Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Nhóm 1 SP khảo sát nồng độ đường sucrose

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.29 KB, 10 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM


KHOA CÔNG NGHỆ HÓA HỌC VÀ THỰC PHẨM

ẢNH HƯỞNG CỦA NỒNG ĐỘ ĐƯỜNG SUCROSE ĐẾN ĐỘNG HỌC SINH
TRƯỞNG CỦA SACCHAROMYCES CEREVISIAE
TRONG QUÁ TRÌNH NUÔI CẤY MẺ
GVHD: Ts. Trịnh Khánh Sơn
Nhóm 1_Lớp 169160
SVTH:
Trần Thị Như Hảo

16116126

Hà Thị Trinh

16116187

Trương Thị Thu

16116176

Trần Thị Sao Mai

16116148

Nguyễn Thị Yến

16116200


Hoàng Ngọc Thương

16116179

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2019


1


2

Nghiên cứu này được thực hiện trên chủng nấm men thương mại
Sachharomyces cerevisiae (instant dry yeast, sản xuất bởi công ty AB Mauri
Vietnam Limited).
Môi trường hoạt hóa và nhân giống:
Nấm men (0.1 g) được hoạt hóa và nhân giống trong 100 ml môi trường M1
vô trùng trên máy lắc ở 30 oC trong 24 giờ với tốc độ 240 rpm. Môi trường M1 chuẩn
bị bao gồm các thành phần sau đây: 100g cà chua, sucrose 200 g/l, pepton 1 g/l,
thêm 1000 ml nước cất, đun sôi 30 phút, sau đó thu nhận phần dịch trong, định
lượng đủ 1000ml. Môi trường được điều chỉnh độ pH về 5 bằng dung dịch NaOH
0.1N, được phân phối vào bình nuôi cấy và được tiệt trùng (121 oC, 15 phút). .
Điều kiện sinh trưởng:
Sau quá trình nhân giống, nấm men (10 ml) được bổ sung vào 190 ml môi
trường M1 đã được thay đổi điều kiện sucrose với các mức 20 g/l, 100 g/l, 200 g/l,
300 g/l đã được tiệt trùng (121 oC, 15 phút) để khảo sát ảnh hưởng của nồng độ
sucrose đến động học sinh trưởng của nấm men trong quá trình quá trình nuôi cấy
mẻ trong suốt 12 giờ. Quá trình nuôi cấy mẻ được tiến hành ở nhiệt độ phòng
(30oC) trên máy lắc 240 rpm.
Phương pháp

A. Khảo sát các thông số động học sinh trưởng của nấm men trong môi
trường nuôi cấy mẻ dưới ảnh hưởng của các nồng độ đường sucrose
khác nhau
Nghiên cứu đã sử dụng buồng đếm hồng cầu (hemocytometer) để định lượng
nấm men với độ phóng đại x100 đến x400. Huyền phù nấm men được nhuộm với
dung dịch methylen blue để phân biệt tế bào nấm men sống và chết. Khi đếm số
lượng ta đưa dịch pha loãng vào phòng đếm, đậy lá kính lên trên, sau đó tiến hành
đếm số lượng dưới kính hiển vi.
Trong suốt quá trình nuôi cấy, bắt đầu từ giờ thứ 0, cứ mỗi 1 giờ sẽ kiểm tra và
ghi nhận các thông số: (a) mật độ tế bào/ml, (b) tỉ lệ tế bào sống, (c) tỉ lệ tế bào nảy
chồi. Các thông số động học sẽ được tính toán và đưa ra kết luận.
Phương pháp đếm trực tiếp trên buồng đếm hồng cầu đưa ra số liệu nhanh
chóng, giúp quan sát được hình thái tế bào. Tuy nhiên, phương pháp này không xác
định được với các mẫu có số lượng vi khuẩn quá nhỏ, độ chính xác không cao vì
không phân biệt được giữa tế bào sống và tế bào chết.
Phương pháp phân tích phương sai một yếu tố one - way ANOVA trên phần
mềm SPSS được sử dụng để phân tích dữ liệu thu thập được trong quá trình làm thí
nghiệm.
B. Phương pháp định lượng đường tổng số (hoặc % sucrose)
Song song với quá trình khảo sát động học sinh trưởng của nấm men, lấy một
lượng nhỏ huyền phù dung dịch trong bình nuôi cấy, đun cách thủy trong vòng 10
phút và đi ly tâm với tốc độ 3000 vòng/ phút trong vòng 10 phút. Lượng đường tổng
số sẽ được đo bằng Brix kế và các thông số sẽ được ghi lại để mô tả, so sánh, giải
thích và biện luận.
3.Kết quả
Kết quả
A. Động học sinh trưởng của Saccharomyces cerevisiae ở các nồng độ
đường khác nhau
Khi thực hiện đo mẫu giống nuôi cấy ở nồng độ đường 200g/l sau 24 giờ tại
tất cả các lần làm thí nghiệm ta thu được tổng số lượng tế bào, phần trăm tế bào

sống, phần trăm tế bào chết, phần trăm tế bào nảy chồi và % độ brix. Dùng kết quả
này đem đi kiểm định thống kê với từng yếu tố, kết quả là không có sự khác biệt nào
có ý nghĩa thống kê trong bốn mẫu được đo. Điều này giúp khẳng định lại điều kiện
nhân giống và kết quả giống dùng để cấy vào môi trường mới thực hiện thí nghiệm


3

là không có sự sai khác. Tương tự, khi giống được cho vào môi trường thí nghiệm
nuôi cấy đã chuẩn bị sẵn tại bốn nồng độ đường khác nhau, tại giờ thứ 0 ta thực
hiện ghi nhận kết quả tổng số tế bào sống, phần trăm tế bào chết và phần trăm tế
bào nảy chồi, lấy kết quả đem kiểm nghiệm thống kê, kết quả không có sự khác biệt
có ý nghĩa tại thời điểm này. Hai lần đo này khẳng định rõ ràng rằng thiết kế thí
nghiệm là đúng như định hướng.
Bảng 1. Kết quả so sánh các thông số động học của giống tại giờ thứ 24 (với độ tin
cậy 95%).
300g/l

200g/l

100g/l

20g/l

Tế bào Sống (%)

86.190.21a

86.290.26a


86.400.19a

86.350.19a

Tế bào Chết (%)

13.810.21b

13.710.26b

13.600.30b

13.490.19b

Tế bào nảy chồi (%)

4.610.58c

3.90.29c

4.000.28c

4.280.47c

Độ brix (%)

15.070.96d

14.950.58d


15.050.13d

15.080.13d

18.5
18.0
17.5

f(x) = - 0x^3 + 0.02x^2 + 0.25x + 15.41
f(x)= ==0.9
- 0.01x^3
+ 0.13x^2
- 0.13x
+ 15.53
f(x)
0x^3
- 0.04x^2
+ 0.49x
+ 15.51


R² == 0.85
0.93
f(x) = - 0x^3 + 0.03x^2 + 0.2x + 15.32
R² = 0.89

N*10^6/ML

17.0
16.5


200g/l
Polynomial
( 200g/l)

16.0
15.5
15.0
14.5
14.0
13.5

0

2

4

6

8

10

12

t (h)

Đường cong sinh trưởng của nấm men tại các nồng độ đường khác nhau
được thể hiện trong Hình 1. Ở điều kiện nồng độ sucrose 20 g/l , 200 g/l, 300g/l, sự

sinh trưởng của nấm men không trải qua pha lag. Với điều kiện đường 20 g/l, tốc độ
sinh trưởng của nấm men là thấp nhất so với các nồng độ còn lại. Pha log trong điều
kiện này có chiều dài trung bình, độ dốc thấp, nấm men có khả năng sinh trưởng
yếu nhất. Ở nồng độ sucrose 100 g/l nấm men thể hiện rõ ràng bốn giai đoạn của
quá trình sinh trưởng. Độ dốc của pha log cao, thời gian diễn ra ngắn. Khi sinh
trưởng trong điều kiện nồng độ sucrose môi trường là 200g/l, ta thấy nấm men có
thời gian diễn ra pha log dài nhất, độ dốc cao, mật độ tế bào sinh ra cao nhất. Đối
với đường cong sinh trưởng của nấm men trong điều kiện 300g/l, pha log diễn ra
dài, độ dốc thấp hơn, pha giảm tốc giữa pha log và pha ổn định dài, thời gian bước
vào pha ổn định muộn.
Hình 1. Đường cong sinh trưởng của S. cerevisiae tại các nồng độ đường khác
nhau


4
60

f(x) = 5.13 exp( 0.27 x )
R² = 0.86

50

Cell/ml*10^6

40

f(x) = 6.81f(x)
exp(= 4.41
0.26 exp(
x ) 0.28 x )

R² = 0.91 R² = 0.85

30

f(x) = 4.48 exp( 0.25 x )
R² = 0.85

20

200g/l
Exponential
(200g/l)

10
0

0

1

2

3

4

5

6


7

8

9

10

t (h)

Hình 2. Đường cong sinh trưởng tại pha log của S. cerevisiae tại các nồng độ
đường khác nhau
Hình 2. thể hiện sự sinh trưởng của nấm men trong kì tăng trưởng. Có thể thấy
nấm men trong nồng độ đường 200 g/l có tốc độ tăng trưởng cao nhất và trong thời
gian dài. Trong khi đó, ở nồng độ đường 20 g/l, pha tăng trưởng của nấm men bị rút
ngắn và tốc độ tăng trưởng kém. Thời gian đạt mật độ tế bào cực đại của pha log
của các mẫu đường cũng có sự nhanh chậm khác nhau cụ thể là mẫu đường
300g/l-7h, 200g/l-9h, 100g/l-8h, 20g/l-7h. Sự kiểm định thống kê cho ra kết quả mật
độ tế bào cực đại được nuôi cấy tại các nồng độ đường khác nhau đều có sự khác
biệt mang ý nghĩa thống kê cụ thể là ở nồng độ và chúng ta hoàn toàn có thể sử
dụng sự sai khác để đánh giá tại phần sau của bài báo.
35.00
30.00
200g/l
Logarithmic
(200g/l)

25.00
f(x) f(x)
= - 0.05x^3

+ 0.5x^2
+ 3.09
= 6.92 ln(x)
+ 4.82++1.36x
f(x)
==0.9
-- 0.04x^3
+- 0.04x^2
0.44x^2
0.83x+ +3.52
6.89

f(x)=R²
0.02x^3
+
3.8x
= 0.81

=
0.78
R² = 0.73
f(x) = - 0.05x^3 + 0.28x^2 + 2.5x + 1.95
R² = 0.7

%

20.00
15.00
10.00
5.00

0.00

0

2

4

6

8

10

12

t (h)

Hình 3. Biểu đồ thể hiện tỉ lệ nảy chồi của S. cerevisiae ở các nồng độ đường khác
nhau
Dựa trên Hình 3. ta có thể nhận thấy trong giai đoạn đầu, ở tất cả các nồng độ
đường đều có sự gia tăng của tỉ lệ tế bào nảy chồi. Lượng tỉ lệ tế bào nảy chồi đạt
cực đại trong giai đoạn gần cuối pha log và có chiều hướng suy giảm ở pha ổn định.
Trong pha tăng trưởng, tỉ lệ tế bào nảy chồi cực đại ở nồng độ đường sucrose 20 g/l


5

là thấp nhất và thời gian đạt được tỷ lệ này là ngắn nhất. Ở nồng độ 100g/l, tỉ lệ tế
bào nảy chồi đạt cực đại trong thời gian ngắn. Trong khi đó, ở nồng độ đường 200

g/l và 300 g/l, tỉ lệ nảy chồi cực đại khá lớn và thời gian duy trì sự sinh tế bào mới
kéo dài hơn so với nồng độ đường 20 g/l và 100 g/l. Ở nồng độ 300 g/l, tỉ lệ nảy chồi
trong thời gian đầu cao hơn nhưng tốc độ tăng tế bào mới lại thấp hơn so với
trường hợp nấm men ở 200 g/l.
Dựa trên Hình 4. ta có thể thấy, tỉ lệ tế bào nấm men chết khi được nuôi cấy ở
điều kiện 300 g/l khá cao và duy trì trong suốt quá trình lên men, có xu hướng tăng
từ cuối pha log. Ở nồng độ đường 200 g/l và 20 g/l, số lượng tế bào chết giảm một
cách nhanh chóng và tăng lên tại giờ thứ 6 đây là giai đoạn chuyển từ pha log sang
pha ổn đinh. Bên cạnh đó, ở nồng độ đường 100 g/l, tỉ lệ tế bào chết lại duy trì ở
mức rất cao, có sườn thoải tại thời gian pha lag và tỉ lệ này giảm giảm mạnh khi sinh
trưởng bước vào pha log, cũng như những nồng độ đường khác tỉ lệ chết cũng có
dấu hiệu tăng lên ở cuối pha log (giờ thứ 7).
20
18
16

%

f(x) = 0.03x^3 - 0.24x^2 - 1.55x + 16.52
R² = =0.8
- 0.01x^3 + 0.42x^2 - 4.46x + 15.37
14 f(x)
f(x)
-- 0.02x^3
R² = ==0.75
f(x)
0.01x^3 ++ 0.65x^2
0.37x^2 -- 5.4x
2.52x+ +14.63
14.25


== 0.89

0.82
12

200g/l
Polynomial (200g/l)

10
8
6
4
2
0

0

2

4

6

8

10

12


t(h)

Hình 4. Biểu đồ thể hiện tỉ lệ tế bào chết của S. cerevisiae ở các nồng độ đường
khác nhau
Bảng 2: Các thông số động học của S. cerevisiae tại các nồng độ đường khác nhau
(với độ tin cậy 95%).
300g/l

200g/l

100g/l

20g/l

N0 (Cell/ml)

6.90 x106

4.98 x106

4.68 x106

4.94 x106

NT (Cell/ml)

42.32 x106

57.71 x106


34.10 x106

25.75 x106

Td (h/lần)

2.68a

2.55b

2.44c

2.94d

µ (h-1)

0.2591a

0.2722b

0.2693c

0.2359d

YN/s (cell/(ml.g))

4.84 x 106 a

7.47 x106 b


8.11 x106 c

22.33 x106 d

rN (cell/(ml.h))

9.18 x 106 a

14.35 x 106 b

10.44 x 106 c

4.9 x 106 d

rs (g/h)

2.10a

1.54b

1.01c

0.25d

Y’N/S (cell/(ml.g))

4.37 x 106 a

9.92 x 106 b


10.34 x 106 c

19.6 x 106 d


6

Trong đó:
N0: Mật độ tế bào thời điểm ban đầu pha log
Nt: Mật độ tế bào thời điểm cuối pha log
Td: Thời gian thế hệ
µ: Tốc độ sinh trưởng tế bào
YN/S: Hiệu suất lý thuyết tạo thành tế bào dựa trên lượng cơ chất
rN: Tốc độ hình thành tế bào theo thời gian
rs: Tốc độ tiêu hao cơ chất theo thời gian
Y’N/S: Hiệu suất tạo thành sản phẩm của một đơn vị cơ chất
Bảng 2 trình bày các số liệu được tính toán tại pha log của saccharomyces
cerevisiae ở bốn nồng độ đường khác nhau. Theo đó tốc độ sinh trưởng ở nồng độ
đường 200g/l là cao nhất ứng với độ dốc lớn và kéo dài của đồ thị pha log, thấp
nhất là ở nồng độ đường 20g/l ứng với đồ thị pha log có độ dốc thấp và ngắn. Hiệu
suất tạo thành tế bào tính theo cơ chất cũng có sự khác biệt khi hiệu suất này cao
nhất tạo nồng độ đường giới hạn nhất (20g/l) và thấp nhất tại nồng độ 300g/l. Tốc
độ tạo thành sản phẩm cao nhất tại nồng độ đường 300 và giảm dần theo chiều
giảm nồng độ đường, tốc độ tạo thành tế bào cao nhất tại nồng độ đường 200g/l
ứng với pha log dài nhất và sườn dốc, thấp nhất tại nồng độ đường 20g/l ứng với
pha log ngắn và sườn thoải. Bên cạnh đó hiệu suất tạo thành sản phẩm tính theo tế
bào lớn nhất tại nồng độ đường 300g/l và có xu hướng giảm dần theo chiều giảm
của nồng độ đường. Với kết quả này có thể giúp sự nghiên cứu đưa ra kết luận
nồng độ đường thích hợp tùy vào mục đích mong muốn.
B. Xác định lượng đường tổng nấm men sử dụng trong quá trình lên men

35
30
25

200g/l
Polynomial ( 200g/l)
100g/l

f(x) = 0.09x^2 - 1.65x + 29.47
R² = 0.98

%

20
15
10
5
0

f(x) = 0.06x^2 - 1.32x + 18.46
R² = 0.91
f(x) = 0.01x^2 - 0.56x + 10.55
R² = 0.98
f(x) = - 0.02x^2 - 0.02x + 3.07
0 R² = 0.96
2
4

6


8

10

12

t (h)

Hình 5: Biểu đồ thể hiện lượng đường tổng số trong quá trình nuôi cấy mẻ S.
cerevisiae tại các nồng độ đường khác nhau
Lượng đường được sử dụng bởi nấm men trong suốt quá trình lên men được
thể hiện như Hình 5. Trong điều kiện nuôi cấy trong môi trường có nồng độ 300g/l,
lượng đường mà nấm men sử dụng có xu hướng giảm nhanh và rõ rệt nhất và nồng
độ đường còn khá cao sau khi quá trình nghiên cứu kết thúc. Ở nồng độ đường
trong môi trường 100 g/l cũng giảm nhanh và nhiều trong giai đoạn diễn ra pha log
của quá trình sinh trưởng. Trong môi trường có nồng độ đường 200 g/l, lượng
đường mà nấm men sử dụng có xu hướng giảm đều và vẫn còn tương đối sau khi
nghiên cứu kết thúc. Môi trường có nồng độ đường 20 g/l giảm ít và chậm nhất, có
sự chênh lệch rất ít trong suốt quá trình nghiên cứu.


7

Hình 1. , Hình 3. , Hình 4. và Hình 5. thể hiện mối quan hệ giữa nồng độ cơ
chất làm ảnh hưởng tới lượng tế bào sinh ra, số lượng tế bào chết đi và sự tăng
trưởng của tế bào nấm men. Trong giai đoạn pha log, tỉ lệ tế bào sinh ra lớn hơn rất
nhiều so với tỉ lệ tế bào chết đi, đường cong sinh trưởng có xu hướng tăng. Khi tỉ lệ
tế bào sinh ra bằng lượng tế bào mất đi, sự sinh trưởng của nấm men bước vào pha
ổn định. Đồng thời, hàm lượng đường cũng giảm theo thời gian cùng với sự sinh
trưởng của nấm men, ở nồng độ đường khác nhau thì lượng nấm men thu được,

thời gian diễn ra pha log và hàm lượng đường cũng giảm theo tỷ lệ khác nhau. Mỗi
nồng độ đường thì sẽ có những đặc điểm khác nhau, tùy mục đích của quá trình lên
men mà chọn nồng độ cho phù hợp. Nếu muốn quá trình diễn ra nhanh thì có thể
chọn đường 100g/l, tương tự nếu muốn quá trình diễn ra nhanh và dài thì có thể
chọn đường 200g/l thì phù hợp nhất.
4.Giải thích và bàn luận
Đường cong sinh trưởng và sự tiêu thụ đường có mối tương quan với số
lượng và chất lượng nấm men, bị ảnh hưởng bởi các yếu tố: bản chất và nồng độ
đường, nồng độ oxy, thành phần và độ pH của môi trường (W. Praphailong, 1997).
Phân tích những dữ liệu thu được từ thí nghiệm ta thấy rằng Saccharomyces
cerecisiae lên men được tất cả các dung dịch nuôi cấy với nồng độ đường sucrose
ban đầu khác nhau sử dụng trong thí nghiệm.
Giới hạn nồng độ của đường ảnh hưởng lên sự sinh trưởng của nấm men
được chứng minh là ở nồng độ >50% wt/v sucrose (a w>0.92) ở điều kiện thí nghiệm
tương đương (W. Praphailong, 1997). Trong thí nghiệm các nồng độ đường thay đổi
lần lượt là 20 g/l, 100 g/l, 200 g/l và 300 g/l (tương đương với 2%, 10%, 20% và
30% wt/v) nên không xảy ra sự ức chế của nồng độ đường lên sinh trưởng của nấm
men ngay từ thời điểm đầu nuôi cấy. Không xác định được có các sự ức chế xảy ra
trong khoảng thời gian nuôi cấy là 11 tiếng ở môi trường mới.
Dựa vào kết quả thu được, ta nhận thấy được nồng độ cơ chất ban đầu có ảnh
hưởng tới tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ tế bào nảy chồi và tỷ lệ tế bào chết của chủng
S.cerevisiae được nuôi cấy trong môi trường dịch chiết cà chua. Cùng với đó, nồng
độ đường trong môi trường nuôi cấy cũng giảm theo thời gian. Kết quả này phù hợp
với nghiên cứu của Attilio Converti và cộng sự (1984) khi nghiên cứu về động học
sinh trưởng của Saccharomyces cerevisiae ở các nồng độ đường khác nhau.
Đối với môi trường nồng độ đường là 200 g/l, tốc độ tăng trưởng tương đối cao
số lượng tế bào thu được cuối pha log nhiều, tốc độ tạo thành tế bào theo thời gian
là lớn nhất trong các điều kiện nuôi cấy, điều này cho thấy nồng độ đường 200 g/l
thích hợp cho nuôi cấy thu sinh khối tế bào trong thí nghiệm này. So sánh kết quả về
tốc độ sinh trưởng và tổng tế bào nấm men trong quá trình nuôi cấy ta có được

nồng độ đường 200 g/l tối ưu hơn so với 300 g/l vì theo các như nghiên cứu của
Cecilia Laluce và Attilio Converti thì nồng độ đường 200 g/l là tối ưu ở các điều kiện
thí nghiệm tương đương, kết quả của thí nghiệm này giống với thí nghiệm nghiên
cứu về “Ảnh hưởng của nhiệt độ, pH và nồng độ đường lên tốc độ sinh trưởng và
sinh khối tế bào của nấm men rượu” do Charoen Charoenchai và cộng sự thực hiện
(1998).
Đường cong phần trăm chồi sinh ra tỷ lệ với đường cong tốc độ sinh trưởng.
Đặc biệt ở giai đoạn pha log, lượng chồi sinh ra nhiều, tế bào nhanh chóng phân
chia tạo ra nhiều tế bào sống mới.
Nồng độ đường sẵn có trong môi trường lên men là rất cần thiết, ví dụ như
nồng độ đường cao trong sản xuất công nghiệp sẽ tăng hàm lượng ethanol cần thu
vào khi lên men kết thúc. Tuy nhiên, nếu như nồng độ đường cao quá sẽ làm các tế
bào nấm men chịu phải áp suất thẩm thấu, có thể làm ảnh hưởng tới hiệu suất lên
men (Ishmayana, 2011). Đối với loại nấm men này, sucrose có thể được vận chuyển
vào trong tế bào thông qua hai cách là thủy phân bên ngoài tế bào và các sản phẩm


8

thủy phân sẽ được vận chuyển vào trong tế bào, hoặc theo cách là vận chuyển trực
tiếp nếu như các tế bào đã hoàn toàn thích nghi trong những điều kiện thích hợp
(Mwesigye, 1996). Từ hình 5 nhận thấy rằng, nồng độ cơ chất ở mỗi nồng độ khác
nhau đều giảm dần, điểm đường đầu và cuối có sự chênh lệch không quá lớn
chứng tỏ rằng khi kết thúc lên men nồng độ đường vẫn đang ở mức cao, chưa được
nấm men sử dụng hết. Ở các nồng độ đường đã thí nghiệm không có nồng độ nào
ở ngưỡng có thể gây ra ức chế (W. Praphailong, 1997). Ngoài ra, do quá trình lên
men này sử dụng tỉ lệ nấm men khá là cao so với báo cáo của Attilio Converti và
cộng sự nên thời gian đưa vào pha ổn định cũng nhanh hơn và lượng cơ chất cũng
chưa được nấm men sử dụng triệt để, chỉ xác định được rằng nồng độ đường giảm
theo sự tăng mật độ tế bào nấm men.

Bài thực nghiệm này sử dụng khúc xạ kế để xác định nồng độ đường có thể
không mang lại độ chính xác cao nên cũng sẽ ảnh hưởng một phần nào đó tới kết
quả đo nên có thể thay thế bằng các phương pháp khác như phenol- sulfuric ,..
5.Kết luận
Qua kết quả nghiên cứu của thực nghiệm trên có thể thấy được rằng nồng độ
sucrose có ảnh hưởng rất lớn tới động học sinh trưởng của chủng Saccharomyces
cerevisiae. Nồng độ sucrose khác nhau thì quá trình sinh trưởng ở các pha cũng
diễn ra khác nhau, chúng sẽ có những đặc điểm nhất định ví dụ như ở nồng độ
100g/l thì độ dốc pha log cao, ở nồng độ 200g/l thì pha log kéo dài,… Vì thế, tùy
mục đích mong muốn để có thể chọn lựa nồng độ phù hợp để quá trình lên men đạt
kết quả tốt nhất.
Tài liệu tham khảo
A.S. Batista et al. (2004). Sucrose fermentation by Saccharomyces cerevisiae
lacking hexose transport. Journal of molecular microbiology and biotechnology, 8(1),
26-33.a.
Atiyeh, H., & Duvnjak, Z. (2001). Study of the production of fructose and ethanol
from sucrose media by Saccharomyces cerevisiae. In:Applied microbiology and
biotechnology, 57(3), 407-411.
Attilio Converti et al. (1984). A Kinetic Study of Saccharomyces Strains: Performance
at High Sugar Concentrations.
Badotti et al. (2008). Switching the mode of sucrose utilization by Saccharomyces
cerevisiae. Microbial Cell Factories.
Cecilia Laluce et al. (2009). Optimization of temperature, sugar concentration, and
inoculum size to maximize ethanol production without significant decrease in yeast
cell viability. Biotechnological Products And Process Engineering. Appl Microbial
Biotech.
Charoen Charoenchai et al. (1998). Effects of Temperature, pH, and Sugar
Concentration on the Growth Rates and Cell Biomass of Wine Yeasts.



9

L. Camacho Ruiz et al. (2003). Factors affecting the growth of Saccharomyces
cerevisiae in batch culture and in solid sate fermentation. In: Electron J Environ
Agric Food Chem, 2(5), 531-542.
P. K. Mwesigye and J. P. Barford. (1996). Mechanism of sucrose utilisation by
Saccharomyces cerevisiae. In: The Journal of General and Applied Microbiology,
42(4), 297-306.
S. G. Solomon et al. (2017). Performance of Clarias gariepinus fed Dried Brewer’s
yeast (Saccharomyces cerevisiae) slurry in replacement for soybean meal. J Nutr
Metab. 1-8.
S. Ishmayana et al. (2011, November). Fermentation performance of the yeast
Saccharomyces cerevisiae in media with high sugar concentration. In: Proceedings
of the 2nd International Seminar on Chemistry: Chemestry for a Bette.
W. L. Marques et al. (2016). Sucrose and Saccharomyces cerevisiae: a relationship
most sweet. FEMS Yeast research, 16(1).
W. Praphailong and Fleet, G. H. (1997). The effect of pH, sodium chloride, sucrose,
sorbate and benzoate on the growth of food spoilage yeasts. Food Microbiology. 14,
459–468.



×