩnh
mạch thể hang và từ giữa lưng đến động mạch thể hang. Thần kinh lưng
dương vật phân bố các dây thần kinh cho quy đầu và dương vật, ngoại trừ
hãm quy đầu được cả thần kinh lưng dương vật và một nhánh của thần kinh
đáy chậu chi phối. Thần kinh lưng dương vật tiếp nhận những nguồn hướng
tâm đầu tiên từ phía ngoài vào, chi phối tình trạng cương và xuất tinh
Thần kinh giao cảm và phó giao cảm cùng với thần kinh lưng dương
vật và thần kinh vùng đáy chậu cho những nhánh cảm giác và vận động.



7

7
Ngoài nhiệm vụ chi phối cảm giác và chức năng của dương vật, hệ thống cảm
giác bản thể còn cung cấp những cấu trúc đặc biệt để truyền thông tin từ môi
trường ngoài vào. Có 4 loại cảm giác bản thể gồm: cảm giác đau, nhiệt độ, vị
trí và cảm giác chạm - sức ép.

1.1.4. Giải phẫu, mô học bao trắng thể hang
Với giải phẫu dương vật liên quan đến cong dương vật bẩm sinh, bao
trắng thể hang là thành phần quan trọng nhất. Sự phát trển không cân xứng
của bao trắng từ trong thời kỳ bào thai gây nên cong dương vật bẩm sinh. Các
phẫu thuật điều trị cong dương vật bẩm sinh đều can thiệp trực tiếp trên bao
trắng thể hang. Trong phẫu thuật Yachia, bao trắng thể hang bên dài được xẻ
theo đường dọc sau đó khâu lại thành đường ngang để chỉnh thẳng dương vật.
Bao trắng thể hang cấu tạo gồm hai lớp, lớp dọc phía ngoài và lớp vòng
ở phía trong. Lớp phía ngoài mỏng hơn ở phía bụng dương vật, bao trắng ở vị
trí 05 giờ và 07 giờ gần thể xốp chỉ có một lớp trong (lớp vòng), không có lớp
ngoài (lớp dọc).
Độ dày của bao trắng khác nhau tùy vào vị trí theo chu vi của bao trắng
thể hang, trên diện cắt ngang qua dương vật thì độ dày thay đổi khoảng 0,8
mm ở vị trí 05 giờ và 07 giờ, dày khoảng 2,2 mm ở vị trí 01 giờ và 11 giờ.
Bao trắng thể hang được cấu tạo chủ yếu là những bó collagen dày và
một số sợi đàn hồi. Sợi collagen và sợi đàn hồi nằm xen kẽ nhau làm cho bao
trắng có độ chun giãn và đàn hồi cao. Lúc dương vật mềm bao trắng có độ
dày 2 - 3 mm, nhưng khi dương vật cương cứng bao trắng có độ dày chỉ còn
khoảng 0,5 mm. Trong thể hang có vách không hoàn toàn chia thể hang thành
những xoang hang, vách này là những tổ chức sợi.



8

8
Tất cả những động mạch hình sin và các nhánh xoắn trong xoang hang
được bao quanh bởi lớp sợi collagen, các thần kinh trong xoang hang cũng
được định vị trong đường hầm sợi collagen
Những màng sợi trong mô thể hang gắn chắc tất cả các thành phần
trong bao trắng như màng sợi ở động mạch, màng sợi ở thần kinh. Phần lớn
nhu mô thể hang được cấu tạo bằng cơ trơn, chúng xếp thành các bó và các bó
cơ trơn này cùng với màng sợi collagen có một đầu chui vào cột sợi của bao
trắng tạo thành các vách xoang của thể hang
Ở những bệnh nhân cong dương vật bẩm sinh, tại vị trí cong của dương
vật có sự thay đổi trong cấu trúc của bao trắng, các sợi collagen lớn hơn và có
sự tích lũy elastin, tăng sinh của tổ chức sợi
Do giải phẫu của bao trắng thể hang, bên dưới bao trắng là tổ chức mô
cương và các xoang hang, do đó khi can thiệp rạch trên bao trắng thể hang có
nguy cơ tổn thương mô cương. Khi khâu bao trắng nếu không khâu kín sẽ có
nguy cơ chảy máu gây tụ máu dưới da dương vật.
1.2. Phân loại cong dương vật
Có nhiều cách phân loại cong dương vật. Năm 1973, Devine và Horton
đề xuất phân loại cong dương vật theo nguyên nhân bệnh học và bệnh lý cong
dương vật bẩm sinh được xếp vào phân loại này, sau đó nhiều tác giả khác
cũng áp dụng theo phân loại cách phân loại củaDevine và Horton.
Loại I: Miệng niệu đạo nằm ở đỉnh quy đầu. Biểu mô niệu đạo bắc cầu
với thể xốp và các mô nông xung quanh bị sai lệch. Có da bao phủ ống biểu
mô niệu đạo
Loại II: Một dãy mô xơ loạn sản, xuất phát từ chủ mô hình thành mạc
nông và mạc sâu của dương vật, nằm phía bên và phía dưới niệu đạo. Niệu
đạo được bao bọc xung quanh bởi thể xốp bình thường



9

9
Loại III: Niệu đạo, thể xốp và mạc sâu dương vật phát triển và kết hợp
về phía bụng bình thường. Có một vùng mô không đàn hồi trong mạc nông
gây cong dương vật tương đối
Loại IV: Niệu đạo, thể xốp và các lớp cân phát triển bình thường. Một
bên bao trắng thể hang tương đối ngắn hoặc không đàn hồi
Loại V: Niệu đạo ngắn bẩm sinh. Các thành phần của dương vật kết nối
với nhau đúng (bao trắng, biểu mô niệu đạo, thể xốp, mạc nông, mạc sâu và
da mặt bụng dương vật)

(I: Loại I) (II: Loại II) (III: Loại III) (IV: Loại IV) (V: Loại V)
(Normal: Bình thường)
Hình 1.1. Phân loại cong dương vật theo Devine và Horton
“Nguồn: McCammon K. A. (2004), Glenn’s Urologic Surgery”


10

10
Theo phân loại trên, cong dương vật không kèm lỗ tiểu đóng thấp thuộc
loại I, II và loại III. Cong dương vật bẩm sinh thuộc loại IV. Còn loại V: rất
hiếm gặp
1.3. Đặc điểm lâm sàng bệnh nhân cong dương vật bẩm sinh
Tuổi
Cong dương vật bẩm sinh xuất hiện từ lúc mới sinh, nhưng đa số bệnh
nhân đến khám ở tuổi dậy thì trở đi bởi vì lứa tuổi này bệnh nhân dễ nhận biết
về những bất thường về bộ phận sinh dục và những rối loạn về mặt chức năng

dẫn đến bệnh nhân phải vào viện khám và điều trị. Tuổi trung bình của bệnh
nhân trong nghiên cứu của Ghanem là 27 tuổi, nghiên cứu của Popken là 23
tuổi. Võ Hoàng Tâm báo cáo 36 trường hợp tại bệnh viện Bình Dân, tuổi
trung bình là 26,6 ± 6,4 tuổi (từ 19 - 40 tuổi). Tại bệnh viện Hữu Nghị Việt
Đức, Nguyễn Văn Thảo báo cáo 38 trường hợp, tuổi trung bình là 22,6 ± 3,6
tuổi (từ 18 - 35 tuổi).
Lý do vào viện
Phần lớn bệnh nhân đã giao hợp trước mổ, bệnh nhân vào viện khám và
điều trị có thể với nhiều lý do khác nhau, lý do chính vẫn là các rối loạn về
chức năng tình dục như giao hợp khó, giao hợp đau và không giao hợp được,
kế đến là lý do ảnh hưởng đến tâm lý và thẩm mỹ.
Kết quả nghiên cứu trên 36 trường hợp của Võ Hoàng Tâm và cộng sự
cho thấy có 27 trường hợp đã giao hợp trước mổ, 63% giao hợp khó, 14,8%
không giao hợp được, 40,7% bạn tình đau khi giao hợp, 9 trường hợp chưa
giao hợp thì 5 trường hợp ảnh hưởng đến tâm lý và 4 trường hợp ảnh hưởng
đến thẩm mỹ.


11

11
Tại Bệnh Viện Hữu nghị Việt Đức, kết quả nghiên cứu trên 38 trường
hợp của Nguyễn Văn Thảo cho thấy các lý do chính mà bệnh nhân đề cập đến
là các rối loạn về tình dục (giao hợp khó 12/38 BN (31,6%), không giao hợp
được 5/38 BN (13,2%), bạn tình đau khi giao hợp 7/38 BN (18,4%)), ảnh
hưởng đến thẩm mỹ 2/38 BN (5,3%) và ảnh hưởng đến tâm lý 12/38 BN
(31,6%)
Hướng cong dương vật khi cương
Cong dương vật bẩm sinh là do sự phát triển không cân xứng của bao
trắng thể hang, có thể ở một hay cả hai bên thể hang gây nên dương vật cong

khi cương cứng, có thể cong sang bên, cong lên hoặc cong xuống Năm 2007,
Hsieh và cộng sự nghiên cứu trên 114 trường hợp được phẫu thuật từ 1/1999 7/2005, dương vật cong xuống dưới 60,5%, cong sang trái 23,7%, cong sang
phải 3,5%, cong lên 2,6%. Võ Hoàng Tâm nghiên cứu 36 trường hợp, dương
vật cong xuống 27,8%, cong sang trái 41,7%, cong sang phải 5,5 %, không có
trường hợp nào cong lên. Nghiên cứu của Lee và cộng sự trên 68 bệnh nhân
cong dương vật bẩm sinh từ 1/1992 - 1/2002, dương vật cong xuống dưới 49%,
cong sang trái 34%, cong sang phải 4%, cong lên 0%. Nghiên cứu của Nguyễn
Văn Thảo trên 38 trường hợp, tỷ lệ bệnh nhân có dương vật cong xuống dưới
nhiều nhất 20/38 BN (52,6%), kế đến là cong sang trái 15/38 BN (39,5%),
cong sang phải 3/38 BN (7,9%) và không có trường hợp nào cong lên.
Vị trí cong dương vật khi cương
Trong các nghiên cứu về cong dương vật, rất ít tác giả đề cập đến vị trí
cong dương vật. Năm 1987, Kelâmi báo cáo 125 trường hợp từ 1976 - 1986
với tỷ lệ cong cho 3 vị trí là: 32% đoạn 1/3 trong, 60% đoạn 1/3 giữa, 8%
đoạn 1/3 ngoài. Theo nghiên cứu của Võ Hoàng Tâm , cong vị trí 1/3 trong,


12

12
1/3 giữa,1/3 ngoài lần lượt là 13,9%; 83,3%; 2,8%. Theo Nguyễn Văn Thảo vị
trí cong 1/3 trong, 1/3 giữa,1/3 ngoài lần lượt là 21,1%; 73,7%; 5,3%
Độ cong dương vật khi cương
Độ cong dương vật khi cương được đo bằng thước đo độ, đo trực tiếp
lúc dương vật cương hoặc bệnh nhân tự chụp ảnh dương vật tại nhà theo
hướng dẫn, từ ảnh này xác định được độ cong dương vật. Có thể gây cương
nhân tạo để đánh giá độ cong trực tiếp trong mổ.
Đo độ cong dương vật bằng cách gây cương dương vật nhân tạo như
sau: Sau khi phẫu tích da dương vật ra khỏi thân tới bờ xương mu, dùng dải
băng cao su đàn hồi hoặc sonde nelaton thắt lại ở gốc dương vật, bơm nước

muối sinh lý vào thể hang qua kim nhỏ làm cho thể hang căng phồng. Lúc đó
đánh giá độ cong dương vật sẽ rõ ràng hơn. Tuy nhiên, ngày nay có thể dùng
nhiều loại thuốc pha lẫn nước muối sinh lý để gây cương nhân tạo như
papaverin, edex hoặc caverject,…

Hình 1.2. Đo độ cong của dương vật khi cương qua ảnh chụp
“Nguồn: Yachia D. (2007), Text atlas of penile surgery”
Đo độ cong của dương vật qua ảnh chụp dương vật khi cương: kẻ một
đường thẳng dọc theo trục của dương vật bình thường từ gốc dương vật, một
đường thẳng khác dọc theo trục lệch hướng lúc dương vật cương từ miệng niệu
đạo, hai đường thẳng này gặp nhau ở điểm cong nhất. Sau khi kẻ xong, đo góc


13

13
giữa hai đường thẳng này để xác định độ cong hoặc có thể đo trực tiếp khi
dương vật cương cứng bằng thước đo độ. Tác giả Popken phẫu thuật 50 trường
hợp, độ cong dương vật trung bình là 40 độ, lớn nhất là 95 độ, nhỏ nhất là 30
độ. Nghiên cứu của Perdzynski trên 111 bệnh nhân, độ cong trung bình là 60
độ (từ 30 – 90 độ). Theo Trịnh Hoàng Giang, có 26 trường hợp được nghiên
cứu, độ cong dương vật trung bình khi cương trước mổ là 56,3 độ. Võ Hoàng
Tâm nghiên cứu trên 36 trường hợp, độ cong dương vật trung bình khi cương
trước mổ là 37,5 ±10,6 độ, cong lớn nhất là 90 độ, nhỏ nhất là 30 độ. Nguyễn
Văn Thảo nghiên cứu 38 trường hợp độ cong dương vật trước mổ trung bình là
47,1 ± 12,7 độ, độ cong lớn nhất là 80 độ và nhỏ nhất là 30 độ
Chiều dài dương vật khi cương
Đo chiều dài dương vật được tác giả Awwad mô tả như sau: Chiều dài
dương vật được xác định bằng cách đo ở mặt lưng của dương vật, điểm bắt
đầu tại gốc nơi nối giữa da dương vật và vùng mu, đẩy qua lớp mỡ đệm vùng

trước xương mu áp vào xương mu, đo đến điểm cong nhất và từ điểm cong
nhất tới miệng niệu đạo. Theo nghiên cứu của Võ Hoàng Tâm, chiều dài
dương vật trung bình của bệnh nhân cong dương vật bẩm sinh là 12,69 ± 0,69
cm. Nguyễn Văn Thảo báo cáo 38 trường hợp, chiều dài dương vật khi cương
trung bình là 13,6 ± 1,2 cm, ngắn ngất là 10,5 cm, dài nhất là 16 cm. Theo
Andrews, ở những bệnh nhân cong dương vật bẩm sinh chiều dài dương vật
khi cương dài hơn chiều dài trung bình dương vật khi cương của nam giới
trưởng thành.
Chẩn đoán cong dương vật bẩm sinh chủ yếu dựa vào bệnh sử và thăm
khám lâm sàng, các xét nghiệm và cận lâm sàng không có giá trị trong chẩn đoán
và thường chỉ chuẩn bị cho phẫu thuật khi bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật.
1.4. Phẫu thuật điều trị cong dương vật bẩm sinh


14

14
1.4.1. Chỉ định phẫu thuật
Có nhiều nghiên cứu trên thế giới đã báo cáo về điều trị phẫu thuật cong
dương vật bẩm sinh, nhưng chưa có chỉ định phẫu thuật thống nhất chung cho
các trường hợp bởi vì còn phụ thuộc vào các rối loạn do dương vật cong gây ra
với từng bệnh nhân. Dưới đây là các chỉ định phẫu thuật đã được ghi.
- Dương vật cong ≥ 30 độ.
- Dương vật cong có rối loạn chức năng tình dục: giao hợp khó, không
giao hợp được hoặc làm bạn tình đau khi giao hợp.
- Cong dương vật gây ảnh hưởng tâm lý.
- Cong dương vật gây ảnh hưởng thẩm mỹ.
1.4.2. Các phẫu thuật điều trị cong dương vật bẩm sinh
Cong dương vật bẩm sinh được điều trị phẫu thuật bằng nhiều kỹ thuật
khác nhau, có thể chia thành các nhóm phẫu thuật: Làm ngắn bên dài, làm dài

bên ngắn, tách rời thể hang và thể xốp.
1.4.2.1. Phẫu thuật làm ngắn bên dài
Phẫu thuật làm ngắn bên dài điều trị cong dương vật gồm ba nhóm
phẫu thuật cơ bản: Phẫu thuật Nesbit (cắt bỏ bao trắng thể hang hình elip sau
đó khâu lại), phẫu thuật Nesbit cải biên (phẫu thuật Yachia: rạch dọc trên bao
trắng thể hang, sau đó khâu lại thành đường ngang), phẫu thuật khâu gấp bao
trắng (chỉ có những mũi khâu đơn thuần ngoài bao trắng).
- Phẫu thuật Nesbit
Năm 1965, phẫu thuật cắt và khâu bao trắng được tác Nesbit lần đầu
tiên áp dụng để điều trị cong dương vật bẩm sinh. Phẫu thuật này cắt bỏ một
hay nhiều mảnh bao trắng hình elip của thể hang bên dài ở một hay nhiều vị
trí sau đó khâu lại bao trắng với các mũi rời, khâu bằng chỉ tiêu


15

15
Phẫu thuật Nesbit đạt được những thành công về khả năng chỉnh thẳng
dương vật cũng như sự hài lòng của bệnh nhân và có ưu điểm là dùng chỉ tiêu
nên không để lại nốt chỉ sau mổ. Tuy nhiên, có nhược điểm là dễ chảy máu
gây tụ máu dương vật sau mổ, tổn thương mô cương và ngắn dương vật do
phải cắt bỏ một phần bao trắng thể hang hình elip ở một hay nhiều vị trí.
Nhằm hạn chế những biến chứng do phẫu thuật Nesbit, những phẫu thuật cải
tiến kỹ thuật trên đã được báo cáo. Những phẫu thuật này chỉ rạch trên bao
trắng thay vì cắt bỏ hình elip, sau đó khâu lại bao trắng bằng chỉ tiêu hoặc
không tiêu.
- Phẫu thuật Yachia
Rạch dọc trên bao trắng thể hang bên dài sau đó khâu lại thành đường ngang
Năm 1990, Yachia mô tả phẫu thuật này để điều trị bệnh Peyronie và
cũng được áp dụng để điều trị cong dương vật bẩm sinh. Sau đó, nhiều tác giả

khác như Popken (1999), Paez (2007), Ghanem (2008),… đã áp dụng điều trị
hai bệnh lý trên.
Rạch da quanh chu vi dương vật cách rãnh quy đầu 0,5 – 1 cm. Bóc
tách đẩy da và mạc nông dương vật xuống sát gốc tới bờ xương mu, garo ốc
dương vật và gây cương nhân tạo bằng nước muối sinh lý để kiểm tra vị trí,
độ cong dương vật.
Dùng allis kẹp để làm thẳng dương vật và đánh dấu vị trí kẹp trên bao
trắng thể hang bên dài với chiều dài vết kẹp là < 1cm. Có thể kẹp ở nhiều vị
trí đến khi dương vật thẳng hoàn toàn.
Thả allis và xác định dấu răng allis để lại. Dùng lưỡi dao 11 rạch bao
trắng thể hang giữa hai ngấn của allis theo chiều dọc, không rạch sâu quá để
tránh làm tổn thương mô cương.
Dùng móc nhỏ để kéo đường rạch dọc thành đường ngang.


16

16
Khâu lại vết xẻ bao trắng từ đường rạch dọc thành đường ngang bằng
chỉ tiêu chậm hoặc không tiêu.
Khâu kín và vùi hai mép các đường khâu sau đó gây cương nhân tạo lại
để kiểm tra độ cong của dương vật.
Cầm máu và đóng vết mổ.
Mặc dù phẫu thuật này ít xâm lấn hơn phẫu thuật Nesbit, chỉ rạch dọc
trên bao trắng thể hang thay vì cắt bỏ một hay nhiều mảnh bao trắng nhưng
nếu lưỡi dao rạch sâu quá sẽ gây tổn thương mô cương phía dưới, phẫu thuật
cũng đòi hỏi phải có thời gian và phẫu thuật viên có kinh nghiệm.
- Phẫu thuật khâu gấp bao trắng
Hai tác giả Essed và Schröeder đã phổ biến phẫu thuật khâu gấp bao
trắng lần đầu tiên áp dụng điều trị cong dương vật do bệnh Peyronie, sau đó

các tác giả khác như Nooter (1994), Van Der Horst (2004) áp dụng phẫu thuật
này để điều trị hai bệnh lý cong dương vật bẩm sinh và mắc phải.
Mặc dù phẫu thuật Essed và Schröeder khâu gấp bao trắng của thể hang
bên dài, không cắt hay rạch trên bao trắng thể hang bên dài nhưng đối với
những trường hợp dương vật cong xuống phẫu thuật đòi hỏi phải bóc tách bó
mạch thần kinh vùng lưng dương vật.
Trong nhóm khâu gấp, cũng có nhiều cải tiến dựa vào mũi chỉ khâu như
tác giả Hsieh khâu gấp cải biên mũi chỉ kiểu chữ “U”, có bóc tách bó mạch
thần kinh vùng lưng điều trị cong dương vật bẩm sinh, tác giả dùng chỉ tiêu
chậm vicryl 2.0, gặp biến chứng sớm như tuột nút chỉ khâu và cảm giác tê bì
ở quy đầu.
Năm 1998, hai tác giả Baskin và Lue đã đưa ra phương pháp phẫu thuật
có nhiều thuận lợi hơn các phương pháp khâu gấp khác. Phương pháp được


17

17
tác giả mô tả có ưu điểm là dễ thực hiện, chỉ thực hiện các mũi khâu gấp bao
trắng thể hang, không bóc tách bó mạch thần kinh vùng lưng dương vật và
không bóc tách niệu đạo, nhưng phẫu thuật này khâu bằng chỉ prolene 2.0 nên
có nhược điểm là cộm nốt chỉ
Các phẫu thuật làm ngắn bên dài đều đem lại thành công như làm thẳng
dương vật, duy trì được chức năng cương dương vật, đem lại sự hài lòng về
mặt thẩm mỹ và cải thiện về mặt tâm lý cho bệnh nhân. Ngắn dương vật sau
mổ là khó tránh khỏi trong nhóm phẫu thuật này. Mặc dù dương vật ngắn hơn
nhưng không gây trở ngại lớn trong sinh hoạt tình dục. Tuy nhiên, cũng có
một số bệnh nhân không hài lòng sau phẫu thuật về chiều dài của dương vật
ngắn hơn trước mổ. Những trường hợp khâu bằng chỉ prolene thì có tình trạng
cộm nốt chỉ dưới da dương vật và có thể gây đau do cộm nốt chỉ khi giao hợp,

nốt phình mép vết khâu bao trắng hay gặp trong phẫu thuật xẻ dọc khâu ngang
bao trắng . Một số biến chứng có thể gặp trong nhóm phẫu thuật làm ngắn bên
dài như: Phù nề da quy đầu, tụ máu dưới da dương vật, nhiễm trùng vết mổ.
Biến chứng rối loạn cương chủ yếu gặp ở phẫu thuật Nesbit và phẫu thuật khâu
gấp bao trắng có bóc tách mạch máu thần kinh vùng lưng dương vật.
1.4.2.2. Phẫu thuật làm dài bên ngắn
Phẫu thuật dùng mảnh ghép (mảnh ghép bì, tĩnh mạch hiển, mạch nhân
tạo) điều trị các trường hợp cong dương vật nặng có kèm lỗ tiểu thấp, cong
dương vật bẩm sinh kèm với ngắn dương vật hoặc bệnh nhân không đồng ý
phẫu thuật nhóm phẫu thuật làm ngắn bên dài do tình trạng ngắn dương vật
sau mổ. Chỉ định phẫu thuật điều trị cong dương vật bẩm sinh với mảnh ghép
rất hạn chế, đây là phẫu thuật khó, đòi hỏi phải có thời gian và phẫu thuật viên


18

18
có kinh nghiệm trong phẫu thuật tạo hình dương vật. Năm 1994, Moriel dùng
mảnh ghép tĩnh mạch hiển để điều trị cong dương vật bẩm sinh. Tuy nhiên,
mảnh ghép không làm thẳng dương vật hoàn toàn, nên sau khi ghép thường
phải dùng thêm phẫu thuật khâu gấp bao trắng để chỉnh thẳng dương vật.
Có một số báo cáo theo dõi kết quả xa của phẫu thuật dùng mảnh ghép,
cho thấy phẫu thuật hạn chế được tình trạng ngắn dương vật nhưng cũng có
một số biến chứng biến chứng như: tụ máu, hoại tử mảnh ghép, teo mảnh
ghép, phình tại nơi mảnh ghép thành nang, nang tuyến bã nhờn do nang lông
của mảnh ghép bì, rối loạn cương,…
1.4.2.3. Phẫu thuật tách rời các thể hang thể xốp
Tách rời thể hang mặt bụng dương vật và xoay thể hang ra ngoài. Tác
giả Dessanti dùng phẫu thuật này để điều trị cong dương vật bẩm sinh có hoặc
không kèm với miệng niệu đạo đóng thấp nhưng hiện nay rất ít được áp dụng

1.5. Kết quả điều trị phẫu thuật cong dương vật bẩm sinh bằng phương
pháp Yachia trên Thế giới và Việt Nam
Do bệnh lý cong dương vật bẩm sinh có tỷ lệ gặp ít và cũng có nhiều
kỹ thuật để điều trị bệnh lý này nên các nghiên cứu về kết quả phẫu thuật theo
phương pháp Yachia trong và ngoài nước cũng hạn chế, kết quả cũng khác
nhau tùy nghiên cứu và số lượng bệnh nhân trong các nghiên cứu không
nhiều. Tuy nhiên, có một số báo cáo cho thấy thành công của phẫu thuật
Yachia trong điều trị bệnh lý cong dương vật bẩm sinh là từ 80% đến 100%.
Dưới đây là một số kết quả đã được ghi nhận:
- Trên thế giới
Năm 1999, Popken nghiên cứu trên 50 bệnh nhân được phẫu thuật, tỷ lệ
thành công của phẫu thuật là 96% (48/50 bệnh nhân), 4% độ cong còn lại >
15 độ. Gặp biến chứng như tụ máu dương vật là 4%, với mỗi độ cong 10 độ


19

19
thì ngắn dương vật so với trước mổ là từ 1 - 2 mm, không có trường hợp nào
rối loạn cương dương vật.
Daitch (1999) báo cáo 5 bệnh nhân cong dương vật bẩm sinh được
phẫu thuật bằng phương pháp này từ 6/1994 đến 6/1997. Sau mổ dương vật
được chỉnh thẳng là 80%. Trong đó 60% bệnh nhân rất hài lòng, 20% bệnh
nhân hài lòng. Ngắn dương vật gặp 60%. Nghiên cứu của Giammusso trong
thời gian từ 2/2000 đến 3/2002, có 12 bệnh nhân được phẫu thuật, thành công
của phẫu thuật là 100% (dương vật thẳng), 1 bệnh nhân rối loạn cương, 3
bệnh nhân phàn nàn về nốt phình ở dương vật (phình tại mép của đường khâu
bao trắng hay còn gọi là “tai chó”), ngắn dương vật từ 1 đến 2,5 cm, gặp ở
67% nhưng dương vật ngắn hơn so với trước mổ không ảnh hưởng đến giao
hợp. Năm 2008, Ghanem nghiên cứu hồi cứu từ năm 1990 đến năm 2005, có

45 bệnh nhân cong dương vật bẩm sinh phẫu thuật theo phương pháp Yachia.
Kết quả cho thấy thành công của phẫu thuật là 98%, có 1 trường hợp không
hài lòng vì dương vật ngắn, 1 trường hợp rối loạn cảm giác dương vật. Báo
cáo của Nyirády (2008) , nghiên cứu hồi cứu trong 20 năm, có 62 bệnh nhân
được phẫu thuật theo kỹ thuật Yachia. Tỷ lệ thành công của phẫu thuật là
96%, không gặp biến chứng rối loạn cương, nhưng có 16,1% không hài lòng
do ngắn dương vật.
- Tại Việt Nam, hiện có ba báo cáo về kết quả điều trị cong dương vật
bẩm sinh theo phương pháp Yachia.
Năm 2012, Trịnh Hoàng Giang báo cáo kết quả 26 trường hợp được
phẫu thuật từ 2/2009 đến 2/2012 tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức. Thành công
của phẫu thuật là 84,6%, các biến chứng như phù nề, tụ dịch máu dương vật
gặp 3 trường hợp trong đó có 1 trường hợp phải trích rạch thoát dịch, 1 trường
hợp không hài lòng do độ cong sau mổ không như mong muốn. Ngắn dương


20

20
vật gặp trong 15 trường hợp, dương vật ngắn trung bình là 1,6 cm và không
ảnh hưởng đến giao hợp. Không có trường hợp nào rối loạn cương dương.
Nghiên cứu của Phạm Văn Hảo (2013) tại khoa Nam học bệnh viện
Bình Dân, có 12 bệnh nhân cong dương vật bẩm sinh được phẫu thuật theo
phương pháp Yachia từ 01/01/2012 đến 31/12/2012. Thành công của phẫu
thuật là 91,7% và tất cả bệnh nhân đều hài lòng. Ghi nhận tình trạng cộm nốt
chỉ dưới da dương vật là 16,6%
Năm 2015, Nguyễn Văn Thảo báo cáo 38 trường hợp cong dương vật
bẩm sinh được phẫu thuật bằng phương pháp Yachia từ 01/01/2010 đến
30/04/2015 tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức thành công của phẫu thuật là
94,7%, cộm nốt chỉ dưới da dương vật là 34,2%, ngắn dương vật so với trước

mổ trung bình 1,2 ± 0,3 cm. Biến chứng: chỉ gặp phù nề da quy đầu (21,5%),
không gặp các biến chứng như nhiễm trùng vết mổ, tụ máu dưới da dương
vật, cong tái phát, rối loạn cương dương
Đánh giá kết quả của phẫu thuật: Theo các y văn đã được báo cáo về kết
quả phẫu thuật điều trị cong dương vật bẩm sinh, độ cong dương vật khi cương
sau mổ được các tác giả áp dụng để đánh giá thành công của phẫu thuật
+ Phẫu thuật thành công nếu dương vật được chỉnh thẳng hoặc độ cong
khi cương ≤ 15 độ.
+ Phẫu thuật thất bại nếu độ cong dương vật khi cương > 15 độ.

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu


21

21
Những bệnh nhân được chẩn đoán cong dương vật bẩm sinh và được
phẫu thuật bằng phương pháp Yachia.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
Tất cả bệnh nhân cong dương vật bẩm sinh có độ cong dương vật khi
cương ≥ 30 độ kèm theo ít nhất một trong các rối loạn như:
- Giao hợp khó, không giao hợp được, bệnh nhân hoặc/và bạn tình đau
khi giao hợp.
- Cong dương vật gây ảnh hưởng đến tâm lý.
- Cong dương vật gây ảnh hưởng đến thẩm mỹ.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Cong dương vật bẩm sinh không kèm lỗ tiểu lệch thấp: Cong dương vật
bẩm sinh type I, II, III, V theo Devine and Horton - 1973

Cong dương vật bẩm sinh kèm theo:
- Lỗ tiểu lệch thấp
- Lỗ tiểu lệch cao
- Bệnh lý toàn thân phối hợp
- Rối loạn cương dương
Cong dương vật mắc phải:
- Bệnh Peyronie (xơ cứng vật hang).
- Tiền sử chấn thương dương vật.
- Tiền sử phẫu thuật ở dương vật.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: Từ 01/01/2016 đến 30/6/2019.
Địa điểm nghiên cứu: Trung tâm Nam học – bệnh viện hữu nghị Việt Đức
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu


22

22
- Nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.3.2. Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu
Chọn mẫu thuận tiện, tất cả bệnh nhân đủ tiêu chuẩn trong thời gian
nghiên cứu đều được đưa vào.
2.4. Nội dung nghiên cứu
2.4.1. Một số đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu.
Tuổi bệnh nhân được chia thành các nhóm <20, 20-30, >30
Nghề nghiệp: Nông dân, công nhân, nhân viên văn phòng, sinh viên,
khác….
Địa dư: Nông thôn và thành thị
2.4.2. Một số đặc điểm lâm sàng của đối tượng nghiên cứu

Lý do vào viện
- Không giao hợp được
- Giao hợp được nhưng khó/ đau
- Ảnh hưởng thẩm mỹ
- Ảnh hưởng tâm lý
Tình trạng giao hợp trước mổ: có/ không
Hướng cong dương vật: lên trên, xuống dưới, sang phải, sang trái.
Vị trí cong: 1/3 xa, 1/3 giữa, 1/3 gần
Mối liên quan vị trí cong ảnh hưởng đến chức năng giao hợp
Mối liên quan độ cong ảnh hưởng chức năng giao hợp
Chiều dài dương vật khi cương (tính theo cm): đo theo cách đo của
Awwad


23

23
2.4.3. Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả phẫu thuật cong dương vật bẩm
sinh bằng phương pháp Yachia
2.4.3.1. Kỹ thuật mổ
- Số lượng vết xẻ bao trắng 1 bên thể hang
- Mối liên quan giữa độ cong và vết xẻ
- Kết hợp phẫu thuật khác trong cùng một thì mổ( nếu có)
- Loại chỉ khâu bao trắng thể hang: Chỉ tiêu/ không tiêu
- Thời gian phẫu thuật (tính theo phút): từ lúc rạch da đến mũi chỉ đóng
da cuối cùng
2.4.3.2 Theo dõi hậu phẫu
Thời gian lưu sonde tiểu (tính theo ngày): từ ngày phẫu thuật đến ngày
rút sonde
Thời gian nằm hậu phẫu (tính theo ngày): từ ngày phẫu thuật đến ngày

ra viện
2.4.3.3. Biến chứng sau mổ
Biến chứng sớm (trong thời gian hậu phẫu):
- Phù nề da quy đầu.
- Tụ máu dưới da dương vật.
- Nhiễm trùng vết mổ
Biến chứng muộn (sau khi ra viện)
- Đau kéo dài ( >2 tuần)
- Tê dương vật
- Rối loạn cương dương: dương vật không cương cứng được hoặc
không duy trì được khả năng cương cứng như trước mổ.
- Cong tái phát: trong mổ dương vật được chỉnh thẳng, ra viện sau vài
tuần dương vật cong lại như ban đầu


24

24

Mức độ nặng của biến chứng
- Biến chứng nhẹ: điều trị nội khoa khỏi (bằng các thuốc kháng sinh,
giảm đau, chống phù nề).
- Biến chứng nặng: kết hợp cả điều trị nội khoa và can thiệp ngoại khoa
(chích rạch thoát dịch, lấy máu tụ, tách vết mổ, cắt lọc vết mổ, mổ lại,…), rối
loạn cương dương, cong tái phát.
2.4.3.4. Tình trạng dương vật khi khám lại
- Thời gian theo dõi (tháng)
- Độ cong sau mổ (thẳng và ≤ 15 độ, > 15 độ).
- Chiều dài dương vật sau mổ.
- Sờ cộm nốt chỉ dưới da dương vật.

- Đau dương vật khi giao hợp do cộm nốt chỉ.
- Nốt phình mép vết khâu bao trắng
- So sánh độ cong, chiều dài dương vật trước và sau mổ
- So sánh ảnh hưởng của loại chỉ khâu với nốt cộm chỉ dưới da
- So sánh tình trạng giao hợp của bệnh nhân trước và sau mổ
- Cải thiện tâm lý của BN sau mổ (có cải thiện, không cải thiện)
+ Có cải thiện: bệnh nhân đỡ lo lắng hoặc không còn lo lắng về bệnh,
tự tin khi giao hợp.
+ Không cải thiện: bệnh nhân vẫn còn lo lắng về bệnh như trước mổ,
vẫn không tự tin khi giao hợp.
- Mức độ hài lòng của bệnh nhân khi giao hợp lại sau mổ (rất hài lòng,
hài lòng, không hài lòng)
+ Rất hài lòng: dương vật cương bình thường, giao hợp dễ, không đau
dương vật khi giao hợp.


25

25
+ Hài lòng: dương vật cương bình thường, giao hợp dễ, đau ít ở dương
vật khi giao hợp và bệnh nhân chịu được.
+ Không hài lòng: rối loạn cương dương, giao hợp khó hoặc không
giao hợp được, đau nhiều ở dương vật khi giao hợp và không chịu được
- Mức độ hài lòng của bạn tình khi giao hợp (hài lòng, không hài lòng)
+ Hài lòng: không đau âm đạo khi giao hợp.
+ Không hài lòng: đau âm đạo khi giao hợp
- Mức độ hài lòng về thẩm mỹ dương vật sau mổ (rất hài lòng, hài lòng,
không hài lòng)
+ Rất hài lòng: dương vật thẳng hoặc ≤ 15 độ, không phàn nàn về tình
trạng dương vật hiện tại (ngắn dương vật, cộm nốt chỉ dưới da DV, nốt phình

mép vết khâu bao trắng).
+ Hài lòng: dương vật thẳng hoặc ≤ 15 độ, phàn nàn về tình trạng
dương vật hiện tại (ngắn dương vật, cộm nốt chỉ dưới da DV, nốt phình mép
vết khâu bao trắng).
+ Không hài lòng: độ cong dương vật > 15 độ, phàn nàn về tình trạng
dương vật hiện tại (ngắn dương vật, cộm nốt chỉ dưới da DV, nốt phình mép
vết khâu bao trắng).
2.5. Các bước tiến hành phẫu thuật
2.5.1. Chuẩn bị bệnh nhân
Bệnh nhân được giải thích về quy trình kỹ thuật và các biến chứng có
thể xảy ra trong và sau phẫu thuật, bệnh nhân đồng ý và ký giấy chấp nhận
phẫu thuật.
Vệ sinh, cạo lông bộ phận sinh dục trước mổ.
Bệnh nhân được dùng kháng sinh đường tĩnh mạch dự phòng trước mổ.
2.5.2. Vô cảm: tê tủy sống.


×