Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Khoá luận tốt nghiệp xây dựng con người mới ở tỉnh thái bình hiện nay theo tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.75 KB, 50 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

NGUYỄN THỊ NGA

XÂY DỰNG CON NGƢỜI MỚI
Ở TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY
THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

HÀ NỘI, 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

NGUYỄN THỊ NGA

XÂY DỰNG CON NGƢỜI MỚI
Ở TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY

THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. PHẠM THỊ THÚY VÂN

HÀ NỘI, 2019




LỜI CẢM ƠN
Đề tài “Xây dựng con người mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo tư tưởng
Hồ Chí Minh” là nội dung tác giả khóa luận lựa chọn để nghiên cứu và làm khóa
luận tốt nghiệp sau bốn năm học tập tại trường Đại học sư phạm Hà Nội 2, khoa
Giáo dục chính trị.
Để hoàn thành quá trình nghiên cứu và hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp, ngoài
sự nỗ lực học hỏi, tìm hiểu của tác giả khóa luận còn có sự hướng dẫn tận tình của
giảng viên - TS. Phạm Thị Thúy Vân. Tác giả khóa luận xin chân thành cảm ơn cô Phạm
Thị Thúy Vân, người đã hướng dẫn trực tiếp, cụ thể, chu đáo trong suốt thời gian
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Đồng thời, tác giả khóa luận xin gửi lời cảm ơn tới
các thầy, cô trong khoa Giáo dục chính trị, bạn bè đã giúp đỡ, tạo điều kiện trong
suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Tuy nhiên, vì kiến thức chuyên môn còn hạn chế và bản thân còn thiếu nhiều
kinh nghiệm thực tiễn nên nội dung của khóa luận tốt nghiệp không tránh khỏi
những thiếu sót, tác giả khóa luận rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét của quý
thầy cô cùng toàn thể hội đồng phản biện, ban thư kí để khóa luận tốt nghiệp được
hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thị Nga


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả khóa luận xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá
nhân với sự cố vấn, hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của người hướng dẫn khoá luận tốt
nghiệp: Giảng viên - TS. Phạm Thị Thúy Vân. Tất cả các nguồn tài liệu đã được

công bố đầy đủ, nội dung của khoá luận tốt nghiệp là trung thực.
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thị Nga


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI ..... 7
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người ............................................ 7
1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người .......................... 8
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người” .................. 11
1.4. Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
con người mới .............................................................................................. 14
Chương 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG
CON NGƯỜI MỚI Ở TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY ................................. 18
2.1. Những nhân tố tác động đến việc xây dựng con người mới ở tỉnh
Thái Bình hiện nay ....................................................................................... 18
2.2. Thực trạng vấn đề xây dựng con người mới ở tỉnh Thái Bình hiện
nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh và nguyên nhân ........................................ 21
2.3. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng con người mới ở
tỉnh Thái Bình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh .................................. 34
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 44


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam
đã khẳng định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho cách mạng Việt Nam một giá
trị tinh thần vô giá: Đó là một hệ thống quan điểm đặc biệt toàn diện, nhất quán và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Từ cách mạng Dân tộc
Dân chủ tiến lên cách mạng Xã hội chủ nghĩa - cuộc cách mạng thuộc địa từ giải
phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tiến
lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị nền tảng tư
tưởng, trở thành kim chỉ nam dẫn đường cho mọi thắng lợi của toàn Đảng, toàn
quân dân ta. Đánh giá về những di sản lý luận vô giá của Người, Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống những quan điểm mạch lạc, toàn diện, khoa học và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vận dụng vào điều kiện cụ thể
của nước ta. Hơn nữa, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây
dựng đất nước Việt Nam theo con đường Xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là những kết luận chính xác và là sự
tiến lên mới trong hệ thống tư duy lý luận của Đảng ta”.
“Trong hệ thống lý luận tư duy cách mạng của Hồ Chí Minh, tư tưởng về xây
dựng con người mới là tư tưởng chiếm một vị trí quan trọng. Nó là chiều sâu nhất
trong tư duy lý luận của Người và đồng thời chứa đựng những giá trị khoa học ý
nghĩa. Hồ Chí Minh quan niệm: “Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội và
giải phóng con người”. Bởi Hồ Chí Minh luôn cho rằng: “con người” là yếu tố quan
trọng nhất. Chính vì vậy, tâm niệm của Người lúc bấy giờ là: Nhất định phải giải
phóng con người thoát khỏi tất cả gông cùm nô lệ; đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc
lâu dài và mãi mãi cho nhân dân”.
Hồ Chí Minh rời bến cảng Nhà Rồng năm 1911, xuất phát ra đi để tìm con
đường cứu nước cho dân tộc với nguyện vọng: “Làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai

1



cũng được học hành”. Như vậy, sau khi đất nước được độc lập, thống nhất thì điều
quan trọng tiếp theo là việc chăm lo cho con người bởi Người nói: “Có độc lập tự
do mà người dân sống không có hạnh phúc thì cái độc lập, tự do ấy không có ý
nghĩa gì”.
“Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng con người mới
không đơn giản chỉ thuần tuý là hệ thống những di sản giá trị lý luận quý báu. Điều
quan trọng là vận dụng và phát triển những tư duy đó của Đảng trong chiến lược
xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay”. Do đó, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về “xây dựng con người mới” ở tỉnh Thái Bình vẫn rất cần thiết, có ý
nghĩa quan trọng cả về phương diện lý luận lẫn phương diện thực tiễn, vừa có ý
nghĩa trước mắt, vừa có ý nghĩa lâu dài của cách mạng Việt Nam. Xuất phát từ
những lí do nói trên, tác giả khóa luận đã lựa chọn đề tài: “Xây dựng con người
mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” làm khóa luận tốt
nghiệp chuyên ngành Tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người mới,
có nhiều công trình khoa học ý nghĩa và có giá trị nghiên cứu sâu sắc đã được công
bố, tiêu biểu là các công trình của các tác giả:
+ “Lê Sĩ Thắng (1996) (chủ biên) trong cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người và chính sách xã hội”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, khái
quát quan niệm của Hồ Chí Minh về con người, chỉ rõ con người trong tư duy Hồ
Chí Minh là con người lịch sử - cụ thể, tồn tại và chịu ảnh hưởng trong nhiều mối
quan hệ” [5, tr.1].
+ “Võ Nguyên Giáp với bài “Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng
con người mới” trong cuốn “Những bài viết và nói chọn lọc thời kỳ đổi mới”, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2001 đã khái
quát những lý luận của Hồ Chí Minh về con người trên nhiều phương diện; về vai
trò của con người; về tư tưởng “trồng người”. Tác giả khẳng định: Tư tưởng của

Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người và sự nghiệp xây dựng con người là di sản quý

2


báu đối với công tác đổi mới của Đảng. Đồng thời, là cơ sở lý luận giúp cho Đảng
ta xây dựng chiến lược xây dựng con người trong giai đoạn hiện nay” [5, tr.1].
+ “Thành Duy (1996) trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, đã nhấn mạnh giá trị, ý nghĩa to lớn của tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về hình thành đạo đức cho con người trong một chế độ
xã hội mới. Thành Duy khẳng định lý luận của Đảng, xác định tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh là nền tảng đạo đức của toàn Đảng và toàn quân dân ta” [5, tr.1].
“Trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người
Việt nam phát triển toàn diện”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001,
Thành Duy đề cập tới những lý luận cụ thể về mối quan hệ giữa văn hóa với việc
xây dựng con người phát triển toàn diện, phân tích khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh
về vị trí, vai trò và ý nghĩa của giáo dục đối với việc đào tạo con người. Qua đó
khẳng định: Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng con người mới Xã hội
chủ nghĩa vẫn còn nguyên giá trị cho tới thời điểm hiện tại” [5, tr.1].
+ “Hoàng Trang - Phạm Ngọc Anh (2008) (đồng chủ biên) trong Cuốn
“Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện
nay”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, khẳng định tư duy lý luận Hồ
Chí Minh không chỉ bộc lộ qua tình thương yêu con người; mà còn biểu hiện ở việc
chăm lo, bồi dưỡng, sử dụng, phát huy sức mạnh của con người, của nhân dân để
giải phóng gông cùm xiềng xích cho con người; đem lại tự do, hạnh phúc cho con
người" [5, tr.1].
Những bài viết tiêu biểu, nổi bật khác đăng trên các báo, tạp chí với
nhiều cách tiếp cận khác nhau, đã luận giải giá trị, ý nghĩa chỉ đạo của tư tưởng Hồ
Chí Minh về con người và xây dựng con người mới đối với sự nghiệp xây dựng Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, cụ thể như:

+ “Đặng Xuân Kỳ trong bài “Quan điểm Hồ Chí Minh về con người và bản
chất con người”, “Tạp chí Triết học số 10 năm 2002”, đã phân tích: Trong tư duy
Hồ Chí Minh, con người được đặt trong mối quan hệ ba chiều đó là: Quan hệ
với một cộng đồng (mỗi con người là một thành viên); quan hệ với xã hội (con

3


người được làm chủ hay bị áp bức); quan hệ với tự nhiên (con người không tách
rời tự nhiên). Từ đó, làm rõ vị trí con người trong hệ thống lý luận của Hồ Chí
Minh đối với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam” [5, tr.1].
+ Với bài “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau” trong “Di chúc” của
Hồ Chí Minh” - “tác giả Lê Thúy Hạnh viết trong Tạp chí Triết học số 10
năm 2009”, đã khẳng định: Trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “vấn đề
bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một công việc vô cùng quan trọng và
cần thiết. Đồng thời, tác giả phân tích, chứng minh lý luận của Hồ Chí Minh về
mục đích, tầm quan trọng; ý nghĩa sâu sắc cùng những biện pháp cụ thể nhằm
xây dựng thế hệ cách mạng vừa hồng vừa chuyên, xứng đáng là chủ nhân tương
lai của đất nước” [5, tr.1].
+ Nguyễn Thế Nghĩa với bài viết “Di chúc Hồ Chí Minh và con đường đổi
mới ở Việt Nam hôm nay” đăng trên Tạp chí Triết học số 11 năm 2009, khẳng định:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, đặc biệt là
trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Tác giả phân tích quan điểm của Hồ
Chí Minh về xây dựng Đảng, đại đoàn kết dân tộc; về bồi dưỡng đạo đức cách
mạng, đào tạo thế hệ trẻ tương lai trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đối
với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam” [5, tr.1].
+ Trong bài “Quan điểm dân sinh và triết lí nhân sinh Hồ Chí Minh” - “tác
giả Đặng Hữu Toàn viết trong Tạp chí Triết học số 3 năm 2009”, đã luận giải và
khẳng định: “Điều cốt lõi với Hồ Chí Minh là luận điểm vì con người và làm sao
giải phóng con người. Đó là luận điểm dân sinh thấm đượm tinh thần nhân đạo cao

cả và thể hiện tư tưởng chủ nghĩa nhân văn sâu sắc. Đồng thời, là triết lí nhân sinh
hành động lấy thực tiễn cuộc sống làm điểm xuất phát, lấy giải phóng và phát triển
con người làm mục tiêu. Tác giả nhấn mạnh: Xây dựng Chủ nghĩa xã hội theo quan
điểm của Hồ Chí Minh không chỉ gắn liền với độc lập dân tộc, mà còn là bước đi,
con đường, cách thức để giữ vững tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân” [5, tr.1].
+ Trong bài “Nghĩ về mùa xuân và tuổi trẻ trong di sản tư tưởng Hồ Chí
Minh” - “tác giả Đỗ Huy đăng trên Tạp chí Triết học số 3 năm 2010”, nhấn mạnh:

4


Theo Hồ Chí Minh, xã hội cần phải có “chiến lược chăm lo, bồi dưỡng, phát huy và
tạo mọi điều kiện cần thiết cho thế hệ trẻ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà lịch sử
giao phó để xứng đáng là những chủ nhân tương lai của đất nước. Đồng thời, tác giả
cũng chỉ ra rằng: Bản thân thanh niên, thế hệ trẻ theo Hồ Chí Minh cũng phải tự biết
cố gắng phấn đấu rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, phát triển trình độ khoa học, khả
năng thẩm mỹ để sẵn sàng đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước” [5, tr.1].
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về “xây dựng con người mới” đã được
nghiên cứu từ nhiều góc độ, phương diện khác nhau với những nội dung cụ thể. Tuy
nhiên, theo tác giả khóa luận, việc nghiên cứu một cách có hệ thống lý luận, tư
tưởng của Người về vấn đề “xây dựng con người mới” vẫn rất cần thiết, đặc biệt là
việc làm rõ quá trình vận dụng “xây dựng con người mới” theo tư tưởng Hồ Chí
Minh ở tỉnh Thái Bình nhằm “xây dựng con người mới” phát triển toàn diện, đáp
ứng được nhiệm vụ của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay, vẫn mang
tính thời sự sâu sắc, cấp thiết về mặt lý luận và thực tiễn, vừa có ý nghĩa trước mắt,
vừa có ý nghĩa lâu dài.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là hệ thống những quan điểm của Hồ Chí
Minh về xây dựng con người mới và vận dụng những quan điểm của Hồ Chí Minh

về “xây dựng con người mới” vào tỉnh Thái Bình hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là khu vực tỉnh Thái Bình từ năm 1986 đến
năm 2018.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận có mục đích làm rõ những quan điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về “xây dựng con người mới” và vận dụng tư tưởng đó vào việc “xây dựng con
người mới” ở tỉnh Thái Bình hiện nay.

5


4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa và luận giải những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về “xây dựng con người mới”.
- Phân tích những nhân tố tác động đến việc “xây dựng con người mới” ở tỉnh
Thái Bình hiện nay; thực trạng “xây dựng con người mới” ở tỉnh Thái Bình hiện
nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh và chỉ ra nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả “xây dựng con người
mới” ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lí luận
Khóa luận dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về “xây dựng con người mới”, các
văn kiện của Đảng và Nhà nước, có tham khảo, sử dụng kết quả nghiên cứu khoa
học hiện đại về “xây dựng con người mới”.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, chủ yếu sử dụng phương pháp logic, lịch sử; phương pháp phân tích và tổng
hợp, phương pháp hệ thống hóa.

6. Đóng góp của khóa luận
- Về mặt lý luận: Góp phần khái quát những nội dung chính trong hệ thống
những quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về “xây dựng con người mới”.
- Về mặt thực tiễn: Góp phần phân tích những nhân tố tác động đến việc “xây
dựng con người mới” ở tỉnh Thái Bình hiện nay; thực trạng “xây dựng con người
mới” ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh và bổ sung các giải
pháp nâng cao hiệu quả “xây dựng con người mới” ở tỉnh Thái Bình hiện nay theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 2
chương 6 tiết.

6


Chƣơng 1
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƢỜI
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con ngƣời
1.1.1. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể
- “Hồ Chí Minh luôn xem xét, đánh giá con người như một chỉnh thể thống
nhất cả về thể lực, trí lực, tâm lực và các hoạt động của nó. Với Hồ Chí Minh, con
người hay có suy nghĩ tích cực, lạc quan, hướng tới những điều tốt đẹp và thường
có xu hướng cố gắng vươn lên để đạt được cái Chân - Thiện - Mỹ trong cuộc sống,
mặc dù “có thế này, thế khác” [14, tr.265].
“Hồ Chí Minh có cách nhìn nhận, đánh giá, xem xét con người trong tính đa
dạng: đa dạng trong các mối quan hệ xã hội (quan hệ dân tộc, giai cấp, tầng lớp,
đồng chí, đồng bào,..); đa dạng trong tính cách, khát vọng, nhu cầu, phẩm chất, khả
năng,... cũng như năm ngón tay dài, ngắn khác nhau, nhưng đều hợp nhau lại nơi
bàn tay. Với Hồ Chí Minh, mấy mươi triệu người dân Việt Nam, có người thế này,
có người thế khác, nhưng đều cùng thuộc nòi giống Lạc Hồng; đa dạng trong hoàn

cảnh xuất thân, điều kiện sống, làm việc,…” [14, tr.265].
- Hồ Chí Minh luôn luôn xem xét con người trong sự “thống nhất biện chứng
giữa hai mặt đối lập”, đó là: “Thiện và ác, hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ,… bao
gồm cả tính người - mặt xã hội và tính bản năng - mặt sinh học của con người”.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, con người có tốt, có xấu nhưng “dù là xấu, tốt,
văn minh hay dã man đều có tình” [14, tr.265].
1.1.2. Con người cụ thể, lịch sử
“Đặt trong một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung, Hồ Chí Minh sử dụng
khái niệm “con người” theo nghĩa rộng trong một số trường hợp như: “Phẩm giá
con người”, “giải phóng con người”, “người ta”, “con người”, “ai”,… Tuy nhiên
phần lớn, Người xem xét con người trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp,
theo giới tính (thanh niên, phụ nữ), theo lứa tuổi (phụ lão, nhi đồng), nghề nghiệp
(công nhân, nông dân, tri thức,…), trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc (sĩ,
nông, công, thương) và quan hệ quốc tế (bầu bạn năm châu, các dân tộc bị áp bức,
bốn phương vô sản). Đó là con người hiện thực, cụ thể, khách quan” [14, tr.266].

7


Với Hồ Chí Minh, “con người không mang tính trìu tượng hóa, khái quát hóa
mà đó là những con người cụ thể, tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Đó
là nhân dân Việt Nam - những con người lao động nghèo khó, chân lấm tay bùn, bị
áp bức cùng cực dưới gông cùm, xiềng xích nô lệ với ách thống trị của phong kiến,
đế quốc; là dân tộc Việt Nam bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; là những người dân
mất nước, khao khát giành lại quyền làm chủ non sông” [14, tr.266].
1.1.3. Bản chất con người mang tính xã hội
- “Để sinh tồn, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, con người phải lao động sản
xuất. Chính trong quá trình lao động, sản xuất của mình, con người dần dần nhận
thức được các hiện tượng, quy luật của tự nhiên, của xã hội; hiểu về mình và hiểu
biết lẫn nhau,… Từ đó, xác lập các mối quan hệ giữa người với người” [14, tr.266].

- “Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con người vừa là sản phẩm của xã hội,
vừa là sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các quan
hệ: anh, em; họ hàng; bầu bạn; đồng bào; loài người” [14, tr.266].
1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của con ngƣời
1.2.1. Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp cách mạng
Hồ Chí Minh quan niệm: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong
thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”; “vô luận việc gì,
đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả” [16, tr.241]. Với
Hồ Chí Minh: “Việc dễ mấy không có nhân dân cũng chịu, việc khó mấy có dân
liệu cũng xong”. Hồ Chí Minh tổng kết ngắn gọn: “Dân ta tốt lắm”. “Người tin vào
phẩm chất tốt đẹp của dân ta từ lòng trung thành và niềm tin tưởng tuyệt đối vào
cách mạng, vào Đảng, không sợ khó khăn, gian khổ, tù đày, hi sinh đến việc dân
nhường cơm sẻ áo, chở che, đoàn kết, đùm bọc, bảo vệ, nuôi nấng bộ đội và cán bộ
cách mạng bởi Người khẳng định rằng: Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị
vật chất và tinh thần” [16, tr.241].
Với quan niệm: Dân ta trí tuệ, sáng tạo và tài năng, “giải quyết nhiều vấn đề
một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to

8


lớn, nghĩ mãi không ra” [16, tr.295], “Hồ Chí Minh đặt niềm tin vững chắc vào tinh
thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta. Với lòng yêu nước và chí kiên
quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà
chúng ta nhất định thắng lợi. Đặc biệt là lòng sốt sắng, hăng hái của dân để thực
hiện con đường cách mạng”. Có thể nói: Nhân dân chính là yếu tố tiên quyết, quyết
định mọi sự thành công của cách mạng bởi “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của
nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi” [17, tr.281].
1.2.2. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng; phải coi

trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người
Năm 1911, đặt trong bối cảnh giữa lúc đất nước đang bị đô hộ, xâm chiếm;
nhân dân phải chịu cảnh cơ cực, lầm than, Người ra đi với ý chí sắt đá: “Quyết
giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào”. Người xác định rõ trách nhiệm của
Người cũng là của Đảng và Chính phủ là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành”.
“Vì sống gần gũi với dân, giữa lòng dân, hiểu rõ dân tâm, dân tình, dân ý nên
Hồ Chí Minh thấy rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng
lao động xã hội. Người khắng định: Nhân dân vừa là mục tiêu vừa là động lực của
cách mạng. Ở Hồ Chí Minh có sự quan tâm đặc biệt, cách cảm nhận, thông cảm sâu
sắc với thân phận bất hạnh, bi thương của những người cùng khổ và nô lệ lầm than.
Nhưng sự cảm thông đó hoàn toàn không phải là sự cảm thông theo kiểu tôn giáo.
Ngược lại, Người luôn có niềm tin vững chắc vào trí tuệ, bản lĩnh của con người, ở
khả năng tự giải phóng của chính bản thân con người” [20, tr.222].
Bởi vậy, Người luôn cố gắng làm hết sức mình để xây dựng, rèn luyện con
người. Từ đó, quyết tâm đấu tranh đem lại độc lập, ấm no, tự do, hạnh phúc cho
người dân. Người xác định: “Con người là mục tiêu trong điều kiện cụ thể của từng
giai đoạn cách mạng”. “Khi đất nước còn nô lệ, lầm than, mục tiêu trước hết và trên
hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền đã về tay nhân
dân, mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn”, bởi “nếu

9


nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa
lý gì”. Vì vậy, chúng ta phải thực hiện ngay vấn đề tiên quyết: “Làm cho dân có ăn,
làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành”. Đến “Di
chúc”, Người viết: “Đầu tiên là công việc đối với con người”.
“Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính

sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích
lâu dài, lợi ích trước mắt; lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp
và cá nhân. Với hoạt động thực tiễn, việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết
sức làm. Việc gì hại cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết sức tránh” [20, tr.222].
Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo
của quần chúng. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh đã nhận rõ:
“Muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người Xã hội chủ nghĩa”,
“có dân thì có tất cả”,…[20, tr.222].
Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ giữa
nhân dân với Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nếu không có dân thì
Chính phủ không đủ lực lượng; nếu không có Chính phủ thì nhân dân không có ai
dẫn đường, Đảng lãnh đạo nhưng nhân dân là chủ. Dân như nước, bộ đội như cá.
Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào
dân theo đúng đường lối quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh vô địch. Bởi sự nghiệp
cách mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực
hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần
chúng nhân dân” [24, tr.222].
“Hồ Chí Minh tin ở dân còn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là người
Cộng sản thì phải tin nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh cho
người Cộng sản”. Người nói: “Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng. Trong khi giữ
vững niềm tin vào dân thì phải chống các bệnh: xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ
nhân dân; không tin cậy nhân dân; không hiểu biết nhân dân; không yêu thương
nhân dân. Không yêu thương và tin tưởng nhân dân là nguyên nhân của căn bệnh
nguy hiểm - bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Bệnh này sẽ dẫn đến kết quả là hỏng việc”
[24, tr.222].

10


“Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước,

toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có
ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Nhà nước mới theo tư tưởng của Hồ Chí Minh lấy công - nông - trí làm nền tảng.
Từ thắng lợi của Cách mạng tháng Mười phải nhìn nhận và đánh giá đúng giai cấp
đứng ở trung tâm của thời đại mới, đó là giai cấp công nhân. Chỉ có giai cấp công
nhân với những đặc điểm chung và riêng mới lãnh đạo được dân tộc đào mồ chôn
Chủ nghĩa tư bản. Muốn vậy, giai cấp công nhân chỉ có liên minh với giai cấp nông
dân và gắn bó với dân tộc mới trở thành lực lượng hùng mạnh” [25, tr.223].
“Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những con
người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức,
được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân
tộc Việt Nam… Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con
người. Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức,
có lãnh đạo” [23, tr.221]. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản.
“Giữa con người - mục tiêu và con người - động lực có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo
thành con người - động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh
của con người - động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng. Phải
kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó là
chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: thói quen
truyền thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè không dám nói,
không dám làm, không dám đề ra ý kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo”
[20, tr.220].
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lƣợc “trồng ngƣời”
1.3.1. “Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của
cách mạng
Trên cơ sở khẳng định: “Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách
mạng”, “Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con
người”. Người nói đến “lợi ích trăm năm” và “mục tiêu xây dựng Chủ nghĩa xã hội là


11


những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản, lâu dài, nhưng cũng rất cấp
bách”. Nó liên quan đến nhiệm vụ “trước hết cần có những con người Xã hội chủ
nghĩa” và “trồng người”. “Tất cả những điều này phản ánh tư tưởng lớn về tầm quan
trọng có tính quyết định của nhân tố con người; tất cả vì con người, do con người”.
“Như vậy, con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó
vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng,
vừa nằm trong chiến lược giáo dục và đào tạo theo nghĩa hẹp”.
“Muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người Xã hội
chủ nghĩa”.
+ “Con người Xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do Chủ nghĩa xã hội tạo ra.
Nhưng ở đây, trên con đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con
người Xã hội chủ nghĩa. Điều này cần được hiểu là: Ngay từ đầu, phải đặt ra nhiệm
vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người mới Xã
hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một quá trình lâu dài,
không ngừng hoàn thiện, nâng cao và thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước,
gia đình, cá nhân mỗi người” [21, tr.190].
+ “Mỗi bước xây dựng những con người như vậy là một nấc thang xây dựng
Chủ nghĩa xã hội”. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng Chủ nghĩa xã
hội” và “con người Xã hội chủ nghĩa”.
+ Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới Xã hội chủ nghĩa có hai mặt
gắn bó chặt chẽ với nhau:
“Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống (Việt Nam
và phương Đông).
Hai là, hình thành những phẩm chất mới: Có tư tưởng Xã hội chủ nghĩa; có đạo
đức Xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ (bản thân, gia đình, xã hội,
thiên nhiên,…); có tác phong Xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng”
[21, tr.190].

1.3.2. Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, là một bộ phận hợp thành
của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
PGS.TS Phạm Ngọc Anh khi bàn về tư tưởng của Hồ Chí Minh trong “sự
nghiệp trồng người” có nhận định rằng: “Để thực hiện chiến lược “trồng người”,

12


cần có nhiều biện pháp, nhưng Giáo dục - Đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất.
Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên.
Ngược lại, giáo dục không tốt sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên”.
“Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện về cả đức, trí, thể, mỹ,
phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống Xã hội chủ nghĩa lên
hàng đầu”. Hai mặt “đức”, “tài” thống nhất với nhau, không tách rời nhau. Trong
đó, “đức” là gốc, là nền tảng cho “tài năng” phát triển. Phải kết hợp giữa nhận thức
và hành động, lời nói với việc làm,… Có như vậy mới có thể “học để làm người”.
“Trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội “một sớm một
chiều”, không phải làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện, đến đâu hay đến
đó. Nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt
cuộc đời mỗi con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí
Minh cho rằng: “Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”.
Như vậy, có thể khẳng định như PGS.TS Phạm Ngọc Anh: “Hồ Chí Minh
được cả thế giới tôn vinh là Nhà văn hóa kiệt xuất, không chỉ vì Người đã sáng tạo
ra một thời đại mới và một nền văn hóa mới ở Việt Nam, mà còn là vì những đóng
góp mới của Người vào lý luận và sự phát triển chung của văn hóa nhân loại”:
“Trong lĩnh vực văn hóa, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy vai trò và sức mạnh
của văn hóa, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển của đất nước: Ngay sau
khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ bắt tay ngay vào công
cuộc xây dựng một nền văn hóa mới ở Việt Nam bằng việc phát triển phong trào
bình dân học vụ, diệt giặc dốt, nâng cao dân trí và xây dựng đời sống mới, xây dựng

và phát triển thuần phong mỹ tục,… đưa những giá trị văn hóa đi sâu vào quần
chúng, coi nó như một sức mạnh vật chất, một động lực, một mục tiêu, một hệ điều
tiết xã hội trong quá trình phát triển. Đây là một quan điểm hoàn toàn mới mẻ, điều
mà mãi đến những năm 80 của thế kỉ XX, UNESCO mới tổng kết và coi đó như là
một quy luật phát triển của xã hội”.
Phát triển quan điểm của C.Mác: “Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở
trong kinh tế và chính trị”, Hồ Chí Minh bổ sung thêm: “Văn hóa cũng là một mặt

13


trận, văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Bàn về chức năng của văn hóa,
Người cho rằng: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” (chức năng nâng cao
nhận thức, mở rộng hiểu biết); “Văn hóa phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ,
độc lập, tự do” (chức năng bồi dưỡng tinh thần vì nước quên mình); “Văn hóa
phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ” (xây dựng và hoàn
thiện đạo đức con người),… “Hầu hết những luận điểm có tính chất chân lý này,
Hồ Chí Minh đều đưa ra trong thời kì những năm 1945 - 1946, khi Người bắt tay
vào việc xây dựng một nền văn hóa mới ở Việt Nam. Thực tiễn chứng minh rằng:
Những luận điểm đó không chỉ có ý nghĩa với Việt Nam mà còn có ý nghĩa quốc
tế rất sâu sắc. Đánh giá cao tư tưởng và những đóng góp của Hồ Chí Minh, Nghị
quyết tôn vinh Người là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới
của UNESCO”: “Những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của
các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc
thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.
“Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp rất đặc sắc vào
tư tưởng đạo đức học Mácxít. Những đóng góp đó đã nâng Người lên vị trí một nhà
đạo đức học lỗi lạc, được thế giới thừa nhận. Do nhiều nguyên nhân, C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin nói nhiều về đạo đức, song chưa có điều kiện bàn nhiều
về vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội. Hồ Chí Minh đã phát triển, hoàn thiện

tư tưởng đạo đức học Mácxít về vai trò và sức mạnh của đạo đức, về những chuẩn
mực đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng một nền đạo đức mới phù hợp
với Việt Nam. Nhờ đó, đã tạo nên một cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức ở
Việt Nam”.
1.4. Giá trị lý luận và thực tiễn của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng con
ngƣời mới
Về mặt lý luận, theo PGS.TS Phạm Ngọc Anh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng con người mới với nội dung sâu sắc và mới mẻ, có ý nghĩa rất quan trọng
đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo con người Việt Nam. Trên cơ sở quán triệt
quan điểm giáo dục đạo lý để làm người, coi con người là vốn quý nhất, chăm lo

14


cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng Xã hội chủ nghĩa,
Đảng ta đã xác định Giáo dục - Đào tạo là quốc sách hàng đầu. Con người, chủ thể
của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, ngày càng được quan tâm
chăm sóc, phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần,
trong sáng về đạo đức, là động lực của Chủ nghĩa xã hội”.
“Chủ nghĩa xã hội là một chế độ ưu việt nhưng phải hiểu sự ưu việt trên hai
mặt gắn bó với nhau:
Một là, nó là kết quả của những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân ta, với
những con người phát triển cả về trí lực và khả năng lao động, về tính tích cực
chính trị - xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng.
Hai là, đó là xã hội do những con người mới làm chủ, một xã hội không phải
chỉ do con người mà còn vì con người”.
“Về mặt thực tiễn, sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng
quan trọng trong việc xếp hạng các nước trên thế giới. Năm 1990, Chương trình
phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) đã đưa ra chỉ dẫn nhằm đánh giá tiến độ

kinh tế và xã hội của một nước, không chỉ ở tổng sản phẩm quốc dân như trước đây,
mà còn dựa trên cơ sở ba tiêu chí cơ bản: thu nhập, trình độ giáo dục và tuổi thọ”.
“Hướng bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người Việt Nam là không ngừng
gia tăng tính tự giác, năng động, tự chủ, phát huy sức mạnh bên trong của mỗi cá
nhân, chú trọng xây dựng những mặt thuộc hạ tầng của đời sống xã hội như: giáo
dục, y tế, phúc lợi công cộng, kết hợp với sức mạnh của cả cộng đồng, xây dựng
nền tảng tinh thần vững chắc của chế độ mới”.
“Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta nhấn mạnh việc chăm lo cho
hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Trong mục
tiêu chung “dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh”, Đảng ta phấn đấu
làm cho nhân dân có cuộc sống no đủ, có nhà ở tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi
về đi lại, học hành, chữa bệnh, có mức hưởng thụ văn hóa khá; quan hệ xã hội lành
mạnh, lối sống văn minh, gia đình hạnh phúc. Xét đến cùng, đó là tư tưởng phấn đấu

15


cho độc lập, tự do, hạnh phúc của con người, của dân tộc và của nhân loại. Nói cách
khác, tất cả vì con người, do con người”.
Hồ Chí Minh thường nói đến “văn minh thắng bạo tàn”. “Văn minh ở đây
được hiểu là trình độ phát triển đời sống tinh thần và trình độ phát triển của khoa
học - kĩ thuật. Xã hội văn minh là xã hội có những con người nhân văn, tức là
những con người phát triển toàn diện cả đức, trí, thể, mỹ; lý tưởng và tình cảm;
nhân ái và khoan dung. Xã hội mới không chấp nhận con người phát triển một
chiều, phiến diện, què quặt. Muốn con người trở thành vừa là động lực, vừa là mục
tiêu của sự nghiệp cách mạng thì phải phát huy vai trò của giáo dục và đào tạo. Bởi
vì, giáo dục bao gồm gia đình - nhà trường - xã hội, góp phần hình thành, phát triển
và hoàn thiện nhân cách con người”. “Trồng người” là nhằm phát triển toàn diện
con người, nâng cao trình độ “người”, hướng tới Chân - Thiện - Mỹ.
“Tư tưởng về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới là một bộ phận rất

quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ lâu, tư tưởng đó đã trở thành
một bộ phận của nền văn hóa dân tộc và là ngọn đèn pha soi đường cho công cuộc
xây dựng một nền văn hóa và đạo đức mới ở Việt Nam. Nghiên cứu và học tập tư
tưởng văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần là vấn đề nhận thức, mà
còn là trách nhiệm chính trị của cả dân tộc, nhằm xây dựng Việt Nam thành một
quốc gia văn minh trong thời kỳ hội nhập quốc tế”.

16


Tiểu kết chương 1
“Tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới là một nội dung được
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Đó là một hệ thống tư tưởng bao gồm những luận
điểm cơ bản như: Một là, quan niệm của Hồ Chí Minh về con người, trong đó, con
người được nhìn nhận như một chỉnh thể; con người cụ thể, lịch sử; bản chất con
người mang tính xã hội; Hai là, quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của con
người, trong đó Hồ Chí Minh khẳng định con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết
định thành công của sự nghiệp cách mạng; con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của cách mạng; phải coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người; Ba là,
quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”, trong đó Hồ Chí Minh
nhấn mạnh “trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của
cách mạng; chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, là một bộ phận hợp thành
của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh về
xây dựng con người mới cho đến ngày nay vẫn còn giữ nguyên giá trị lý luận và
thực tiễn”.

17


Chƣơng 2

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VÀO XÂY DỰNG CON NGƢỜI MỚI Ở TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY
2.1. Những nhân tố tác động đến việc xây dựng con ngƣời mới ở tỉnh Thái Bình
hiện nay
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
“Thái Bình là một tỉnh nằm ở ven biển đồng bằng sông Hồng, miền Bắc Việt
Nam, có diện tích 1.570,5 km², thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Tỉnh có tọa độ từ
20°18′B đến 20°44′B, 106°06′Đ đến 106°39′Đ. Trung tâm Tỉnh là thành phố Thái
Bình cách thủ đô Hà Nội 120km về phía Đông Nam” [4, tr.1].
“Địa hình tỉnh Thái Bình tương đối bằng phẳng với độ dốc thấp hơn 1%; độ
cao phổ biến từ 1 - 2m trên mực nước biển, thấp dần từ Bắc xuống Đông Nam. Tỉnh
có bờ biển dài 52km” [4, tr.1].
“Thái Bình nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm: Mùa hè thường nóng
ẩm, mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 9; mùa đông khô lạnh từ tháng 11 năm trước
đến tháng 3 năm sau; mùa thu diễn ra vào tháng 10 và tháng 4; mùa xuân không rõ
rệt như các nước nằm phía trên vành đai nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình là 23,5 °C.
Số giờ nắng trong năm từ 1.600 đến 1.800 giờ. Độ ẩm tương đối trung bình từ 85
đến 90%” [4, tr.1].
“Tỉnh Thái Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, hàng năm đón nhận một
lượng mưa lớn (1.700 - 2.200mm) và là vùng bị chia cắt bởi các con sông lớn, đó là
các chỉ lưu của sông Hồng, trước khi chạy ra biển” [4, tr.1].
2.1.1.2. Dân cư
“Năm 2017, tỉnh Thái Bình có 1.790.500 người, mật độ dân số là 1.138
người/km². Thành phần dân số: Nông thôn: 83,6%; thành thị: 16,4%. Theo dự kiến
phấn đấu đến năm 2020, tỉ lệ đô thị hóa ở Tỉnh đạt khoảng 32%, tỉ lệ lao động phi
nông nghiệp trong tổng số lao động khoảng 67%. Tỉnh Thái Bình có tổng 286 đơn
vị cấp xã gồm 10 phường, 9 thị trấn và 267 xã. Thái Bình được chia thành 7 huyện
và 1 thành phố trực thuộc” [4, tr.1].


18


Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Thái Bình
Tên

Dân

số

(ngƣời)2013

Hành chính Tên

Thành phố (1)
Thái Bình 268.167

10 phường,
9 xã

Hưng Hà

248.600

(ngƣời)2013

Kiến Xương 212.200
Quỳnh Phụ 231.900

Huyện (7)

Đông Hưng 233.000

Dân

1 thị trấn,

Thái Thụy 248.800

43 xã
2 thị trấn,

Tiền Hải

209.800

Vũ Thư

218.200

33 xã

số Hành
chính
1 thị trấn,
36 xã
2 thị trấn,
36 xã
1 thị trấn,
47 xã
1 thị trấn,

34 xã
1 thị trấn,
29 xã

2.1.2. Điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội
2.1.2.1. Điều kiện kinh tế
Theo số liệu thống kê năm 2014:
- “Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRNP) đạt 38.341 tỷ đồng (tăng 7,83% so năm
2013), là năm có mức tăng trưởng cao nhất trong 04 năm gần đây và cao hơn mức
tăng trưởng chung của cả nước (5,8%). Tổng giá trị sản xuất ước tăng 8,82%. Cơ
cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực” [11, tr.1].
- “Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2014 ước
đạt 25.639 tỷ đồng, tăng 13.48% so 2013” [11, tr.1].
- “Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2014 (không kể ghi thu) ước đạt 12.115
tỷ đồng (bằng 155% dự toán, tăng 8,3% so với năm 2013). Trong đó, thu nội địa
4.053,6 tỷ đồng (tăng 32,4% so với cùng kỳ)” [11, tr.1].
- “Tổng chi ngân sách nhà nước năm 2014 ước đạt 12.085 tỷ đồng (bằng
160% dự toán, tăng 6,8% so với năm 2013). Trong đó, chi phát triển kinh tế đạt
5.022,6 tỷ đồng” [11, tr.1].

19


- “Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) ước đạt 33.840 tỷ
đồng, tăng 11,4% so với năm 2013. Ðã có 126/144 dự án trong các khu công nghiệp
đi vào hoạt động đem lại giá trị sản xuất là 12.566 tỷ đồng, tăng 11,3% so năm
2013” [11, tr.1].
- “Toàn Tỉnh đã tạo việc làm mới cho 32.200 lao động, tỷ lệ hộ nghèo giảm
còn 3,32%” [11, tr.1].
2.1.2.2. Điều kiện văn hóa, xã hội

“Về giáo dục: Thái Bình là một trong 5 tỉnh, Thành phố đầu tiên trong cả
nước được công nhận đạt phổ cập Mầm non cho trẻ 5 tuổi; học sinh tốt nghiệp
Trung học phổ thông đạt tỷ lệ cao; số học sinh đỗ Đại học, Cao đẳng xếp thứ 2 toàn
quốc,... Ngành Giáo dục - Đào tạo và Khoa học - công nghệ của Tỉnh được giữ
vững và phát triển” [4, tr.1].
“Về văn hóa truyền thống: Tỉnh Thái Bình có gần 82 lễ hội đặc sắc, 16 loại
hát múa, trò chơi như: Chiếu chèo "làng Khuốc", trò múa rối nước làng Nguyên Xá
(Đông Hưng) và làng vườn Bách Thuận (Vũ Thư),… Thái Bình phát triển du lịch
văn hoá gắn với các lễ hội, đền Trần, tham quan chùa Keo, đền Mẫu Đợi xã Đông
Hải huyện Quỳnh Phụ, đền Đồng Bằng xã An Lễ huyện Quỳnh Phụ, đền Tiên La,
du lịch sinh thái gắn với xây dựng Khu du lịch Cồn vành, Cồn Thủ, du lịch làng
nghề (Đồng Xâm, Hồng Thái Capital - Kiến Xương...), du lịch biển (Đồng Châu Tiền Hải), đặc biệt là khu Resort Cồn Đen đang được xây dựng tại xã Thái Đô, Thái
Thụy, Thái Bình. Nhà hát Chèo Thái Bình là đơn vị nghệ thuật chèo chuyên nghiệp,
nơi bảo tồn và lưu giữ nghệ thuật chèo trên quê hương Thái Bình” [10, tr.1].
“Về những làng nghề nổi tiếng: Tỉnh Thái Bình có một số làng nghề nổi tiếng
như: Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm nằm ở phía Bắc của huyện Kiến Xương,
thuộc xã Hồng Thái; làng Nguyễn thuộc xã Nguyên Xá, huyện Đông Hưng, tỉnh
Thái Bình; làng chiếu Tân Lễ (làng Hới có nghề dệt chiếu lâu đời và nổi tiếng ở
làng Hải Triều xã Tân Lễ tỉnh Thái Bình; làng vườn Bách Thuận nằm cách Thành
phố Thái Bình 10 km theo hướng Cầu Tân Đệ đi Nam Định thuộc huyện Vũ Thư”
[10, tr.1].

20


×