Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên ở thành phố Hà Nội hiện nay thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.38 KB, 34 trang )

đại học quốc gia hà nội
khoa luật

trần PHúC LộC

GIáO DụC PHáP LUậT CHO THANH
THIếU NIÊN ở THàNH PHố Hà NộI
HIệN NAY
THựC TRạNG và giải pháp

Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s nh nc v phỏp lut
Mó s

: 60 38 01

TóM TắT luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội - 2010

1


C«ng tr×nh ®•îc hoµn thµnh
t¹i Khoa LuËt - §¹i häc Quèc gia
Hµ Néi
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Đức Thảo

Phản biện 1:

Phản biện 2:


Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2010


MỤC
LỤC

Trang
MỞ
ĐẦU

Trang phụ
bìa Lời cam

Chư
ơng
1:

đoan Lời cảm
ơn Mục lục


SỞ

LUẬ
N VỀ
GIÁ
O
DỤC

PHÁ
P
LUẬ
T

CHO
THANH
THIẾU
NIÊN

1.1.

Khái
niệm,
mục
đích,
nguyê
n tắc,
vai trò
giáo
dục
pháp
luật
cho
thanh
thiếu
niên

1.1.1. Khái
niệm

giáo
dục


pháp luật cho
thanh thiếu
niên
11
1.1.2 Mục đích của
giáo dục pháp
luật cho thanh
thiếu niên 18
1.1.3 Nguyên tắc
của giáo dục
pháp luật cho
thanh thiếu
niên
24
1.1.4 Vị trí, vai trò
của giáo dục
pháp luật cho
thanh thiếu
niên
35
1.2.

Chủ thể,
nội dung,
hình thức,
phương

pháp giáo
dục pháp
luật 43 cho
thanh thiếu
niên

1.2.1 Chủ thể của
giáo dục pháp
luật cho thanh
thiếu niên 43
1.2.2 Nội dung giáo
dục pháp luật
cho thanh
thiếu niên 48
1.2.3 Hình thức,
phương pháp
giáo dục pháp
luật cho thanh

thiếu niên
52
1.3

Những điều
kiện bảo
đảm giáo
dục pháp
luật cho
thanh thiếu
niên

56

1.3.1 Bảo đảm
về chính trị
tư tưởng
56
1.3.2 Bảo đảm
về pháp lý
57
1.3.3 Bảo đảm
về kinh tế
58
1.3.4 Bảo đảm
khác
59
Chương
2: THỰC
TRẠNG
GIÁO
DỤC
PHÁP
LUẬT
CHO
THANH
THIẾU
NIÊN
THÀNH
PHỐ HÀ
NỘI
HIỆN

NAY

2.1

Thực
trạng
thanh
thiếu
niên
và sự
hiểu
biết
pháp
luật
tại
thành
phố

Nội

2.1.1 Thực
trạng
thanh
thiếu
niên

Nội


2.1.2 Thực trạng hiểu biết pháp luật của thanh thiếu niên Hà Nội


66

2.2

Thực trạng giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên ở thành
phố Hà Nội hiện nay - Ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân

74

2.2.1 Ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân về chủ thể thực hiện công tác
giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên ở thành phố Hà Nội

74

2.2.2 Ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân về nội dung giáo dục pháp
luật cho thanh thiếu niên ở thành phố Hà Nội

77

2.2.3 Ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân về hình thức, phương pháp
giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên ở thành phố Hà Nội

80

2.2.4 Ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân về các điều kiện đảm bảo cho
giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên ở thành phố Hà Nội

86


Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP

88

TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO THANH THIỂU NIÊN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1

Giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên thành phố Hà Nội Yêu cầu cấp bách hiện nay

88

3.2

Quan điểm về giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên thành
phố Hà Nội

90

3.3

Một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cường giáo dục pháp luật
cho thanh thiếu niên thành phố Hà Nội hiện nay

92

3.3.1 Đổi mới, hoàn thiện nội dung giáo dục pháp luật cho thanh
thiếu niên Hà Nội


92

3.3.2 Đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật

95

3.3.3 Củng cố, phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên ở
Hà Nội

99

3.3.4 Một số biện pháp khác

101

KẾT LUẬN

104

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

106


MỞ ĐẦU
Công tác giáo dục pháp luật đã và
1. Tính cấp thiết của đề tài
đang ngày càng khẳng định vai trò là
một bộ phận không thể tách rời của quá

trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức
thực hiện pháp luật. Muốn pháp luật đi
vào đời sống xã hội, ngoài yêu cầu đảm
bảo tính đồng bộ, tính thống nhất, khả thi
và phù hợp của quy phạm pháp luật và tổ
chức thực hiện pháp luật nghiêm minh,
việc giáo dục pháp luật nhằm nâng cao
hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật
của các thành viên trong xã hội là rất
cần thiết. Chính vì vậy, hoạt động này
được Đảng và Nhà nước hết sức quan
tâm, coi đây là nhiệm vụ quan trọng,
góp phần nâng cao hiểu biết, ý thức chấp
hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Thể
chế cho công tác giáo dục pháp luật ngày
càng được tăng cường.
Tuy nhiên, việc triển khai công tác
giáo dục pháp luật còn bộc lộ những khó
khăn, hạn chế; hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về giáo dục pháp luật còn nhiều
bất cập; việc giáo dục pháp luật ở
nhiều nơi vẫn còn mang tính phong trào,
chưa đi sâu vào những nội dung pháp luật
mà người dân cần. Hình thức giáo dục
pháp luật mặc dù đã được áp dụng khá đa
dạng, phong phú, song nhìn chung hiệu
quả còn chưa cao; việc huy động nguồn
lực tạo điều kiện cho công tác giáo dục
pháp luật chưa được tiến hành một cách
đồng bộ, rộng khắp; đội ngũ báo cáo

viên, giáo viên, giảng viên thực hiện
công tác giáo dục pháp luật ở nhiều nơi
còn thiếu về số lượng, trình độ chuyên
môn còn hạn chế và chưa đồng đều, đặc


biệt là ở cơ sở; kinh phí, cơ sở việc giáo dục pháp luật cho thanh thiếu
vật chất, phương tiện làm việc niên ở Hà Nội là vấn đề đòi hỏi được
dành cho công tác giáo dục pháp
luật nhìn chung còn rất hạn chế,
chưa đáp ứng được yêu cầu của
công tác này, nhất là ở địa
phương, cơ sở.
Do vậy, việc tìm hiểu thực
trạng giáo dục pháp luật và đề
xuất giải pháp nâng cao hiệu quả
giáo dục pháp luật đang là yêu
cầu bức thiết hiện nay. Đặc biệt,
trước tình hình vi phạm pháp
luật của thanh thiếu niên ở Hà
Nội đang ngày càng diễn biến
phức tạp, gia tăng về số lượng và
tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi vi phạm, yêu cầu tăng
cường công tác giáo dục pháp luật
cho thanh thiếu niên ở Hà Nội
đang được các Bộ, ban, ngành, cơ
quan, tổ chức có chức năng,
nhiệm vụ giáo dục pháp luật
quan tâm và trăn trở để tìm ra

giải pháp thiết thực, hữu hiệu
hơn. Trên thực tế, công tác
tuyên truyền phổ biến giáo dục
pháp luật cho thanh thiếu niên tại
Thủ đô Hà Nội tuy đã được các
sở, ban, ngành đoàn thể quan tâm
đầu tư nhưng do nhiều yếu tố
khách quan, chủ quan công tác
này vẫn chưa đạt hiệu quả cao,
đặc biệt trong bối cảnh Hà Nội
mở rộng. Những điều kiện để
thanh thiếu niên tiếp nhận thông
tin mới, các đường lối chủ
trương của Đảng và Nhà nước
còn hạn chế. Điều đó cho thấy


quan tâm kịp thời. Trước tình hình đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Giáo dục
pháp luật cho thanh thiếu niên thành phố Hà Nội hiện nay - Thực trạng và
giải pháp” để nghiên cứu và viết luận án thạc sỹ luật học.
2. Tình hình và phạm vi nghiên cứu của luận văn
2.1. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu về giáo dục pháp luật dưới góc độ khoa học pháp lý đã
được các nhà khoa học Việt Nam quan tâm từ rất lâu. Cho đến nay có nhiều
công trình nghiên cứu về giáo dục pháp luật của tập thể, cá nhân đã được công
bố dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau.
Thứ nhất là những nghiên cứu về vấn đề lý luận chung của giáo dục
pháp luật, gồm khái niệm, mục đích, vai trò, ý nghĩa, đối tượng, nội dung, hình
thức của giáo dục pháp luật. Trong các công trình nghiên cứu này, công tác
giáo dục pháp luật được nghiên cứu, thực hiện đối với mọi tầng lớp nhân dân

nói chung và chủ yếu ở bình diện lý thuyết.
Thứ hai là những nghiên cứu về giáo dục pháp luật cho các đối tượng
cụ thể nhằm lý giải những đặc thù và tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu
quả giáo dục pháp luật cho từng đối tượng. Những nghiên cứu này đi sâu vào
đặc thù của giáo dục pháp luật cho các đối tượng đặc biệt nên những đề xuất
giải pháp có những nét riêng, tương ứng với những đối tượng nghiên cứu. Rõ
ràng giáo dục pháp luật cho các sĩ quan quân đội nhân dân phải có nội dung,
hình thức và phương pháp hoàn toàn khác với giáo dục pháp luật cho nhân dân
nói chung, và cũng khác với việc giáo dục pháp luật cho người dân tộc ít
người, hoặc cho cán bộ quản lý hành chính nhà nước.
Thứ ba là nghiên cứu giáo dục pháp luật trong mối quan hệ với các nội
dung khác như với ý thức pháp luật, lối sống theo pháp luật, với tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, với việc hình thành nhân cách ở thanh thiếu niên...
Trong những mối liên hệ này, giáo dục pháp luật đóng vai trò nền tảng, cơ sở
để hình thành ý thức pháp luật, lối sống theo pháp luật.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu khoa học của tập thể, cá nhân, các
bài viết của các tác giả từ trước đến nay về giáo dục pháp luật đã đóng góp rất
nhiều các vấn đề cơ bản cả về vấn đề lý luận và thực tiễn dưới nhiều góc độ
khác nhau về giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, về khía cạnh giáo dục pháp luật
cho thanh thiếu niên ở Hà Nội thì chưa có một công trình nào nghiên cứu một
cách đầy đủ và có hệ thống.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: đề tài chỉ khảo sát sơ lược tình hình giáo dục pháp luật
trong cả nước và đi sâu vào điều tra số liệu, phân tích thực trạng công tác
giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên ở Hà Nội.


- Phạm vi thời gian: luận văn khảo sát các số liệu thống kê liên quan đến
thực trạng giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên trong khoảng 10 năm từ năm
1999 đến năm 2009.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích lý luận và đánh giá thực trạng giáo dục pháp luật cho
thanh thiếu niên thành phố Hà Nội, đề tài đề xuất những giải pháp nhằm
tăng cường công tác giáo dục pháp luật thanh thiếu niên thành phố Hà Nội hiện
nay.
3.2 Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Phân tích một số vấn đề lý luận chung về giáo dục pháp luật, luận văn phân
tích rõ đặc điểm, mục đích, vai trò và nguyên tắc giáo dục pháp luật cho
thanh thiếu niên.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân thực trạng của công
tác giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên thành phố Hà Nội.
- Đề xuất giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho thanh
thiếu niên thành phố Hà Nội.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng về xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, về giáo dục pháp luật nói chung và cho
đối tượng là thanh thiếu niên nói riêng.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng với các phương pháp: lịch sử - cụ thể, phân tích, tổng hợp, kết hợp
với các phương pháp nghiên cứu khác: thống kê, so sánh, điều tra xã hội học...
5. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và tương đối
toàn diện về giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên thành phố Hà Nội, nêu
được khái niệm và đặc trưng giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên. Vì vậy,
luận văn có những đóng góp khoa học cụ thể sau: Luận văn đề xuất phương
hướng và giải pháp cơ bản để tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho thanh
thiếu niên thành phố Hà Nội.

6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận về giáo dục pháp luật,
làm rõ tính đặc thù của công tác giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên.


- Luận văn góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm chỉ đạo tổ chức hoạt
động thực tiễn của các cơ quan Đảng và Nhà nước trong việc giáo dục
pháp luật cho thanh thiếu niên nói chung và thanh thiếu niên thành phố Hà Nội


nói riêng. Đồng thời, đây là tài liệu hữu ích cho việc hoạch định chính sách đối
với thanh thiếu niên. Luận văn cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho những
giáo viên, cán bộ, giảng viên làm công tác giáo dục pháp luật nói chung và giáo
dục pháp luật cho thanh thiếu niên nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên
Chương 2. Thực trạng giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên thành
phố Hà Nội hiện nay
Chương 3. Quan điểm và giải pháp tăng cường giáo dục pháp luật
cho thanh thiếu niên thành phố Hà Nội


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO THANH THIẾU NIÊN
1.1. Khái niệm, mục đích, nguyên tắc, vai trò giáo dục pháp luật cho thanh
thiếu niên
1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên
Trong tài liệu, sách báo ở nước ta, khái niệm giáo dục pháp luật chưa

được hiểu một cách thống nhất, cụ thể, rõ ràng. Có ít nhất 5 quan điểm nhìn
nhận khái niệm giáo dục pháp luật ở các khía cạnh khác nhau. Trong khoa học
pháp lý, giáo dục pháp luật được hiểu trên cơ sở các nội dung mang tính lý
luận và thực tiễn sau:
Thứ nhất, giáo dục pháp luật là sự tác động của nhân tố chủ quan, do
các chủ thể có năng lực làm công tác giáo dục tiến hành. Quá trình hình thành
ý thức của con người là quá trình ảnh hưởng, tác động thống nhất của các điều
kiện khách quan và các nhân tố chủ quan, trong đó, các điều kiện khách quan
đóng vai trò là những nhân tố ảnh hưởng, còn các nhân tố chủ quan đóng vai
trò là những nhân tố tác động. Nhân tố ảnh hưởng có thể là tự phát, theo chiều
này hoặc chiều khác và mức độ “đậm, nhạt” có thể khác nhau. So sánh với nó,
nhân tố trực tiếp hơn và bao giờ cũng là nhân tố tự giác, có ý thức, có chủ
định theo một hướng nhất định. Vì giáo dục pháp luật là sự tác động của nhân
tố chủ quan, do các chủ thể có năng lực làm công tác giáo dục tiến hành nên,
bản thân chủ thể giáo dục pháp luật, với chức năng, nhiệm vụ cụ thể của mình,
luôn luôn đặt ra mục đích nhất định để từ đó tiến hành những biện pháp, hình
thức nhằm hình thành ở chủ thể những yếu tố chủ quan, trước hết là tri thức,
hiểu biết, tư tưởng, thái độ, tình cảm ngày càng tốt hơn, đầy đủ hơn về pháp
luật. Đó là hoạt động có định hướng, có tổ chức thông qua nội dung, chương
trình, phương pháp cụ thể của nhiều chủ thể (các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội, nhà trường...). Đây chính là thiên chức của giáo dục tiến
bộ, trong đó có giáo dục pháp luật.
Thứ hai, giáo dục pháp luật là hình thức cụ thể, là “cái riêng, cái đặc
thù” trong mối quan hệ với giáo dục nói chung, là “cái chung, cái phổ biến”.
“Cái riêng, cái đặc thù” của giáo dục pháp luật được thể hiện ở các điểm sau:
- Đó là hoạt động nhằm hình thành tri thức, tình cảm pháp luật ở mỗi cá nhân
(là đối tượng của giáo dục pháp luật), hình thành thói quen xử sự, nếp sống
phù hợp với quy định của pháp luật, để từ đó cá nhân tuân thủ pháp luật một
cách tự giác, có thái độ và hành vi đúng đắn, tích cực trong việc sử dụng
pháp luật. Như vậy, mục đích của giáo dục pháp luật là hình thành “môi

trường chủ quan” thuận lợi, phù hợp để từ đó chủ thể có định hướng hành vi
xã hội của mình theo những “chuẩn” mà pháp luật quy định, góp phần tích
cực tăng cường hiệu lực, hiệu quả của pháp luật. Mục đích của giáo dục pháp
luật không chỉ mang ý nghĩa tư tưởng mà còn mang ý nghĩa thực tiễn thiết
thực, rõ ràng và rất cụ thể.


- Giáo dục pháp luật có nội dung riêng của mình. Đó là sự tác động định hướng
để chuyển tải nội dung pháp luật (nguyên tắc, giá trị của pháp luật, các quy
phạm pháp luật). Những nội dung này phản ánh trong nó về các hiện tượng nhà
nước (phương diện pháp lý của nó) và các hiện tượng xã hội khác như quan hệ
xã hội, trách nhiệm xã hội, được thể hiện thông qua hình thức pháp lý.
Chẳng hạn, khi giáo dục về trách nhiệm của con người trong xã hội, giáo dục
đạo đức đề cập phương diện đạo lý của trách nhiệm, còn giáo dục pháp luật đề
cập nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý với những dạng hành vi bắt buộc, loại quan
hệ pháp luật đặc biệt.
- Xét trên các vấn đề chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức và phương pháp
giáo dục pháp luật thì giáo dục pháp luật cũng có những nét riêng. Chủ thể
giáo dục pháp luật, trước hết phải có tri thức cần thiết về pháp luật và đời
sống pháp luật, phải hiểu biết được đặc điểm nhân thân, hoàn cảnh, môi trường
của đối tượng, phải biết cách truyền tải những nội dung về pháp luật đến đối
tượng và phải là hình mẫu trong việc tuân theo pháp luật. Đặc biệt, chủ thể giáo
dục pháp luật phải có khả năng minh hoạ những vấn đề xảy ra trong đời sống
mà có ý nghĩa pháp lý dưới những thuật ngữ, những nguyên tắc, những quy
định pháp luật cụ thể. Thiếu khả năng này ở chủ thể giáo dục pháp luật thì hoạt
động giáo dục pháp luật mất đi ý nghĩa thiết thực của nó.
- Xét về vị trí vai trò trong hệ thống giáo dục thì giáo dục pháp luật có vai trò chi
phối rất lớn đối với các dạng giáo dục chính trị - xã hội khác. Giáo dục pháp
luật trong nhiều trường hợp là yếu tố hỗ trợ mạnh mẽ cho các loại hình giáo
dục khác như giáo dục thẩm mỹ, giáo dục đạo đức, tâm lý...

Thứ ba, giáo dục pháp luật không đồng nhất với khái niệm hình thành ý
thức pháp luật của cá nhân. Sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm của
điều kiện khách quan lẫn sự tác động định hướng của nhân tố chủ quan. Hay
nói cách khác, ý thức pháp luật của cá nhân với tư cách là chủ thể của các quan
hệ xã hội được hình thành, phát triển dưới sự ảnh hưởng của kinh nghiệm cá
nhân và thông tin thu nhận được từ các “kênh” thông tin pháp luật, trong đó có
“kênh” giáo dục pháp luật. Trong quá trình này, những hiện tượng, sự kiện
“ngược chiều”, trực diện có ảnh hưởng rất lớn (ví dụ, cán bộ trực tiếp thi hành
pháp luật mà vi phạm pháp luật). Tuy nhiên, nếu hoạt động giáo dục pháp luật
thể hiện đúng định hướng, với bản lĩnh khoa học, khách quan thì không phải
lúc nào các hiện tượng “ngược chiều” này cũng gây được ảnh hưởng lớn. Như
vậy, giáo dục pháp luật dù chỉ là một yếu tố của quá trình hình thành ý thức
pháp luật ở cá nhân con người nhưng lại là yếu tố đóng vai trò chủ đạo bởi nó
là quá trình tác động của nhân tố chủ quan.
Mặt khác, khái niệm giáo dục pháp luật và hình thành ý thức pháp luật có
quan hệ mật thiết với nhau. Giáo dục pháp luật nội hàm trong khái niệm rộng
lớn hơn nó là hình thành ý thức pháp luật. Sự phân biệt này có ý nghĩa cả về lý


luận và thực tiễn. Đó là vì, suy cho cùng thì ý thức pháp luật của cá nhân bị quy
định bởi các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bởi phong tục, tập
quán truyền thống, bởi thực tiễn pháp lý... Song, không thể nói rằng yếu tố chủ
quan không có vai trò gì. Khi mà tri thức, tình cảm và thói quen xử sự theo
pháp luật chưa hình thành đẩy đủ và các điều kiện khách quan chưa thuận lợi
thì nhân tố chủ quan hết sức quan trọng. Việc tăng cường nỗ lực chủ quan,
bằng hoạt động có tổ chức, kế hoạch, có bước đi thích hợp, có định hướng, có ý
thức tự giác cao của chủ thể giáo dục pháp luật sẽ góp phần quan trọng giúp
hình thành sớm tri thức, tình cảm, thái độ và nếp sống tuân theo pháp luật ở đối
tượng giáo dục.
Như vậy, từ những phân tích nêu trên, có thể rút ra kết luận về giáo dục

pháp luật như sau: giáo dục pháp luật là một hoạt động có định hướng, có tổ
chức, có chủ đích của chủ thể giáo dục thông qua các hình thức, phương pháp
khác nhau tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống nhằm hình
thành ở họ một cách bền vững tri thức pháp lý, ý thức pháp luật, tình cảm,
niềm tin và hành vi phù hợp với pháp luật hiện hành, xây dựng lối sống theo
pháp luật.
Khái niệm thanh thiếu niên (ghép từ thanh niên và thiếu niên) được xây
dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được
cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia.
Mỗi quốc gia khác nhau thì có những quy định cụ thể về độ tuổi thanh niên và
thiếu niên khác nhau.
Theo quan niệm quốc tế (Công ước về Quyền trẻ em ngày 20-11-1989,
Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành
niên ngày 14-12-1990) thì trẻ em (Child) là người dưới 18 tuổi, người chưa
thành niên (Juvenile) là người từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên (Youth) là người từ
15 đến 24 tuổi, người trẻ tuổi (Young persons) bao gồm trẻ em, người chưa
thành niên và thanh niên.
Ở Việt Nam, theo Điều 1 Luật Thanh niên thì: “Thanh niên là công dân
Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi”[19]. Thiếu niên là người trong
độ tuổi kết nạp Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh: từ mười đến mười lăm
tuổi.
Như vậy, trong phạm vi nghiên cứu này, “thanh thiếu niên được hiểu là
người ở độ tuổi từ mười đến ba mươi tuổi”. Và giáo dục pháp luật cho thanh
thiếu niên là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ đích của chủ thể
giáo dục thông qua các hình thức, phương pháp khác nhau tác động lên thanh
thiếu niên một cách có hệ thống nhằm hình thành ở họ một cách bền vững tri


thức pháp lý, ý thức pháp luật, tình cảm, niềm tin và hành vi phù hợp với pháp
luật hiện hành, xây dựng lối sống theo pháp luật.



1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên
Việc xác định mục đích cụ thể của từng loại hình giáo dục trong đó có
giáo dục pháp luật phải đảm bảo phản ánh được các nhu cầu cụ thể của xã hội,
phù hợp các điều kiện khách quan, chủ quan trong từng thời kỳ để cho mục
đích đó có thể trở thành hiện thực. Đồng thời, bản thân mục đích này không thể
là sự xác định chủ quan “duy ý chí” mà phải phản ánh được trong nó hiện thực
tiến hành công tác giáo dục pháp luật, phải có quan hệ trực tiếp với công tác
này. Từ đó, việc xác định đúng đắn mục đích giáo dục pháp luật sẽ giúp ích cho
việc xác định nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục pháp luật, nâng cao hiệu
quả của hoạt động giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật cho
thanh thiếu niên nói riêng. Vì vậy, căn cứ vào các đòi hỏi khi xác định mục
đích giáo dục pháp luật, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng các mục đích sau đây là
phù hợp hơn cả:
- Thứ nhất là trang bị, cung cấp, bồi dưỡng và nâng cao tri thức pháp luật, căn cứ
vào đặc điểm của từng loại đối tượng, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể.
- Thứ hai là hình thành, tạo dựng lòng tin vào pháp luật.
- Thứ ba là xây dựng thói quen vững chắc, xử sự theo những đòi hỏi của pháp
luật (hình thành lối sống tuân theo pháp luật).
Giữa các mục đích đó có quan hệ qua lại thống nhất chặt chẽ, từ ý thức
pháp luật đến tính tự giác, từ tính tự giác tới tính tích cực, từ tính tích cực đến
thói quen xử sự theo pháp luật và từ thói quen hành động, sử dụng pháp luật lại
xuất hiện nhu cầu lĩnh hội tri thức pháp luật. Nếu giáo dục pháp luật được tiến
hành thỏa mãn cả ba mục đích này thì từ chỗ là yếu tố tác động từ bên ngoài
đối với đối tượng, nó sẽ trở thành nội tâm của chính đối tượng. Đây là một đòi
hỏi rất quan trọng mà công tác giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp
luật cho thanh thiếu niên nói riêng phải đáp ứng.
1.1.3. Nguyên tắc giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên
Để đảm bảo hiệu quả trong công tác giáo dục pháp luật cho thanh thiếu

niên, những người làm công tác này cần luôn chú ý đến những nguyên tắc sau:
- Đề cao tính Đảng trong giáo dục pháp luật;
- Bảo đảm tính giai cấp trong giáo dục pháp luật;
- Nguyên tắc dân chủ;
- Nguyên tắc khoa học;
- Nguyên tắc đồng bộ, toàn diện;
- Giáo dục pháp luật cần bảo đảm tính đại chúng: phù hợp với đối tượng, dễ
hiểu, dễ nhớ, dễ áp dụng.


1.1.4. Vị trí, vai trò của giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên
- Giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai thực hiện pháp
luật;
- Giáo dục pháp luật là một bộ phận quan trọng trong giáo dục chính trị, tư
tưởng;
- Giáo dục pháp luật giúp đối tượng nhận thức được giá trị, vai trò của pháp
luật;
- Giáo dục pháp luật giúp hình thành ý thức pháp luật và đạo đức;
- Giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên góp phần quan trọng vào hình thành
nhân cách của thanh thiếu niên.
1.2.Chủ thể, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật cho thanh
thiếu niên
1.2.1. Chủ thể của giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên
Chủ thể của giáo dục pháp luật là tất cả những người mà theo chức năng,
nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội, đã tham gia góp phần thực hiện các mục tiêu
giáo dục pháp luật. Căn cứ vào tính chuyên nghiệp trong hoạt động có thể chia
chủ thể giáo dục pháp luật thành hai nhóm: chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể
không chuyên nghiệp.
Chủ thể chuyên nghiệp: là người có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu, trực
tiếp, thường xuyên thực hiện nhiệm vụ giáo dục pháp luật. Đây là lực lượng

nòng cốt trong công tác giáo dục pháp luật.
Chủ thể không chuyên nghiệp: là những người mà tuy chức năng chính
không phải là giáo dục pháp luật nhưng một trong các nhiệm vụ của họ là bằng
hoặc thông qua các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện các mục
đích giáo dục pháp luật.
Về yêu cầu đối với chủ thể giáo dục pháp luật, do đặc thù của hoạt động
giáo dục pháp luật mà chủ thể giáo dục cần có những yêu cầu sau:
- Cần có kiến thức pháp lý nhất định;
- Phải có nhiệt tình, tâm huyết, tận tuỵ với công tác giáo dục pháp luật.
- Cần có khả năng nói và viết tốt;
- Phải có khả năng hòa đồng và giao tiếp;
- Phải biết tích luỹ tư liệu, kiến thức;
- Phải có kiến thức nhất định về tâm lý học tuyên truyền;
- Phải có những hiểu biết về xã hội, phong tục, tập quán của mỗi dân tộc, mỗi
vùng miền nhất định.
17


1.2.2. Nội dung giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên
Nội dung giáo dục pháp luật là yếu tố quan trọng của quá trình giáo dục
pháp luật. Xác định đúng nội dung giáo dục pháp luật là đảm bảo cần thiết để
giáo dục pháp luật có hiệu quả. Nội dung giáo dục pháp luật cho thanh thiếu
niên cần:
-Cung cấp một cách thường xuyên, có hệ thống các loại thông tin về pháp
luật và thực tiễn thi hành, bảo vệ pháp luật.
-Mức độ nội dung giáo dục pháp luật được xác định theo từng nhóm đối tượng
cụ thể: học sinh (các cấp), sinh viên, công chức, lao động phổ thông, thanh
thiếu niên chậm tiến…
1.2.3. Hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên
Hình thức giáo dục pháp luật: là các dạng hoạt động cụ thể để tổ chức

quá trình giáo dục pháp luật, để thể hiện nội dung giáo dục pháp luật.
Phương pháp giáo dục pháp luật: là hệ thống các cách thức sử dụng để
tiến hành hoạt động giáo dục pháp luật.
Các hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên hiện
đang được sử dụng gồm: Giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên thông qua các
phương pháp sư phạm (giáo dục pháp luật trong nhà trường); thông qua các hoạt
động tuyên truyền; thông qua các mô hình của thanh thiếu niên ở cơ sở; thông
qua hệ thống báo chí, sách tham khảo, hướng dẫn, giải thích pháp luật, mạng
internet...
1.3. Những điều kiện bảo đảm giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên
1.3.1 Bảo đảm về chính trị tư tưởng
Giáo dục pháp luật là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Sự phát triển của hệ thống chính trị, sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản đối với Nhà nước là những bảo đảm cho công tác giáo dục
pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên nói riêng được
bảo đảm thực thi có hiệu quả.
1.3.2 Bảo đảm về pháp lý
Hầu hết mọi hoạt động trong xã hội diễn ra trong sự điều chỉnh của hệ
thống pháp luật của nhà nước. Giáo dục nói chung và giáo dục pháp luật nói
riêng cũng được thực hiện dưới sự đảm bảo của pháp luật. Các quy định trong
các văn bản pháp luật của Nhà nước bảo đảm cho hoạt động giáo dục pháp luật
được thống nhất trong cả nước.


Các thể chế pháp luật về giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên vừa đề
ra những yêu cầu để các chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục tuân thủ, vừa
đề ra những chế tài đối với hành vi vi phạm. Nhà nước có hệ thống cơ quan bảo


vệ pháp luật (Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, Thanh tra, Cơ quan

nội vụ...), hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước (Quốc hội, Hội đồng nhân
dân), cơ quan hành pháp ... luôn giám sát việc thực thi mọi hoạt động của công
tác giáo dục pháp luật, ngăn chặn những hành vi vi phạm quy định của pháp
luật đối với công tác này.
1.3.3 Bảo đảm về kinh tế
Nền kinh tế càng phát triển, khả năng nâng cao mức sống, thoả mãn nhu
cầu của nhân dân lao động càng cao. Khi đã có mức sống vật chất đầy đủ,
người dân sẽ chú trọng hơn đến các nhu cầu tinh thần trong đó họ thường đặc
biệt lưu tâm tới nâng cao trình độ văn hóa nói chung và trình độ nhận thức pháp
luật nói riêng. Cho nên, có thể nói, với sự phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa chính là
một điều kiện bảo đảm cho công tác giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục
háp luật cho thanh thiếu niên nói riêng đạt hiệu quả. Rõ ràng, sự phát triển kinh
tế không những đảm bảo đời sống vật chất hàng ngày cho thanh thiếu niên mà
đó còn là những minh chứng, minh họa cho nội dung giáo dục pháp luật đối với
thanh thiếu niên.
1.3.4. Bảo đảm khác
Trước hết là những đảm bảo về mặt xã hội đối với công tác giáo dục pháp
luật thanh thiếu niên. Đó là sự phát triển của nhiều hình thức hoạt động phong
phú mang tính chất xã hội của các tổ chức đoàn thể quần chúng nhằm:
-Kiểm tra, giám sát việc thực hiện hoạt động giáo dục pháp luật;
-Phòng ngừa, ngăn chặn hành vi vi phạm công tác giáo;
-Đấu tranh chống những hành vi vi phạm trong công tác giáo dục pháp luật;
-Giáo dục, cải tạo người vi phạm.
Thứ hai, những bảo đảm về văn hóa đối với công tác giáo dục pháp luật
cho thanh thiếu niên thể hiện ở chỗ truyền thống văn hóa của người Việt Nam
luôn “tôn trọng đạo lý”. Người Việt Nam hiếu học và tôn trọng pháp luật.
Truyền thống này đã khuyến khich thanh thiếu niên tích cực tham gia tìm hiểu
pháp luật, tham gia các chương trình giáo dục pháp luật của nhà trường, tổ chức
đoàn thể, đặc biệt là những nội dung thể hiện được những nét văn hóa đặc trưng

của người Việt Nam. Ngược lại, những hình thức, nội dung, phương pháp giáo
dục pháp luật “lố bịch”, phi văn hóa sẽ bị tẩy chay.


Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO THANH THIẾU NIÊN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN
NAY
2.1.
Thực trạng thanh thiếu niên và sự hiểu biết pháp luật tại thành
phố Hà Nội
2.1.1. Thực trạng thanh thiếu niên Hà Nội
Hà Nội hiện có khoảng 2 triệu thanh niên chiếm gần 30 % dân số toàn
thành phố.
Về cơ cấu: nam chiếm khoảng 1,1 triệu người và số nữ là 0,9 triệu người;
sinh viên chiếm 25%, thanh niên đang lao động, làm việc chiếm khoảng 70,5%,
tỷ lệ thanh niên thất nghiệp chiếm khoảng 4,5%.
Về chất lượng: thanh niên có trình độ văn hóa cao, đã qua đào tạo chiếm
tỷ lệ khá cao khoảng 62%; thanh niên có trình độ văn hóa thấp, thành phần lêu
lổng, chậm tiến chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 17%; thanh niên có trình độ trung bình
chiếm 21%.
Về đặc điểm: thanh thiếu niên Hà Nội có sự phát triển trí tuệ khá cao và
có đặc điểm tâm lý như: có ý chí tốt đẹp và hành động ý chí đang độ phát triển,
có đức tính kiên trì, nhẫn nại, trung thực, thẳng thắn, táo bạo và cần cù, chất
phác, giản dị, giàu lòng tự tôn và tự trọng, tự chủ nhưng thiếu kinh nghiệm
sống nên dễ mắc sai lầm.
Thanh niên Hà Nội chịu tác động của nhiều yếu tố: môi trường kinh tế,
xã hội, văn hoá Thủ đô; quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đạo đức, nếp sống và giá trị
truyền thống dân tộc, truyền thống cách mạng.
2.1.2. Thực trạng hiểu biết pháp luật của thanh thiếu niên Hà Nội

Những kết quả nghiên cứu và điều tra xã hội học trong những năm gần
đây đã cho thấy sự hiểu biết về pháp luật của thanh thiếu niên nước ta còn hết
sức hạn chế. Họ chưa nhận thức hết cả những kiến thức cơ bản nhất lẫn những
nguyên tắc và cơ chế thực hiện của pháp luật trong thực tiễn. Điều đó đã khiến
cho một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên không biết tự bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của mình, không tự giác chấp hành luật pháp, thậm chí vi
phạm pháp luật.


Bảng 1: Số liệu điều tra ý kiến thanh thiếu niên
về sự cần thiết của giáo dục pháp luật
Đơn vị: %

Tiê
Cần có hiểu biết v
Không cần có hiểu
Thích học pháp lu
Không thích học p
Đưa pháp luật nhi
Tăng cường các h
Tăng tuyên truyề
truyền thanh
Ngu
ồn:
Vụ
tuyên
truyề
n
phổ
biến

giáo
dục
Bộ

pháp
Thô
ng
thường, sự
hiểu biết
pháp luật
của thanh
thiếu niên
tăng thuận
theo tình
cảm, sự
quan tâm
tìm hiểu
pháp luật


của họ. Tuy nhiên, cũng không thể không quan tâm đến chiều
ngược lại. Tức là, có nhiều trường hợp, dù được trang bị lượng
kiến thức pháp luật nền tốt nhưng khi tìm hiểu sự quan tâm tìm
đọc của thanh thiếu niên đối với các văn bản pháp luật có tính
phổ biến nhất định thì mức độ đó lại rất thấp.
Bảng 2: Tình hình thanh thiếu niên tìm hiểu các văn bản quy
phạm pháp luật
Đơn vị: %
Tiêu chí điều tra
Học sinh

Sinh viên
Tìm đọc Hiến pháp
17
Tìm đọc Bộ luật Hình sự
9,7
Tìm đọc Bộ luật Tố tụng Hình sự
6,7
Tìm đọc Luật Hôn nhân gia đình
5
Tìm đọc các Luật, Pháp lệnh khác
7,2
Nguồn: Số liệu điều tra của Sở Tư pháp Hà Nội
Thực tế nêu trên do nhiều nguyên nhân, nhưng có một
nguyên nhân rõ nhất là ngay cả đội ngũ giáo viên, giảng viên
làm công tác giáo dục pháp luật cũng ít quan tâm tìm hiểu kỹ
càng các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực thi pháp luật. Do
đó, nội dung bài giảng không phong phú, gần gũi với thực tế
cuộc sống mà chỉ nặng về “lý thuyết suông”, khó thuyết phục và
tạo được tình cảm của người học đối với pháp luật.


Bảng 3: Số liệu điều tra đối với người làm công tác giáo dục pháp luật
Đơn vị: %
Tiêu chí điều tra
Giáo viên
Giảng viên
phổ thông
đại học
Tìm hiểu Hiến pháp
60

74
Tìm hiểu Bộ luật Hình sự
16,1
65
Tìm hiểu Bộ luật Tố tụng Hình sự
15
47
Tìm hiểu Luật Hôn nhân gia đình
45
68
Tìm hiểu các Luật, Pháp lệnh khác
17,2
30
Tìm đọc các báo pháp luật và đời sống
62,3
70
Nguồn: Số liệu điều tra của Sở Tư pháp Hà Nội
Đây là một thực trạng rất đáng quan tâm và cần có biện pháp khắc phục
để nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật của thanh thiếu niên. Một khi người
làm công tác giáo dục pháp luật mà không có được kiến thức pháp luật thực sự
vững vàng thì khó có thể tạo được niềm tin vào pháp luật, vào công lý ở học trò
của mình.
Bảng 4:Tình hình thanh thiếu niên bị xét xử
Số thanh thiếu niên
Tỷ lệ (%)
STT
Tỉnh, thành phố
bị xét xử
so với cả nước
1

Hà Nội
422
9,50%
2
TP. Hồ Chí Minh
588
13,24%
3
Hải Phòng
155
3,49%
4
Thái Nguyên
102
2,29%
5
Tiền Giang
97
2,18%
6
Quảng Ninh
83
1,87%
7
Tây Ninh
81
1,82%
8
Đà Nẵng
80

1,80%
9
Vĩnh Phúc
74
1,66%
10 Thanh Hoá
70
1,57%
11 Các tỉnh khác
2.676
60,29%
Tổng cộng
4.438
100%
Nguồn: Toà án nhân dân tối cao
24


Tóm lại, dựa vào ba căn cứ và từ sự phân tích các số liệu điển hình trên
đây, chúng ta có đầy đủ cơ sở để kết luận về sự hiểu biết pháp luật ngày càng
đầy đủ hơn, cao hơn ở thanh thiếu niên hiện nay, dù vẫn còn ở mức độ nhất
định, chưa thực sự thấu đáo hết toàn bộ mọi nội dung của các ngành luật. Để
cho những hiểu biết pháp luật của thanh thiếu niên thấm sâu vào trí óc, trở
thành tình cảm bền vững, thái độ tốt, tích cực đối với pháp luật ở mọi thanh
thiếu niên, cần có những biện pháp lớn, toàn diện hơn, hiệu quả hơn từ phía
Nhà nước, từ phía các cơ quan có chức năng giáo dục pháp luật, những cán bộ
làm công tác giáo dục pháp luật và cả từ phía gia đình.
2.2.Thực trạng giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên ở Thành phố Hà Nội
hiện nay - Ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân
2.2.1. Ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân về chủ thể thực hiện công

tác giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên ở thành phố Hà Nội
Ưu điểm: các chủ thể đã từng bước phát huy khả năng, tham gia
nhiệt tình và có trách nhiệm nhiệm vụ của mình, tích cực, chủ động phối hợp,
tranh thủ sự ủng hộ của các các Bộ, ngành.
Hạn chế: năng lực sư phạm, kỹ năng truyền đạt còn hạn chế, chưa
đáp ứng được yêu cầu đề ra, việc chỉ đạo chưa được sát sao, thậm chí có thời
gian buông lỏng, thiếu cán bộ chỉ đạo có năng lực.
Nguyên nhân: chế độ làm việc kiêm nhiệm; chế độ thù lao chưa
thoả đáng; sự phối hợp giữa Gia đình-Nhà trường-Xã hội chưa được chặt chẽ,
đồng bộ, thường xuyên.
2.2.2. Ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân về nội dung giáo dục pháp
luật cho thanh thiếu niên ở thành phố Hà Nội
Ưu điểm: chương trình chung, thống nhất, nội dung đã tương đối phù
hợp với đối tượng giáo dục là thanh thiếu niên trong lứa tuổi học sinh, sinh
viên; hệ thống tài liệu, sách giáo dục đã được biên soạn khá công phu.
Hạn
nặng về lý thuyết, nội dung đơn điệu, chủ yếu cung cấp điều
chế:
luật chung chung nên người nghe dễ nhàm chán; tài liệu phổ cập về pháp lý còn
ít, có phần còn chưa phù hợp, quá tải với người học, tài liệu tham khảo còn hạn
chế về số lượng và nội dung chưa phong phú.
Nguyên nhân: giảng viên chưa có hứng thú trong công tác nên việc
chuẩn bị nội dung còn tùy tiện, nhiều lúc chưa đi vào trọng tâm, chưa gắn với
thực tế cuộc sống.
2.2.3. Ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân về hình thức, phương pháp
giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên ở thành phố Hà Nội


×