Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Quan điểm của đạo gia về vấn đề bản thể luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.01 KB, 11 trang )

MỞ ĐẦU
Bản thể luận (Ontology – Οντολογία, từ Hy Lạp cổ đại do sự kết hợp
giữa oντος: tồn tại và λόγος: học thuyết) là một khuynh hướng chủ đạo của triết học
phương Tây cổ đại, nghiên cứu các khái niệm về thực tại và bản chất của sự tồn tại,
bản thể luận được hình thành trên cơ sở của siêu hình học (metaphysics). Bản thể
luận tìm cách mô tả phạm trù tồn tại và các mối quan hệ của phạm trù tồn tại để xác
định nên thực thể và các kiểu thực thể bên trong khuôn khổ của tồn tại.
Bản thể luận hình thức, là một bộ môn triết học chủ yếu giải quyết vấn đề sử
dụng từ ngữ một cách chuẩn xác để làm tốt vai trò mô tả thực tại hay thực thể. Bản
thể luận luôn phải chỉ rõ những từ ngữ nào dùng để chỉ những thực thể nào, những
từ ngữ nào không, tại sao, và phạm trù kết quả là thế nào. Vì thế bản thể luận còn là
cơ sở nền tảng cho nhiều chuyên ngành triết học khác.
Với mong muốn tìm hiểu về Bản thể luận nói chung cũng như quan điểm của
Đạo gia về vấn đề Bản thể luận, em xin lựa chọn đề tài số 2 : “Quan điểm của Đạo
gia về vấn đề Bản thể luận. Những đóng góp và hạn chế của Đạo gia trong giai
đoạn hiện nay” làm nội dung cho bài tiểu luận của mình.
NỘI DUNG
1. Khái quát chung về Đạo gia
Đạo giáo (tiếng Trung: 道道) (Đạo nghĩa là con đường, đường đi, giáo là sự dạy
dỗ) hay còn gọi là Tiên Đạo, là một nhánh triết học và tôn giáo Trung Quốc, được
xem là tôn giáo đặc hữu chính thống của xứ này. Nguồn gốc lịch sử được xác nhận
của Đạo giáo được xem nằm ở thế kỉ thứ 4 trước CN, khi tác phẩm Đạo Đức
kinh của Đạo gia xuất hiện. Các tên gọi khác là Lão giáo, Đạo Lão, Đạo Hoàng
Lão, hay Đạo gia, Tiên Giáo (道道)1.
Người ta không biết rõ Đạo giáo khởi phát lúc nào, chỉ thấy được là tôn giáo
này hình thành qua một quá trình dài, thâu nhập nhiều trào lưu thượng cổ khác.
1

ngày 19/9/2019.

1




Đạo giáo thâu nhiếp nhiều tư tưởng đã phổ biến từ thời Nhà Chu (1040-256 trước
CN). Thuộc về những tư tưởng này là vũ trụ luận về thiên địa, ngũ hành, thuyết về
năng lượng, chân khí), thuyết âm dương và Kinh Dịch. Nhưng, ngoài chúng ra,
những truyền thống tu luyện thân tâm như điều hoà hơi thở, Thái cực quyền, Khí
công, Thiền định, thiết tưởng linh ảnh, thuật luyện kim và những huyền thuật cũng
được hấp thụ với mục đích đạt trường sinh bất tử. Việc tu luyện đạt trường sinh có
bắt nguồn có lẽ từ những khái niệm rất cổ xưa, bởi vì trong Nam Hoa chân
kinh của Trang Tử, một tác phẩm trứ danh của Đạo giáo thế kỉ thứ 4 trước CN thì
các vị tiên trường sinh bất tử đã được nhắc đến, và đại diện tiêu biểu cho họ chính
là Hoàng Đế và Tây Vương Mẫu, những hình tượng đã có trong thời nhà Thương,
thiên niên kỉ 2 trước CN.
Đạo trong sự trình bày của Đạo gia (609 trước CN) là một khái niệm trừu
tượng chỉ cái tự nhiên, cái có sẵn một cách tự nhiên: "Người ta bắt chước Đất, Đất
bắt chước Trời, Trời bắt chước Đạo, Đạo bắt chước Tự nhiên". Nó là nguồn gốc
của vạn vật. Đức là biểu hiện cụ thể của Đạo trong từng sự vật. Đạo sinh ra vạn vật,
nhưng làm cho vật nào hình thành ra vật ấy và tồn tại được trong vũ trụ là do Đức.
Nếu Đạo là cái Tĩnh vô hình thì Đức là cái Động hữu hình của Đạo. Nếu Đạo là
bản chất của vũ trụ thì Đức là sự cấu tạo và tồn tại của vũ trụ
Sự sinh hóa từ Đạo ra Đức, từ Đức trở về Đạo ở Đạo gia thấm nhuần sâu sắc
tinh thần biện chứng âm dương. Được chi phối bởi luật quân bình âm dương, vạn
vật tồn tại theo lẽ tự nhiên một cách rất hợp lý, công bằng, chu đáo, và do vậy mà
mầu nhiệm. Hợp lý, vì theo Đạo gia, lẽ tự nhiên giống như việc giương cung, cao
thì ghìm xuống, thấp thì nâng lên. Công bằng, vì nó luôn bớt chỗ thừa mà bù vào
chỗ thiếu. Chu đáo, vì nó như cái lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt. Bởi vậy
mà nó mầu nhiệm tới mức không cần tranh mà chiến thẳng, không cần nói mà ứng
nghiệm. Mọi sự bất cập hay thái quá đều trái với lẽ tự nhiên, và do vậy sẽ tự điều
chỉnh theo luật âm dương chuyển hóa: "vật hễ bớt thì nó thêm, thêm thì nó bớt".
2



Từ đây, Đạo gia suy ra triết lý sống tối ưu là muốn làm việc gì, phải đi từ điểm
đối lập, phải vô vi (không làm). Vô vi không có nghĩa là hoàn toàn không làm gì,
mà là hòa nhập với tự nhiên, đừng làm gì thái quá. Vì làm thái quá thì theo luật âm
dương "vật cực tắc phản", kết quả thu được còn tệ hại hơn là hoàn toàn không làm
gì. Triết lý vô vi áp dụng vào đời sống cá nhân là "chỉ vì không tranh nên thiên hạ
không ai tranh nổi với mình". Áp dụng vào đời sống xã hội, Đạo gia không tán
thành lối cai trị cưỡng chế, áp đặt đương thời, ông nói muốn dân yên ổn thì cai trị
một nước phải "giống như kho một nồi cá nhỏ": cá nhỏ nên để yên, không cạo vẩy,
không cắt bỏ ruột, khi kho không quấy đảo – cạo, cắt, khuấy đảo chỉ tổ làm cho cá
nát. Đạo chẳng phải cái gì khác ngoài sự phạm trù hóa triết lý tôn trọng tự nhiên;
còn Đức chính là sự phạm trù hóa luật âm dương biến đổi. Khổng thì "nhập thế",
"hữu vi", còn Lão thì "xuất thế", "vô vi". Đạo đức kinh của Đạo gia là một tác
phẩm chứa một số quan điểm siêu hình học có giá trị lớn của triết học Trung
Hoa[1] chính vì vậy Hegel từng nhận xét Đạo gia xứng đáng là người đại diện cho
tinh thần phương Đông cổ đại[2]. Trong khi đạo của Khổng Tử hết sức thực tế vẫn
không được dùng thì dễ hiểu là triết lý của Đạo gia càng không thể được sử dụng.
Đạo gia phàn nàn: "Lời nói của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm, thế mà thiên hạ không ai
hiểu, không ai làm". Mãi đến Trang Tử (khoảng 369 – 286 tr.CN), học thuyết của
Đạo gia mới lại được người đời chú ý.
Trong lĩnh vực nhận thức, phát triển tư tưởng biện chứng của Đạo gia, Trang
Tử đã tuyệt đối hóa sự vận động, xóa nhòa mọi ranh giới giữa con người với thiên
nhiên, giữa phải và trái, giữa tồn tại và hư vô, đẩy phép biện chứng thành một thứ
tương đối luận. Trong lĩnh vực xã hội, nếu như Đạo gia chỉ dừng ở mức không tán
thành cách cai trị hữu vi, thì Trang Tử căm ghét kẻ thống trị đến cực độ; ông không
chỉ bất hợp tác với họ mà còn nguyền rủa, châm biếm họ là bọn đại đạo (kẻ trộm
lớn). Nhưng Trang Tử đẩy phép vô vi với chủ trương sống hòa mình với tự nhiên
của Đạo gia thành chủ yếm thoát thế tục, trở về xã hội nguyên thủy: "Núi không
3



đường đi, đầm không cầu thuyền, muôn vật sống chung, làng xóm liên tiếp cùng ở
với cầm thú". Trong cảnh loạn li cuối thời Đông Hán (thế kỷ thứ 2), tư tưởng của
Đạo gia cộng với chất duy tâm mà Trang Tử đưa vào đã trở thành cơ sở cho việc
thần bí hóa đạo gia thành Đạo giáo. Chủ trương vô vi cùng với thái độ phản ứng
của Lão – Trang đối với nền chính trị Trung Hoa cùng tính chất thần bí tôn giáo
khiến cho Đạo giáo rất thích hợp để dùng vũ khí tinh thần tập hợp nông dân khởi
nghĩa.
Đạo giáo thờ "Đạo" và tôn Đạo gia làm giáo chủ, gọi là "Thái Thượng Lão
Quân", coi ông là hóa thân của "Đạo" giáng sinh xuống cõi trần. Nếu mục đích của
việc tu theo Phật giáo là thoát khổ thì mục đích của việc tu theo Đạo giáo là sống
lâu. Đạo giáo có hai phái: Đạo giáo phù thủy dùng các pháp thuật trừ tà trị bệnh,
chủ yếu giúp cho dân thường khỏe mạnh; Đạo giáo thần tiên dạy tu luyện, luyện
đan, dành cho các quý tộc cầu trường sinh bất tử. Kinh điển của Đạo giáo gọi là
Đạo tạng kinh; ngoài sách về nghi lễ, giáo lý, Đạo tạng còn bao gồm cả các sách
thuốc, dưỡng sinh bói toán, tướng số, coi đất, thơ văn, bút ký… tổng cộng lên đến
trên 5000 quyển.
Đạo giáo thần tiên hướng tới việc tu luyện thành thần tiên trường sinh bất tử.
Tu tiên có hai cách: nội tu và ngoại dưỡng. Ngoại dưỡng là dùng thuốc trường sinh,
gọi là kim đan (hay linh đan, thu được trong lò bằng cách luyện từ một số khoáng
chất như thần sa, hùng hoàng, từ thạch, vàng). Nội tu là rèn luyện thân thể, dùng
các phép tịch cốc (nhịn ăn), dưỡng sinh, khí công… lấy thân mình làm lò luyện,
luyện tinh thành khí, luyện khí thành thần, luyện thần trở về hư vô (Đạo). Con
người cũng như vạn vật là từ "Đạo" mà sinh ra; cho nên tu luyện là trở về với
"Đạo".
2. Quan điểm của Đạo gia về vấn đề Bản thể luận
Thuật ngữ bản thể luận (ontology) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp mang
nghĩa là những lời lẽ, học thuyết… tạo thành “Học thuyết về tồn tại”. Theo nghĩa
này bản thể luận được hiểu là học thuyết triết học về thực tồn nói chung, hoàn toàn

4


độc lập với các dạng tồn tại cụ thể của nó. Hay nói cách khác, bản thể luận là quan
niệm, luận thuyết về tồn tại.
Bản thể luận là một trong những nội dung cơ bản của triết học luôn được các
nhà triết học đề cập đến bất luận theo quan điểm, trường phái nào. Những quan
điểm về bản thể luận có thể rất khác nhau, nhưng tựu chung lại theo cách này hay
cách khác, ở trình độ lý luận hay chỉ là những quan niệm có tính hệ thống thì đều
nhằm tới việc lý giải sự tồn tại hiện thực trên lát cắt cội nguồn, khởi nguyên của nó.
Trong tư tưởng triết học của Đạo gia, về bản thể luận, "Đạo" là phạm trù
quan trọng nhất, ông cho rằng mọi sự sinh thành, biến hóa của vạn vật đều từ "Đạo"
mà ra. "Đạo" của Đạo gia nhiều khi được dùng như một thuật ngữ để chỉ về trật tự
của tự nhiên, về tính quy luật: "Người theo quy luật của đất, đất theo quy luật của
trời, trời theo quy luật của "đạo", "đạo" theo quy luật của tự nhiên"; nhiều khi Đạo
gia lại dùng "Đạo" để hình dung vạn vật, có chỗ ông lại cho "Đạo” là cái có trước
vạn vật; có trước hiện tượng đầu tiên: "Đạo" sinh ra "khí thống nhất", "khí thống
nhất" sinh ra hai thứ "âm dương" đối lập, hai thứ "âm dương" đối lập sinh ra ba lực
lượng "trời, đất, người"; ba lực lượng đó sinh ra vạn vật"." Đạo" của Đạo gia là một
thứ rất huyền bí, thoát trần, không thể dùng ngôn ngữ, khái niệm để nói và nhận
thức về nó: cái "đạo" có thể dùng lời nói để diễn đạt không phải là đạo vĩnh hằng
không thay đổi, cái tên có thể nói ra được không phải là tên vĩnh hằng không thay
đổi, cái không tên là nguồn gốc của vạn vật, cái có tên là mẹ của vạn vật", nghĩa là
vượt ra ngoài nhận thức của loài người.
Trong lý luận bản thể của Đạo gia, gắn liền với phạm trù "Đạo” còn có phạm
trù "Đức". Nếu như "Đạo" là một vật siêu tự nhiên, thần bí khó hiểu thì "Đức" là
thứ "lý sâu sắc và phổ biến", là "hình dáng của vật", tương đương với tính quy luật
tồn tại và vận động của vạn vật: "Đạo làm cho vạn vật sinh trưởng, Đức làm cho
vạn vật tươi tốt", "Đạo quán triệt cả thiên hạ, Đức của nó sẽ trở nên phổ biến... Ta
có thể biết được thiên hạ là nhờ đã dựa vào điểm đó", và như vậy có nghĩa là ngtlòi

ta có thế nhận thức được. Đây rõ ràng là nhản tố duy vật trong tư tường triết học về
5


bản thể của Lảo Tử, nhưng tiếc rằng ông đã không nhấn mạnh đến điểm này. ông
cho rằng, nếu con người đi sâu vào tìm hiểu ''định lý bên ngoài” (tức là quy luật của
vạn vật khách quan) thì sẽ "thất đức", vì “định lý bên ngoài" thì có còn có mất, có
sống có chết bất thường, mà con người cứ đi tìm theo tính chất bất thường ấy sẽ
không thể trở về với "Đạo" được2.
Xuất phát từ quan niệm "Đạo" như là "tính quy luật của tự nhiên'', như một
"thực thể" tinh thần tuyệt đối, Đạo gia đã tiến hơn Khổng Tử một bước trong kết
luận về nguồn gốc của lịch sử tự nhiên. Nếu "Đạo trời", "Tiên vương" (nhân cách
hóa tự nhiên) của Khổng Tử còn có tính duy tâm, cảm tính tôn giáo thì "Đạo" của
Đạo gia (tất nhiên suy đến cùng cũng là duy tâm) đã được trừu tượng, lý tính hóa ở
mức cao. Do vậy, ông cũng đã gián tiếp phủ nhận hữu thần luận; ông nói: "Tính tự
nhiên của vạn vật" "có thể làm quỷ thần không thể tác quái", "sự tác quái của quỷ
thần không thể hại người"
Những quan điểm về bản thể luận trong triết học Đạo gia, mặc dù còn có một
số điểm hạn chế xét từ phương diện nhận thức luận mácxít, nhưng nó là sự thể hiện
một cách đặc sắc nhất những tư tưởng biện chứng tinh tế đến phi thường và sự khai
phóng những cảm nhận tâm linh vượt ra ngoài mọi thực chứng cho sự tồn tại không
phải lúc nào cũng chứng minh và giải thích được từ phương diện khoa học của thế
giới. Đó chính là điểm tích cực của triết học Phật giáo.
3. Những đóng góp và hạn chế của Đạo gia trong đời sống xã hội Việt Nam
hiện nay
3.1. Những đóng góp của Đạo gia trong đời sống xã hội Việt Nam
Đạo giáo Việt Nam là Đạo Giáo đã được bản địa hóa khi du nhập từ Trung
Quốc vào Việt Nam. Đạo giáo từng là một trong ba triết thuyết có ảnh hưởng lớn
nhất ở Việt Nam trong lịch sử tuy nhiên hiện nay Đạo giáo với tư cách một tôn giáo
gần như đã tàn lụi chỉ còn lại những vết tích trong thư tịch, đền chùa, sinh hoạt dân

gian...
2

ngày 19/9/2019.

6


Ngược thời gian trở về thời điểm cuối thể kỷ thứ II, Đạo giáo có hai phái tu
là nội tu và ngoại dưỡng, phái nội tu phổ biến ở Việt Nam hơn. Thời Bắc thuộc,
Đạo giáo chỉ phổ biến trong dân gian, đến thời phong kiến độc lập, các nhà
Đinh, Lê, Lý, Trần đều coi trong các đạo sỹ không kém các tăng sư, bên cạnh Tăng
quan còn có cả Đạo quan. Đạo giáo đi vào Việt Nam, đặc biệt là Đạo giáo phù
thủy, tìm thấy ngay rất nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng ma thuật của người
dân Việt nên Đạo giáo ăn sâu vào người Việt rất dễ dàng. Trước đó người Việt đã
từng sùng bái ma thuật, phù phép. Họ tin rằng những lá bùa, những câu thần chú có
thể chữa được bệnh tật và trị được tà ma. Tương truyền Hùng Vương vì giỏi phù
phép nên có uy tín thu thập được 15 bộ để lập nên nước Văn Lang. Dưới thời Bắc
thuộc, Đạo giáo rất phát triển ở Việt Nam. Nhiều quan lại Trung Hoa sang Việt
Nam cai trị đều thích phương thuật, ví dụ Cao Biền đời Đường từng "cưỡi diều tìm
long mạch" để triệt nguồn nhân tài Việt Nam. Thế nên, nếu Nho giáo phải đến thời
Lý mới được thừa nhận thì Đạo giáo hòa trộn với tín ngưỡng ma thuật đến mức
không còn ranh giới.Thời Bắc thuộc, Đạo giáo chỉ phổ biến trong dân gian, đến
thời phong kiến độc lập, các nhà Đinh, Lê, Lý, Trần đều coi trong các đạo sỹ không
kém các tăng sư, bên cạnh Tăng quan còn có cả Đạo quan.
Vào thế kỷ thứ 18, dưới đời vua Lê Thần Tông, xuất hiện một trường phái
Đạo giáo Việt Nam có tên Nội Đạo. Người sáng lập là Trần Toàn quê ở Thanh Hóa,
đạo có đến 10 vạn tín đồ và Trần Toàn được coi là Thượng sư. Tương truyền, vua
Lê Thần Tông bị bệnh mọc lông cọp, Trần Toàn dùng thần chú mà chữa khỏi. Phái
đạo này phát triển từ Thanh Hóa vào đến Nghệ An rồi lan ra Bắc đến tận Hà Nội.

Khoảng đầu những năm 1920, hàng vạn tín đồ còn tập hợp ở Giảng Võ, Hà Nội để
cúng lễ và chữa bệnh.
Từ đời Lê Trung Hưng, Đạo giáo bắt đầu suy thoái, những đạo quán bị Phật
giáo hóa, trở thành chùa. Bên cạnh tượng các thánh của Đạo giáo còn có thêm
tượng Phật.
7


Ngày nay, Đạo giáo Việt Nam với tư cách là một tôn giáo không còn tồn tại
nữa, tuy nhiên những ảnh hưởng của nó đến tư duy và đời sống xã hội của người
Việt thì vẫn còn.
- Triết lý vô vi hay khái niệm âm dương vẫn được nhiều người biết đến. Học
thuyết âm dương của Đạo giáo vẫn là nền tảng lý luận của y học cổ truyền Việt
Nam
- Thuật phong thủy, các phương pháp dưỡng sinh, các môn võ thuật, các hình
thức bói toán, cúng bái, trừ tà của Đạo giáo vẫn phổ biến tại Việt Nam.
- Tại Hà Nội vẫn còn một số đạo quán của Đạo giáo như Thăng Long tứ quán
bao gồm Trấn Vũ quán, nay gọi là đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh; Huyền
Thiên quán, nay là chùa Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai; Đồng Thiên quán, nay là
chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành; Đế Thích quán, nay là chùa Vua ở phố Thịnh
Yên3
3.2. Những hạn chế của Đạo gia trong đời sống xã hội Việt Nam
Thứ nhất, Tư tưởng Đạo gia sẽ dẫn chúng ta đến với chủ nghĩa duy tâm thần
bí về “đạo”, tư tưởng biện chứng tuần hoàn thô thiển, chủ nghĩa khách quan tuyệt
đối, thuyết bất khả tri…Lão tử cho rằng “Không cần ra cửa mà biết thiên hạ, không
cần nhòm qua khe cửa mà biết đạo trời”. Có yếu tố duy tâm trong tư tưởng , thể
hiện ở chỗ đề cao tư duy trừu tượng, coi khinh nghiên cứu sự vật cụ thể.
Thứ hai, tư tưởng biện chứng đó tuy đã vẽ lên bức tranh muôn hình vạn
trạng, đa dạng và phong phú về vũ trụ vạn vật, với các mặt đối lập, các mối liên hệ
phổ biến và sự vận hành thống nhất của Đạo, nhưng về cơ bản nó vẫn còn chất

phác, ngây thơ, trực quan cảm tính, tiên nghiệm. Nó chưa có sơ sở để vạch ra cái
bản chất, tất yếu bên trong của sự vật hiện tượng. Vạn vật chỉ vận động tuần hoàn,
lặp đi lặp lại một cách buồn tẻ mà không có sự ra đời của cái mới, nghĩa là không
có sự phát triển.

3

/>
ngày 20/9/2019.

8


Đạo gia chủ trương con người không nên tăng cường các hoạt động sáng tạo,
không cần mở mang trí tuệ, chấm dứt cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội, mà quay về
sống như thời nguyên thủy, đúng với bản tính tự nhiên thuần phác của một loài
động vật bậc cao được sinh ra từ “đạo”… phủ nhận mọi hoạt động thực tiễn của
con người.
Thứ ba, về đường lối trị nước an dân: Chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ
thành chất phác, chính phủ tích cực làm việc thì dân đầy tai họa. Bậc Thánh nhân
trị vì thiên hạ phải bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi, và chủ trương xóa bỏ hết mọi
ràng buộc về mặt đạo đức, pháp luật. Đạo gia chủ trương xây dựng một xã hội phi
thể chế, phi nhà nước, phi giáo dục, phi khoa học – kỹ thuật, chẳng cần văn hóa với
văn minh; một cộng đồng ít dân ngu đần ấu trĩ, sống bằng săn bắn hái lượm gắn với
trồng trọt và chăn nuôi tự cấp tự túc, khép kín hoàn toàn, không trao đổi qua lại với
bên ngoài. Đây là tư tưởng lạc hậu và thụt lùi về quan điểm chính trị - xã hội.
Thứ tư, chủ trương phải toàn sinh và vị ngã, nghĩa là phải yên theo thời gian
mà ở thuận, vì cái tự nhiên nào cũng hợp lý cả; không khen chê phải – trái, tốt –
xấu làm gì, phải lánh nạn để bảo toàn sinh mạng.Tư tưởng này khiến cho con người
nhu nhược, ích kỷ, sống vì bản thân, không biết đấu tranh vì lợi ích chung.

KẾT LUẬN
Trong lịch sử, Trung Quốc và Việt Nam là hai quốc gia có mối quan hệ lâu
đời, có sự giao lưu và ảnh hưởng về nhiều mặt rõ rệt. Những tư tưởng triết học của
Trung Quốc từ lâu đã du nhập và bén rễ trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa
và tinh thần người Việt. Đạo gia du nhập vào Việt Nam chủ yếu bằng con đường
của Đạo giáo. Tuy nhiên những tư tưởng về Bản thể luận của Đạo gia luôn có sức
ảnh hưởng không nhỏ tới bản sắc văn hóa Việt. Vì thế việc nghiên cứu những quan
điểm về con người trong Đạo gia chẳng những góp phần nâng cao sự hiểu biết về
tư tưởng triết học phái Đạo gia, mà còn góp phần tìm hiểu những ý nghĩa hiện thời
của nó đối với Việt Nam.
9


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao học

và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), Nhà xuất bản Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2006.
2.

/>
ngày 19/9/2019.
3.

/>
c126a20364.html#ixzz6051nfqyF, ngày 19/9/2019.
4.


/>
nguage/vi-VN/Default.aspx, ngày 20/9/2019.

10


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................1
1. Khái quát chung về Đạo gia..................................................................................1
2. Quan điểm của Đạo gia về vấn đề Bản thể luận....................................................5
3. Những đóng góp và hạn chế của Đạo gia trong đời sống xã hội Việt Nam hiện
nay.............................................................................................................................7
3.1. Những đóng góp của Đạo gia trong đời sống xã hội Việt Nam.........................7
3.2. Những hạn chế của Đạo gia trong đời sống xã hội Việt Nam............................8
KẾT LUẬN.............................................................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

11



×