Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN tích hợp văn hóa trong giảng dạy một số tác phẩm văn xuôi việt nam trong chương trình ngữ văn 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.1 KB, 28 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÍCH HỢP VĂN HÓA TRONG GIẢNG DẠY MỘT
SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI VIỆT NAM TRONG
CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12

Người thực hiện: Đinh Thị Thanh Tâm
Đơn vị: Trường THCS và THPT Bắc Sơn
1. Phần mở đầu
1


1.1. Lí do chọn đề tài
Một tác phẩm văn học ra đời không chỉ là sản phẩm của cá nhân một tác
giả hoặc một nhóm tác giả, do tác giả làm chủ, tùy ý quyết định nội dung, giá trị
của tác phẩm. Thực tế cho thấy, đứa con tinh thần của các nhà văn còn chịu sự
chi phối, ảnh hưởng bởi muôn vàn những yếu tố khách quan khác từ bên ngoài,
đó có thể là nhân tố địa lí, lịch sử, kinh tế, văn hóa…- những nhân tố ngay từ
đầu đã tác động tới ngòi bút của tác giả trong quá trình sáng tác và sau đó, chi
phối cách nhìn, cách cảm thụ, cách lí giải, đánh giả của độc giả với tác phẩm khi
được đón đọc.
Trong quá trình giảng dạy, việc đặt tác phẩm vào bối cảnh, không gian
văn hóa của chính nó sẽ giúp HS cảm nhận được nét riêng, đặc sắc của tác
phẩm. Mặt khác, sống trong không gian văn hóa đó, HS sẽ lí giải được những
chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm, hỗ trợ hữu hiệu học sinh trong quá trình tìm
hiểu, phân tích tác phẩm. Những yếu tố văn hoá liên quan đến phong tục, tập
quán, ngôn ngữ… có thể được vận dụng để cắt nghĩa những phương diện nội
dung và hình thức của tác phẩm.
Ngược trở lại, từ việc vận dụng các tri thức văn hóa vào quá trình đọc –


hiểu văn bản, HS được mở rộng hiểu biết về các giá trị văn hóa, các phong tục
tập quán ở nhiều vùng miền trên đất nước ta, làm giàu vốn kiến thức của bản
thân, biết trân trọng, giữ gìn những nét đẹp văn hóa của dân tộc; đồng thời biết
phê phán, bài trừ những hủ tục lạc hậu trong văn hóa ở một số vùng miền.
Thêm nữa, việc tích hợp văn hóa trong quá trình giảng dạy đọc – hiểu một
số tác phẩm văn học giúp giờ học trở nên sinh động, kích thích sự hứng thú,
khơi dậy khát khao tìm tòi, khám phá của HS, khiến bài học trở nên gắn bó với
thực tiễn.
Là một giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn, nhận thức được ý nghĩa,
tầm quan trọng của yếu tố văn hóa đối với việc giảng dạy các văn bản trong
chương trình, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: Tích hợp văn hóa trong giảng
dạy một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 12. Ở
đề tài này, tôi đi sâu vào tìm hiểu vai trò, ý nghĩa của yếu tố văn hóa xuất hiện
trong một số tác phẩm văn xuôi; từ đó đề xuất giải pháp dạy học tích hợp các
kiến thức văn hóa với các tác phẩm đó
1.2. Phạm vi và đối tượng của sáng kiến kinh nghiệm:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam
thuộc chương trình Ngữ văn 12.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề tích hợp văn hóa trong dạy học
một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 12.

2


2. Phần nội dung.
2.1. Khái quát chung về văn hóa và vấn đề văn hóa trong văn học.
2.1.1. Giới thuyết về văn hóa.
3



“Văn hóa” là sản phẩm của con người, tồn tại ở hai dạng: văn hóa vật chất
và văn hóa phi vật chất (còn được gọi là “văn hóa phi vật thể”, văn hóa tinh
thần), được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có rất nhiều định nghĩa khác
nhau về “văn hóa”:
Theo “Đại từ điển tiếng Việt” của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt
Nam - Bộ Giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản Văn
hóa – Thông tin, xuất bản năm 1998, thì: "Văn hóa là những giá trị vật chất,
tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử".
Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản Đà
Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2004 thì đưa ra một loạt quan
niệm về văn hóa:
-Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.
- Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn,trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội.
-Văn hóa là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời
sống tinh thần (nói tổng quát);
-Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học (nói khái quát);
-Văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh;
Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, PGS.TSKH Trần Ngọc
Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong
sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.”
UNESCO đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa nên được đề
cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri
thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa
đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ
thống giá trị, truyền thống và đức tin”
Như vậy, có thể thấy rằng: Văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan

hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc
tạo nên con người, duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo
và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người, biểu
hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người
cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.

4


Bên cạnh giới thuyết về văn hóa còn có giới thuyết “tiểu văn hóa” - là văn
hóa của các cộng đồng xã hội có những sắc thái khác với nền văn hóa chung của
toàn xã hội. Đó là tiểu văn hóa của một dân tộc ít người nào đó hay tiểu văn hóa
của một cộng đồng người dân sinh sống lâu đời ở một nước, v.v... Thực chất,
tiểu văn hóa vẫn là một bộ phận của nền văn hóa chung; nó chỉ có những nét
khác biệt khá rõ so với nền văn hóa chung, song không đối lập với nền văn hóa
chung đó. Mỗi xã hội đều có những dân tộc và cộng đồng khác nhau, và mỗi
cộng đồng nhỏ ấy đều có những mô hình ứng xử riêng, mang đặc trưng của cộng
đồng ấy. Những biểu hiện ấy được gọi là "tiểu văn hóa" hay "văn hóa phụ".
2.1.2. Văn hóa trong văn học.
Văn học và văn hóa có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết, chặt chẽ với
nhau. Văn hóa trở thành một yếu tố khách quan, tác động tới quá trình sáng tác
của tác phẩm văn học, ảnh hưởng tới nội dung cũng như nghệ thuật của tác
phẩm. Một tác giả khi đặt bút sáng tác một tác phẩm bất kì, bản thân tác giả đó
đã chịu sự chi phối của không gian văn hóa mình đang sống đồng thời không
gian văn hóa mà tác phẩm thể hiện, được thể hiện trong qúa trình nhận thức, cắt
nghĩa, thể hiện hiện thực khách quan trong tác phẩm. Đến với tay độc giả, một
lần nữa quá trình cảm thụ, đón nhận của người đọc lại bị chi phối phần nào bởi
các yếu tố văn hóa. Đó chính là lí do các túc Nho thuở xưa không ít người phẫn
nộ, tức giận với Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, bởi hình ảnh một nàng

Kiều “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”, chủ động tìm tới ý trung nhân,
một nàng Kiều “thanh lâu hai lượt thanh y hai lần” mà vẫn được ca tụng “Như
nàng lấy hiếu làm trinh – Bụi nào cho được đục mình ấy vay?”. Như vậy, có thể
thấy không gian văn hóa, những giá trị văn hóa được đề cao trong xã hội ảnh
hưởng rất lớn tới sự hình thành, đón nhận một tác phẩm.
Nhưng ngược lại, văn học không chỉ đơn thuần là tấm gương phản chiếu
của văn hóa, biểu hiện văn hóa, những nhà văn tiên phong của dân tộc bao giờ
cũng là những nhà văn hoá lớn. Bằng nghệ thuật ngôn từ, họ đấu tranh, phê phán
những biểu hiện phản văn hoá, đồng thời khẳng định những giá trị văn hoá dân
tộc. Chính từ đó, văn học tác động ngược lại tới văn hóa, góp phần bảo lưu
những giá trị văn hóa tốt đẹp, đồng thời bài xích các hủ tục, những giá trị văn
hóa lỗi thời, không phù hợp.
2.2. Giới thuyết về dạy học tích hợp.
Tích hợp là một hoạt động mà ở đó cần phải kết hợp, liên hệ, huy động
các yếu tố có liên quan với nhau của nhiều lĩnh vực để giải quyết một vấn đề,
qua đó đạt được nhiều mục tiêu khác nhau.
Dạy học tích hợp là định hướng dạy học trong đó GV tổ chức, hướng dẫn
để HS biết huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng… thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập; thông qua đó hình thành những kiến
5


thức, kĩ mới; phát triển được những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải
quyết vấn đề trong học tập và thực tiễn cuộc sống.
Có các hình thức dạy học tích hợp sau:
Tích hợp đơn môn: Còn gọi là tích hợp trong nội bộ môn học. Ở dạng
thức này, giáo viên tập hợp các nội dung kiến thức ở các phần khác nhau trong
môn học để xây dựng thành chủ đề. Những nội dung này được tập hợp dựa trên
chức năng hoặc ý nghĩa bản chất, khi mà chúng giúp giải quyết tương đối trọn
vẹn một lớp các vấn đề có liên quan tới nhau.

Tích hợp lồng ghép: Nội dung gắn với thực tiễn được kết hợp đưa vào
chương trình đã sẵn có của một môn học nào đó ví dụ như tích hợp bảo vệ môi
trường, tiết kiệm và sử dụng năng lượng hiệu quả được đưa vào nội dung của
một số môn học như Vật lý, Hoá học trong chương trình hiện hành của nước ta
… Ở đây, các môn học vẫn dược học một cách riêng rẽ nhưng giáo viên có thể
tìm thấy mối quan hệ giữa kiến thức của môn học mình đảm nhận với nội dung
các môn học khác. Dấu hiệu nhận biết dạng thức tích hợp này là giáo viên vẫn
sử dụng tên bài, tên tiết theo phân phối chương trình môn học, chỉ lồng ghép
thêm một số kiến thức liên quan đến bài dạy hoặc liên hệ kiến thức bài học sang
môn khác.
Vận dụng kiến thức liên môn (chủ đề hội tụ): Dạy học tích hợp mức độ
liên môn tạo ra kết nối giữa các môn học. Trong dạng thức tích hợp này các nội
dung dạy học xoay quanh một chủ đề, một vấn đề mà ở đó học sinh vận dụng
một cách rõ ràng những kiến thức, kĩ năng của nhiều môn học khác nhau để tìm
hiểu, làm rõ vấn đề đó. Dấu hiệu quan trọng để nhận ra dạng thức này là trong
quá trình dạy học đòi hỏi học sinh vận dụng kiến thức của nhiều môn học khác
nhau để giải quyết nhiệm vụ. Các kiên thức trong loại hình này hầu hết đã được
học ở các môn học riêng rẽ sau đó mới vận dụng trong chủ đề hội tụ/ liên môn.
Hòa trộn: Đây là cách tiếp cận ở cấp độ xây dựng chương trình, trong
dạng thức này, việc học các kiến thức mới thuộc nhiều lĩnh vực khoa học khác
nhau được hòa trộn nhuần nhuyễn với nhau trong một môn học mới. Ranh giới
giữa các kiến thức từng khoa học không còn tách bạch. Ví dụ như đối với các
lĩnh vực khoa học tự nhiên việc xây dựng môn khoa học tự nhiên ở mức độ hòa
trộn sẽ được tiến hành bằng cách xây dựng trên các nguyên lí của khoa học tự
nhiên chư không tách bạch riêng rẽ đâu là kiến thức của khoa học vật lí, sinh
học, hóa học… nữa.
Như vậy, đề tài Tích hợp văn hóa trong giảng dạy một số tác phẩm văn
xuôi Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 12 thuộc hình thức tích hợp lồng
ghép.
2.3. Thực trạng tích hợp văn hóa trong giảng dạy tác phẩm văn xuôi Việt

Nam trong chương trình Ngữ văn 12.
6


Những năm gần đây, dạy học tích hợp được áp dụng rộng rãi trong hoạt
động dạy học của GV, hỗ trợ hiệu quả cho quá trình truyền đạt cũng như tiếp
thu, lĩnh hội kiến thức của cả thầy và trò. Phần nhiều trong số ấy là hình thức
tích hợp trong nội môn. Với môn Ngữ văn, GV thường tích hợp các kiến thức
của các bộ phận làm văn, tiếng Việt, lí luận văn học, đọc – hiểu văn bản trong
quá trình giảng dạy của mình. Bên cạnh đó, tùy từng tác phẩm cụ thể, các GV
còn có thể tích hợp với các kiến thức của các bộ môn liên quan, như lịch sử, địa
lí, giáo dục công dân... Tuy nhiên, do thời lượng tiết học còn có giới hạn, nhiều
GV chưa chú ý đến việc tích hợp văn hóa khi dạy số tác phẩm mà ở đó yếu tố
văn hóa xuất hiện dày đặc, chi phối tới nội dung, tư tưởng của tác phẩm, khiến
HS không lĩnh hội hết các giá trị của tác phẩm hoặc lĩnh hội một cách hời hợt.
Mặt khác, đa số HS vẫn chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng
của yếu tố văn hóa trong các tác phẩm văn học, vốn hiểu biết về văn hóa dân
tộc, phong tục tập quán trên các vùng miền đất nước của các em vẫn còn hạn
hẹp. Học sinh chưa biết căn cứ vào văn hóa để lĩnh hội thấu đáo tác phẩm, để cắt
nghĩa, lí giải một số nội dung trong tác phẩm. Chính vì vậy người GV cần phải
chú ý hơn nữa trong việc hướng dẫn HS tìm hiểu các tác phẩm đó bằng việc
tích hợp với kiến thức văn hóa.
2.4. Cách thức tích hợp văn hóa vào việc giảng dạy một số tác phẩm văn
xuôi trong chương trình Ngữ văn 12.
2.4.1. Xác định mục tiêu cần đạt của bài học
GV phải xác định, nắm vững mục tiêu của bài học. Đây là bước đầu tiên,
quan trọng trong bất kì tiết học nào, đặc biệt khi GV tiến hành tích hợp kiến thức
văn hóa vào quá trình giảng dạy, để từ đó tránh không sa đà vào nội dung tích
hợp mà đi chệch với mục tiêu, biến giờ dạy Ngữ văn thành giờ dạy về văn hóa
phong tục.

2.4.2. Xác định không gian văn hóa trong tác phẩm
Như đã nói ở trên, không gian văn hóa chi phối trực tiếp tới sự hình thành
nội dung cũng như hình thức một tác phẩm văn học. Xác định được không gian
văn hóa chính là căn cứ để chúng ta phần nào thâm nhập vào tác phẩm, từ đó
lĩnh hội, cắt nghĩa những chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm. Một số chi tiết nghệ
thuật chỉ có thể lí giải khi đặt vào đúng không gian văn hóa của nó.
Với Vợ chồng A Phủ, không gian văn hóa bao trùm toàn bộ tác phẩm, làm
nền cho câu chuyện diễn ra là văn hóa của đồng bào các dân tộc vùng cao Tây
Bắc trong những năm tháng nửa thực dân phong kiến. Ở đó, chúa đất là hiện
thân tối cao của quyền lực mà đứng đằng sau nắm chuôi chính là thực dân Pháp;
những phong tục, tập quán lâu đời vẫn còn được lưu giữ, ăn sâu trong nếp nghĩ,
nếp sống, sinh hoạt của người dân nơi đây.

7


Với Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành dựng nên câu chuyện về người anh
hùng Tnú trên nền không gian văn hóa của các dân tộc Tây Nguyên. Cũng như
trong Vợ chồng A Phủ, những nét đẹp văn hóa truyền thống của Tây Nguyên
được thể hiện rất rõ nét trong tác phẩm, góp phần làm nên không gian nghệ thuật
độc đáo của Rừng xà nu.
Xác định không gian văn hóa chính là bước đầu chúng ta thâm nhập vào
tác phẩm, sống trong môi trường sản sinh ra tác phẩm, môi trường của câu
chuyện.
2.4.3. Xác định các sự việc, chi tiết mang dấu ấn văn hóa tiêu biểu xuất hiện
trong các tác phẩm.
Theo Từ điển tiếng Việt, sự việc là “cái xảy ra được nhận thức có ranh
giới rõ ràng, phân biệt với những cái xảy ra khác”. Trong văn bản tự sự, mỗi sự
việc được diễn tả bằng lời nói, cử chỉ, hành động của nhân vật trong quan hệ với
nhân vật khác. Người viết, người kể chọn một số sự việc tiêu biểu nhằm dẫn dắt

câu chuyện, tô đậm đặc điểm, tính cách nhân vật, tạo sự hấp dẫn, lôi cuốn người
đọc, người nghe. Sự việc tiêu biểu là những sự việc quan trọng góp phần hình
thành cốt truyện.
Mỗi sự việc có thể có nhiều chi tiết. Chi tiết nghệ thuật là những tiểu tiết
trong tác phẩm có sức chứa lớn về cảm xúc, tư tưởng. Nói như nhà nghiên cứu
Nguyễn Thanh Tú: “Một tác phẩm được ví như bóng đèn điện thì những chi tiết
hay như những sợi dây tóc phát sáng”. Những chi tiết tiêu biểu tập trung thể
hiện rõ nét sự việc tiêu biểu.
Căn cứ vào không gian văn hóa chúng ta soi chiếu vào tác phẩm để xác
định những sự việc, chi tiết văn hóa tiêu biểu xuất hiện trong nội dung câu
chuyện, ảnh hưởng, chi phối tới tác phẩm.
Ở Vợ chồng A Phủ, ta dễ dàng nhận thấy các sự việc, chi tiết tiêu biểu
mang dấu ấn văn hóa đó là: chi tiết bắt vợ, chi tiết cúng trình ma, chi tiết nhảy
đồng, Tết ở vùng núi cao Tây Bắc với chi tiết tiếng sáo gọi bạn tình, chơi hội
mùa xuân.
Trong Rừng xà nu, nền văn hóa Tây Nguyên được thể hiện ở chi tiết Tnú
được dân làng Tây Nguyên nuôi lớn, cụ Mết kể chuyện cuộc đời Tnú bên bếp
lửa nhà ưng...
Với Những đứa con trong gia đình, truyền thống văn hóa thờ cúng ông bà,
tổ tiên của dân tộc Việt Nam được hiện lên qua chi tiết khiêng bàn thờ của Việt
và Chiến.
Những sự việc, chi tiết tiêu biểu mang dấu ấn văn hóa ấy được các tác giả
chọn lọc, đưa vào tác phẩm của mình với những dụng ý nghệ thuật riêng, góp
phần thể hiện tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Nói như vậy không có nghĩa là
8


tác phẩm nào cũng có những sự việc, chi tiết tiêu biểu mang dấu ấn, thể hiện văn
hóa của dân tộc. Tùy từng tác phẩm cụ thể, GV xác định có hay không những sự
việc, chi tiết này để tích hợp vào quá trình giảng dạy, đem lại hiệu quả cho tiết

dạy của mình.
2.4.4. Xác định ý nghĩa, sự chi phối của những sự việc, chi tiết văn hóa tiêu biểu
đối với tác phẩm.
Đây là bước quan trọng của quá trình tích hợp kiến thức văn hóa vào
trong việc giảng dạy. Hoạt động này chính là việc cắt nghĩa, lí giải ý nghĩa của
các sự việc, chi tiết văn hóa tiêu biểu đối với tiến trình phát triển của câu
chuyện, tìm ra cốt lõi tư tưởng mà nhà văn muốn phản ánh thông qua những chi
tiết, sự việc đó. Dựa trên nền văn hóa mà câu chuyện xây dựng, GV hướng dẫn
HS tìm hiểu những chi tiết, sự việc ấy thể hiện ý nghĩa gì. Có thể lấy ví dụ ở tác
phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài.
Vợ chồng A Phủ là kết quả của chuyến đi thực tế Tô Hoài cùng bộ đội vào
giải phóng Tây Bắc vào năm 1952. Hiện thực cuộc sống cực nhục, tối tăm của
người dân Tây Bắc được tái hiện một cách chân thực, rõ nét trong phần đầu của
tác phẩm. Trong số đó có không ít những phong tục trong nền văn hóa nơi đây
đã bị lợi dụng để phục vụ cho sự cai trị của chúa đất, tiêu biểu là tục cướp vợ.
Tục cướp vợ là một phong tục rất đặc sắc, rất riêng của đồng bào Mông. Những
đôi trai gái Mông quyết định gắn bó cuộc đời bên nhau bằng một hình thức rất
đặc biệt, dựa trên sự cùng nguyện ý, chàng trai thường “bắt” cô gái về nhà mình
trước rồi mới thưa chuyện với cha mẹ cô. Hành động “bắt” này thực chất đã có
thỏa thuận từ trước. Nhưng trong Vợ chồng A Phủ, A Sử đã lợi dụng phong tục
này để bắt cóc Mị, trói buộc cô bằng lễ cúng trình ma, bằng món nợ truyền kiếp
của cha mẹ. Như vậy phong tục văn hóa vốn đẹp đẽ đó đã bị lợi dụng, biến
tướng, làm méo mó đi vì mục đích xấu xa của giai cấp thống trị.
Cuộc sống của hai nhân vật chính, Mị và A Phủ, ở nhà thống lí Pá Tra
thực sự là cuộc sống của những thân phận trâu ngựa nơi địa ngục trần gian.
Ngoài việc phải chịu áp bức về thể xác, quần quật làm việc suốt ngày đêm, hết
năm này đến năm khác thì Mị và A Phủ còn phải chịu thêm một sự áp bức nữa,
đó là áp bức về tinh thần với sự ám ảnh của con ma nhà thống lí. Sức mạnh của
thần quyền đã triệt tiêu sự phản kháng ở những nạn nhân bị áp bức này.
Bởi bị cúng trình ma ngay sau đêm bị A Sử bắt cóc về, Mị trở thành con

dâu của nhà thống lí Pá Tra. Bóng ma của thần quyền bao phủ, đè nén Mị kể từ
đấy, đến nỗi khi muốn giải thoát cho bản thân, Mị chỉ nghĩ được một phương án
là tìm đến cái chết. Và khi không thể ăn lá ngón để tự giải thoát cho mình bởi
lòng hiếu thảo, thương cha, chấp nhận kiếp sống tủi nhục trong nhà thống lí, dần
dần bị vật hóa về tinh thần, trong đầu Mị vẫn thường trực suy nghĩ: ““nó đã bắt
ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Điều
này cũng lí giải được vì sao nét tâm lí có phần kì lạ của Mị trong đêm tình mùa
9


xuân – sau khi sức sống, sự phản kháng trong Mị được thổi bùng lên sau quãng
thời gian dài bị vật hóa về mặt tinh thần – Mị liền ước nếu có nắm lá ngón trong
tay ở ngay giây phút đó cô sẽ ăn ngay để chết. Bởi lẽ, trong tâm thức của người
dân nơi miền núi Tây Bắc, chỉ có cái chết mới có thể giúp họ thoát khỏi sự bủa
vây, đè nén của thần quyền, mới có thể xóa tan được nghi thức cúng trình ma mà
họ đã phải trải qua, mới có thể trả lại tự do cho Mị.
Với A Phủ, vì tội đánh A Sử, con nhà quan, nên anh bị người nhà thống lí
bắt về xử kiện. Đó là một vụ xử kiện thật lạ lùng. Đám xử kiện nằm dài bên
khay đèn, mấy chục người hút từ sáng đến trưa, cho đến hết đêm. Bọn trai làng
bắt A Phủ ra quì giữa nhà và xô đến đánh. Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể
lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi lại hút… Cứ như thế, suốt chiều, suốt
đêm càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút. Đến sáng hôm sau thì
đám kiện đã xong. Thống lí Pá Tra mở tráp, lấy ra một trăm đồng bạc hoa xòe
bày lên mặt tráp, rồi kể các khoản tiền A Phủ phải nộp: “Nộp vạ cho người phải
mày đánh là hai mươi đồng, nộp cho thống quán năm đồng, mỗi xéo phải hai
đồng, mỗi người đi gọi các quan về hầu kiện năm hào. Mày phải mất tiền mời
các quan hút thuốc từ hôm qua tới nay. Lại mất con lợn hai mươi cân, chốc nữa
mổ để các quan làng ăn vạ mày.” Sau đó, thống lí cho A Phủ cúi sờ lên đồng bạc
trên tráp, còn mình thì đốt hương, lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay
nợ. Pá Tra khấn xong, A Phủ cũng nhặt xong bạc, nhưng nhặt xong lại để ngay

cả xuống mặt tráp. Rồi Pá Tra lại trút cả bạc vào trong tráp. Từ đây, A Phủ đã bị
trói vào con ma nhà thống lí. A Phủ không phản kháng, không bỏ trốn. Anh
chính là nạn nhân của sự áp bức tàn bạo của chế độ cường quyền và thần quyền.
Với hai lần chi tiết cúng trình ma xuất hiện trong tác phẩm, có thể thấy
đối với người Mông trước đây, ma là thế lực thần quyền đáng sợ. Nó làm cho
con người trở nên mê muội, tê liệt ý thức về quyền sống. Bọn thống lí đã lợi
dụng thần quyền làm phương tiện áp bức của cường quyền. Và như vậy, phản
ánh nỗi thống khổ tới cùng cực, bị áp bức trên mọi phương diện (cả thể xác lần
tinh thần) của người dân miền núi Tây Bắc, Tô Hoài đã lựa chọn được một chi
tiết đặc sắc. Con ma nhà thống lí không chỉ là nỗi ám ảnh trong số phận nhân vật
mà còn ám ảnh trong cả người đọc - ám ảnh nghệ thuật. Tục cúng trình ma chính
là một trong những “sợi dây tóc phát sáng” trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.
Nếu nếu tục cúng trình ma là một hủ tục ám ảnh đời sống tâm linh của
người dân Tây Bắc trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, thì tiếng sáo gọi bạn tình
lại trở thành một nét đẹp văn hóa trong đời sống sinh hoạt và đời sống tinh thần
của con người nơi đây. Tiếng sáo xuất hiện trong thiên truyện lúc văng vẳng từ
xa, có khi vọng lại thiết tha, bổi hổi, lúc lửng lơ bay ngoài đường, lúc lại rập rờn
trong đầu Mị. Tiếng sáo làm nên một miền không gian êm dịu, nên thơ thuộc về
thế giới tâm hồn đẹp đẽ của nhân vật Mị. Trong lời bài hát của người thổi sáo có
khát vọng tự do và tình yêu của trai gái người Mèo:

10


Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.
Và cả những ước hẹn buông lơi:
- Anh ném pao, em không bắt

Em không yêu quả pao rơi rồi…
- Em không yêu, quả pao rơi rồi.
Em yêu người nào, em bắt pao nào…
Với ý nghĩa đó, tiếng sáo đã trở thành một “sợi dây tóc phát sáng”, khi nó
là một chi tiết nghệ thuật gắn với cuộc đời, số phận của nhân vật Mị, là hiện thân
thế giới tâm hồn đẹp đẽ của cô gái người Mông này. Quá trình thức tỉnh của Mị
gắn liền với sự vọng về của tiếng sáo. Tiếng sáo trở thành chất xúc tác mạnh mẽ
lay tỉnh một tâm hồn ngủ yên trong đêm trường đè nén bởi cường quyền và thần
quyền.
Lần đầu tiên tiếng sáo xuất hiện trong tác phẩm cũng là lần đầu tiên sau
bao ngày dài câm nín ở nhà thống lí Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi.
Mị ngồi nhẩm thầm bài hát người đang thổi. Tiếng sáo đã làm rung lên cảm xúc
trong tâm hồn Mị - sự thay đổi đó chứng tỏ hồn Mị chưa chết hẳn. Mị đang sống
lại, lòng Mị đã có sợi dây xúc cảm. Mị đang sống với giai điệu, với ý nghĩa lời
bài hát người đang thổi. Từ đây, tiếng sáo thức dậy khát vọng sống, sức sống
trong Mị, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những
đêm tết ngày trước. Mị ý thức được Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi
chơi. Nghĩ đến cảnh A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với
nhau, trong Mị xuất hiện suy nghĩ : “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị
sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa
ra.”. Như vậy tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường kia chính là tấm
gương soi hắt lại để Mị nhìn rõ hơn về cuộc sống hiện tại của mình. Mị đã
muốn chết ngay nghĩa là Mị đã không chấp nhận hoàn cảnh, Mị đang muốn
phản kháng lại hoàn cảnh. Đây là điều hoàn toàn khác với Mị lầm lũi suốt bao
tháng ngày trong nhà thống lí trước đây. Tiếng sáo vẫy gọi Mị, thôi thúc Mị để
rồi ngay sau đó, hàng loạt các hoạt động diễn ra một cách nhanh chóng, Mị quấn
lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách, như thể Mị đang thực
hiện hành động giải phóng cho mình, cởi bỏ khỏi sự trói buộc của con ma nhà
thống lí, thoát khỏi căn buồng kín mít của Mị - căn buồng chỉ có một chiếc cửa
sổ một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không

biết là sương hay là nắng. Dẫu sau đó bị A Sử trói đứng vào cột, tâm hồn Mị vẫn

11


hoàn toàn tự do. Mị vẫn sống trọn vẹn trong thế giới của riêng mình. Trong bóng
tối, Mị đứng lặng im, như không biết mình đang bị trói, hơi rượu còn nồng nàn,
Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Như
vậy, tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân là chất xúc tác làm thay đổi tâm lí nhân
vật Mị, giúp người đọc nhận ra sức sống tiềm tàng ở Mị, một sức sống mãnh liệt
không gì có thể hủy diệt được.
Trong tác phẩm Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), nền văn hóa cộng
đồng của các dân tộc Tây Nguyên được thể hiện ở việc Tnú mồ côi từ nhỏ, nhờ
buôn làng nuôi nấng, chăm sóc mà khôn lớn. Nền văn hóa cộng đồng ấy tạo nên
sự gắn kết mật thiết, gắn bó giữa những thành viên trong ngôi làng Xô Man,
làng như một đại gia đình mà ở đó, thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước, tiếp nối
truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Nền văn hóa Tây Nguyên không chỉ hiện lên qua tiếng cồng chiêng trong
tác phẩm, mà đặc sắc nhất chính là chi tiết cụ Mết kể chuyện cuộc đời Tnú bên
bếp lửa nhà ưng. Nhà ưng là một kiểu nhà sàn đặc trưng, là ngôi nhà cộng đồng
của bà con các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, như đình làng người Kinh, dùng
làm nơi tụ họp, trao đổi, thảo luận về những sự việc quan trọng của dân làng.
Trong nét văn hóa sinh hoạt ấy, những câu chuyện được các già làng kể bên bếp
lửa nhà ưng luôn mang tính chất sử thi, kể về những sự kiện trọng đại, những
nhân vật quan trọng trong lịch sử của buôn làng. Bên ánh lửa bập bùng của nhà
ưng, biết bao lần cụ Mết kể về cuộc đời Tnú – như kể về một người con anh
hùng của dân làng, thắp lên ngọn lửa của lòng yêu nước, lòng căm thù chống
giặc ngoại xâm; đồng thời, câu chuyện được kể trong ngôi nhà ấy cũng chính là
bài học đấu tranh quan trọng mà dân làng phải khắc ghi trong tâm khảm:
“Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”

Trong tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, trước khi
lên đường ra mặt trận, cầm súng chiến đấu, Việt và Chiến khiêng bàn thờ ba má
sang gửi nhà chú Năm. Những câu văn miêu tả chi tiết này mang một sự dồn nén
đặc biệt về cảm xúc. Nó không chỉ thể hiện truyền thống văn hóa thờ cúng ông
bà, tổ tiên, đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc, chi tiết ấy còn góp phần thể
hiện giá trị tư tưởng của tác phẩm: là hiện thực, cụ thể hóa nỗi đau do tội ác kẻ
thù gây ra với nhân dân ta, là quyết tâm tiêu diệt giặc thù của Việt và Chiến để
trả nợ nước thù nhà; là sự trưởng thành của chị em Việt, sự tiếp nối của các thế
hệ trẻ, của khúc sông sau trên “dòng sông” truyền thống gia đình.
Như vậy, có thể thấy lí giải ý nghĩa của các sự việc, chi tiết tiêu biểu mang
dấu ấn văn hóa này góp phần không nhỏ vào việc giúp HS tìm hiểu các giá trị
nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm, giúp các em có cái nhìn, những nhận
thức sâu sắc hơn về tác phẩm.
2.4.5. Cụ thể hóa việc tích hợp văn hóa trong giảng dạy vào thiết kế giáo án

12


Dựa trên kết quả tìm hiểu ở các bước trên, GV thiết kế giáo án tích hợp
các văn hóa vào quá trình giảng dạy một cách hợp lí, phát huy được tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của HS. Ngoài việc thuyết trình, cung cấp các kiến thức
về văn hóa xuất hiện trong tác phẩm, GV cũng cần biết kết hợp hỏi – đáp, nêu
câu hỏi gợi mở để phát huy sự hứng thú, tích cực suy nghĩ của HS.
Ví dụ với tiết đọc – hiểu Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, GV có thể thiết kế
giáo án như sau:
Tiết 55 – 56 – 57: Đọc – hiểu văn bản.
VỢ CHỒNG A PHỦ
( Trích)

- Tô Hoài -


A. Mục tiêu cần đạt.
1. Kiến thức:
Giúp HS:
- Hiểu được cuộc sống cơ cực, tối tăm của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng
cao dưới ách áp bức của thực dân và chúa đất thống trị, nắm được quá trình
người dân các dân tộc thiểu số từng bước giác ngộ cách mạng và vùng lên tự
giải phóng đời mình, đi theo tiếng gọi của Đảng.
- Những đóng góp của nhà văn trong nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật, sự
tinh tế trong diễn tả thế giới nội tâm, phong tục tập quán người Mông, lời văn
tinh tế, đầy chất thơ
2. Kĩ năng:
Rèn luyện cho HS kĩ năng phân tích văn bản văn học hiện đại.
3. Thái độ:
Bồi đắp cho HS tình cảm thẩm mỹ: lòng yêu thương, đồng cảm với con người…
B. Chuẩn bị:
- GV: SGK, SGV, tài liệu tham khảo
- HS: Vở soạn, SGK
C. Phương pháp:
- Vấn đáp
- Phân tích – tổng hợp.
- Bình giảng.
D. Tiến trình dạy học.
Hoạt động của GV và HS

Nội dung cần đạt

1. Ổn định lớp.
2. Kiểm tra bài cũ.
- GV kiểm tra vở soạn của HS.

3. Bài mới:
13


* GV giới thiệu bài mới.
* Hoạt động 1: Hướng dẫn HS tìm
hiểu chung.
- GV: Nêu những nét chính về tác giả?

I- Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
- Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn
Sen, sinh năm 1920.
- Sáng tác thiên về diễn tả những sự
thật đời thường
- Có vốn hiểu biết sâu sắc, phong
phú về phong tục, tập quán của nhiều
vùng khác nhau.
- Lối trần thuật rất hóm hỉnh, sinh
động nhờ vốn từ vựng giàu có, phần
lớn là bình dân và thông tục nhưng
nhờ sử dụng đắc địa nên đầy ma lực và
mang sức mạnh lay chuyển tâm tư.
- Năm 1996, được nhà nước tặng
giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học
nghệ thuật.
- Một số tác phẩm tiêu biểu:
+ Dế mèn phiêu lưu kí (1941),
+ O chuột (1942),
+ Nhà nghèo (1944),

+ Truyện Tây Bắc (1953),
- GV: Em hãy nêu xuất xứ, hoàn cảnh
+ Miền Tây (1967),…
sáng tác của tác phẩm .
2. Văn bản:
a. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
- In trong tập Truyện Tây Bắc – được
tặng giải nhất giải thưởng Hội văn
nghệ Việt Nam 1954-1955
- Hoàn cảnh sáng tác: Trong chuyến đi
thực tế cùng bộ đội vào giải phóng Tây
Bắc năm 1952.
GV yêu cầu HS tóm tắt văn bản
b. Tóm tắt:
- Mị, một cô gái xinh đẹp, yêu đời,
có khát vọng tự do, hạnh phúc bị bắt
về làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống
lí Pá Tra.
- Lúc đầu Mị phản kháng nhưng dần
dần trở nên tê liệt, chỉ "lùi lũi như con
rùa nuôi trong xó cửa".
- Đêm tình mùa xuân đến, Mị muốn
đi chơi nhưng bị A Sử (chồng Mị) trói
14


* Hoạt động 2: GV hướng dẫn HS
đọc - hiểu văn bản.
GV gọi 1 HS đọc đoạn văn giới thiệu
sự xuất hiện của nhân vật Mị.

- GV: Mị xuất hiện qua những chi tiết
nào?
- GV: Qua sự xuất hiện của Mị, em có
cảm nhận ban đầu như thế nào về cô?

- GV: Nhận xét về cách giới thiệu nhân
vật của Tô Hoài?

đứng vào cột nhà.
- A Phủ đánh A Sử nên đã bị bắt, bị
phạt vạ và trở thành kẻ ở trừ nợ cho
nhà Thống lí.
- Không may hổ vồ mất 1 con bò, A
Phủ đã bị đánh, bị trói đứng vào cọc
đến gần chết.
- Mị đã cắt dây trói cho A Phủ, 2
người chạy trốn đến Phiềng Sa.
- Mị và A Phủ được giác ngộ, trở
thành du kích
II. Đọc - hiểu văn bản:
1. Nhân vật Mị:
a. Sự xuất hiện của Mị:
- Hình ảnh: Một cô con gái “ngồi
quay sợi gai bên tảng đá trước cửa,
cạnh tàu ngựa”.
 Một cô gái lẻ loi, âm thầm như lẫn
vào các vật vô tri vô giác: cái quay sợi,
tàu ngựa, tảng đá
- “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi,
thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi

cõng nước dưới khe suối, cô ấy cũng
cúi mặt, mặt buồn rười rượi”
 Lúc nào cũng cúi đầu nhẫn nhục và
luôn u buồn
=> Cách giới thiệu nhân vật ấn tượng
để dẫn dắt vào trình tìm hiểu số phận
nhân vật.

HẾT TIẾT 55
TIẾT 56
* Kiểm tra bài cũ: Em hãy nêu phong
cách sáng tác của Tô Hoài? Xuất xứ
và hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm
Vợ chồng A Phủ?
b. Cuộc đời cực nhục, khổ đau của
Mị:
- GV: Trước khi làm dâu cho nhà * Trước khi làm dâu gạt nợ nhà
thống lí Pá Tra, Mị là cô gái có gì đặc thống lí Pá Tra:
biệt?
- Là cô gái trẻ đẹp, có tài thổi sáo
- Là người con hiếu thảo, siêng năng,
chăm chỉ, có khát khao hạnh phúc, có
lòng tự trọng.
*Khi về làm dâu nhà thống lí:
- GV: Vì sao Mị về làm dâu nhà thống - Nguyên nhân: Vì món nợ truyền
lí Pá Tra?
kiếp bố mẹ vay gia đình nhà thống lí
15



Pá Tra nên Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ
- GV: Việc Mị bị bắt về làm dâu nhà
thống lí Pá Tra gắn với phong tục nào
của người Mông? Phong tục này liệu
có còn giữ nguyên vẻ đẹp của nó ở
trong tác phẩm?
- GV: Lúc mới về làm dâu nhà thống
lí, Mị phản ứng như thế nào?
- Lúc đầu:
+ “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào
- GV: Vì sao Mị không giải thoát cho Mị cũng khóc”…
mình bằng cách chạy trốn mà lại tìm
+ Mị tính chuyện ăn lá ngón để tìm
tới cái chết?
sự giải thoát.
GV liên hệ với tục cúng trình ma của
các dân tộc miền núi Tây Bắc.
- GV: Những phản ứng ấy của Mị cho
thấy điều gì trong cô?
 sự phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt.

- GV: Ở nhà thống lí Pá Tra, Mị phải
chịu đựng nỗi khổ nào?

- GV: Thái độ của Mị lúc này như thế
nào?

- GV: Những yếu tố nào đã tác động
đến sự hồi sinh nhân vật Mị trong đêm
tình mùa xuân?


- Những ngày làm dâu:
+ Bị vắt kiệt sức lao động
+ Chịu nỗi đau khổ về tinh thần.
+ Bị áp bức bởi thần quyền.
Thái độ của Mị:
+ “Ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen
rồi.”
+ “Bây giờ Mị tưởng mình cũng là
con trâu, cũng là con ngựa (…) ngựa
chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”
+ “Mỗi ngày Mị không nói, lùi lũi như
con rùa nuôi trong xó cửa.”
=> Mị sống nhẫn nhục, vật hóa về tinh
thần, buông xuôi theo số phận.
c. Sức sống tiềm tàng của Mị:
* Cảnh mùa xuân:
- “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc
gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và
rét tất dữ dội. Nhưng trong các làng
Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem
ra phơi trên mỏm đá xòe như những
con bướm sặc sỡ”
- “Đám trẻ đợi tết, chơi quay cười ầm
16


GV nhấn mạnh, diễn giảng về tiếng trên sân chơi trước nhà..”
sáo- chi tiết nghệ thuật đặc sắc trong
tác phẩm .Tiếng sáo gọi bạn tình đã

vọng đến đôi tai Mị. Tiếng sáo được - Tiếng sáo gọi bạn lấp ló ngoài đầu
miêu tả từ xa đến gần, với những cung núi
bậc khác nhau. Chi tiết này có ý
nghĩa tả thực về nét đẹp văn hóa của
miền núi cao Tây Bắc.
→ Tiếng sáo mang đến chất thơ, làm
dịu mát cuộc sống trăm đắng ngàn cay
với nỗi đời cơ cực của con người nơi
đây, khiến mảnh đất Tây Bắc vốn xa
lạ, hoang vu trở nên gần gũi, thơ
mộng.
+ Không dừng lại ở ý nghĩa tả thực,
chi tiết tiếng sáo góp phần diễn tả vẻ
đẹp tâm hồn Mị trong đêm tình mùa
xuân.
Thảo luận nhóm GV chia lớp thành 4
nhóm. .
- GV nêu vấn đề thảo luận : Chi tiết
tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân tác
động đến tâm hồn, sức sống của Mị.
Các nhóm hãy tìm hiểu diễn biến tâm
- Mị nghe tiếng sáo gọi bạn “vọng lại
trạng Mị khi nghe tiếng sáo gọi bạn?
thiết tha, bổi hổi”. Mị ngồi nhẩm bài
+ Nhóm 1: Diễn biến tâm trạng Mị khi hát của người đang thổi:
nghe tiếng sáo gọi bạn đang lấp ló “Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
ngoài đầu núi
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”

* Tâm trạng của Mị trong đêm tình
mùa xuân:
+ Nhóm 2: Diễn biến tâm trạng Mị khi - Lúc uống rượu đón xuân:
- “Mị lén lấy hủ rượu, cứ uống ực
uống rượu
từng bát”
 Mị đang uống cái đắng cay của
phần đời đã qua, uống cái khao khát
của phần đời chưa tới. Rượu làm cơ
thể và đầu óc Mị say nhưng tâm hồn
đã tỉnh lại sau bao ngày câm nín, mụ
mị vì bị đày đọa.
17


+ Nhóm 3: Diễn biến tâm trạng Mị khi - Khi nghe tiếng sáo gọi bạn:
nghe tiếng sáo gọi lửng lơ bay ngoài + Nhớ lại những kỉ niệm ngọt ngào của
quá khứ: thổi sáo, thổi lá giỏi, “có biết
đường
bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi
theo Mị”
+ “… Mị thấy phơi phới trở lại, trong
lòng đột nhiên vui sướng như những
đêm Tết ngày trước… Mị muốn đi
chơi…”
+ Mị có ý nghĩ lạ lùng mà rất chân
thực:
“Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc
này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không
buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy

nước mắt ứa ra”
 Mị đã ý thức được tình cảnh đau
xót của mình.
+ Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo.
 Tiếng sáo là vẻ đẹp văn hóa truyền
thống của dân tộc vùng cao Tây Bắc,
đồng thời biểu tượng cho khát vọng
tình yêu, tự do đã thổi bùng lên ngọn
lửa tâm hồn Mị
+ Những sục sôi trong tâm hồn đã thôi
thúc Mị có những hành động:
 “lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ
thêm vào đĩa dầu”
 Mị muốn thắp sáng lên căn phòng
vốn bấy lâu chỉ là bóng tối, thắp ánh
sáng cho cuộc đời tăm tối của mình.
 “quấn lại tóc, với tay lấy cái
váy hoa vắt ở phía trong vách”
 Mị muốn được đi chơi xuân, quên
hẳn sự có mặt của A Sử.
+ Nhóm 4: Diễn biến tâm trạng Mị khi - Khi bị A Sử trói đứng:
+ “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng,
nghe tiếng sáo gọi bạn khi bị A Sử trói
như không biết mình đang bị trói. Hơi
Đại diện các nhóm lên trình bày. Các rượi còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng
nhóm khác nhận xét, chỉnh sửa, bổ sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi,
những đám chơi...”
sung. GV chốt lại kiến thức
 Quên hẳn mình đang bị trói, vẫn thả
hồn theo những cuộc chơi, những tiếng

sáo gọi bạn tình tha thiết bên tai.
+ “Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân
18


đau không cựa được...”
 Khát vọng đi chơi xuân đã bị chặn
đứng.
+ “Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi (…).
Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ (…). Mị
lúc mê lúc tỉnh…”
 Tô Hoài đặt sự hồi sinh của Mị vào
tình huống bi kịch: khát vọng mãnh
liệt – hiện thực phũ phàng, khiến cho
sức sống của Mị càng thêm mãnh liệt.
=> Tư tưởng của nhà văn:
Sức sống của con người cho dù bị
giẫm đạp, trói buộc nhưng vẫn luôn âm
ỉ và có cơ hội là bùng lên.
* Tâm trạng và hành động của Mị
khi thấy A Phủ bị trói đứng:
- GV: Em hãy nêu diễn biến tâm lí của - Lúc đầu, khi chứng kiến cảnh thấy A
Mị khi thấy A Phủ bị trói?
Phủ bị trói mấy ngày đêm: “Nhưng Mị
vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay”
 Dấu ấn của sự tê liệt tinh thần.
- Khi nhìn thấy “một dòng nước mắt
lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám
đen lại…” của A Phủ: Mị thức tỉnh
dần.

+ “Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A
Sử trói Mị”, “Nhiều lần khóc, nước
mắt chảy xuống miệng, xuống cổ,
không biết lau đi được”
 Nhớ lại mình, nhận ra mình và xót
xa cho mình.
+ Nhớ tới cảnh: Người đàn bà đời
trước cũng bi trói đến chết
 Thương người, thương mình.
+ Nhận thức được tội ác của nhà thống
lí: “Trời ơi nó bắt trói đứng người ta
đến chết. Chúng nó thật độc ác…”
+ Thương cảm cho A Phủ: “Cơ chừng
chỉ đêm mai là người kia chết, chết
đau, chết đói, chết rét”
 Từ lạnh lùng thương cảm, dần dần
Mị nhận ra nỗi đau khổ của mình và
của người khác.
+ Mị lo sợ hốt hoảng, tưởng tượng khi
A Phủ đã trốn được: “lúc ấy bố con sẽ
19


- GV: Em hãy bình luận hành động cắt
dây trói giải thoát cho A Phủ và chạy
theo A Phủ trốn khỏi nhà thống lí Pá
Tra của Mị?

- GV: Em hãy nêu giá trị nhân đạo mà
Tô Hoài muốn thể hiện qua nhân vật

Mị?

HẾT TIẾT 56
TIẾT 57
* Kiểm tra bài cũ: Phân tích diễn biến
tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa
xuân?

bảo là Mị cởi trói cho nó, Mị liền phải
trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái
cọc ấy”
 Nỗi sợ như tiếp thêm sức mạnh cho
Mị đi đến hành động.
- Liều lĩnh hành động: cắt dây mây cứu
A Phủ
“Mị rón rén bước lại… Mị rút con dao
nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây…”
 Hành động bất ngờ nhưng hợp lí:
Mị dám hi sinh vì cha mẹ, dám ăn lá
ngón tự tử nên cũng dám cứu người.
+ “Mị đứng lặng trong bóng tối. Rồi
Mị cũng vụt chạy ra”
 Là hành động tất yếu: Đó là con
đường giải thoát duy nhất, cứu người
cũng là tự cứu mình.
=> Tài năng của nhà văn trong miêu tả
tâm lí nhân vật: Diễn biến tâm lí tinh tế
được miêu tả từ nội tâm đến hành
động.
=> Giá trị nhân đạo sâu sắc:

+ Khi sức sống tiềm tàng trong con
người được hồi sinh thì nó là ngọn lửa
không thể dập tắt.
+ Nó tất yếu chuyển thành hành động
phản kháng táo bạo, chống lại mọi sự
chà đạp, lăng nhục để cứu cuộc đời
mình.

2. Nhân vật A Phủ:
- GV: Vì sao nói A Phủ là nhân vật có a. Số phận đặc biệt của A Phủ:
số phận đặc biệt?
- Từ nhỏ mồ côi cha mẹ, không người
thân thích, sống sót qua nạn dịch
- 10 tuổi bị bắt đem bán đổi lấy thóc
của người Thái, sau đó trốn thóat và
lưu lạc đến Hồng Ngài.
- Trở thành chàng trai khỏe mạnh, tháo
vát, thông minh:
“chạy nhanh như ngựa”, “biết đúc
lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và
- GV liên hệ với phong tục cưới xin đi săn bò tót rất bạo”
của người Mông ( nhà trai phải chuẩn - Nhiều cô gái mơ ước được lấy A Phủ
bị các lễ vật tổ chức lễ cưới cho đôi vợ
20


chồng trẻ qua việc thách lễ vật cưới
của nhà gái thường. A Phủ không còn
có cha mẹ, cũng chẳng có tài sản gì
nên không thể cưới vợ)

- GV: Nhân vật A Phủ có những tính
cách đặc biệt nào?

- GV lồng ghép giới thiệu cho HS
phong tục đi chơi hội trong đêm tình
mùa xuân của người dân vùng núi cao
Tây Bắc.

- GV: Em hãy nhận xét về nghệ thuật
xây dựng nhân vật A Phủ của Tô Hoài?

làm chồng:
“Đứa nào được A Phủ cúng bằng
được con trâu tốt trong nhà, chẳng
mấy lúc mà giàu”
- Nhưng A phủ vẫn rất nghèo, không
lấy nổi vợ vì phép làng và tục lệ cưới
xin ngặt nghèo.
b. Tính cách đặc biệt của A Phủ :
- Gan góc từ bé: “A Phủ mới mười
tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không
chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ
trốn lên núi lạc đến Hồng Ngài”
- Lớn lên: dám đánh con quan, sẵn
sàng trừng trị kẻ ác: “Một người to lớn
chạy vụt ra vung tay ném con quay rất
to vào mặt A Sử (…). Nó vừa kịp bưng
tay lên. A Phủ đã xộc tới, nắm cái
vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo,
đánh tới tấp”

 Hàng loạt các động từ cho thấy sức
mạnh và tính cách của A Phủ, không
quan tâm đến hậu quả sẽ xảy ra.
- Khi trở thành người làm công gạt nợ:
+ A Phủ vẫn là con người tự do: “bôn
ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”,
làm tất cả mọi thứ như trước đây.
+ Không sợ cường quyền, kẻ ác:
 Để mất bò, điềm nhiên vác nửa
con bò hổ ăn dở về và nói
chuyện đi bắt hổ một cách thản
nhiên, điềm nhiên cãi lại thống lí
Pá Tra.
 Lẳng lặng đi lấy cọc và dây mây
để người ta trói đứng mình.
 Không sợ cái uy của bất cứ ai,
không sợ cả cái chết.
- Bị trói vào cột, A Phủ nhai đứt hai
vòng dây mây định trốn thoát
 Tinh thần phản kháng là cơ sở cho
việc giác ngộ Cách mạng nhanh chóng
sau này.
 Nghệ thuật xây dựng nhân vật rất
đặc trưng:
- Nét khác nhau giữa hai nhân vật:
21


+ Mị: được khắc họa với sức sống
tiềm tàng bên trong tâm hồn.

+ A Phủ: được nhìn từ bên ngoài, tính
cách được bộc lộ ở hành động, vẻ đẹp
* Hoạt động 3: Hướng dẫn học sinh hiện lên qua sự gan góc, táo bạo, mạnh
tổng kết.
mẽ.
- GV: Nêu giá trị nội dung tác phẩm?
III. Tổng kết:
1. Chủ đề:
Giá trị hiện thực, nhân đạo sâu sắc.
- Cảm thông sâu sắc với nỗi khổ vật
chất và nỗi đau tinh thần của các nhân
vật Mị và A phủ dưới chế độ thống trị
của phong kiến miền núi.
- Khám phá sức mạnh tiềm ẩn của
những nạn nhân: niềm khát khao hạnh
phúc, tự do và khả năng vùng dậy để
tự giải phóng.
- GV: Nêu giá trị nghệ thuật nổi bật
của tác phẩm?
2. Nghệ thuật:
- Miêu tả tâm lí nhân vật: sinh động,
đặc sắc (diễn biến tâm trạng của Mị
trong đêm tình mùa xuân và đem Mị
cắt dây trói cho A Phủ).
GV giới thiệu cho HS về nghi lễ ốp
- Quan sát, tìm tòi: Có những phát
đồng ở vùng núi cao Tây Bắc
hiện mới lạ trong phong tục, tập quán
(tục bắt vợ, trình ma, ốp đồng, đêm
tình mùa xuân…)

- Nghệ thuật kể chuyện: uyển chuyển,
linh hoạt, mang phong cách truyền
4. Củng cố:
thống nhưng đầy sáng tạo (kể theo
GV củng cố cho HS kiến thức vừa trình tự thời gian nhưng có đan xen hồi
học.
ức, vận dụng kĩ thuật đồng hiện của
5. Dặn dò:
điện ảnh ….).
GV dặn dò HS học bài cũ, chuẩn bị - Ngôn ngữ: giản dị, phong phú, đầy
viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn sáng tạo, mang bản sắc riêng.
học.
- Giọng điệu: trữ tình, lôi cuốn người
đọc.

2.5. Kết quả thực nghiệm

22


Sáng kiến kinh nghiệm “Tích hợp văn hóa trong giảng dạy một số tác
phẩm văn xuôi Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 12” đã được tôi thử
nghiệm trong hai năm học: năm học 2016-2017 và 2017-2018. Kết quả thu được
thật khả quan.
Năm học 2016-2017, tôi thử nghiệm với học sinh ở hai lớp là 12.3 và 12.1
và so sánh kết quả với lớp 12.2 là lớp không áp dụng phương pháp này. Sau khi
dạy xong các tác phẩm văn xuôi trong chương trình Ngữ văn 12, tôi kiểm tra kết
quả của việc giảng dạy bằng cách kiểm tra 15 phút về các tác phẩm Vợ chồng A
Phủ (Tô Hoài), Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), Những đứa con trong gia
đình (Nguyễn Thi). Kết quả cụ thể như sau:

Cụ thể như sau : 
Thống kê tỉ lệ điểm lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
Lớp thực nghiệm
Xếp loại

Số HS

Tỷ lệ (%)

Lớp đối chứng
Số HS

Tỷ lệ (%)

Tổng số

70

100,0

35

100,0

Giỏi (9 -10đ)

15

21,43%


4

11,43%

Khá (7 – 8 đ)

30

42,9%

7

20%

Trung bình(5 – 6
đ)

22

31,43%

24

54,27%

Yếu, kém(< 5đ)

3

4,24%


5

14,3

* Kết quả thực nghiệm cho thấy:
– Điểm khá, giỏi của lớp thực nghiệm có tỷ lệ cao hơn lớp đối chứng.
– Điểm trung bình của lớp thực nghiệm có tỷ lệ thấp hơn lớp đối chứng.
– Điểm dưới trung bình của lớp thực nghiệm có tỷ lệ thấp hơn nhiều so với lớp
đối chứng.
Kết quả trên đã khích lệ tôi tiếp tục áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này
trong năm học 2017-2018. Tôi thử nghiệm với học sinh 2 lớp là 12.1 và 12.2,
đối chiếu kết quả với lớp 12.3 là lớp không áp dụng sáng kiến này. Tôi tiếp tục
kiểm tra kết quả của việc giảng dạy bằng cách kiểm tra 15 phút 3 tác phẩm Vợ

23


chồng A Phủ (Tô Hoài), Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), Những đứa con
trong gia đình (Nguyễn Thi) . Kết quả thu được như sau :
Thống kê tỉ lệ điểm lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
Lớp thực nghiệm
Xếp loại

Số HS

Tổng số
Giỏi
(9
10điểm)

Khá (7
điểm)
Trungbình
6điểm)

Tỷ lệ (%)

Lớp đối chứng
Số HS

Tỷ lệ (%)

65

100,0

32

100,0

10

15,38%

3

9,38 %

26


40%

8

25%

26

40%

16

48,99%

3

4,62

5

16,63





8

(5-


Yếu, kém (< 5
điểm)

* Kết quả thực nghiệm cho thấy:
– Điểm khá, giỏi của lớp thực nghiệm có tỷ lệ cao hơn nhiều lớp đối chứng.
– Điểm trung bình của lớp thực nghiệm có tỷ lệ thấp hơn lớp đối chứng.
– Điểm dưới trung bình của lớp thực nghiệm có tỷ lệ thấp hơn nhiều so với lớp
đối chứng.
Kết quả thực nghiệm cho thấy, rõ ràng việc áp dụng tích hợp văn hóa
trong dạy học một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam đã phát huy được năng lực tư
duy của HS, khai thác được tối đa vốn hiểu biết của các em, tạo cho các em
hứng thú học tập để lĩnh hội kiến thức, đồng thời góp phần bồi dưỡng cho học
sinh về vốn văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào dân tộc và ý thức bảo tồn và
xây dựng văn hóa Việt Nam trong học sinh.

24


3. Phần kết luận
3.1. Ý nghĩa của đề tài
Tích hợp văn hóa vào việc dạy học một số tác phẩm văn xuôi trong
chương trình Ngữ văn 12 là dạy cho học sinh đọc hiểu, cảm thụ tác phẩm văn
trong mối quan hệ với các yếu tố của văn hóa, lấy các yếu tố văn hóa để lí giải
cho ý nghĩa của những điểm sáng nghệ thuật trong tác phẩm và ngược lại, từ
việc hiểu tác phẩm mà bồi dưỡng kiến thức cho học sinh về văn hóa dân tộc.
Trong xu thế của cơ chế thị trường, khi mà học sinh đang ngày càng có xu

25



×