Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghiên cứu tính kháng thuốc của quần thể rầy nâu (nilaparvata lugens stal) hại lúa ở một số vùng trồng lúa tại việt nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (588.29 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
------------------------------------------------

BÙI XUÂN THẮNG

NGHIÊN CỨU TÍNH KHÁNG THUỐC CỦA QUẦN THỂ
RẦY NÂU (Nilaparvata lugens Stal) HẠI LÚA Ở MỘT SỐ
VÙNG TRỒNG LÚA TẠI VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: BẢO VỆ THỰC VẬT
MÃ SỐ: 9620112

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

HÀ NỘI, 2019


Công trình được hoàn thành tại: Viện khoa học Nông nghiệp Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Hồ Thị Thu Giang
2. PGS.TS. Michael Kristensen

Phản biện 1: ………………………………………………
…………………………………………………………….
Phản biện 2 ………………………………………………
…………………………………………………………..
Phản biện 3: ………………………………………………


……………………………………………………………..

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện
Tại Viện khoa học Nông nghiệp Việt Nam
Vào hồi.....giờ.....ngày.....tháng.....năm 2019

Có thể tìm hiểu Luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Viện khoa học Nông nghiệp Việt Nam
- Thư viện cơ quan của nghiên cứu sinh


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lúa là một trong những loại cây lương thực quan trọng và là nguồn cung cấp lương
thực chính cho 1/3 dân số thế giới (Jena and Kim, 2010). Ở Việt Nam, dân số trên 90 triệu
dân và hầu hết sử dụng lúa gạo làm lương thực chính hàng ngày. Vì vậy, sản xuất lúa gạo
đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, sản xuất lúa bị ảnh hưởng
bởi nhiều loại sâu bệnh gây hại. Trong đó, rầy nâu Nilaparvata lugens (Homoptera:
Delphacidae) là đối tượng hại nguy hiểm nhất (Dyck and Thomas, 1979). Trong những năm
gần đây, rầy nâu đã và đang gây ra những thiệt hại đáng kể ở một số nước Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan và Banglades. Ở Việt Nam, rầy nâu cũng là đối tượng hại
nguy hiểm và gây ra những thiệt hại lớn nhất cho sản xuất lúa. Từ năm 1999 đến 2003,
trung bình mỗi năm cả nước có 408.908 ha bị rầy phá hại, trong đó 34.287ha bị hại nặng và
179ha mất trắng (Nguyễn Văn Đĩnh và Bùi Sỹ Doanh, 2010). Năm 2016, tại các tỉnh phía
Nam và một số tỉnh đồng bằng sông Hồng rầy nâu bùng phát với diện tích gần 150 nghìn
ha, trong đó có trên 20 nghìn ha bị nhiễm nặng (Cục Bảo vệ thực vật, 2016).
Rầy nâu càng trở nên nguy hiểm hơn khi nó là vector truyền bệnh vi rút vàng lùn
(VL), lùn xoắn lá (LXL) và gây hại trên diện rộng trong thời gian gần đây. Ở các tỉnh Nam

Bộ, mặc dù bệnh đã được khống chế nhưng rầy nâu vẫn gây hại trên diện tích 332,941ha. Ở
các tỉnh phía Bắc, rầy nâu luôn là đối tượng nguy hiểm gây hại trực tiếp trên lúa và là mối
nguy hiểm tiềm ẩn tham gia truyền bệnh vi rút LXL, diện tích bị hại năm 2010 là
708.131ha, nhiễm nặng là 95.893ha (Cục BVTV, 2012).
Sử dụng thuốc hóa học vẫn là sự lựa chọn hàng đầu trong các biện pháp phòng chống
rầy nâu hiện nay. Thực tế cho thấy biện pháp này mang lại hiệu quả phòng chống rầy nâu
cao và dập tắt nhanh sự bùng phát dịch ở quy mô lớn. Tuy nhiên, diện tích bị rầy nâu phá
hại tăng sẽ kéo theo lượng thuốc BVTV dùng phòng chống rầy nâu tăng lên (Nguyễn Thị
Me và cs., 2002). Việc tăng số lượng thuốc BVTV để phòng chống rầy nâu dẫn đến nguy cơ
gia tăng khả năng kháng thuốc của rầy nâu và tính kháng chéo giữa các loại thuốc. Ngoài ra,
thời gian cơ cấu mùa vụ giữa các vùng khác nhau, kết hợp với khả năng di cư của rầy nâu là
một trong những yếu tố làm tăng nguy cơ kháng thuốc của rầy nâu.
Một trong những nguyên nhân làm nhiều loại thuốc sử dụng phòng chống rầy nâu
không đạt hiệu quả cao như trước là do rầy nâu đã hình thành và gia tăng khả năng kháng
thuốc. Khi rầy nâu đã kháng thuốc, sẽ gây ra nhiều khó khăn cho công tác quản lý rầy nâu
trong sản xuất lúa.
Việc nghiên cứu, theo dõi diễn biến tính kháng của rầy nâu đối với các loại thuốc
BVTV sử dụng phổ biến phòng chống rầy nâu hiện nay trở nên cấp thiết, cần thực hiện có
tính hệ thống và liên tục trong nhiều năm. Từ đó, làm cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm hạn
chế sự hình thành và phát triển tính kháng thuốc của rầy nâu.
Xuất phát từ những luận điểm nêu trên, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu tính
kháng thuốc của quần thể rầy nâu (Nilaparvata lugens Stal) hại lúa ở một số vùng trồng
lúa tại Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định hiện trạng sử dụng thuốc BVTV và tính kháng thuốc của các quần thể rầy


2
nâu ở một số tỉnh trồng lúa, làm cơ sở khoa học đề xuất giải pháp quản lý tính kháng thuốc
của rầy nâu.

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Cung cấp dẫn liệu về mức độ kháng và sự phát triển tính kháng thuốc BVTV của
rầy nâu đối với một số hoạt chất tại một số tỉnh góp phần đề xuất và lựa chọn sử dụng các
thuốc phòng chống rầy nâu hiệu quả.
- Cung cấp dẫn liệu về ảnh hưởng của hoạt chất imidacloprid, nitenpyram đến một số
đặc điểm sinh học của rầy nâu và độ độc của một số hoạt chất thuốc đối với bọ xít mù xanh
là kẻ thù tự nhiên quan trọng của rầy nâu.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đề tài góp phần áp dụng các giải pháp sử dụng thuốc, giống lúa kháng để phòng
chống rầy nâu đạt hiệu quả, từ đó giảm thiểu tính kháng thuốc của rầy nâu trong sản xuất.
- Luận án là tài liệu tham khảo tin cậy, cung cấp các dẫn liệu khoa học cho tập huấn
chuyên môn về quản lý tính kháng thuốc của rầy nâu.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
Tính kháng của các quần thể rầy nâu Nilaparvata lugens tại một số tỉnh trồng lúa
điển hình: Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An, Phú Yên và An Giang đối với một số hoạt chất
thuốc BVTV sử dụng trong phòng chống rầy nâu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu tại một số tỉnh trồng lúa điển hình:
Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An, Phú Yên và An Giang.
- Ảnh hưởng của hoạt chất thuốc hóa học đến đặc điểm sinh học của rầy nâu.
- Nghiên cứu đề xuất chiến lược quản lý tính kháng thuốc BVTV của rầy nâu.
5. Những đóng góp mới của đề tài
- Bổ sung dẫn liệu khoa học mới về mức độ kháng thuốc của rầy nâu đối với một số
hoạt chất thuốc thuộc nhóm Neonicotinoid, Carbamate, điều hòa sinh trưởng, Pyridine
azomethine, Sulfloximines.
- Cung cấp dẫn liệu khoa học mới về ảnh hưởng của thuốc BVTV đến một số đặc
điểm sinh vật học, ảnh hưởng của giống lúa đến sự phát triển tính kháng thuốc của rầy nâu
và độ độc của thuốc đối với bọ xít mù xanh.

- Đề xuất được một số biện pháp phòng chống rầy nâu đạt hiệu quả và giảm tính
kháng thuốc của rầy nâu.
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nƣớc
Rầy nâu đã hình thành và phát triển tính kháng với nhiều loại thuốc thuộc các nhóm
Carbamate, Neonicotinoid, điều hòa sinh trưởng và Pyridine azomethine. Một số tác giả ở
ngoài nước đã nghiên cứu về tính kháng thuốc của rây nâu hại lúa như: Zewen et al.

(2003), Masumura et al. (2008, 2013), Wang et al. (2008), Catindig et al. (2009),
Wen et al. (2009), Shao et al. (2011), Basanth et al. (2013), Xiaolei Zhang et al.


3
(2014), Padmakumari et al. (2002), Srivastava et al. (2009), Mu et al. (2016), Ping et
al. (2001), Jie Zhang et al. (2010), He YuePing et al. (2011), Wang Peng et al.
(2013). Kết quả nghiên cứu của các tác giả này cho thấy quần thể rầy nâu đã kháng đối với
các hoạt chất thuốc imidacloprid, fenobucar, buprofezin, dinotefuran, nitenpyram,
pymetrozine.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
Một số tác giả ở trong nước đã nghiên cứu về tính kháng thuốc của rây nâu hại lúa
như: Lương Minh Châu (2007), Nguyễn Phạm Hùng (2009), Nguyễn Thị Hồng Vân (2010),
Nguyễn Thanh Hải (2011), Lê Thị Kim Oanh và cs. (2011), Lê Thị Diệu Trang (2012),
Phan Văn Tương và cs. (2013, 2014), Phùng Minh Lộc và cs. (2016, 2017), Đào Bách Khoa
và cs. (2018), Huỳnh Thị Ngọc Diễm và cs. (2017), Nguyễn Hồng Phong và cs. (2012). Kết
quả nghiên cứu của các tác giả trong nước cho thấy quần thể rầy nâu đã kháng hầu hết với
các hoạt chất thuốc được sử dụng phổ biến trong phòng trừ rầy nâu. Tuy nhiên, nghiên cứu
chưa có tính liên tục và biện pháp quản lý tính kháng mang tính đơn lẻ.
Chƣơng 2. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Đề tài được thực hiện từ năm 2014 - 2018.

- Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu tính kháng thuốc của quần thể rầy nâu thu thập
tại Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An, Phú Yên, An Giang tại phòng thí nghiệm, nhà lưới Học
Viện Nông nghiệp Việt Nam và Viện Bảo vệ thực vật.
2.2. Vật liệu và dụng cụ nghiên cứu
- Giống lúa Taichung Native 1(TN1), dòng rầy nâu mẫn cảm có nguồn gốc từ Viện
Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc gia tại vùng Okinawa - Kyushu (Nhật Bản).
- Các thuốc thử nghiệm: Nhóm thuốc Carbamat, Neonicotinoid, Pyridine azomethine,
Sulfloximines, điều hòa sinh trưởng.
- Ống hút rầy, ống tuýp, cốc nhựa, bông, kính lúp, pipet, bình định mức, ống đong,
lồng nuôi rầy, khay gieo mạ, giá thể gieo mạ.
- Đệm phosphate Na/K, acetone, bản ELISA, NADPH, oxidized glutathione,
acetonitrile, TRIZMA-base, 1-naphthyl acetate, Tris-HCl.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Xác định hiện trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để phòng chống rầy nâu hại lúa
ở một số vùng trồng lúa tại Việt Nam.
- Nghiên cứu tính kháng của quần thể rầy nâu đối với một số nhóm thuốc bảo vệ thực
vật ở một số vùng trồng lúa tại Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp hợp lý để quản lý tính kháng thuốc của rầy nâu.
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.4.1. Phƣơng pháp xác định hiện trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để phòng chống
rầy nâu hại lúa ở một số vùng trồng lúa tại Việt Nam
Bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp, lựa chọn 5 tỉnh, mỗi tỉnh 03 huyện, mỗi
huyện 2 xã, mỗi xã điều tra khảo sát 20 nông dân/hộ.


4
2.4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu tính kháng của quần thể rầy nâu đối với một số nhóm
thuốc bảo vệ thực vật ở một số vùng trồng lúa tại Việt Nam
- Phương pháp xác định mức độ kháng thuốc của quần thể rầy nâu ở một số vùng
trồng lúa tại Việt Nam: Phương pháp nhúng dảnh lúa của Zhuang and Shen (2000).

- Nghiên cứu giải thích cơ chế kháng thuốc của rầy nâu: Đánh giá hoạt tính enzim
Cytochrome P450-dependent monooxygenase theo phương pháp của Puinean et al. (2010),
enzim Esterase theo phương pháp của Wen et al. (2009), enzim Glutathione S-transferase
theo phương pháp của Ralf Nauen and Natascha Stumpf (2002).
- Khả năng kháng thuốc chéo của quần thể rầy nâu đã kháng hoạt chất imidacloprid
đối với một số hoạt chất khác phòng chống rầy nâu: Sử dụng liều LC50 của thuốc với rầy
nâu ở thế hệ trước, làm liều lượng áp lực chọn lọc cho thế hệ tiếp theo. Sau 12 thế hệ áp lực
chọn lọc đối với hoạt chất imidacloprid, xác định lại mức độ kháng của quần thể rầy nâu đối
với các hoạt chất thuốc.
- Ảnh hưởng của hoạt chất thuốc đến một số đặc điểm sinh vật học của rầy nâu sau
khi tiếp xúc với thuốc: Theo phương pháp của Jie Zhang et al. (2010).
2.4.3. Phƣơng pháp nghiên cứu giải pháp hợp lý để quản lý tính tính kháng thuốc của
rầy nâu
- Nghiên cứu biện pháp sử dụng giống lúa kháng trong quản lý tính kháng thuốc của
rầy nâu
+ Đánh giá mức độ kháng của một số giống lúa với rầy nâu Nilaparvata lugens
(Stål) theo phương pháp của IRRI (1996).
+ Ảnh hưởng của giống lúa đến mức độ kháng thuốc của quần thể rầy nâu An Giang
sau một số thế hệ không tiếp xúc với hoạt chất imidacloprid: Quần thể rầy nâu được nuôi
trên 2 giống lúa TN1 và OM 6976, không tiếp xúc với thuốc. Cứ sau 2 thế hệ tiến hành xác
định mức độ kháng thuốc của quần thể rầy nâu.
+ Ảnh hưởng của giống lúa đến mức độ kháng thuốc của quần thể rầy nâu An Giang
sau một số thế hệ tiếp xúc với hoạt chất imidacloprid: Quần thể rầy nâu được nuôi trên 2
giống lúa TN1 và OM 6976, qua mỗi lần chọn lọc, sử dụng liều LC50 đã xác định của thế hệ
trước làm liều lượng áp lực chọn lọc cho thế hệ tiếp theo.
- Nghiên cứu biện pháp sử dụng thuốc hóa học trong quản lý tính khánh thuốc của
rầy nâu:
+ Đánh giá hiệu lực của một số thuốc theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khảo
nghiệm hiệu lực của các thuốc trừ rầy hại lúa (QCVN 01 - 29 : 2010/BNNPTNT).
+ Sử dụng luân phiên các thuốc trong phòng chống rầy nâu: Phun lần lượt các thuốc

trong công thức luân phiên đối với ấu trùng tuổi 2 - 3 của rầy nâu. Sau mỗi lần phun thuốc,
chọn lọc những cá thể sống khỏe mạnh tiếp tục nhân nuôi. Mỗi công thức phun luân phiên 3
lần. Xác định giá trị LC50 của quần thể rầy nâu với thuốc sau khi phun luân phiên các thuốc.
+ Độ độc của một số thuốc sử dụng phòng chống rầy nâu đến bọ xít mù xanh theo
phương pháp của Preetha et al. (2010).
2.4.4. Phƣơng pháp xử lý số liệu
Xử lý số liệu bằng phần mềm IBM SPSS 20, StatView và Excel.


5
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thực trạng sử dụng thuốc BVTV để phòng chống rầy nâu hại lúa ở một số vùng
trồng lúa
Kết quả điều tra cho thấy có 11 nhóm thuốc được nông dân ở các tỉnh Hưng Yên,
Nam Định, Nghệ An, Phú Yên, An Giang sử dụng phổ biến để phòng chống rầy nâu hại lúa.
Trong đó, nông dân ở các tỉnh Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An và Phú Yên sử dụng chủ yếu
nhóm thuốc Neonicotinoid (nhóm thuốc có nhiều hoạt chất khác nhau) để phòng chống rầy
nâu. Tỷ lệ số hộ nông dân ở các tỉnh này sử dụng nhóm thuốc Neonicotinoid để phòng
chống rầy nâu dao động trong khoảng 74,17 - 98,34%. Nông dân tại tỉnh Phú Yên ngoài sử
dụng chủ yếu nhóm thuốc Neonicotinoid còn sử dụng nhóm thuốc Pyridine azomethine
(hoạt chất pymetrozine) để phòng chống rầy nâu với tỷ lệ khá cao, tỷ lệ số hộ nông dân sử
dụng là 52,50%. Đối với các nhóm thuốc khác, tỷ lệ số hộ nông dân ở các tỉnh Hưng Yên,
Nam Định, Nghệ An và Phú Yên sử dụng để phòng chống rầy nâu thấp hơn, tỷ lệ sử dụng
dao động trong khoảng 0,83 - 21,67%.
Nhưng tại tỉnh An Giang, nông dân chủ yếu sử dụng nhóm thuốc Pyridine
azomethine để phòng chống rầy nâu với tỷ lệ số hộ sử dụng là 89,17%. Ngoài ra, nhóm
thuốc Neonicotinoid cũng được nông dân tại An Giang sử dụng với tỷ lệ khá cao để phòng
chống rây nâu, tỷ lệ số hộ sử dụng là 58,97%. Đối với các nhóm thuốc khác, tỷ lệ số hộ
nông dân tại An Giang sử dụng để phòng chống rầy nâu thấp hơn 14% (bảng 3.6).
Bảng 3.6. Hiện trạng sử dụng thuốc BVTV theo các nhóm thuốc ở

các tỉnh nghiên cứu năm 2014
Tỷ lệ (%) số hộ nông dân sử dụng theo nhóm thuốc
TT
Nhóm thuốc
HY

NA
PY
AG
1 Điều hòa sinh trưởng
4,17
2,50
6,67
3,33
2 Phenylpyrazol
2,50
0,83
0,83
3 Neonicotinoid
83,33
74,17
98,34
78,33
58,97
4 Carbamate
5,83
4,17
7,50
7,50
5,83

5 Pyridine azomethine
3,33
5,83
21,67
52,50
89,17
6 Avermectin
1,67
7 Organophosphate
2,50
7,50
8 Sulfloximines
4,17
9 Nereistoxin analogue
1,67
10 Organophosphate; Pyrethroid
6,67
4,17
5,00
5,83
11 Carbamate; Pyrethroid
3,33
12 Pyrethroid; Neonicotinoid
17,50
Trifluoromethylnicotinamid;
13
6,70
Neonicotinoid
Điều hòa sinh trưởng;
14

12,50
15,00
13,14
Neonicotinoid
Organophosphate;
15
15,83
13,33
7,36
9,17
Điều hòa sinh trưởng
Neonicotinoid;
16
2,50
Pyridine azomethine
Ghi chú: HY: Hưng Yên; NĐ: Nam Định; NA: Nghệ An; PY: Phú Yên; AG: An Giang


6
Kết quả điều tra nhận thức của người sản xuất trong vệc sử dụng thuốc BVTV ở các
tỉnh Hưng Yên, Nam Định và Nghệ An cho thấy phần lớn nông dân sử dụng hỗn hợp từ 2
đến 3 loại thuốc trong một lần phun. Trong đó, tỷ lệ số hộ nông dân sử dụng hỗn hợp 2 loại
thuốc trong một lần phun tại các tỉnh Hưng Yên, Nam Định và Nghệ An lần lượt là 59,17%,
60% và 57,50%. Tỷ lệ số hộ nông dân sử dụng hỗn hợp 3 loại thuốc trong một lần phun tại
các tỉnh này lần lượt là 33,33%, 30,83% và 35,83%. Nhưng kết quả điều tra tại các tỉnh Phú
Yên, An Giang cho thấy vẫn còn nhiều nông dân sử dụng đơn lẻ 1 loại thuốc trong một lần
phun. Tỷ lệ số hộ nông dân sử dụng 1 loại thuốc trong một lần phun tại các tỉnh Phú Yên,
An Giang lần lượt là 30,83%, 45%. Tuy nhiên, nông dân tại các tỉnh Phú Yên, An Giang
vẫn chủ yếu sử dụng hỗn hợp từ 2 đến 3 loại thuốc trong một lần phun. Tỷ lệ số hộ nông
dân sử dụng hỗn hợp từ 2 đến 3 loại thuốc trong một lần phun lần lượt là 69,17% và 55%.

Song song với việc hỗ hợp nhiều loại thuốc trong một lần phun, nông dân tại các tỉnh
điều tra còn tăng liều lượng thuốc trong một lần phun từ 1,5 đến 2 lần so với liều lượng
khuyến cáo. Tỷ lệ số hộ nông dân tại các tỉnh Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An, Phú Yên và
An Giang sử dụng liều lượng thuốc trong một lần phun cao hơn so với liều lượng khuyến
cáo lần lượt là 35,00%, 31,67%, 33,33%, 40% và 49,17%.
Tại An Giang, nông dân phổ biến phun thuốc 3 lần trong một vụ lúa, tỷ lệ số hộ nông
dân phun thuốc 3 lần trong một vụ lúa chiếm 57,50%. Ngoài ra, tại An Giang vẫn còn
4,17% tỷ lệ số hộ nông dân phun thuốc trên 3 lần trong một vụ lúa. Tuy nhiên, tại các tỉnh
Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An và Phú Yên không có hiện tượng nông dân phun thuốc 4
lần/vụ lúa nhưng lại phổ biến phun từ 2 đến 3 lần/vụ lúa. Trong đó, tỷ lệ số hộ nông dân tại
các tỉnh Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An và Phú Yên phun thuốc 2 lần trong một vụ lúa lần
lượt là 44,17%, 45,83%, 40,83% và 43,33%. Tỷ lệ số hộ nông dân tại các tỉnh này phun
thuốc 3 lần trong một vụ lúa lần lượt là 50%, 46,67%, 46,67% và 45% (bảng 3.7).
Bảng 3.7. Thói quen sử dụng thuốc BVTV của nông dân ở
các tỉnh nghiên cứu năm 2014
Tỷ lệ số hộ nông dân trả lời (%)
Kỹ thuật áp dụng
HY

NA
PY
AG
1
7,50
9,17
6,67
30,83 45,00
Số thuốc sử
dụng trong 1
2

59,17 60,00 57,50 49,17 41,67
lần phun
3
33,33 30,83 35,83 20,00 13,33
65,00 68,33 66,67 60,00 50,83
Liều
lượng Theo khuyến cáo
thuốc trong 1 Gấp 1,5 lần khuyến cáo
26,67 25,00 23,33 27,50 29,17
lần phun
Gấp 2 lần khuyến cáo
8,33
6,67
10,00 12,50 20,00
1
5,83
7,50
12,50 11,67
8,33
Số lần phun
2
44,17 45,83 40,83 43,33 30,00
thuốc trong 1
3
50,00 46,67 46,67 45,00 57,50
vụ
4-7
0
0
0

0
4,17
Ghi chú: HY: Hưng Yên; NĐ: Nam Định; NA: Nghệ An; PY: Phú Yên; AG: An Giang

3.2. Tính kháng thuốc của rầy nâu với một số nhóm thuốc chính ở một số vùng trồng
lúa
3.2.1. Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu với các hoạt chất sử dụng phổ
biến phòng chống rầy nâu hại lúa


7
3.2.1. 1. Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu ở một số tỉnh đối với hoạt chất
imidacloprid
Kết quả cho thấy cả hai quần thể rầy nâu ở Hưng Yên và Nam Định đều có mức
kháng trung bình đối với hoạt chất imidacloprid. Tỷ lệ kháng của hai quần thể rầy nâu này
đối với hoạt chất imidacloprid biến động trong khoảng 31,575 - 41,082 qua các năm 2015 2017. Nhưng đối với các quần thể rầy nâu ở Nghệ An, Phú Yên và An Giang đã có mức độ
từ kháng cao đến rất cao đối với hoạt chất imidacloprid. Tỷ lệ kháng của các quần thể rầy
nâu này đối với hoạt chất imidacloprid biến động trong khoảng 51,415 - 161,768 (bảng 3.8).
Bảng 3.8. Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu ở một số tỉnh trồng lúa đối
với hoạt chất imidacloprid từ năm 2015 - 2017
Năm

2015

2016

2017

Nguồn rầy LC50 (mgl) và giới hạn tin cậy 95%
HY


NA
PY
AG
HY

NA
PY
AG
HY

NA
PY
AG

8,504 (5,852 - 10,749)
7,642 (5,242 - 9,638)
12,065 (7,627 - 15,598)
17,241 (11,338 - 22,216)
26,490 (16,72 - 34,23)
7,818 (4,794 - 10,099)
7,189 (4,905 - 9,019)
11,199 (6,870 - 14,658)
15,406 (9,128 - 20,428)
33,486 (19,890 - 44,596)
6,748 (4,070 - 8,853)
6,536 (4,461 - 8,205)
10,643 (6,564 - 13,940)
14,351 (8,991 - 18,581)
24,487 (16,643 - 31,083)


Hệ số góc

RR

1,581 ± 0,208
1,829 ± 0,235
1,089 ± 0,150
0,769 ± 0,102
0,440 ± 0,085
1,560 ± 0,265
1,854 ± 0,272
1,081 ± 0,178
0,766 ± 0,127
0,353 ± 0,064
1,540 ± 0,328
1,869 ± 0,327
1,084 ± 0,194
0,781 ± 0,149
0,499 ± 0,088

41,082
36,918
58,285
83,289
127,971
37,681
34,729
54,101
74,425

161,768
32,599
31,575
51,415
69,328
118,294

Ghi chú: HY: Hưng Yên; NĐ: Nam Định; NA: Nghệ An; PY: Phú Yên; AG: An Giang; RR: tỷ lệ kháng; LC50
của dòng rầy nâu mẫn cảm: 0,207 (0,097 - 0,294) mgl

3.2.1.2. Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu ở một số tỉnh đối với hoạt chất
nitenpyram
Kết quả xác định mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu ở Hưng Yên, Nam
Định, Nghệ An, Phú Yên và An Giang đối với hoạt chất nitenpyram cho thấy hai quần thể
rầy nâu ở Hưng Yên, Nam Định bắt đầu hình thành tính kháng thuốc ở mức kháng nhẹ trong
hai năm 2015 - 2016, có tỷ lệ kháng dao động trong khoảng 4,087 - 4,896. Nhưng đến năm
2017, tính kháng thuốc của hai quần thể rầy nâu này đã phát triển lên đến mức kháng thấp
đối với hoạt chất nitenpyram. Tỷ lệ kháng của hai quần thể rầy nâu ở Hưng Yên, Nam Định
đối với hoạt chất nitenpyram biến động trong khoảng 5,175 - 5,230.
Từ năm 2015 - 2017 các quần thể rầy nâu ở Nghệ An, Phú Yên đã có mức kháng
thấp đối với hoạt chất nitenpyram, có tỷ lệ kháng biến động trong khoảng 5,418 - 9,357.
Nhưng quần thể rầy nâu ở An Giang đã có mức kháng trung bình đối với hoạt chất
nitenpyram, có tỷ lệ kháng biến động trong khoảng 16,552 - 24,112.
Tỷ lệ kháng của các quần thể rầy nâu ở Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An, Phú Yên và
An Giang đối với hoạt chất nitenpyram đều có hiện tượng gia tăng qua các năm theo dõi


8
2015 - 2017. Tỷ lệ kháng của các quần thể rầy nâu này đối với hoạt chất nitenpyram gia
tăng từ năm 2015 đến năm 2017 tương ứng là 4,087 - 5,230; 4,607 - 5,175; 5,418 - 5,932;

7,867 - 9,357; 16,552 - 24,112 (bảng 3.9).
Bảng 3.9. Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu ở một số tỉnh trồng lúa đối
với hoạt chất nitenpyram từ năm 2015 - 2017
Năm

2015

2016

2017

Nguồn rầy LC50 (mgl) và giới hạn tin cậy 95%
HY

NA
PY
AG
HY

NA
PY
AG
HY

NA
PY
AG

1,933 (1,258 - 2,473)
2,179 (1,487 - 2,735)

2,563 (1,605 - 3,318)
3,721 (2,399 - 4,779)
7,829 (4,980 - 10,102)
2,115 (1,446 - 2,661)
2,316 (1,614 - 2,881)
2,713 (1,753 - 3,471)
3,996 (2,677 - 5,029)
9,013 (5,847 - 11,600)
2,474 (1,735 - 3,062)
2,448 (1,645 - 3,107)
2,806 (1,801 - 3,579)
4,426 (3,093 - 5,526)
11,412 (7,214 - 14,632)

Hệ số góc

RR

5,515 ± 1,162
5,607 ± 0,982
4,372 ± 0,834
3,125 ± 0,572
1,371 ± 0,280
5,594 ± 1,019
5,624 ± 0,903
4,433 ± 0,752
3,194 ± 0,516
1,374 ± 0,218
5,668 ± 0,762
5,454 ± 0,807

4,443 ± 0,725
3,178 ± 0,435
1,105 ± 0,173

4,087
4,607
5,418
7,867
16,552
4,471
4,896
5,736
8,448
19,054
5,230
5,175
5,932
9,357
24,112

Ghi chú: HY: Hưng Yên; NĐ: Nam Định; NA: Nghệ An; PY: Phú Yên; AG: An Giang; RR: tỷ lệ kháng; LC50
của dòng rầy nâu mẫn cảm: 0,473 (0,308 - 0,606) mgl

3.2.1.3. Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu ở một số tỉnh đối với hoạt chất
fenobucarb
Xác định mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu ở Hưng Yên, Nam Định,
Nghệ An, Phú Yên và An Giang đối với hoạt chất fenobucarb cho thấy hai quần thể rầy nâu
ở Hưng Yên, Nam Định đều có mức kháng trung bình đối với hoạt chất fenobucarb qua các
năm theo dõi 2015 - 2017, có tỷ lệ kháng tương ứng biến động trong khoảng 37,232 39,827; 23,441- 28,319. Đối với các quần thể rầy nâu tại Nghệ An, Phú Yên và An Giang đã
có mức kháng cao đối với hoạt chất fenobucarb, có tỷ lệ kháng tương ứng biến động trong

khoảng 41,499 - 46,052; 52,296 - 58,301; 82,571 - 89,461 qua các năm theo dõi 2015 –
2017 (bảng 3.10).
Bảng 3.10. Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu ở một số tỉnh trồng lúa đối
với hoạt chất fenobucarb từ năm 2015 - 2017
Năm

2015

2016

Nguồn rầy

LC50 (mgl) và giới hạn tin cậy 95%

Hệ số góc

RR

HY

NA
PY
AG
HY


168,365 (108,034 - 214,719)
106,054 (66,574 - 136,705)
208,250 (134,792 - 269,612)
263,638 (176,611 - 338,542)

404,542 (253,921 - 523,810)
180,096 (117,671 - 227,099)
128,059 (83,128 - 164,935)

0,074 ± 0,012
0,110 ± 0,020
0,059 ± 0,010
0,052 ± 0,007
0,028 ± 0,005
0,074 ± 0,011
0,106 ± 0,015

37,232
23,441
46,052
58,301
89,461
39,827
28,319


9

2017

NA
PY
AG
HY


NA
PY
AG

199,472 (127,607 - 258,367)
253,291 (162,313 - 329,643)
373,385 (242,435 - 477,619)
171,651 (111,005 - 221,072)
122,247 (78,865 - 154,810)
187,658 (130,059 - 234,762)
236,484 (149,678 - 308,289)
386,724 (246,648 - 498,823)

0,060 ± 0,010
0,052 ± 0,008
0,032 ± 0,005
0,073 ± 0,012
0,111 ± 0,016
0,063 ± 0,012
0,053± 0,008
0,028 ± 0,006

44,111
56,013
82,571
37,959
27,034
41,499
52,296
85,521


Ghi chú: HY: Hưng Yên; NĐ: Nam Định; NA: Nghệ An; PY: Phú Yên; AG: An Giang; RR: tỷ lệ kháng; LC50
của dòng rầy nâu mẫn cảm: 4,522 (2,765 - 5,958) mgl

3.2.1.4. Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu ở một số tỉnh đối với hoạt chất
sulfoxaflor
Hoạt chất sulfoxaflor là sản phẩm đầu tiên thuộc nhóm thuốc trừ sâu thế hệ mới được
đăng ký sử dụng từ năm 2012 trong phòng chống rầy nâu ở nước ta. Hiện nay, có rất ít
nghiên cứu ở trong và ngoài nước công bố về hiện tượng kháng thuốc của rầy nâu đối với
hoạt chất sulfoxaflor. Kết quả nghiên cứu này cho thấy mức độ kháng thuốc của các quần
thể rầy nâu ở Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An, Phú Yên và An Giang vẫn còn mẫn cảm đối
với hoạt chất sulfoxaflor. Tỷ lệ kháng của các quần thể rầy nâu này đối với hoạt chất
sulfoxaflor tương ứng biến động trong khoảng 1,447 - 1,943; 1,226 - 1,563; 1,426 - 2,353;
1,493 - 2,091; 1,694 - 2,868 qua các năm theo dõi 2015 - 2017. Trong đó, tỷ lệ kháng của
quần thể rầy nâu ở An Giang đối với hoạt chất sulfoxaflor là cao nhất.
Tỷ lệ kháng của các quần thể rầy nâu ở Nam Định, Nghệ An, Phú Yên và An Giang
đối với hoạt chất sulfoxaflor đều có xu hướng tăng nhẹ qua các năm theo dõi 2015 - 2017.
Còn lại tính kháng của các quần thể rầy nâu ở Hưng Yên đối với hoạt chất này có hiện
tượng tăng giảm qua các năm 2015 - 2017 (bảng 3.11).
Bảng 3.11. Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu ở một số tỉnh trồng lúa đối
với hoạt chất sulfoxaflor từ năm 2015 - 2017
Năm Nguồn rầy LC50 (mgl) và giới hạn tin cậy 95%
Hệ số góc
RR
HY
0,571 (0,400 - 0,717)
22,216 ± 3,647
1,539

0,455 (0,240 - 0,627)

21,626 ± 4,304
1,226
2015
NA
0,529 (0,358 - 0,669)
22,488 ± 3,837
1,426
PY
0,554 (0,354 - 0,718)
21,700 ± 3,704
1,493
AG
0,629 (0,387 - 0,823)
21,124 ± 3,043
1,694
HY
0,537 (0,326 - 0,710)
21,346 ± 3,992
1,447

0,511 (0,271 - 0,703)
21,029 ± 3,990
1,377
2016
NA
0,640 (0,416 - 0,825)
21,265 ± 3,029
1,725
PY
0,650 (0,442 - 0,825)

21,405 ± 3,038
1,752
AG
0,829 (0,480 - 1,106)
13,465 ± 2,441
2,2345
HY
0,721 (0,490 - 0,911)
21,943 ± 3,412
1,943

0,580 (0,383 - 0,740)
21,928 ± 3,603
1,563
2017
NA
0,873 (0,590 - 1,101)
14,088 ± 2,307
2,353
PY
0,776 (0,496 - 1,005)
15,500 ± 2,646
2,091
AG
1,064 (0,656 - 1,394)
10,842 ± 1,940
2,868
Ghi chú: HY: Hưng Yên; NĐ: Nam Định; NA: Nghệ An; PY: Phú Yên; AG: An Giang; RR: tỷ lệ kháng; LC50
của dòng rầy nâu mẫn cảm: 0,371 (0,195 - 0,511) mgl



10
3.2.1.5. Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu ở một số tỉnh đối với hoạt chất
pymetrozine
Kết quả xác định mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu ở Hưng Yên, Nam
Định, Nghệ An, Phú Yên và An Giang đối với hoạt chất pymetrozine qua các năm 2015 2017 cho thấy 3 quần thể rầy nâu ở Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An đã có mức độ kháng
nhẹ đối với hoạt chất pymetrozine, có tỷ lệ kháng tương ứng biến động trong khoảng 2,762 3,435; 3,872 - 4,762; 4,139 - 4,896. Còn các quần thể rầy nâu ở Phú Yên, An Giang đã
kháng trung bình đối với hoạt chất pymetrozine, có tỷ lệ kháng tương ứng biến động trong
khoảng 11,263 - 16,321; 15,946 - 25,664. Tỷ lệ kháng của các quần thể rầy nâu này đối với
hoạt chất pymetrozine đều có xu hướng tăng nhẹ qua các năm theo dõi 2015 - 2017 (bảng
3.12).
Bảng 3.12. Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu ở một số tỉnh trồng lúa đối
với hoạt chất pymetrozine từ năm 2015 - 2017
Năm
Nguồn rầy
LC50 (mgl) và giới hạn tin cậy 95%
Hệ số góc
RR
HY
57,061 (36,068 - 73,158)
0,221 ± 0,035
2,762

79,810 (46,208 - 106,038)
0,136 ± 0,025
3,872
2015
NA
85,516 (56,127 - 108,743)
0,139 ± 0,025

4,139
PY
232,724 (160,286 - 290,823)
0,057 ± 0,008
11,263
AG
329,482 (213,036 - 421,386)
0,037 ± 0,006
15,946
HY
60,745 (41,560 - 75,665)
0,224 ± 0,033
2,939

86,819 (56,105 - 111,064)
0,139 ± 0,024
4,202
2016
NA
92,862 (61,463 - 117,451)
0,139 ± 0,021
4,494
PY
293,588 (186,756 - 378,835)
0,037 ± 0,007
14,209
AG
420,221 (271,316 - 539,587)
0,028 ± 0,005
20,338

HY
70,976 (48,367 - 89,074)
0,187 ± 0,027
3,435

98,389 (65,329 - 125,323)
0,137 ± 0,019
4,762
2017
NA
101,165 (70,088 - 127,263)
0,136 ± 0,019
4,896
PY
337,224 (224,241 - 427,879)
0,037 ± 0,006
16,321
AG
530,270 (332,872 - 638,529)
0,022 ± 0,004
25,664
Ghi chú: HY: Hưng Yên; NĐ: Nam Định; NA: Nghệ An; PY: Phú Yên; AG: An Giang; RR: tỷ lệ kháng; LC50
của dòng rầy nâu mẫn cảm: 20,662 (10,385 - 28,864) mgl

3.2.1.6. Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu ở một số tỉnh đối với hoạt chất
buprofezin
Kết quả xác định mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu ở Hưng Yên, Nam
Định, Nghệ An, Phú Yên và An Giang đối với hoạt chất buprofezin qua các năm 2015 2017 cho thấy quần thể rầy nâu ở Nghệ An có mức độ kháng nhẹ đối với hoạt chất
buprofezin, tỷ lệ kháng biến động trong khoảng 4,733 - 5,321. Trong khi đó, hai quần thể
rầy nâu ở Hưng Yên, Nam Định có mức độ kháng thấp đối với hoạt chất buprofezin, tỷ lệ

kháng tương ứng biến động trong khoảng 6,487 - 7,256; 7,357 - 8,390. Còn hai quần thể rầy
nâu ở Phú Yên và An Giang có mức độ kháng trung bình đối với hoạt chất buprofezin, tỷ lệ
kháng tương ứng biến động trong khoảng 10,203 - 11,422; 11,607 - 14,114. Tốc độ gia tăng
mức độ kháng của 5 quần thể rầy nâu ở Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An, Phú Yên và An
Giang đối với hoạt chất buprofezin chậm và không ổn định qua các năm theo dõi 2015 2017 (bảng 3.13).


11
Bảng 3.13. Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu ở một số tỉnh trồng lúa đối
với hoạt chất buprofezin từ năm 2015 - 2017
Năm
Nguồn rầy
LC50 (mgl) và giới hạn tin cậy 95%
Hệ số góc
RR
HY
125,641 (82,445 - 160,310)
0,092 ± 0,017
6,487

142,507 (96,615 - 179,332)
0,079 ± 0,016
7,357
2015
NA
91,678 (62,772 - 115,880)
0,138 ± 0,023
4,733
PY
197,631 (133,893 - 249,373)

0,056 ± 0,012
10,203
AG
224,816 (149,494 - 285,253)
0,055 ± 0,009
11,607
HY
140,532 (94,164 - 179,006)
0,092 ± 0,014
7,256

148,030 (101,209 - 186,305)
0,080 ± 0,015
7,657
2016
NA
103,058 (71,327 - 129,084)
0,138 ± 0,018
5,321
PY
221,242 (149,108 - 279,240)
0,056 ± 0,009
11,422
AG
273,367 (194,569 - 338,227)
0,055 ± 0,006
14,114
HY
133,455 (93,516 - 166,313)
0,095 ± 0,015

6,890

162,508 (107,560 - 205,539)
0,079 ± 0,012
8,390
2017
NA
94,961 (63,454 - 221,094)
0,136 ± 0,021
4,903
PY
211,471 (144,584 - 266,150)
0,056 ± 0,010
10,918
AG
254,736 (174,731 - 321,271)
0,055 ± 0,007
13,152
Ghi chú: HY: Hưng Yên; NĐ: Nam Định; NA: Nghệ An; PY: Phú Yên; AG: An Giang; RR: tỷ lệ kháng; LC50
của dòng rầy nâu mẫn cảm: Buprofezin 19,369 (9,948 - 26,878) mgl

3.2.1.7. Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu ở một số tỉnh đối với hoạt chất
dinotefuran
Hoạt chất dinotefuran thuộc nhóm thuốc Neonicotinoid, được đăng ký vào danh mục
thuốc được phép sử dụng tại Việt Nam năm 2004. Kết quả xác định mức độ kháng thuốc
của các quần thể rầy nâu ở Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An, Phú Yên và An Giang đối với
hoạt chất dinotefuran qua các năm 2015 - 2017 cho thấy quần thể rầy nâu ở Hưng Yên, Nam
Định, Nghệ An, Phú Yên chưa biểu hiện tính kháng đối với hoạt chất dinotefuran, tỷ lệ
kháng tương ứng biến động trong khoảng 2,354 - 2,568; 2,096 - 2,678; 2,150 - 2,446; 2,336
- 2,857. Còn quần thể rầy nâu ở An Giang đã có mức độ kháng nhẹ đối với hoạt chất

dinotefuran, tỷ lệ kháng biến động trong khoảng 3,686 - 4,600. Tốc độ gia tăng tính kháng
của các quần thể rầy nâu ở Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An, Phú Yên và An Giang đối với
hoạt chất dinotefuran chậm qua các năm theo dõi 2015 - 2017 (bảng 3.14).
Bảng 3.14. Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy nâu ở một số tỉnh trồng lúa đối
với hoạt chất dinotefuran từ năm 2015 - 2017
Năm

2015

2016

Nguồn rầy LC50 (mgl) và giới hạn tin cậy 95%
HY

NA
PY
AG
HY

NA
PY

0,659 (0,426 - 0,843)
0,587 (0,374 - 0,758)
0,602 (0,394 - 0,771)
0,654 (0,446 - 0,821)
1,032 (0,689 - 1,308)
0,674 (0,448 - 0,856)
0,644 (0,434 - 0,815)
0,630 (0,407 - 0,809)

0,742 (0,521 - 0,918)

Hệ số góc

RR

18,273 ± 3,200
18,220 ± 3,737
18,488 ± 3,529
18,691 ± 3,275
11,064 ± 2,163
18,482 ± 2,990
18,544 ± 3,259
18,427 ± 3,263
18,894 ± 2,540

2,354
2,096
2,150
2,336
3,686
2,407
2,300
2,250
2,650


12

2017


AG
HY

NA
PY
AG

1,158 (0,807 - 1,441)
0,719 (0,491 - 0,902)
0,750 (0,520 - 0,943)
0,685 (0,480 - 0,860)
0,800 (0,560 - 1,006)
1,288 (0,892 - 1,614)

11,248 ± 1,807
18,538 ± 2,723
18,390 ± 2,489
18,513 ± 3,039
18,138 ± 2,124
11,060 ± 1,423

4,136
2,568
2,678
2,446
2,857
4,600

Ghi chú: HY: Hưng Yên; NĐ: Nam Định; NA: Nghệ An; PY: Phú Yên; AG: An Giang; RR: tỷ lệ kháng; LC50

của dòng rầy nâu mẫn cảm: Dinotenfuran 0,280 (0,158 - 0,377) mgl

3.2.2. Kết quả nghiên cứu giải thích cơ chế kháng thuốc của rầy nâu
Tất cả các quần thể rầy nâu tại các địa phương khác nhau đều đã kháng hoạt chất
Imidacloprid . Hoạt tính enzyme Cytochrome P450 của các quần thể rầy nâu ở Hưng Yên,
Nghệ An và An Giang đều cao hơn và có sự sai khác đối với quần thể rầy nâu mẫn cảm.
Tuy nhiên, kết quả ghi nhận không có sự chênh lệch về hoạt tính của enzyme Cytochrome
P450 giữa các quần thể rầy nâu thu thập được ở Hưng Yên và Nghệ An, hoạt tính của enzyme
lần lượt là 3,60 và 3,57 (mOD/phút/mg protein). Nhưng hoạt tính enzyme Cytochrome P450
của quần thể rầy nâu ở An Giang mạnh hơn ở hai quần thể rầy nâu Hưng Yên và Nghệ An, hoạt
tính enzyme của quần thể rầy nâu ở An Giang đạt 5,70 (mOD/phút/mg protein). Điều này cũng
phù hợp khi quần thể rầy nâu ở An Giang có mức độ kháng đối với hoạt chất imidacloprid cao
hơn đáng kể so với hai quần thể rầy nâu ở Hưng Yên và Nghệ An.
Hoạt tính enzyme Esterase của các quần thể rầy nâu ở Hưng Yên, Nghệ An và An
Giang cũng đều cao hơn và có sự sai khác đối với quần thể rầy nâu mẫn cảm. Tuy nhiên,
hoạt tính enzyme Esterase của các quần thể rầy nâu ở Hưng Yên, Nghệ An và An Giang có
sự khác nhau. Hoạt tính enzyme Esterase của quần thể rầy nâu ở An Giang (6,75
mOD/phút/mg protein) > quần thể rầy nâu ở Hưng Yên (4,92 mOD/phút/mg protein) > quần
thể rầy nâu ở Nghệ An (3,69 mOD/phút/mg protein).
Kết quả cho thấy không có sự chênh lệch về hoạt tính enzyme Glutathione giữa hai
quần thể rầy nâu ở Hưng Yên và An Giang, hoạt tính của enzyme lần lượt là 1,25 và 1,28
(mOD/phút/mg protein). Nhưng hoạt tính enzyme Glutathione của hai quần thể rầy nâu ở
Hưng Yên và An Giang cao hơn của quần thể rầy nâu ở Nghệ An (1,19 mOD/phút/mg
protein). Hoạt tính enzyme Glutathione của các quần thể rầy nâu ở Hưng Yên, Nghệ An và
An Giang đều cao hơn và có sự sai khác đối với quần thể rầy nâu mẫn cảm (bảng 3.15).
Bảng 3.15. Hoạt tính của Enzyme giải độc ở các quần thể rầy nâu thu thập tại một số
tỉnh, năm 2016
Quần thể
Cytochrome P450
Glutathione

Esterase
rầy nâu
(mOD/phút/mg protein) (mOD/phút/mg protein) (mOD/phút/mg protein)
Hưng Yên
3,60b ± 0,011
1,25a ± 0,051
4,92b ± 0,176
Nghệ An
3,57b ± 0,037
1,19b ± 0,021
3,69c ± 0,079
An Giang
5,70a ± 0,039
1,28a ± 0,036
6,75a ± 0,040
Mẫn cảm
1,67c ± 0,0087
0,77c ± 0,142
1,51d ± 0,0086
Ghi chú: Các chữ cái thường giống nhau trong phạm vi cột không có sự sai khác ở độ tin cậy p ≤ 0,05

Kết quả cho thấy có sự tương quan khá chặt chẽ giữa mức độ tăng cường hoạt tính
của các enzyme Esterase, Glutathione, Cytochrome P450 với mức độ kháng thuốc của các


13
quần thể rầy nâu đối với các hoạt chất thuốc. Các quần thể rầy nâu càng có mức độ
kháng thuốc cao thì hoạt tính của các enzyme cũng càng cao.
3.2.3. Khả năng kháng thuốc chéo của quần thể rầy nâu đã kháng hoạt chất
imidacloprid đối với một số hoạt chất phòng chống rầy nâu khác

Tỷ lệ kháng thuốc của quần thể rầy nâu (đã kháng đối với hoạt chất imidacloprid) đối
với các hoạt chất fenobucarb, sulfoxaflor, pymetrozine, buprofezin đều giảm sau áp lực
chọn lọc 12 thế hệ với hoạt chất imidacloprid. Tỷ lệ kháng của quần thể rầy nâu đối với các
hoạt chất này tương ứng giảm từ 89,461 xuống 43,307; 1,694 xuống1,493; 15,946 xuống
8,031; 11,607 xuống 6,166. Như vậy, quần thể rầy nâu đã kháng với hoạt chất imidacloprid
không có sự kháng chéo với các hoạt chất fenobucarb, sulfoxaflor, pymetrozine, buprofezin.
Quần thể rầy nâu đã kháng hoạt chất imidacloprid có biểu hiện tính kháng chéo đối
với hoạt chất dinotefuran, nitenpyram chưa rõ ràng (3 hoạt chất này thuộc cùng một nhóm
thuốc Neonicotinoid). Sau áp lực chọn lọc 12 thế hệ rầy nâu với hoạt chất imidacloprid, tỷ
lệ kháng thuốc của quần thể rầy nâu đối với hai hoạt chất này tăng nhẹ. Tỷ lệ kháng tương
ứng tăng từ 3,686 lên 4,207; 16,552 lên 17,139 (bảng 3.16).
Bảng 3.16. Khả năng kháng chéo của nòi rầy nâu An Giang đã kháng hoạt chất
imidacloprid với một số hoạt chất phòng chống rầy nâu khác, năm 2015 - 2016
Sau 12 thế hệ chọn lọc với
LC50 của rầy
Trƣớc khi chọn lọc
hoạt chất Imidacloprid
Hoạt chất
nâu mẫn cảm
(mg/l)
LC50 (mg/l)
RR
LC50 (mg/l)
RR
0,207
26,490
43,821
Imidacloprid
127,971
211,69

(0,097 - 0,294)
(16,72 - 34,23)
(31,524 - 55,071)
0,473
7,829
8,107
Nitenpyram
16,552
17,139
(0,308 - 0,606)
(4,980 - 10,102)
(5,614 - 10,166)
4,522
404,542
195,835
Fenobucarb
89,461
43,307
(2,765 - 5,958)
(253,921 - 523,810)
(132,954 - 246,962)
0,371
0,629
0,554
Sulfoxaflor
1,694
1,493
(0,195 - 0,511)
(0,387 - 0,823)
(0,354 - 0,718)

20,662
329,482
165,931
Pymetrozine
15,946
8,031
(10,385 - 28,864) (213,036 - 421,386)
(111,831 - 209,429)
19,369
224,816
119,437
Buprofezin
11,607
6,166
(9,948 - 26,878) (149,494 - 285,253)
(82,466 - 148,168)
0,280
1,032
1,178
Dinotefuran
3,686
4,207
(0,158 - 0,377)
(0,689 - 1,308)
(0,812 - 1,471)
Ghi chú: RR: tỷ lệ kháng; Các giá trị trong ngoặc là giá trị giới hạn tin cậy 95%

3.2.4. Ảnh hƣởng của hoạt chất thuốc đến một số đặc điểm sinh vật học của rầy nâu
sau khi tiếp xúc với thuốc
3.2.4.1. Ảnh hƣởng của hoạt chất nitenpyram và imidacloprid đến sức sinh sản của

dạng hình rầy nâu cánh dài và cánh ngắn
Kết quả nghiên cứu cho thấy dạng hình rầy nâu cánh dài sau khi tiếp xúc với 2 hoạt
chất nitenpyram và imidacloprid đều ảnh hưởng đến sức đẻ trứng của trưởng thành cái rầy
nâu. Nhưng ảnh hưởng của hoạt chất nitenpyram đến sức đẻ trứng của trưởng thành cái rầy
nâu mạnh hơn hoạt chất imidacloprid. Sau khi tiếp xúc với hoạt chất nitenpyram và
imidacloprid, tổng số trứng đẻ của rầy nâu lần lượt là 190,13 (trứng/con cái) và 226,85


14
(trứng/con cái) khi so sánh với công thức không xử lý thuốc là 322,76 (trứng/con cái), kết
quả này có sự sai khác đáng tin cậy ở mức xác xuất P <0,05. Như vậy, sức đẻ trứng của rầy
nâu cánh dài sau khi tiếp xúc hoạt chất nitenpyram và imidacloprid bị giảm xuống còn
58,91% và 70,28% khi so với rầy nâu không xử lý thuốc.
Kết quả cho thấy hai hoạt chất nitenpyram và imidacloprid đã ảnh hưởng đến tỷ lệ
trưởng thành cái đẻ trứng. Tỷ lệ trưởng thành cái đẻ trứng lần lượt là 74,44% và 75,56% so
với công thức không xử lý thuốc là 83,33%, kết quả này có sự sai khác ý nghĩa với độ tin
cậy ở mức xác xuất P < 0,05. Tuy nhiên, ảnh hưởng của hai hoạt chất này đến tỷ lệ trưởng
thành cái đẻ trứng không có sự sai khác giữa hai hoạt chất (bảng 3.18).
Bảng 3.18. Ảnh hƣởng của hoạt chất nitenpyram và imidacloprid đến sức sinh sản của
dạng hình rầy nâu cánh dài, năm 2016
Sức đẻ trứng
Tỷ lệ trƣởng thành
Thí nghiệm
cái đẻ trứng (%)
Tỷ lệ so với đối chứng (%)
Số trứng/con cái
b
c
Nitenpyram
74,44 ± 2,22

190,13 ± 8,94
58,91
b
b
Imidacloprid
75,56 ± 1,11
226,85 ± 13,09
70,28
a
a
Đối chứng
83,33 ± 1,93
322,76 ± 15,19
100
Chú thích: trong phạm vi cột các chữ cái khác nhau chỉ sự sai khác đáng tin cậy ở mức xác xuất P<0,05

Đối với dạng hình rầy nâu cánh ngắn, kết quả bảng 3.19 cho thấy ảnh hưởng của 2
hoạt chất nitenpyram và imidacloprid đến sức đẻ trứng của trưởng thành cái tương tự như
dạng hình rầy nâu cánh dài. Sức đẻ trứng của loại hình rầy nâu cánh ngắn sau khi tiếp xúc
hoạt chất nitenpyram và imidacloprid lần lượt là 210,77 (trứng/con cái) và 249,19
(trứng/con cái), bị giảm xuống còn 52,88% và 62,52% so với rầy nâu ở công thức đối chứng
không xử lý thuốc.
Hai hoạt chất nitenpyram và imidacloprid ảnh hưởng đến tỷ lệ trưởng thành cái rầy
nâu đẻ trứng với tỷ lệ lần lượt là 75,56% và 76,67% so với công thức không xử lý thuốc là
84,44%, kết quả này có sự sai khác ý nghĩa với độ tin cậy ở mức xác xuất P < 0,05 (bảng
3.19).
Bảng 3.19. Ảnh hƣởng của hoạt chất nitenpyram và imidacloprid đến sức sinh sản của
dạng hình rầy nâu cánh ngắn, năm 2016
Sức đẻ trứng
Tỷ lệ trƣởng thành

Thí nghiệm
cái đẻ trứng (%)
Số trứng/con cái Tỷ lệ so với đối chứng (%)
b
Nitenpyram
75,56 ± 2,94
210,77c ± 9,18
52,88
Imidacloprid
76,67b ± 1,93
249,19b ± 11,00
62,52
a
a
Đối chứng
84,44 ± 1,11
398,59 ± 17,25
100,00
Chú thích: trong phạm vi cột các chữ cái khác nhau chỉ sự sai khác đáng tin cậy ở mức xác xuất P<0,05

Kết quả cho thấy ảnh hưởng của hai hoạt chất nitenpyram và imidacloprid đến sức đẻ
trứng của dạng hình rầy nâu cánh ngắn (giảm lần lượt xuống còn 52,88% và 62,52% ) là rõ
hơn so với dạng hình rầy nâu cánh dài (giảm lần lượt xuống còn 58,91% và 70,28%). Trong
hai hoạt chất được thí nghiệm, hoạt chất nitenpyram ảnh hưởng rõ hơn so với hoạt chất
imidacloprid ở cả 2 dạng hình rầy nâu cánh dài và cánh ngắn. Như vậy, có thể vẫn tiếp tục
sử dụng thuốc trừ sâu nhóm Neonicotinoid trong kiểm soát rầy nâu và hoạt chất nitenpyram
khuyến cáo quản lý rầy nâu có hiệu quả hơn.


15

3.2.4.2. Ảnh hƣởng của hoạt chất nitenpyram và imidacloprid đến dạng hình cánh của
rầy nâu
Nồng độ gây chết LC30 của hoạt chất nitenpyram và imidacloprid đã ảnh hưởng đến
sự hình thành dạng hình cánh của rầy nâu. Hoạt chất imidacloprid ảnh hưởng đến sự hình
thành rầy nâu cánh dài mạnh hơn hoạt chất nitenpyram trong cả 2 dạng hình rầy nâu cánh
dài và dạng hình rầy nâu cánh ngắn.
Trong dạng hình rầy nâu cánh dài, tỷ lệ rầy nâu cái cánh dài và rầy nâu đực cánh dài
lần lượt là 56,73% và 60,58% sau khi tiếp xúc với hoạt chất nitenpyram. Nồng độ gây chết
LC30 của hoạt chất imidacloprid ảnh hưởng đến tỷ lệ rầy nâu cái cánh dài và rầy nâu đực
cánh dài lần lượt là 74,52% và 71,80%. Nồng độ gây chết LC30 của hoạt chất nitenpyram và
imidacloprid ảnh hưởng đến sự gia tăng tỷ lệ rầy nâu cái cánh dài và rầy nâu đực cánh dài,
sự gia tăng này có ý nghĩa khi so sánh với công thức đối chứng lần lượt là 43,16% (tỷ lệ rầy
nâu cái cánh dài) và 51,84% (tỷ lệ rầy nâu đực cánh dài) (bảng 3.20).
Bảng 3.20. Ảnh hƣởng của hoạt chất nitenpyram và imidacloprid đến dạng hình rầy
nâu cánh dài ở An Giang, năm 2016
Rầy nâu cái
Rầy nâu đực
Thí nghiệm
Cánh dài (%) Cánh ngắn (%) Cánh dài (%)
Cánh ngắn (%)
b
b
b
Nitenpyram
56,73
43,27
60,58
39,42b
Imidacloprid
74,52c

25,48a
71,80c
28,20a
a
c
a
Đối chứng
43,16
56,84
51,84
48,16c
Chú thích: trong phạm vi cột các chữ cái khác nhau chỉ sự sai khác đáng tin cậy ở mức xác xuất P<0,05

Trong dạng hình rầy nâu cánh ngắn, ảnh hưởng của hoạt chất nitenpyram và
imidacloprid đến sự hình thành dạng hình cánh của rầy nâu rõ rệt hơn trong dạng hình rầy
nâu cánh dài. Tỷ lệ rầy nâu cái cánh dài và rầy nâu đực cánh dài lần lượt là 32,83% và
29,94% sau khi tiếp xúc với hoạt chất nitenpyram. Ảnh hưởng của hoạt chất imidacloprid
đến tỷ lệ rầy nâu cái cánh dài và rầy nâu đực cánh dài lần lượt là 53,44% và 46,56%. Ảnh
hưởng của hoạt chất nitenpyram và imidacloprid làm tăng tỷ lệ rầy nâu cái cánh dài và rầy
nâu đực cánh dài, sự gia tăng này có ý nghĩa khi so sánh với công thức đối chứng lần lượt là
11,71% (tỷ lệ rầy nâu cái cánh dài) và 18,40% (tỷ lệ rầy nâu đực cánh dài) (bảng 3.21).
Bảng 3.21. Ảnh hƣởng của hoạt chất nitenpyram và imidacloprid đến dạng hình rầy
nâu cánh ngắn ở An Giang, năm 2016
Rầy nâu cái
Rầy nầy đực
Thí nghiệm
Cánh dài (%) Cánh ngắn (%) Cánh dài (%) Cánh ngắn (%)
Nitenpyram
32,83b
67,17b

29,94b
70,06b
Imidacloprid
53,44c
46,56a
46,56c
53,44a
Đối chứng
11,71a
88,29c
18,40a
81,60c
Chú thích: trong phạm vi cột các chữ cái khác nhau chỉ sự sai khác đáng tin cậy ở mức xác xuất P<0,05

Kết quả nghiên cứu cho thấy hoạt chất nitenpyram và imidacloprid đều làm giảm sức
đẻ trứng của trưởng thành cái rầy nâu và tỷ lệ hình thành dạng hình rầy nâu cánh dài cao
hơn khi so với công thức đối chứng. Nhưng hoạt chất nitenpyram làm giảm sức đẻ trứng của
trưởng thành cái rầy nâu mạnh hơn hoạt chất imidacloprid và tỷ lệ hình thành dạng hình rầy
nâu cánh dài thấp hơn so với hoạt chất imidacloprid. Vì vậy, đối với hoạt chất imidacloprid


16
cần hạn chế sử dụng ngoài sản xuất, còn hoạt chất nitenpyram vẫn có thể sử dụng trong
phòng chống rầy nâu, tuy nhiên cần có biện pháp quản lý để giảm mức độ sử dụng.
3.3. Nghiên cứu giải pháp hợp lý để quản lý tính tính kháng thuốc của rầy nâu
3.3.1. Nghiên cứu biện pháp sử dụng giống kháng trong quản lý tính kháng thuốc của
rầy nâu
3.3.1.1. Tính kháng của các giống lúa trồng phổ biến ở An Giang với quần thể rầy nâu
Nilaparvata lugens (Stål) ở An Giang
Trong 14 giống lúa được đánh giá mức độ mẫn cảm đối với quần thể rầy nâu ở An

Giang, có 1 giống lúa có phản ứng ở mức kháng vừa (OM6976); 8 giống lúa có phản ứng ở
mức nhiễm vừa (OM8017, OM7347, OM10041, OM16976, OM5451, OM8108, OM6162,
OM4900); 3 giống lúa có phản ứng ở mức nhiễm (IR50404, OM4218, IR504) và 2 giống
lúa có phản ứng ở mức nhiễm nặng (Jamie85, VĐ20). Từ kết quả trên, đề tài đã lựa chọn
giống lúa OM6976 (có mức độ kháng cao nhất trong số các giống lúa thu thập tại An Giang)
và giống lúa nhiễm TN1 sử dụng cho các nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của giống lúa
kháng rầy nâu đến mức độ kháng của quần thể rầy nâu ở An Giang đối với hoạt chất
imidacloprid.
3.3.1.2. Ảnh hƣởng của giống lúa đến mức độ kháng thuốc của quần thể rầy nâu An
Giang sau một số thế hệ không tiếp xúc với hoạt chất imidacloprid
Quần thể rầy nâu An Giang thu thập ngoài đồng ruộng và được nuôi trong phòng thí
nghiệm trên 2 giống lúa TN1và OM6976, sau 1 thế hệ xác định mức độ kháng thuốc của
quần thể rầy nâu An Giang với hoạt chất imidacloprid. Quần thể rầy nâu An Giang có mức
độ kháng cao đối với hoạt chất imidacloprid, tỷ lệ kháng thuốc (RR) là 127,98 trên giống
lúa TN1 và trên giống lúa OM6976 là 125,27.
Quần thể rầy nâu An Giang nuôi trên 2 giống lúa TN1 và OM6976 không tiếp xúc với
hoạt chất imidacloprid qua 12 thế hệ trong phòng thí nghiệm. Kết quả cho thấy mức độ kháng
thuốc của quần thể rầy nâu đối với hoạt chất imidacloprid giảm khi số thế hệ tăng. Trên giống
TN1, tỷ lệ kháng thuốc của rầy nâu đối với hoạt chất imidacloprid giảm nhanh từ 127,98 ở thế
hệ thứ nhất (G1) xuống 32,63 ở thế hệ thứ 12 (G12). Tỷ lệ kháng thuốc của rầy nâu đối với hoạt
chất imidacloprid giảm nhanh từ thế hệ G3 - G9 và tỷ lệ kháng thuốc giảm chậm sau 9 thế hệ.
Khi rầy nâu được nuôi liên tục trên giống lúa OM6976, tỷ lệ kháng thuốc của rầy nâu đối với
hoạt chất imidacloprid giảm nhanh hơn so với rầy nâu được nuôi trên giống lúa TN1, tỷ lệ
kháng giảm từ 125,27 ở thế hệ G1 xuống 18,96 ở thế hệ G12. Tỷ lệ kháng thuốc của rầy nâu đối
với hoạt chất imidacloprid giảm rất nhanh từ sau thế hệ G1 - G6 và giảm chậm sau 6 thế hệ
(bảng 3.23).
Bảng 3.23. Mức độ kháng thuốc của quần thể rầy nâu An Giang sau một số thế hệ
không tiếp xúc hoạt chất imidacloprid, năm 2015 - 2016
Giống lúa Thế hệ
LC50 (mgl)

Giới hạn tin cậy (95%)
Tỷ lệ kháng (RR)
G1
26,491
16,715 - 34,234
127,98
G3
24,931
15,748 - 32,363
120,44
TN1
G6
12,610
8,213 - 16,228
60,92
G9
7,063
3,203 - 10,072
34,12
G12
6,754
3,504 - 9,262
32,63


17

OM6976

G1

G3
G6
G9
G12

25,931
11,722
6,551
4,292
3,925

14,854 - 34,088
5,483 - 16,520
3,610 - 8,899
2,396 - 5,736
1,951 - 5,370

125,27
56,63
31,65
20,73
18,96

Ghi chú: LC50 của dòng rầy nâu mẫn cảm: 0,207 (0,097 - 0,294); G: thế hệ

3.3.1.3. Ảnh hƣởng của giống lúa đến mức độ kháng thuốc của quần thể rầy nâu An
Giang sau một số thế hệ tiếp xúc với hoạt chất imidacloprid
Quần thể rầy nâu An Giang nuôi trên 2 giống lúa TN1 và OM6976 trong phòng thí
nghiệm và được tạo áp lực chọn lọc tiếp xúc với hoạt chất imidacloprid qua các thế hệ đã làm
gia tăng mức độ kháng thuốc của rầy nâu đối với hoạt chất này. Rầy nâu nuôi trên giống TN1,

tỷ lệ kháng của rầy nâu đối với hoạt chất imidacloprid tăng từ 127,98 ở thế hệ G1 lên 211,69 ở
thế hệ G12. Tỷ lệ tính kháng của rầy nâu đối với hoạt chất imidacloprid tăng chậm từ thế hệ G1
- G6 nhưng tăng nhanh từ 136,66 ở thế hệ G6 lên 211,69 ở thế hệ G12.
Khi rầy nâu được nuôi trên giống lúa OM6976, tỷ lệ kháng của rầy nâu đối với hoạt chất
imidacloprid tăng chậm hơn so với rầy nâu được nuôi trên giống TN1, tỷ lệ kháng tăng từ
125,27 ở thế hệ G1 lên 179,69 ở thế hệ G12. Tỷ lệ kháng của rầy nâu đối với hoạt chất
imidacloprid tăng chậm từ sau thế hệ G1 - G9 nhưng tăng nhanh từ 146,42 ở thế hệ G9 lên
179,69 ở thế hệ G12 (hình 3.8).

Hình 3.8. Sự thay đổi tỷ lệ kháng thuốc của quần thể rầy nâu An Giang sau một số thế hệ áp
lực chọn lọc tiếp xúc hoạt chất imidacloprid
Kết quả nghiên cứu cho thấy sau 12 thế hệ rầy nâu không tiếp xúc với hoạt chất
imidacloprid trong phòng thí nghiệm, tỷ lệ kháng thuốc của rầy nâu nuôi trên giống lúa
OM6976 đối với hoạt chất imidacloprid là (RR = 18,96) giảm nhanh hơn khi rầy nâu được
nuôi trên giống lúa TN1 (RR = 32,63). Nhưng tỷ lệ kháng của rầy nâu đối với hoạt chất
imidacloprid trên giống lúa OM6976 (RR = 179,69) tăng chậm hơn so với rầy nâu nuôi trên
giống lúa TN1 có tỷ lệ kháng (RR = 211,69) sau 12 thế hệ rầy nâu áp lực chọn lọc đối với
hoạt chất imidacloprid. Kết hợp sử dụng giống lúa OM6976 trong cơ cấu giống lúa và hạn
chế không sử dụng hoạt chất imidacloprid trong khoảng 12 thế hệ rầy nâu, sẽ giảm mức độ
kháng thuốc của rầy nâu đối với hoạt chất imidacloprid.


18
3.3.2. Nghiên cứu biện pháp sử dụng thuốc hóa học trong quản lý tính kháng thuốc của
rầy nâu
3.3.2.1. Hiệu lực của một số thuốc sử dụng phổ biến trong phòng chống rầy nâu
* Hiệu lực trong phòng thí nghiệm của một số thuốc sử dụng phổ biến trong sản xuất
đối với rầy nâu
- Hiệu lực của một số thuốc đối với ấu trùng tuổi 1 - 2 của rầy nâu
Kết quả sau 72 giờ xử lý, các thuốc vẫn có tác động mạnh đến rầy nâu khi hiệu lực

của các thuốc đều tăng lên. Các thuốc có hiệu lực cao đối với ấu trùng tuổi 1 - 2 của rầy nâu là
thuốc Oshin 20WP, Elsin 10EC, Closer 50WG đạt hiệu lực 91,16 - 94,67%. Các thuốc Applaud
10WP, Bassa 50EC, Chess 50WG có hiệu lực thấp hơn đạt 79,77 - 83,66%. Còn thuốc Admire
50 EC có hiệu lực thấp nhất đối với ấu trùng tuổi 1 - 2 của rầy nâu chỉ đạt 67,22%.
- Hiệu lực của một số thuốc đối với ấu trùng tuổi 3 - 4 của rầy nâu
Sau 72 giờ xử lý, hiệu lực của các thuốc này đối với ấu trùng tuổi 3 - 4 của rầy nâu đều
tăng lên so với 24 giờ đầu xử lý thuốc. Trong đó, hiệu lực của thuốc Applaud 10WP tăng
mạnh nhất từ 13,62% lên đến 79,39%, hiệu lực của thuốc Bassa 50EC tăng chậm nhất từ
72,27% lên đến 78,78% (Bassa 50EC có hiệu lực cao nhất trong số các thuốc sau 24 giờ xử lý).
Các thuốc Bassa 50EC, Applaud 10WP, Chess 50WG, Closer 50WG, Elsin 10EC, Oshin 20WP
có hiệu lực khá cao đối với ấu trùng tuổi 3 - 4 của rầy nâu đạt 77,60 - 85,45% (thuốc Oshin
20WP có hiệu lực cao nhất đạt 85,42%). Còn thuốc Admire 50EC có hiệu lực thấp nhất đối với ấu
trùng tuổi 3 - 4 của rầy nâu đạt 65,12%.
- Hiệu lực của một số thuốc đối với rầy nâu trưởng thành
Rầy nâu cũng như các loài côn trùng khác, khi rầy nâu càng lớn thì mức độ mẫn cảm
của rầy nâu đối với thuốc càng giảm nên hiệu lực của thuốc đối với rầy nâu trưởng thành
thấp hơn so với hiệu lực của thuốc đối với pha ấu trùng của rầy nâu. Sau 72 giờ xử lý, hiệu
lực các thuốc Oshin 20WP, Closer 50WG, Elsin 10EC, Chess 50WG, Bassa 50EC đối với rầy
nâu trưởng thành đạt 60,35 - 66,85% Các thuốc Applaud 10WP và Admire 50EC có hiệu lực thấp
đối với rầy nâu trưởng thành, lần lượt đạt 28,59% và 47,39%. Thuốc Applaud 10WP có hiệu lực
thấp nhất đối với rầy nâu trưởng thành so với các thuốc thí nghiệm khác ngay sau 24 giờ xử lý
thuốc
* Hiệu lực ở ngoài đồng ruộng của một số thuốc sử dụng phổ biến trong sản xuất đối
với rầy nâu
Kết quả cho thấy trong 7 loại thuốc đã được lựa chọn để đánh giá hiệu lực của thuốc
với rầy nâu ngoài đồng ruộng, thuốc Oshin 20WP có hiệu lực đối với rầy nâu cao nhất, đạt
80,15% sau 5 ngày xử lý. Các thuốc Closer 50WG, Elsin 10EC có hiệu lực đối với rầy nâu
thấp hơn thuốc Oshin 20WP, hiệu lực của thuốc Closer 50WG, Elsin 10EC đạt lần lượt là
76,82% và 77,72%. Các thuốc này có hiệu lực cao đối với rầy nâu ngay từ ngày thứ nhất xử
lý và hiệu lực đạt cao nhất sau 5 ngày xử lý thuốc.

Các thuốc Bassa 50EC, Chess 50WG, Applaud 10WP có hiệu lực đối với rầy nâu dao
động 62,07 - 70,32%. Trong đó, thuốc Bassa 50EC có hiệu lực cao nhất sau 3 ngày xử lý, đạt
66,98%. Hai thuốc Chess 50WG, Applaud 10WP có hiệu lực cao nhất đối với rầy nâu sau 10
ngày xử lý, đạt lần lượt là 70,32% và 62,07%.
Trong 7 loại thuốc, thuốc Admire 50EC có hiệu lực đối với rầy nâu thấp nhất trong số các


19
thuốc thử nghiệm ngoài đồng ruộng, hiệu lực của thuốc đối với rầy nâu đạt cao nhất là 55,58% sau
7 ngày xử lý.
Sau 10 ngày xử lý, phần lớn các thuốc đều giảm hiệu lực đối với rầy nâu. Tuy nhiên, thuốc
Applaud 10WP (hoạt chất là Buprofezin có cơ chế tác động ức chế sự tổng hợp chitin trong
quá trình lột ở côn trùng) và thuốc Chess 50WG (hoạt chất là Pymetrozine có cơ chế tác động
gây ngán ăn ở côn trùng) phát huy hiệu lực chậm, hiệu lực của thuốc đạt cao nhất sau 10 ngày xử lý
(bảng 3.27).
Bảng 3.27. Hiệu lực của một số thuốc đối với quần thể rầy nâu ngoài đồng ruộng tại
An Giang
Hiệu lực sau phun (%)
Liều lƣợng
STT
Tên thuốc
(kg, l/ha)
1 NSP
3 NSP
7 NSP
10 NSP
d
c
f
1

Admire 50 EC
0,4
17,34
25,45
55,58
52,62d
2
Applaud 10WP
1,0
16,16 e
45,02b
60,33e
62,07b
3
Bassa 50EC
1,0
40,62b
66,98a
64,63d
56,97c
4
Chess 50WG
0,3
24,91c
44,99b
68,95c
70,32a
5
Closer 50WG
0,2

39,91b
68,65a
76,82b
55,05c
b
a
b
6
Elsin 10EC
0,9
40,82
65,32
77,72
57,10c
7
Oshin 20WP
0,1
43,16a
67,09a
80,15a
60,82b
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong phạm vi cột chỉ sự sai khác ở độ tin cậy P<0,05; NSP: ngày sau phun

Kết quả đánh giá hiệu lực của một số thuốc sử dụng phòng chống rầy nâu cho thấy khi rầy
nâu đã có mức độ kháng cao đối với hoạt chất thuốc thì hiệu lực phòng chống của thuốc đối
với rầy nâu thấp hơn những hoạt chất có biểu hiện kháng thấp và chưa kháng đối với rầy
nâu. Quần thể rầy nâu An Giang đã có mức độ kháng cao đối với hoạt chất imidacloprid (tỷ lệ
kháng là 118,294 - 161,768). Kết quả thí nghiệm cho thấy thuốc Admire 50EC (hoạt chất
imidacloprid) có hiệu lực thấp đối với rầy nâu (đạt 55,58% ở ngoài đồng ruộng). Hoạt chất
có biểu hiện kháng thấp, chưa kháng với rầy nâu như dinotefuran, sulfoxaflor thì các thuốc

Oshin 20WP, Closer 50WG có hiệu lực cao đối với rầy nâu (đạt 76,82 - 80,15% ở ngoài đồng
ruộng). Kết quả này là cơ sở để đưa ra những khuyến cáo trong sản xuất về sử dụng thuốc hợp lý
nhằm tăng hiệu quả kinh tế và giảm khả năng hình thành và phát triển tính kháng thuốc của rầy nâu
hại lúa.
3.3.2.2. Hiệu quả luân phiên các thuốc trong phòng chống rầy nâu
Đánh giá sự luân phiên các thuốc đến sự thay đổi giá trị LC50 của thuốc Admire 50EC
đối với quần thể rầy nâu trong phòng thí nghiệm. Kết quả cho thấy ở các công thức 1, 2 và
3, giá trị LC50 của thuốc Admire 50EC với quần thể rầy nâu sau khi luân phiên thuốc đã gia
tăng so với giá trị LC50 của thuốc Admire 50EC ban đầu. Ở công thức 1 (imidacloprid imidacloprid - imidacloprid), khi trong công thức luân phiên chỉ sử dụng thuốc Admire
50EC để phun thì giá trị LC50 của thuốc Admire 50EC đối với quần thể rầy nâu gia tăng
mạnh nhất từ 15,293 lên 16,143 (mg/l). Giá trị LC50 của thuốc Admire 50EC đối với quần
thể rầy nâu ở công thức 2 (imidacloprid - sulfoxaflor - imidacloprid) tăng từ 15,293 lên
15,859 (mg/l), khi trong công thức thí nghiệm sử dụng thuốc Admire 50EC nhắc lại 2 lần.
Còn giá trị LC50 của thuốc Admire 50EC đối với quần thể rầy nâu ở công thức 3
(dinotefuran - imidacloprid - sulfoxaflor) gia tăng nhẹ từ 15,293 lên 15,397 (mg/l), khi trong
công thức luân phiên sử dụng thuốc Admire 50EC chỉ nhắc lại 1 lần (bảng 3.28).


20
Bảng 3.28. Hiệu quả luân phiên thuốc đến sự thay đổi giá trị LC50 của thuốc Admire
50EC đối với quần thể rầy nâu, năm 2017
LC50 (mg/l) sau phun luân
CT
Tên thuốc
Hoạt chất
phiên 3 lần
Admire 50EC
Imidacloprid
16,143
1

Admire 50EC
Imidacloprid
(9,309 - 21,651)
Admire 50EC
Imidacloprid
Admire 50EC
Imidacloprid
15,859
2
Closer 500WG
Sulfoxaflor
(10,574 - 20,153)
Admire 50EC
Imidacloprid
Oshin 20WP
Dinotefuran
15,397
3
Admire 50EC
Imidacloprid
(10,200 - 19,636)
Closer 500WG
Sulfoxaflor
Closer 500WG
Sulfoxaflor
9,024
4
Oshin 20WP
Dinotefuran
(6,331 - 11,180)

Chess 500WP
Pymetrozine
Elsin 10EC
Nitenpyram
9,302
5
Applaud 10WP
Buprofezin
(6,695 - 11,444)
Closer 500WG
Sulfoxaflor
Applaud 10WP
Buprofezin
9,119
6
Oshin 20WP
Dinotefuran
(6,412 - 11,291)
Closer 500WG
Sulfoxaflor
8,107
7
Nước
Nước
(5,614 - 10,166)
Ghi chú: LC50 (mg/l) và giới hạn tin cậy 95% trước khi phun: 15,293 (9,975 - 19,555) mgl

Khi trong các công thức luân phiên không sử dụng thuốc Admire 50EC, giá trị LC50
của thuốc Admire 50EC đối với quần thể rầy nâu sau khi phun luân phiên thuốc đều giảm so
với giá trị LC50 của thuốc Admire 50EC ban đầu. Giá trị LC50 của thuốc Admire 50EC đối

với quần thể rầy nâu ở công thức 4 (sulfoxaflor - dinotefuran - pymetrozine) giảm từ 15,293
xuống 9,024 mg/l; ở công thức 5 (nitenpyram - buprofezin - sulfoxaflor) giảm từ 15,293
xuống 9,302 mg/l và ở công thức 6 (buprofezin - dinotefuran - sulfoxaflor) giảm từ 15,293
xuống 9,119 mg/l.
Kết quả nghiên cứu cho thấy sử dụng các hoạt chất có cơ chế tác động khác nhau
theo các công thức luân phiên: sulfoxaflor - dinotefuran - pymetrozine; nitenpyram buprofezin - sulfoxaflor; buprofezin - dinotenfuran - sulfoxaflor, là một biện pháp quan
trọng để phục hồi tính và làm chậm sự phát triển tính kháng của quần thể rầy nâu đối với
hoạt chất imidacloprid.
3.3.3. Độ độc của một số thuốc sử dụng phòng chống rầy nâu đến bọ xít mù xanh
3.3.3.1. Giá trị LC50 của một số thuốc đối với bọ xít mù xanh, rầy nâu
Giá trị LC50 của 7 thuốc sử dụng để phòng chống rầy nâu đối với bọ xít mù xanh sau
24 giờ xử lý lần lượt theo thứ tự là: Applaud 10WP (12,323 mgl) > Elsin 10EC (8,276 mgl)
> Closer 500WG (5,293 mgl) > Chess 50WP (3,345 mgl) > Oshin 20WP (2,689 mgl) >
Admire 50EC (0,300 mgl) > Bassa 50EC (0,150 mgl). Trong 7 thuốc sử dụng để phòng


21
chống rầy nâu, thuốc Bassa 50EC là thuốc có độ độc cao nhất đối với bọ xít mù xanh, giá trị
LC50 của thuốc đối với bọ xít mù xanh sau 24 giờ và 48 giờ xử lý lần lượt là 0,150 mgl và
0,100 mgl. Thuốc Applaud 10WP ít độc nhất đối với bọ xít mù xanh, giá trị LC50 của thuốc
đối với bọ xít mù xanh sau 24 giờ và 48 giờ xử lý lần lượt là 12,323 mgl và 10,574 mgl.
Trong 7 thuốc sử dụng để phòng chống rầy nâu, thuốc Oshin 20WP có độ độc cao
nhất đối với rầy nâu, giá trị LC50 của thuốc đối với rầy nâu sau 24 giờ và 48 giờ xử lý lần
lượt là 2,281 mgl và 1,377 mgl. Thuốc Bassa 50EC ít độc nhất đối với rầy nâu, giá trị LC50
của thuốc đối với rầy nâu sau 24 giờ và 48 giờ xử lý lần lượt là 298,376 mgl và 258,895
mgl. Giá trị LC50 của 7 thuốc này đối với rầy nâu lần lượt theo thứ tự: Bassa 50EC (258,895
mgl) > Applaud 10WP (115,861 mgl) > Chess 50WP (51,337 mgl) > Admire 50EC (15,667
mgl) > Elsin 10EC (4,275 mgl) > Closer 500WG (2,679 mgl) > Oshin 20WP (1,377 mgl) ở
48 giờ sau xử lý (bảng 3.29).
Bảng 3.29. Giá trị LC50 của một số thuốc đối với bọ xít mù xanh và rầy nâu, năm 2017

LC50 đối với bọ xít mù xanh (mgl)
LC50 đối với rầy nâu (mgl)
Tên thuốc
24 giờ
48 giờ
24 giờ
48 giờ
0,300
0,171
18,775
15,667
Admire 50EC
(0,205 - 0,381)
(0,119 - 0,214)
(13,238 - 23,499)
(10,636 - 19,757)
3,345
1,894
88,774
51,337
Chess 50WP
(2,271 - 4,256)
(1,276 - 2,396)
(62,189 - 110,241)
(34,366 - 64,896)
5,293
3,345
4,800
2,679
Closer 500WG

(3,619 - 6,686)
(2,151 - 4,297)
(3,445 - 5,949)
(1,701 - 3,458)
8,276
4,785
6,677
4,275
Elsin 10EC
(5,695 - 10,405)
(3,280 - 5,962)
(4,455 - 8,524)
(2,536 - 5,653)
0,150
0,100
298,376
258,895
Bassa 50EC
(0,104 - 0,189)
(0,070 - 0,123) (208,269 - 374,936) (170,113 - 330,227)
2,689
1,595
2,281
1,377
Oshin 20WP
(1,890 - 3,398)
(1,042 - 2,036)
(1,549 - 2,902)
(0,915 - 1,751)
12,323

10,574
154,587
115,861
Applaud 10WP
(8,029 - 15,844) (7,229 - 13,308) (106,990 - 193,626) (69,273 - 150,344)
Ghi chú: Các giá trị trong ngoặc là giá trị giới hạn tin cậy 95%

3.3.3.2. Chỉ số độc của một số thuốc sử dụng phòng chống rầy nâu đối với bọ xít mù
xanh
Trong 7 thuốc sử dụng để phòng chống rầy nâu, các thuốc Closer 500WG, Elsin
10EC, Oshin 20WP ít độc đối với bọ xít mù xanh hơn đối với rầy nâu với chỉ số lựa chọn >
1. Còn các thuốc Admire 50EC, Chess 50WP, Bassa 50EC, Applaud 10WP độc đối với bọ
xít mù xanh hơn đối với rầy nâu với tỷ lệ lựa chọn < 1 (bảng 3.31).
Tuy nhiên, khi sử dụng thuốc ở liều khuyến cáo ngoài đồng ruộng, các thuốc Chess
50WP, Closer 500WG, Elsin 10EC, Oshin 20WP, Applaud 10WP là khá an toàn đối với bọ
xít mù xanh (chỉ số độc < 50). Mặc dù, các thuốc Chess 50WP, Applaud 10WP độc đối với
bọ xít mù xanh hơn đối với rầy nâu (tỷ lệ lựa chọn < 1).
Kết quả đánh giá độ độc của một số thuốc đến bọ xít mù xanh cho thấy các thuốc
Chess 50WP, Closer 500WG, Elsin 10EC, Oshin 20WP và Applaud 10WP sử dụng để
phòng chống rầy nâu ở liều khuyến cáo khá an toàn đối với bọ xít mù xanh. Các thuốc


22
Bassa 50EC và Admire 50EC sử dụng ở liều khuyến cáo ngoài đồng ruộng không an toàn
đối với bọ xít mù xanh.
Bảng 3.31. Chỉ số lựa chọn một số thuốc sử dụng phòng chống rầy nâu ít độc đối với bọ
xít mù xanh sau 24 giờ xử lý, năm 2017
TT

Tên thuốc


Hoạt chất

Liều khuyến
cáo (g a.i/ha)

Chỉ số
lựa chọn

1

Admire 50EC

Imidacloprid

20

0,016

2

Chess 50WP

Pymetrozine

150

0,038

3


Closer 500WG

Sulfoxaflor

100

1,103

4

Elsin 10EC

Nitenpyram

180

1,239

5

Bassa 50EC

Fenobucarb

500

0,001

6


Oshin 20WP

Dinotefuran

20

1,179

7

Applaud 10WP

Buprofezin

100

0,080

3.3.4. Đề xuất một số giải pháp quản lý tính kháng thuốc của rầy nâu
Quản lý tính kháng thuốc của rầy nâu hại cây lúa cần dựa trên nguyên tắc áp dụng
biện pháp quản lý tổng hợp (IPM) trên cây lúa (Tiến bộ kỹ thuật 01- 88: 2018/BNNPTNT):
* Biện pháp canh tác
- Làm sạch cỏ, lúa chét ven bờ ruộng, mương dẫn nước tưới. Đất ruộng phải được
cày, bừa kỹ, san phẳng mặt ruộng. Trước khi gieo, cấy cần tuân thủ thời vụ theo khuyến cáo
của cơ quan chuyên môn.
- Sử dụng các giống lúa có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, ưu tiên các giống lúa có khả
năng chống chịu rầy nâu.
- Không bón phân đạm quá cao trên 150 kg N/ha, dùng bảng so màu lá lúa để điều
chỉnh bón đủ lượng phân đạm.

* Biện pháp sinh học
Không sử dụng thuốc hóa học khi chưa cần thiết, trên bờ ruộng lúa nên trồng cây hoa
có mật để thu hút, bảo vệ kẻ thù tự nhiên như: bọ xít mù xanh (Cyrtorhinus lividipennis),
nhện sói vân đinh ba (Lycosa pseudoannulata), nhện linh miêu (Oxyopes javanus),...
* Biện pháp hóa học
- Thời điểm phòng trừ: Giai đoạn trước trỗ, nếu mật độ rầy đạt ngưỡng 1.000 (con/m2
) trở lên và giai đoạn sau trỗ mật độ rầy đạt ngưỡng 2.000 con/m2 trở lên thì sử dụng thuốc
bảo vệ thực vật để phòng chống. Ngưỡng mật độ này được áp dụng trong phòng chống khi
rầy cám phổ biến (ấu trùng tuổi 1- 3 của rầy nâu).
- Loại thuốc sử dụng: Ưu tiên sử dụng các thuốc rầy nâu chưa biểu hiện tính kháng.
Những thuốc hóa học mà rầy nâu đã biểu hiện tính kháng phải luân phiên với thuốc khác
nhóm theo các công thức luân phiên sau:
Sulfoxaflor - Dinotefuran - Pymetrozine
Buprofezin - Dinotefuran - Sulfoxaflor
Nitenpyram - Buprofezin - Sulfoxaflor


23
Mỗi loại thuốc chỉ nên sử dụng 01 lần/01 vụ và tối đa không quá 3 vụ liên tục, sau đó
phải chuyển sang sử dụng loại thuốc khác.
- Liều lượng, nồng độ: Theo hướng dẫn của nhà sản xuất, phun đủ lượng nước thuốc
quy định (400 - 600 lít/ha).
- Kỹ thuật phun thuốc: Khi lúa tốt, trước khi phun rẽ lúa tạo các băng để có thể phun
sát phần gốc của cây lúa nơi rầy cư trú và dâng nước cao 3 - 5cm để tăng hiệu quả phòng
chống (nếu chủ động được nước). Sử dụng các loại bình bơm đạt tiêu chuẩn. Sau phun
thuốc 3 - 7 ngày cần kiểm tra ruộng nếu mật độ rầy vẫn còn tăng lên cao thì phải phun lại
mới đạt yêu cầu.

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Kết luận

1. Đã ghi nhận 20 hoạt chất thuộc 11 nhóm thuốc để phòng chống rầy nâu ở các tỉnh
được nghiên cứu. Trong đó, tại Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An, Phú Yên nhóm thuốc
Neonicotinoid có số lượng nông dân sử dụng đạt cao nhất (74,17 - 98,34% số người được
hỏi). Còn ở An Giang nhóm thuốc Pyridine azomethine có số lượng nông dân sử dụng đạt
rất cao (tới 89,17% số người được hỏi) để phòng chống rầy nâu. Phần lớn nông dân phun
thuốc 2 - 3 lần/vụ lúa, có một số nông dân phun thuốc tới 4 - 7 lần/vụ ở An Giang. Chỉ có
50,83 - 68,33% nông dân phun thuốc theo liều lượng khuyến cáo, số còn lại là phun gấp 1,5
- 2 lần liều lượng khuyến cáo và phần lớn nông dân hỗn hợp 2 - 3 loại thuốc trong một lần
phun.
2. Trong năm 2015 - 2017, các quần thể rầy nâu ở các tỉnh được nghiên cứu có mức
độ kháng thuốc từ thấp đến rất cao đối với hoạt chất dinotefuran, buprofezin, nitenpyram,
pymetrozine, fenobucarb, imidacloprid. Tỷ lệ kháng thuốc của rầy nâu đối với các hoạt chất
trên tương ứng là 2,096 - 4,600; 4,733 - 14,114; 4,087 - 24,112; 2,762 - 25,664; 23,441 89,461; 31,575 - 161,768. Các quần thể rầy nâu được thí nghiệm vẫn còn mẫn cảm (RR chỉ
là 1,226 - 2,868) đối với hoạt chất sulfoxaflor. Quần thể rầy nâu có mức độ kháng thuốc
càng cao thì hoạt tính của enzim Cytochrome P450, Glutathione, Esterase
càng cao. Quần thể rầy nâu đã kháng thuốc đối với hoạt chất imidacloprid thì không kháng
chéo với hoạt chất buprofezin, pymetrozine, fenobucarb, sulfoxaflor.
3. Khi tiếp xúc với hoạt chất nitenpyram, imidacloprid ở nồng độ LC30, sức đẻ trứng,
tỷ lệ trưởng thành cái đẻ trứng của rầy nâu bị giảm đáng kể. Đối với loại hình cánh dài, so
với đối chứng sức đẻ trứng tương ứng đạt 58,91%, 70,28% và tỷ lệ trưởng thành cái đẻ
trứng tương ứng đạt 74,44%, 75,56%. Đối với loại hình cánh ngắn, so với đối chứng sức đẻ
trứng tương ứng đạt 52,88%, 62,52% và tỷ lệ trưởng thành cái đẻ trứng tương ứng đạt
75,56%, 76,67%. Ngược lại, hoạt chất nitenpyram và imidacloprid lại làm tăng tỷ lệ trưởng
thành cánh dài ở thế hệ sau. Chỉ tiêu này tương ứng với 2 hoạt chất đã nêu đạt 56,73 60,58% và 71,80 - 74,52% so với 43,16 - 51,84% ở đối chứng khi trưởng thành cái cánh dài
bị xử lý; còn khi trưởng thành cái cánh ngắn bị xử lý thì tỷ lệ trưởng thành cánh dài ở thế hệ
sau lần lượt là 29,94 - 32,83% và 46,56 - 53,44% so với 11,71 - 18,40% ở đối chứng. Như
vậy hoạt chất nitenpyram làm giảm sức đẻ trứng của rầy nâu mạnh hơn và làm tăng tỷ lệ



×