Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Thực trạng công tác phòng chống HIV AIDS ở vùng, biên giới, dân tộc thiểu số phía bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.52 KB, 27 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của vấn đề...............................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................2
A. Khái niệm HIV/AIDS và một số khái niệm liên quan..................................2
1. HIV/AIDS LÀ GÌ?.........................................................................................2
1.1 Cơ chế họat động của HIV khi xâm nhập vào cơ thể người........................2
1.2. Quá trình phát triển từ nhiễm HIV thành AIDS diễn ra trong cơ thể người
............................................................................................................................2
1.3. Các con đường lây nhiễm và biện pháp phòng tránh lây nhiễm
HIV/AIDS..........................................................................................................5
2. TÌNH HÌNH HIV/AIDS Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.......................................6
2.1. Trên thế giới................................................................................................6
2.2.Ở Việt Nam..................................................................................................6
3. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY.........................................................................................................8
3.1. Những biện pháp vận dụng:........................................................................9
3.2. Hiệu quả đạt được:....................................................................................10
3.3. Khó khăn:..................................................................................................11
3.4. Giải pháp khắc phục:................................................................................13
IV. CÁCH CHĂM SÓC BỆNH NHÂN NHIỄM HIV/AIDS TẠI NHÀ.........13
B. Thực trạng công tác phòng chống HIV/AIDS tại tỉnh Lạng Sơn (từ 2015 2017)................................................................................................................17
1. Thực trạng công tác phòng chống HIV/AIDS tại tỉnh Lạng Sơn (từ 2015 2017)................................................................................................................17
1.1. Nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS:................................................................17
1.2.Tình hình lây nhiễm HIV/AIDS:...............................................................17
2.Thực trạng công tác phòng chống HIV/AIDS các xã huyện vùng biên giới,
vùng dân tộc thiểu số của tỉnh Sơn La.............................................................18
C. CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG NHẰM NÂNG CAO NHẬN
THỨC CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG PHÒNG TRÁNH HIV/AIDS..............21
1. Những khó khăn của vùng biên giới, vùng dân tộc thiểu số trong phòng


chống HIV/AIDS.............................................................................................21
2.Nhưng kết quả đạt được sau nhiều năm cố gắng;.........................................21
3.Kết Luận và đề xuất, kiện nghị:....................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO:..................................................................................25


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề
HIV/AIDS là đại dịch nguy hiểm mang tính chất toàn cầu, là mối hiểm họa
đối với sức khỏe, tính mạng con người và tương lai nòi giống dân tộc,
HIV/AIDS tác động trực tiếp đến phát triển triển kinh tế văn hóa, trật tựvà an
toàn xã hội của mỗi quôác gia. Theo công bố cuẩ tổng bí thư ký liên hiệp quốc
gia trong báo cáo “ Đoàn kết vì tiếp cận phổ cập.Hướng tới không ca nhiễm HIV
mới, không phân biệt đối xử và không người chết vì AIDS” ngày
31/03/2011.Mỗi ngày lại có thêm 700người nhiễm HIV trên toàn cầu.
HIV/AIDS tầm nhìn 2020 của thủ tướng chính phủ cũng đặt ra mục tiêu “
100% các đơn vị, địa phương trên cả nước đưa hoạt động phòng chống HIV/AIDS
trở thành một trong các mục tiêu ưu tiên của chương trình phát triển kinh tế - xã hội
tại các đơn vị và địa phương . Nâng cao hiểu biết của người dân về dự phòng lây
nhiễm HIV/ AIDS:100% nhân dân khu vực thành thị và 80% ở khu vực nông thôn,
niền núi hiểu đúng và biết cách dự phòng lây nhiễm HIV/ AIDS” [23tr49]..
So với các nhóm xã hội khác, nhóm người bị nhiễm và sống chung với
HIV/AIDS là nhóm yếu thế có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, dễ bị tổn thương cả
về vật chất và tinh thần. Vì lý do này hay lý do khác người có HIV bị cản trở
trong việc tiếp cận với dịch vụ y tế và nhận thức sai về bản thân, có thái độ thiếu
tự tin, bi quan, có thể dẫn đến những suy nghĩ và hành động tiêu cực với bản
thân và cộng đồng....
Tính từ ca nhiễm HIV lần đầu tiên 1990, bệnh AIDS đã có hơn 20 năm lịch
sử ở Việt Nam .Nhà nước, các tổ chức xã hội dân sự và toàn thể cộng đồng cũng
đã tiến hành thực hiện nhiều chương trình, nhằm nâng cao nhận thức thái độ,

hành vi của người có HIV.... Vậy cho đến nay thực trạng căn bệnh HIV/AIDS đã
và đang diễn ra như thế nào ở vùng nông thôn Việt Nam .Với mong muốn trả lời
những câu hỏi trên cùng với sự quan tâm về mảng đề tài HIV/AIDS em quyết
địh trọn đề tài “ Thực trạng công tác phòng chống HIV/AIDS ở vùng, biên giới,
dân tộc thiểu số phía Bắc( nghiên cứu tại tỉnh Sơn La từ tháng 01/04/2018 -

1


28/10/2018)
NỘI DUNG
A. Khái niệm HIV/AIDS và một số khái niệm liên quan
1. HIV/AIDS LÀ GÌ?
Từ khi mới bắt đầu xuất hiện, HIV/AIDS luôn bị coi là một tệ nạn xã hội
gắn liền với tệ nạn tiêm chích ma túy và mại dâm, bởi đây chính là hai nhóm
tạo nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS cao nhất. Nhưng xã hội hiện nay đã dần
thay đổi được quan niệm này và chấp nhận quan niệm coi HIV/AIDS là một
chứng bệnh của xã hội. Quan niệm này sẽ giúp loài người tích cực hơn trong
công tác phòng và chống HIV/AIDS ngày càng đạt hiệu quả. HIV/AIDS là
một chứng bệnh của xã hội, nó có quá trình ủ bệnh, phát bệnh và dẫn người
bệnh đến tử vong. Chúng ta có thể xem xét HIV/AIDS từ góc độ bệnh tật
với những đặc điểm cơ bản sau:
1.1 Cơ chế họat động của HIV khi xâm nhập vào cơ thể người
Hệ thống miễn dịch của cơ thể có nhiều yếu tố, trong đó tế bào bạch cầu
lympho T CD4 (gọi tắt là CD4) đóng vai trò chỉ huy, nhận diện, báo động và
huy động các tế bào Lim phô - T tấn công tiêu diệt vi sinh vật lạ khi chúng
xâm nhập vào cơ thể. Khi virut HIV vào cơ thể, nó tấn công ngay vào bạch
cầu, đặc biệt là lympho bào T4. Chúng lấy chính chất liệu di truyền của bạch
cầu để sinh sôi nảy nở, rồi phá vỡ bạch cầu. Cứ như thế HIV tiêu diệt dần
các bạch cầu. Do số lượng các bạch cầu bị HIV tiêu diệt ngày càng nhiều,

dẫn đến hệ miễn dịch của cơ thể bị suy giảm dần, cuối cùng là bị vô hiệu hóa
và điều đó có nghĩa là cơ thể con người không còn được bảo vệ nữa. Lúc đó,
mọi mầm bệnh khác (vi trùng, siêu vi trùng, tế bào ung thư…) mặc sức
hoành hành gây nên nhiều chứng bệnh nguy hiểm và các bệnh nhiễm trùng
cơ hội như lao, viêm phổi, nấm… và ung thư sẽ nhân cơ hội này tấn công cơ
thể dẫn đến tử vong.

2


1.2. Quá trình phát triển từ nhiễm HIV thành AIDS diễn ra trong cơ
thể người
Quá trình HIV xâm nhập vào cơ thể người và phát triển thành AIDS trải
qua 4 giai đoạn cơ bản. Các giai đoạn đó là:
* Giai đoạn 1: Giai đoạn sơ nhiễm HIV (Nhiễm trùng cấp tính)
Sau khi bị nhiễm HIV một thời gian cơ thể người mới sinh ra kháng thể
chống lại HIV (kháng thể là chất do hệ miễn dịch sinh ra để chống lại các
kháng nguyên – là các vi sinh vật gây bệnh) nhưng trong thời gian khoảng từ
3 tuần đến 3 tháng, đôi khi lâu hơn lượng kháng thể này còn ít nên chưa thể
phát hiện được bằng các phương pháp xét nghiệm máu thông thường
(phương pháp xét nghiệm tìm kháng thể). Do vậy người ta còn gọi giai đoạn
này là giai đoạn cửa sổ.
Giai đoạn này người nhiễm HIV có thể không có bất kỳ một dấu hiệu bất
thường nào. Một số người nhiễm HIV (khoảng 20 – 25%) có thể có các triệu
chứng giống như cảm cúm (sốt nhẹ, khó chịu) nhưng các triệu chứng này sẽ
tự mất đi sau vài ngày nên cả người nhiễm, người ngoài hay bác sỹ đều
không thể nhận biết được.
Vào cuối thời kỳ cửa sổ, khi lượng kháng thể có đủ thì nếu xét nghiệm
máu bằng phương pháp thông thường có thể phát hiện được người nhiễm
HIV, nghĩa là huyết thanh từ “âm tính” chuyển sang “dương tính”, do vậy

người ta còn gọi đây là giai đoạn chuyển đổi huyết thanh.
Cần lưu ý rằng đây là giai đoạn nguy hiểm. Vì chưa có kháng thể hay
lượng kháng thể này còn ít nên HIV sản sinh rất nhanh và do vậy khả năng
lây truyền từ người này sang người khác là rất lớn, trong khi ta không biết ai
là người nhiễm và bản thân người nhiễm cũng không biết mình bị nhiễm.
Đây chính là cơ sở khoa học để đặt ra yêu cầu dự phòng phổ cập, nghĩa là dự
phòng HIV trong mọi trường hợp có tiếp xúc trực tiếp với máu và dịch tiết
sinh học của người khác.
* Giai đoạn 2: Nhiễm HIV không triệu chứng (thời kỳ ủ bệnh).
3


Một thời gian dài sau thời điểm chuyển đổi huyết thanh (có thể kéo dài
trung bình là 5 - 10 năm hoặc lâu hơn tuỳ vào thể trạng của người mang
HIV), trong cơ thể người nhiễm lượng kháng thể ở mức cao, còn lượng HIV
ở mức thấp, nên nhìn chung người nhiễm HIV vẫn không có bất cứ một triệu
chứng bất thường nào. Tuy vậy bên trong cơ thể con người nhiễm cuộc đấu
tranh không khoan nhượng giữa HIV và hệ thống miễn dịch vẫn tiếp tục xảy
ra, nhưng bên ngoài người nhiễm vẫn khoẻ mạnh, vẫn có thể lao động, học
tập bình thường.
* Giai đoạn 3: Giai đoạn nhiễm HIV có triệu chứng (giai đoạn cận
AIDS)
Ở giai đoạn này, trong cơ thể người nhiễm HIV lượng kháng thể bắt đầu
suy giảm, lượng HIV bắt đầu gia tăng nhanh và ở người nhiễm đã bắt đầu
xuất hiện xác triệu chứng bệnh khác nhau, mà thường gặp là sưng hạch kéo
dài nhưng không đau ở nhiều nơi trên cơ thể (phổ biến là sưng hạch ở vùng
cổ và nách) và các triệu chứng khác như sụt cần, sốt đổ mồ hôi trộm, tiêu
chảy, rối loạn cảm giác, giảm sút trí nhớ… Tuy nhiên các dấu hiệu này cũng
thường gặp ở nhiều loại bệnh khác nhau nên không thể dựa vào chúng đẻ nói
rằng ai đó đã bị nhiễm HIV.

* Giai đoạn 4: Giai đoạn AIDS
Đây là giai đoạn cuối cùng của nhiễm HIV. Vào giai đoạn này trong cơ
thể người nhiễm lượng kháng thể suy giảm mạnh, lượng HIV tăng lên nhanh
chón, hệ thống miễn dịch bị suy giảm hoàn toàn và người nhiễm chuyển
sang giai đoạn AIDS với sự xuất hiện của nhiều bệnh khác nhau. Ở giai đoạn
này với các biểu hiện lâm sàng bao gồm các dấu hiệu, triệu chứng của nhiễm
trùng cơ hội và ung thư tất yếu dẫn đến tử vong. Giai đoạn này thường rất
ngắn (khoảng vài tháng là bệnh nhân tử vong)
Một số triệu chứng biểu hiện lâm sàng của AIDS:
* Mệt mỏi kéo dài nhiều ngày mà không có nguyên nhân rõ ràng.
* Sút cân hơn 10% trọng lượng cơ thể sau 2 tháng.
4


* Sốt kéo dài hơn 1 tháng, kèm theo rét run, ớn lạnh và ra mồ hôi nhiều
về đêm.
* Tiêu chảy kéo dài hơn 1 tháng.
* Ho dai dẳng kéo dài hơn 1 tháng.
* Viêm ngứa da toàn thân.
* Xuất hiện nhiều vết đỏ, bầm tím trên da và niêm mạc miệng, mũi, trực
tràng.
* Sưng hạch, đặc biệt là ở cổ, nách, bẹn không có nguyên nhân rõ ràng và
kéo dài khoảng 2 tuần.
1.3. Các con đường lây nhiễm và biện pháp phòng tránh lây nhiễm
HIV/AIDS
* Con đường lây nhiễm: HIV/AIDS được lây truyền từ người này sang
người khác theo các con đường chính sau: qua đường tiếp xúc máu của
người có HIV ( tỷ lệ lây cao 100%), quan hệ tình dục (chiếm tỷ lệ cao nhất
thế giới 80%), lây từ mẹ sang con (tỷ lệ lây thấp dưới 30% nếu chưa có sự
can thiệp của y tế, chỉ từ 0 -5% nếu có sự tư vấn chăm sóc và hỗ trợ y tế.

* Biện pháp phòng tránh lây nhiễm: Dựa trên cơ sở các con đường lây
nhiễm HIV cơ bản mà đưa ra những biện pháp phòng tránh thích hợp. Cụ thể
là:
+ Phòng tránh lây truyền qua đường tình dục: Thực hiện tình dục an toàn,
chung thuỷ một vợ một chồng (bạn tình), sử dụng bao cao su khi quan hệ
tình dục, tăng cường khám chữa các bệnh liên quan đến tình dục,…
+ Phòng tránh lây truyền qua con đường máu: Truyền máu an toàn, thực
hiện vô trùng và khử trùng các dụng cụ xuyên qua da niêm mạc, thực hiện
chương trình giảm thiểu tác hại đối với người nghiện tiêm chích ma tuý,…
+ Phòng tránh lây truyền từ mẹ sang con: Giáo dục cho người phụ nữ ở
dộ tuổi sinh đẻ nguy cơ lây nhiễm HIV cho con, xét nghiệm trước khi xây
dựng gia đình, tư vấn và hỗ trợ y tế cho phụ nữ nhiễm HIV mang thai,…
Trên đây chỉ là những biện pháp tạm thời trước mắt đối với những con
5


đường lây truyền HIV cơ bản. Để công tác phòng tránh lây truyền HIV hiệu
quả cần rất nhiều những biện pháp kết hợp khác như: tuyên truyền phổ biến
rộng rãi kiến thức về HIV, phương pháp phòng tránh lây nhiễm cho cộng
đồng, vận động cộng đồng người có HIV tham gia các hoạt động phòng
ngừa lây nhiễm cho người khác, thay đổi nhận thức và giảm sự kỳ thị của
cộng đồng đối với người có HIV/AIDS,…
2. TÌNH HÌNH HIV/AIDS Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Trên thế giới
Những trường hợp AIDS đầu tiên được thông báo vào tháng 6/1981 từ
5 thanh

niên

nam


đồng

tính

luyến

ái



Los

Angeles

(Mỹ).

Trên thực tế, HIV đã xuất hiện lan tràn trên thế giới từ những năm 70 của
thế kỷ XX mà chúng ta chưa phát hiện ra. Hàng ngàn trường hợp AIDS sau
này là kết quả của việc bị nhiễm HIV lặng lẽ trong quá khứ. Qua nghiên cứu
mẫu máu được bảo quản năm 1959 và những năm 1970 ở Mỹ, người ta đã
tìm thấy kháng thể kháng HIV.
HIV/AIDS xuất hiện và lây lan nhanh chóng trên toàn thế giới. Theo số
liệu thống kê năm 2005 của LHQ thì: Trên thế giới, gần 40 triệu người
nhiễm HIV. Mỗi ngày, có hơn 8 nghìn người chết do bệnh AIDS. Cũng vào
mỗi ngày, có 5 nghìn thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 15-24 bị nhiễm HIV.
Đến 12/2007, theo thống kê của WHO và Tổ chức phòng chống AIDS của
Liên Hợp Quốc (UNAIDS), tính đến tháng 12 năm 2007, tổng số người sống
chung với HIV/AIDS trên toàn thế giới là 33,2 triệu người, trong đó, người
lớn là 30,8 triệu người; phụ nữ là 15,4 triệu người và trẻ em dưới 15 tuổi là

2,5 triệu. Tổng số ca nhiễm HIV mới trong năm 2007 là 2,5 triệu người,
trong đó người lớn là 2,1 triệu và trẻ em là 420.000 trẻ. Tổng số ca tử vong
do AIDS là 2,1 triệu, trong đó người lớn là 1,7 triệu và trẻ em là 330.000.
Đồng thời cứ mỗi 15 giây đống hồ là có một em bị mồ côi cha hoặc mẹ chết
vì HIV/AIDS.

6


2.2.Ở Việt Nam
Tình hình lây nhiễm nhanh chóng cả về địa bàn và số lượng. Ca nhiễm
HIV đầu tiên ở Việt Nam được phát hiện tháng 12 năm 1990 tại Thành phố
Hồ Chí Minh. Năm 1993, dịch HIV bùng nổ trong nhóm những người
nghiện hút, tiêm chính ma tuý. Đến tháng 12/1998, dịch đã lan tràn ra toàn
quốc và hiện nay tất cả 64/64 tỉnh, thành trên cả nước; 96% trong tổng số
659 quận/huyện và hơn 66% trong tổng số 10.732 xã/phường đã có người
nhiễm bệnh.
Theo số liệu thống kê báo cáo, Tại Việt Nam, tính đến cuối tháng 7/2007,
toàn quốc có 130.260 người nhiễm HIV/AIDS, 25.844 người đã chuyển
sang giai đoạn AIDS, 14.507 người đã tử vong vì AIDS. So với 7 tháng đầu
năm 2006, trong năm 2007, số người có HIV là 13.695 người gấp 1,95 lần,
số người có AIDS là 4.593 người gấp 2,95 lần, số người tử vong vì AIDS là
2.072 người gấp 2,4 lần. Tính trung bình mỗi ngày ở Việt Nam có thêm hơn
100 người bị nhiễm HIV.
Đến năm 2006, tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong dân số Việt Nam ở độ tuổi 15
đến 49 đã ở mức 0,53%, nghĩa là cứ khoảng 200 người thì có 1 người đang
sống với HIV. Số người trẻ nhiễm HIV ngày càng gia tăng Tính đến
31/8/2007, Trong số các ca nhiễm HIV được báo cáo, 78,9% ở độ tuổi từ 20
đến 39. Nam giới chiếm 85,2% trong tổng số các trường hợp HIV được phát
hiện. Tính trung bình cứ khoảng 60 hộ gia đình ở Việt Nam thì có một hộ có

một người đang sống với HIV.
(Theo Báo cáo quốc gia về thực hiện tuyên bố cam kết về HIV/AIDS lần
thứ 2 và lần thứ 3; Theo Cập nhật tình hình dịch AIDS năm 2007)
Ngoài ra, đại dịch HIV/AIDS đang ngày càng gia tăng với những nguy
cơ lây nhiễm càng cao. Một số liệu khác cho thấy, Năm 2008, toàn quốc đã
phát hiện được 20.260 trường hợp nhiễm HIV, 7.452 bệnh nhân AIDS và
3.526 trường hợp tử vong do AIDS. Số người nhiễm HIV/AIDS vẫn tập
trung chủ yếu tại các tỉnh, thành phố trọng điểm, đứng đầu là Thành phố Hồ
7


Chí Minh với hơn 34.000 trường hợp, chiếm 25,8% toàn quốc. Theo báo cáo
của Cục Phòng, chống HIV/AIDS Việt Nam, tính đến cuối 10/2008, số
trường hợp nhiễm HIV/AIDS còn sống được báo cáo trên toàn quốc là
135.171 trường hợp, trong đó 29.134 trường hợp đã chuyển sang giai đoạn
AIDS, từ năm 1990 đến nay có 41.418 bệnh nhân AIDS tử vong được báo
cáo, độ tuổi nhiễm HIV từ 20 -39 vẫn là chủ yếu (chiếm 83,44%). Đặc biệt
hơn, ông Nguyễn Văn Kính - Trưởng phòng Điều trị HIV/AIDS, Cục phòng
chống HIV/AIDS (Bộ Y tế) đưa ra con số: “Theo dự báo, năm nay Việt
Nam sẽ có khoảng 280.000 người nhiễm HIV/AIDS, dự kiến đến năm
2010, con số đó lên tới 311.500 người. Nếu chúng ta không có giải pháp
hữu hiệu chặn đứng đại dịch này, đến 2020, số người lây nhiễm
HIV/AIDS có thể sẽ lên tới 700.000 người".
Trên đây mới chỉ là những con số đã phát hiện được, còn phần đông
những con số đã nhiễm mà chưa phát hiện vẫn còn là một ẩn số, do đó rất
khó kiểm soát và phòng ngừa tình hình lây nhiễm HIV/AIDS trong xã hội
hiện nay. Những con đường làm lây nhiễm HIV/AIDS chủ yếu ở nước ta là
qua tiếp xúc máu với người có HIV do tiêm chích ma tuý, sử dụng chung
bơm kim tiêm (chiếm khoảng hơn 60%); qua quan hệ tình dục không an
toàn. Đây chính là những con đường lây nhiễm chủ yếu làm cho diễn biến

HIV/AIDS lây lan nhanh chóng trên toàn quốc, cần kịp thời được ngăn chặn
nhằm ngăn ngừa tình trạng lây lan nhanh chóng của đại dịch này.
Thực trạng về tình hình lây nhiễm HIV ở nước ta và những dự báo tương
lai như trên đang đặt đất nước ta vào một báo động thực tế, cần gấp rút đưa
ra và thực thi những biện pháp ngăn ngừa, phòng chống HIV/AIDS hiệu quả
nhằm ngăn chặn và đẩy lùi thực trạng này trong những năm tới.
3. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
Khi HIV/AIDS được phát hiện ở Việt Nam, nước ta đã không ngừng
nghiên cứu, tìm hiểu và đưa ra những giải pháp tích cực nhằm phòng chống
8


dịch bệnh một cách hiệu quả. Tuy nhiên, chung hoàn cảnh với thế giới là
chưa có một loại văcxin đặc dụng nào có thể chống lại hoặc phòng ngừa
được dịch bệnh nên những biện pháp nước ta đã vận dụng cũng chỉ mang
tính chất ngăn ngừa, đồng thời nhận được sự trợ giúp về thuốc ARV từ các tổ
chức hỗ trợ nước ngoài,…
3.1. Những biện pháp vận dụng:
Những biện pháp thường được sử dụng trong công tác phòng chống
HIV/AIDS trong thời gian qua là:
* Trong hợp tác phòng chống HIV/AIDS: Ngay từ khi mới phát hiện,
Đảng và Nhà nước ta đã nhanh chóng đưa ra những giải pháp phòng ngừa
lây nhiễm HIV trong cả nước. Đặc biệt, Đảng và Nhà nước ta đã không
ngừng huy động sự tham gia tích cực của cộng đồng, các cấp các ngành vào
công cuộc phòng chống HIV/AIDS. Xây dựng các chiến lược, chương trình,
dự án và ban hành các văn bản pháp luật thực hiện ngăn chặn tình hình lây
nhiễm HIV/AIDS trên cả nước.
*Trong công tác chống và điều trị bằng thuốc ARV: Nhờ nhận được
sự hỗ trợ từ các tổ chức từ thiện, tổ chức phi chính phủ nước ngoài nên một

bộ phận những người nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam đã được sử dụng thuốc
ARV. Tác dụng của thuốc là kháng virut do đó có thể giúp người có HIV kéo
dài và cải thiện chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, chỉ những người có
HIV/AIDS được phát hiện và dám công khai trước xã hội bệnh tật của mình,
cũng như được gia nhập vào các nhóm đồng đẳng mới có cơ hội tiếp cận với
thuốc ARV. Giá cả của thuốc ARV (ART) rất đắt, nguồn thuốc hạn chế, đặc
biệt với những tác dụng phụ không mong muốn của thuốc là những khó
khăn, thách thức lớn đối với người có HIV/AIDS.
*Trong hoạt động phòng ngừa lây nhiễm HIV:
+ Tuyên truyền, phổ biến về tác hại và cách thức phòng tránh lây nhiễm
HIV/AIDS: Đây là một biện pháp rất phổ biến và được sử dụng rộng rãi
trong hoạt động phòng chống HIV/AIDS thời gian qua. Những dạng tuyên
9


truyền phổ biến như làm các áp phích, palo, báo viết, đài, tivi, mạng
Internet, dựng phim truyền hình, thành lập các nhóm đồng đẳng, xây dựng
và thực thi các dự án tuyên truyền trực tiếp cho người dân,…
+ Thành lập các nhóm đồng đẳng, nhóm tự lực để tập hợp những người
có HIV vào tổ chức, dễ kiểm soát và hỗ trợ giúp đỡ.
+ Thực hiện chương trình giảm thiểu tác hại cho người nghiện tiêm chích
ma tuý như chương trình phát miễn phí bơm kim tiêm,…
+ Tuyên truyền và vận động xã hội tham gia hoạt động tình dục an toàn,
thực hiện chương trình phát BCS miễn phí,…
3.2. Hiệu quả đạt được:
Với những biện pháp tích cực trên, công tác phòng chống lây nhiễm
HIV/AIDS ở nước ta đã đạt được một số thành quả nhất định. Cụ thể là:
Về mặt xã hội, có sự cam kết chính trị mạnh mẽ trong công cuộc phòng
chống AIDS của Đảng, Quốc hội, Chính phủ. Sự quan tâm, chỉ đạo của
Đảng, Nhà nước được thể hiện qua việc ban hành các văn bản chỉ đạo và văn

bản quy phạm pháp luật, như Chỉ thị 54-CT/TW về “Tăng cường lãnh đạo
công tác phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới”; Luật Phòng, chống
HIV/AIDS (tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác phòng, chống
HIV/AIDS ở nước ta trong điều kiện mới, khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong nước và nước ngoài hợp tác, giúp đỡ dưới mọi hình thức trong
phòng, chống HIV/AIDS); Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS ở
Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020. Hoàn thiện hệ thống pháp luật
tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phòng chống HIV/AIDS và phù hợp với
xu hướng hội nhập của hệ thống pháp luật quốc gia trong phòng, chống
HIV/AIDS với pháp luật quốc tế. Đẩy mạnh sự phối hợp liên ngành và sự
tham gia mạnh mẽ của các tổ chức quần chúng, nhân dân kể cả cộng đồng dễ
bị tổn thương, những người chung sống với HIV/AIDS. Đẩy mạnh công tác
thông tin, giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi về phòng, chống
HIV/AIDS góp phần làm giảm sự kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm
10


HIV và gia đình.
Về chuyên môn, giữ vững và đẩy mạnh các hoạt động chuyên môn kỹ
thuật như tăng cường hệ thống giám sát quốc gia, nâng cao chất lượng hoạt
động tư vấn, xét nghiệm tự nguyện HIV/AIDS; thực hiện nghiêm chỉnh các
quy định pháp luật trong an toàn truyền máu và chế phẩm máu, sàng lọc
HIV 100% đơn vị máu và chế phẩm máu trước khi truyền; tăng cường công
tác quản lý, chăm sóc, tư vấn và điều trị người nhiễm HIV.
Ông Đào Duy Quát cho rằng: “công cuộc phòng chống HIV/AIDS của
nước ta trong 10 năm qua đã thực sự thu được kết quả đáng khích lệ. Chúng
ta đã giảm được tốc độ lây lan và tỷ lệ nhiễm HIV/AID trong diện khống chế
được. Kết quả này được cộng đồng quốc tế đánh giá cao”.
Hiện nay, rất nhiều Dự án và Chương trình phòng chống HIV/AIDS vẫn
đang được thực thi trên diện rộng, tác động vào cộng đồng nhằm thay đổi và

nâng cao nhận thức của cộng đồng về kiến thức phòng tránh HIV/AIDS.
Một số Chương trình, Dự án như: Chương trình phát bơm kim tiêm miễn
phí, phát BCS, Giáo dục và truyền thông, xét nghiệm HIV miễn phí, Dự án
phòng tránh lây nhiễm HIV cho thanh niên (2007- 2011), phòng tránh lây
nhiễm từ mẹ sang con,…
Đối với công tác điều trị thuốc kháng virut cũng đạt được những thành
quả đáng mừng. Đến nay đã có 203 điểm điều trị bằng thuốc đặc hiệu kháng
vi rút (ARV) tại 63 tỉnh, thành phố. Theo báo cáo của 63 tỉnh/thành phố, số
lượng người nhiễm HIV đến các cơ sở y tế để được khám và điều trị ngày
một tăng, lũy tích số bệnh nhân AIDS điều trị ARV là 24.691 bệnh nhân.
Như vậy, nhìn chung công tác phòng chống HIV/AIDS ở nước ta trong
thời gian qua đã hoạt động tích cực và đạt được những thành quả đáng
mừng. Tuy nhiên, hiệu quả của công tác này vẫn chưa thực sự cao và tình
hình HIV/AIDS vẫn rất khó kiểm soát trên cả nước bởi nhiều lý do khách
quan. Công tác phòng chống HIV/AIDS cần được đẩy mạnh hơn nữa.
3.3. Khó khăn:
11


Thực tế cho thấy các hoạt động truyền thông trong phòng, chống
HIV/AIDS chưa triển khai một cách sâu rộng và đồng bộ tới cộng đồng,
nhất là ở các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc, chưa
tạo được sự gắn kết chặt chẽ thường xuyên giữa công tác phòng, chống
HIV/AIDS với các phong trào, các cuộc vận động quần chúng. Sự tham gia
của các ngành, các cấp và quần chúng nhân dân trong công tác phòng, chống
HIV/AIDS còn hạn chế, sự kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến
HIV/AIDS vẫn tồn tại. Về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm
HIV: độ bao phủ chương trình còn thấp, thiếu sự đồng thuận của các cấp,
đặc biệt là chương trình phân phát bơm kim tiêm sạch. Nhận thức của người
dân còn hạn chế, nguồn kinh phí thực hiện chủ yếu từ các chương trình dự

án.
Trong lĩnh vực chăm sóc, điều trị người nhiễm HIV/AIDS còn phức tạp
vì có một số lượng lớn người nhiễm HIV đang sinh sống tại các trung tâm
nhưng cơ sở vật chất còn nghèo nàn, chưa cung cấp được thuốc điều trị đặc
hiệu cho các cơ sở này. Cơ chế chuyển tiếp những bệnh nhân đã được tiếp
cận điều trị ARV từ cộng đồng vào các trung tâm và từ trung tâm ra cộng
đồng sẽ rất khó khăn trong việc tuân thủ điều trị. Kinh phí thuộc Chương
trình mục tiêu quốc gia phòng chống HIV/AIDS và sự hỗ trợ của các tổ chức
quốc tế mới chỉ đáp ứng được 30-40% nhu cầu của công tác phòng, chống
HIV/AIDS hiện nay.
“ Biện pháp can thiệp giảm thiểu bằng cung cấp bơm kim tiêm sạch và
bao cao su miễn phí đã được thí điểm tại 21 tỉnh, thành trong cả nước. Tuy
nhiên, việc tiến hành không đồng bộ, không đến nơi đến chốn, hoặc chỉ thí
điểm trên diện hẹp. Vì vậy, chưa đạt được sức mạnh tổng hợp, chưa tạo nên
quả

đấm

thép

đẩy

lùi

vấn

nạn

này"


-

ông

Kính

nhận

xét.

Ông Trần Việt Trung, Phó Cục trưởng Cục Phòng chống tệ nạn xã hội
(Bộ Lao động Thương binh & Xã hội) cho rằng: “chúng ta mới thực
hiện cung cấp miễn phí bơm kim tiêm và bao cao su theo kiểu "phong trào".
12


Để cho có hiệu quả, những công cụ này phải được đưa vào khách
sạn, không thể đặt ở nhà vệ sinh một số cửa hàng nào đó như vẫn làm bấy
lâu

nay”.

Như vậy, công tác phòng chống HIV/AIDS ở nước ta hiện nay vẫn tồn tại
nhiều hạn chế cần được khắc phục.
3.4. Giải pháp khắc phục:
Để khắc phục được những hạn chế trong công tác phòng chống
HIV/AIDS và vượt qua những khó khăn thử thách trong phòng tránh lây
nhiễm HIV/AIDS, rất cần có sự đánh giá và đưa ra những giải pháp hữu hiệu
để thực hiện.
- Triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến

công tác phòng, chống HIV/AIDS trên toàn quốc (Chỉ thị 54/CT-TW của
Ban Bí thư; Luật Phòng, chống HIV/AIDS; Nghị định số 108/2007/NĐ-CP
của Chính phủ; Chiến lược quốc gia và các Chương trình hành động của
Chiến lược).
- Đẩy mạnh hoạt động thông tin - giáo dục - truyền thông (TT-GD-TT)
thay đổi hành vi, chú trọng truyền thông trực tiếp tập trung cho đối tượng có
hành vi nguy cơ cao, nhóm dân di biến động, thanh niên, phụ nữ nhằm nâng
cao hiểu biết của người dân về dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS.
- Giảm tỷ lệ lây nhiễm HIV trong nhóm có hành vi nguy cơ cao và từ
nhóm có hành vi nguy cơ cao ra cộng đồng.
- Tổ chức tốt công tác quản lý, chăm sóc và tư vấn, điều trị HIV/AIDS
bằng thuốc đặc hiệu kháng HIV (ARV).
- Tăng cường công tác giám sát, tư vấn xét nghiệm tự nguyện (VCT),
đảm bảo an toàn truyền máu và các chế phẩm máu; thực hiện đúng quy định
về vô khuẩn, sát khuẩn phòng lây nhiễm HIV/AIDS trong các cơ sở y tế.
- Tăng cường năng lực hệ thống phòng, chống HIV/AIDS, tiếp tục kiện
toàn hệ thống quản lý, theo dõi, giám sát và đánh giá chương trình phòng,
chống HIV/AIDS trên cơ sở bộ chỉ số Quốc gia về HIV/AIDS; Tăng cường
13


hợp tác quốc tế trong công tác phòng chống HIV/AIDS.
IV. CÁCH CHĂM SÓC BỆNH NHÂN NHIỄM HIV/AIDS TẠI NHÀ
Đối với những bệnh nhân bị nhiễm HIV/AIDS, rất cần được chăm sóc về
mặt y tế và thể chất. Đặc biệt, họ rất cần đến sự cảm thông, chia sẻ từ những
người thân và xã hội, sự giúp đỡ và động viên của xã hội chính là nguồn
động lực lớn nhất, giúp họ vực dạy và tiếp tục cuộc sống của mình để trở
thành người có ích trong xã hội. Khi có bệnh, họ được chăm sóc tại gia đình
là một điầu kiện tốt nhất cho sự an toàn của họ. Gia đình chính là môi trường
gần gũi và thân thương nhất đối với họ, giúp họ có thể được chăm sóc và

tiếp tục hoà nhập vào xã hội. Tuy nhiên, đối với người chăm sóc và bệnh
nhân có HIV/AIDS khi chăm sóc tại nhà cần tuân thủ những nguyên tắc và
theo những kiến thức chăm sóc cụ thể, chặt chẽ sau:
* Chuẩn bị các điều kiện cơ sở vật dụng chăm sóc:
Trước khi bước vào chăm sóc bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS tại nhà, gia
đình cần được tư vấn để chuẩn bị những vật dụng cần thiết phục vụ công tác
chăm sóc được thuận tiện và phòng tránh phơi nhiễm hiệu quả. Những vật
dụng cần chuẩn bị là:
Găng tay cao su dầy và dài (loại bảo hộ lao động hoặc găng tay y tế); Túi
nilon dầy; Các dung dịch sát trùng, tẩy rửa như nước Javel, Chlorine;
Chloramine B, hoặc viên Presept pha vào nước trước khi dùng, thuốc tẩy(để
tẩy quần áo hoặc tẩy trùng nói chung); Một ít bơm kim tiêm dùng một lần;
Cồn 70 độ; Nhiệt kế y tế để theo dõi nhiệt độ cơ thể; Một ít gói ORESOL;
Huyết áp kế và ống nghe (nếu có thể); 10 viên Paracetamol; ống nhổ, bô
chậu; Bông băng; Kẹp (pince) y tế; Túi chườm, và những điều kiện về nhà
ở, đồ dùng cá nhân (quần áo, khăn rửa, )
* Cách chăm sóc:
Trong khi chăm sóc người thân nhiễm HIV/AIDS, các thành viên trong
gia đình cần lưu ý:
- Quần áo, đồ vải dính máu người bệnh phải được ngâm nước Javen 0,114


0,5% trong 30 phút rồi giặt lại bằng xà phòng; nếu dính các chất đặc như
chất nôn, phân thì phải gột nước cho sạch bớt trước khi ngâm Javen và giặt
lại. Với các loại rác có máu (giấy, bông, băng gạc, kim tiêm ), cần cho vào
2 lần túi nylon, buộc lại trước khi bỏ vào thùng rác.
- Bệnh nhân phải dùng riêng một số đồ dùng như khăn tắm, khăn mặt,
bàn chải đánh răng, dao cạo, cái nạo lưỡi, đồ làm móng tay, kim tiêm
- Khi máu và chất tiết của người bệnh rơi vãi ra ngoài, dùng giấy hoặc vải
hút nước lau sạch, sau đó lau nơi vấy bẩn bằng nước xà phòng rồi lau lại

bằng nước Javen hoặc cồn 70 độ.
- Người trong gia đình nên mang găng tay cao su khi chăm sóc vết
thương hay giặt đồ cho bệnh nhân nhiễm HIV. Nếu bị dính máu, dịch tiết của
bệnh nhân thì rửa sạch ngay bằng nước xà phòng, sau đó dùng cồn 70 độ sát
trùng lại.
- Nếu người trong gia đình bị những vật bén nhọn dùng cho bệnh nhân
nhiễm HIV (như kim tiêm, dao cạo) làm bị thương, cần nặn ngay máu ra, rửa
vết thương bằng nước sạch và xà phòng, sát trùng bằng cồn 70 độ. Sau đó,
phải liên hệ ngay với các cơ sở điều trị để được hướng dẫn điều trị dự
phòng.
- Về ăn uống, cần cho bệnh nhân ăn uống đầy đủ các chất (thịt, cá, trứng,
gan, đậu, rau củ, trái cây). Nếu người bệnh chán ăn, buồn nôn thì cho ăn
uống từng chút một và chia thành nhiều bữa. Tránh cho ăn rau sống vì nó
khó tiêu và dễ gây nhiễm trùng. Nếu bệnh nhân hay nôn, nên cho dùng thức
ăn lỏng. Trong trường hợp tiêu chảy kéo dài, cần sử dụng thức ăn mềm,
nghiền nát, tránh các loại gia vị, uống nhiều nước và một viên đa sinh tố mỗi
ngày.
- Về thuốc điều trị, bệnh nhân và người nhà không được tự ý mua và sử
dụng. Thuốc phải do bác sĩ chuyên khoa quy định dựa vào quá trình thăm
khám, theo dõi và làm các xét nghiệm.
Ngoài ra, cần thường xuyên theo dõi các biểu hiện về bệnh tật của người
15


có HIV/AIDS (sốt, đi ngoài, đau đầu, ho, khó thở, tổn thương ngoài da,…)
để có cách xử trí kịp thời.
* Các nguyên tắc quản lý, chăm sóc và điều trị nhiễm HIV/AIDS tại
nhà

:


+ Người nhiễm HIV/AIDS cũng có quyền được chăm sóc điều trị toàn
diện và phù hợp như những người khác trong cộng đồng, không phân biệt
đối xử. Điều đó được thể hiện qua việc cảm thông với người bệnh, không sợ
hãi khi chăm sóc. Tôn trọng người bệnh.
+ Cần phải đáp ứng nhu cầu tiếp cận các dịch vụ chăm sóc phù hợp cho
người nhiễm HIV/AIDS trên nguyên tắc giữ bí mật, quản lý tốt các hồ sơ
bệnh án, tư vấn trước khi thông báo.
+ Người nhiễm HIV/AIDS có quyền liên quan đến việc lập kế hoạch và
thực hiện các chương trình điều trị và chăm sóc.
+ Cơ sở cho chăm sóc và điều trị nhiễm HIV/AIDS tốt nhất là can thiệp
sớm , theo dõi và giữ gìn sức khoẻ.
+ Cần tiếp tục đào tạo nhân viên y tế bao gồm cả những người chăm sóc
tự nguyện.
+ Nên khuyến khích và hỗ trợ các dịch vụ dựa vào cộng đồng, khuyến
khích những người nhiễm tham gia vào các hoạt động chăm sóc lẫn nhau.
Có thể lồng ghép các dịch vụ này với mạng lưới chăm sóc sức khoẻ ban đầu.
Chương trình hỗ trợ chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS tại nhà là một
hoạt động hết sức cần thiết. Thực tế, những gia đình có người nhiễm
HIV/AIDS và bản thân người bị nhiễm cũng chưa có hiểu biết nhiều về
bệnh, cách chăm sóc và phòng tránh lây nhiễm, do đó hoạt động tư vấn hỗ
trợ chăm sóc bệnh nhân nhiễm HIV tại nhà hiện nay rất cần được quan tâm
đẩy mạnh. Đặc biệt, đội ngũ tham gia hoạt động này cần được tăng cường về
cả số lượng và chất lượng. Trong đó, cần tăng cường về đội ngũ Nhân viên
CTXH.

16


17



B. Thực trạng công tác phòng chống HIV/AIDS tại tỉnh Lạng Sơn (từ 2015 2017)
1. Thực trạng công tác phòng chống HIV/AIDS tại tỉnh Lạng Sơn (từ 2015 2017)
HIV/AIDS là căn bệnh thế kỷ, tất cả con người đều là đối tượng tấn công
khi tiếp xúc với nó, mọi người đều có nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS. Hiện
nay, HIV/AIDS đã len lỏi vào từng gia đình, phá hoại từng mái ấm hạnh
phúc, không kể dân tộc, tôn giáo hay vùng miền cư trú. Biên giới là một
trong những khu vực lây nhiễm HIV/AIDS cao do tình trạng buôn bán và sử
dụng chất ma tuý gia tăng, lại khó kiểm soát.
1.1. Nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS:
Đây là vùng có nguy cơ lây nhiễm HIV rất cao. Do tình trạng buôn bán và
sử dụng chất ma tuý gia tăng, khó được kiểm soát, tình trạng trao đổi và buôn
bán ở những vùng này rất phức tạp, giao lưu rộng. Đối với vùng dân tộc thiểu
số, tuy hiện nay tình hình lây nhiễm HIV/AIDS chưa cao nhưng đây là một
nhóm nguy cơ lớn cho lây truyền HIV/AIDS trong tương lai, bởi trình độ dân trí
thấp, người dân rất thiếu hiểu biết về HIV/AIDS, cộng thêm lối sống tập tục lạc
hậu, ít đề phòng bệnh tật,… Như vậy, đây là một trong những khu vực nguy cơ
lây truyền HIV/AIDS cao và cần được dự phòng cấp thiết.
1.2.Tình hình lây nhiễm HIV/AIDS:
Với các đặc điểm, đời sống đặc thù và điều kiện kinh tế khó khăn, dân trí
lại thấp của tỉnh Sơn La tình hình lây nhiễm HIV có nguy cơ tăng cao và lây
nhiễm nhanh chóng. Đặc biệt là các xã, huyện biên giới Mai sơn, Ba
Phách, Lũng Lu, Sơn Đốc....Năm 2008, Bắc Sơn là huyện hiện có người nhiễm
HIV cao
nhất cả tỉnh trên 200 người, tiếp đến là Chi Lăng, Bình Gia , Cao Lộc, Lộc
Bình. Đối tượng lây nhiễm chủ yếu ở các vùng giáp biên giới, vùng dân tộc
thiểu số ít người,là nghiện ma tuý, buôn bán và trồng cây thuốc phiện,…một bộ

18



phận là phụ nữ lây nhiễm HIV từ chồng.
Các huyện của tỉnh thuộc vùng biên giới Việt - Trung có tỉ lệ người nhiễm
HIV/AIDS rất cao. Riêng huyện Bắc Sơn, có khoảng gần 100 người nghiện
chích ma tuý, và tỉ lệ nhiễm HIV ở đây cao hơn mức trung bình. Có khoảng 1/3
số người nghiện chích ma tuý tại xã Chiềng Ban đã nhiễm HIV.
Tuy hiện nay vẫn chưa có số liệu thống kê chính xác số người bị nhiễm
HIV, đồng thời cũng chưa qua xét nghiệm HIV bắt buộc. Nhưng thực tế đã phát
hiện hoặc nghi ngờ người lây nhiễm HIV/AIDS, thậm chí đã có trường hợp tử
vong vì AIDS, nhưng chưa được thống kê. Với những đặc điểm về nguy cơ lây
nhiễm,các huyện thuộc vùng dân tộc thiểu số của tỉnh đang trở thành một đối
tượng thuận lợi cho lây truyền HIV. Đặc biệt, với tập tục “ ngủ thăm” ở vùng
dân tộc là một nguy cơ rất cao cho sự lây truyền HIV/AIDS. Hiện nay, vẫn tồn
tại tập tục này ở một số vùng dân tộc thiểu số như H’Mông,Nùng,Tày…
Một ví dụ về tình hình lây nhiễm HIV ở vùng dân tộc thiểu số huyện Cao Lộc
(tỉnh Lạng Sơn) cho thấy: “Cả huyện Cao Lộc (Lạng Sơn) có 6 xã thì có tới hơn
200 con nghiện trong diện quản lý. Phó Giám đốc Trung tâm Y tế huyện khẳng
định nếu đưa các con nghiện đi xét nghiệm thì 95% đã nhiễm virus HIV”.
Tình hình lây nhiễm HIV ở một số vùng dân tộc thiểu số của tỉnh
đã đến mức báo động, cần được kịp thời ngăn chặn và phòng tránh lây
nhiễm trong cộng đồng.
2.Thực trạng công tác phòng chống HIV/AIDS các xã huyện vùng biên giới,
vùng dân tộc thiểu số của tỉnh Sơn La
* Đối với các xã giáp biên giới:
Đây là những khu vực có nguy cơ lây nhiễm HIV rất cao, được nhà nước
đặc biệt quan tâm. Rất nhiều các Chương trình, Dự án phòng chống
HIV/AIDS dành cho các vùng này được xây dựng và đi vào hoạt động. Các
hoạt động truyền thông và giảm hại được tăng cường thực hiện ở các xã, huyện
.Các hoạt động phòng chống HIV bao gồm chương trình trao đổi bơm kim

tiêm, chương trình cung cấp bao cao su, các dịch vụ dựa trên cộng đồng và
19


tư vấn. Lựa chọn giải pháp và hoạt động phòng chống HIV/AIDS của dự án
dựa trên nhu cầu thực tế tại từng địa phương.
Ngoài các hoạt động làm giảm nguy cơ lây nhiễm ra cộng đồng, mục
đích của Dự án cũng nhằm giảm sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người
nhiễm HIV/AIDS.
+ Chương trình trao đổi bơm kim tiêm
Một trong những ưu tiên hỗ trợ của Dự án là vùng sâu vùng xa của Việt
Nam, khu vực biên giới Việt – Trung, mạng lưới đồng đẳng viên nhóm NCMT
tiến hành trao đổi bơm kim tiêm.
Tại huyện Bắc Sơn vùng biên giới giáp Trung Quốc, các đồng đẳng
viên cung cấp bơm kim tiêm sạch cho những người nghiện chích ma tuý
ngay tại nhà của họ.
Tuy nhiên, hiệu quả của các hoạt động phòng chống này mới chỉ đạt
được ở mức độ nhất định. Trên thực tế, tình hình lây nhiễm HIV ở khu vực
này vẫn gia tăng và chưa được khống chế, kiểm soát triệt để.
* Đối với xã,huyện dân tộc thiểu số:
Kết hợp với các kế hoạch hoạt động phòng chống HIV trên toàn quốc,
Nhà nước cũng quan tâm mở rộng các hoạt động này tới các cùng sâu, vùng
xa và vùng dân tộc thiểu số, vận động người dân tham gia phòng tránh lây
nhiễm HIV.
Hoạt động truyền thông giáo dục được đẩy mạnh. Mỗi xã, huyện vùng
sâu đều thành lập một Ban phòng chống HIV. Nhiệm vụ và hoạt động chủ
yếu của các Ban này là tuyên truyền, giáo dục cho người dân, nâng cao nhận
thức của người dân về tác hại của HIV, cách phòng tránh. Đối với công tác
tuyên truyền, một lĩnh vực hoạt động có hiệu quả nữa là kết hợp cài xen các
nội dung tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS vào các Chương trình Phát

thanh tiêng dân tộc ở các vùng. Đây là một hoạt động có ý nghĩa rất thực
tiễn, người dân dễ tiếp cận bằng tiếng mẹ đẻ.Trên lĩnh vực xét nghiệm HIV,
Chương trình xét nghiệm miễn phí HIV,
20


Nhà nước đã mở rộng đến các tuyến, trạm y tế huyện, xã. Tuy nhiên, chưa
thực hiện được hoạt động xét nghiệm do điều kiện khó khăn về đi lại và đặc
điểm tâm lý lối sống của người dân cản trở.
Về chăm sóc sức khoẻ và sử dụng thuốc ARV, hầu như người dân ở các
xã,huyện dân tộc thiểu số của tỉnh chưa được tiếp cận với kiến thức chăm sóc
bệnh nhân có HIV/AIDS, cũng không đủ các điều kiện để sử dụng thuốc ARV.
Thực trạng về phòng chống HIV/AIDS ở huyện Quỳnh Nhai (Sơn La) đã
thể hiện rõ những hạn chế về phòng chống HIV ở vùng dân tộc thiểu số:
Tình trạng lây nhiễm virus HIV ở huyện Quỳnh Nhai đã đến mức báo
động nhưng người dân nơi đây chưa có ý thức trong việc phòng chống căn
bệnh thế kỷ. HIV/AIDS với họ như một căn bệnh xa xỉ, chỉ có ở các đô thị
dưới xuôi. Thực tế, tai họa AIDS đang len lỏi vào từng bản làng, từng gia
đình.
Trong khi đó, các cơ quan chức năng lại không nắm được chính xác đã có
bao nhiêu gia đình ở đây có người nhiễm HIV/AIDS. Từ trước tới nay, chưa
có đợt thử máu chính thức nào cho các đối tượng nghiện, đối tượng nghi
nhiễm virus HIV. Chị La Thị Yêu - Phó Giám đốc Trung tâm Y tế Bình Gia cho
hay: “Hiện tại Bình Gia có ít nhất 25 người nhiễm virus HIV/AIDS. Mẫu máu
của những đối tượng này đã được kiểm tra nhiều lần và biết chắc chắn họ đã bị
nhiễm virus HIV, song các cán bộ lại chỉ được nói nhỏ với nhau là "nghi nhiễm"
mà thôi”.Như vậy, công tác phòng chống HIV/AIDS ở các vùng biên giới và
vùng dân tộc thiểu số của tỉnh Lạng Sơn vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Để khắc
phục được thực trạng này, rất cần đến sự quan tâm của Nhà nước, các cơ quan,
tổ chức phòng chống HIV. Đặc biệt cần được thay đổi nhận thức đối với HIV,

được trang bị về các biện pháp phòng tránh lây nhiễm HIV. Muốn làm được
điều này, cần phải đẩy mạnh công tác phòng chống HIV kết hợp với phát triển
cộng đồng. Trong đó, Nhân viên CTXH là một lực lượng trợ giúp đắc lực
trong hoạt động này.

21


C. CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG NHẰM NÂNG CAO NHẬN
THỨC CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG PHÒNG TRÁNH HIV/AIDS
1. Những khó khăn của vùng biên giới, vùng dân tộc thiểu số trong
phòng chống HIV/AIDS.
Để lựa chọn các biện pháp và thực hiện công tác phòng chống lây nhiễm
HIV ở các vùng biên giới, vùng dân tộc thiểu số đạt hiệu quả, cần đánh giá
và nhận thấy được những khó khăn của vùng miền này trong hoạt động
phòng chống HIV. Những khó khăn cơ bản là:
+ Về nhận thức: Trình độ nhận thức và tiếp cận với các thông tin về
bệnh, cách phòng tránh lây nhiễm, cách chăm sóc người có HIV của người
dân rất hạn chế. Thậm chí, người dân (đặc biệt là người dân tộc) còn có nhận
thức rất sai lệch, cho rằng bệnh đó chỉ có ở những vùng dưới xuôi, mình
không thể lây nhiễm. Cũng có nhiều khi người dân cho rằng các bệnh như:
giang mai, lậu, phong đã là bệnh HIV/AIDS và xa lánh những người mắc
các bệnh này trong khi không biết những biểu hiện của HIV/AIDS là như
thế nào. Đây là những hạn chế lớn nhất của người dân nơi đây tạo nên cản
trở lớn cho công tác tuyên truyền giáo dục kiến thức về phòng chống HIV.
+ Về tâm lý: Người dân ở các vùng này, đặc biệt là người dân tộc vẫn có
tâm lý mặc cảm, phó mặc hay ghê sợ khi nói đến bệnh. Do đó, rất khó cho
công tác tuyên truyền như lời của
+ Về nguy cơ lây nhiễm: Đây là những vùng có nguy cơ lây nhiễm
HIV/AIDS rất cao.

+ Khả năng chống bệnh và thái độ sống: Xuất phát từ trình độ nhận
thức và tâm lý hạn chế nên khả năng chống lại HIV là một điều khó đối với
các vùng dân tộc, vùng biên giới.
2.Nhưng kết quả đạt được sau nhiều năm cố gắng;
* Chị Lò Thị Mọng Như, Phó Giám đốc Trung tâm Y Tỉnh cho biết, trong 8
tháng năm 2016, thành phố phát hiện 12 trường hợp nhiễm HIV mới. Nhằm
22


giảm thiểu số người lây nhiễm HIV, thời gian qua, Trung tâm đã cùng với các
ngành, đoàn thể đẩy mạnh thực hiện nhiều giải pháp, trong đó tập trung chủ yếu
vào công tác truyền thông thay đổi hành vi phòng, chống lây nhiễm
HIV/AIDS.Những hoạt động như tập huấn, cung cấp kiến thức, kỹ năng phòng
chống HIV, tăng cường tư vấn, xét nghiệm, điều trị người nhiễm HIV... được chú
trọng đúng mức. Bên cạnh đó, trung tâm cũng triển khai hình thức điều trị
nghiện bằng Methadone, tổ chức tư vấn xét nghiệm HIV/AIDS tự nguyện, triển
khai chương trình phân phát bao cao su, bơm kim tiêm tại các xã, phường và
nhiều hoạt động khác. Qua đó, ý thức của người dân trong phòng bệnh và sống
chung với bệnh được nâng lên rõ rệt.. Anh L, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn là
một người nghiện ma túy. Trước đây, do thiếu hiểu biết nên anh có sử dụng bơm
kim tiêm chung với bạn bè. Khi được tuyên truyền về việc sử dụng chung bơm
kim tiêm có thể dẫn đến lây nhiễm HIV, anh đã đi khám và may mắn là chưa bị
nhiễm HIV nên anh đã đăng ký tham gia điều trị nghiện bằng Methadone để
mong sớm được hòa nhập cộng đồng.Một bệnh nhân HIV ở Mường Chiềng
được cán bộ Trung tâm Y tế thành phố tư vấn rất cụ thể. Vì vậy, anh chủ động
phòng tránh lây nhiễm cho vợ. Được chăm sóc, điều trị kịp thời nên anh vẫn giữ
được sức khỏe tốt. Hiện nay, vợ chồng anh đều nhiệt tình tham gia các hoạt động
phòng chống HIV ở địa phương.
*Trong hoạt động chuyên môn, các cơ sở y tế đã triển khai đồng bộ các
biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại nhằm khống chế lây nhiễm HIV/AIDS từ

nhóm nguy cơ cao ra cộng đồng. Các bà mẹ mang thai nhiễm HIV/AIDS được
chăm sóc điều trị thích hợp; trẻ em bị nhiễm hoặc bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS
được điều trị, chăm sóc, tư vấn hợp lý; bệnh nhân AIDS được tư vấn, điều trị
bằng các thuốc đặc hiệu. Công tác giám sát, phát hiện HIV được duy trì. Từ cuối
năm 2014 Chương trình điều trị Methadone tại thành phố cũng thu được nhiều
kết quả tốt. Hiện nay, thành phố có 182 bệnh nhân đang điều trị nghiện bằng
thuốc Methadone; 100% bệnh nhân được điều trị có đánh giá mang lại hiệu quả
tốt. Đa số bệnh nhân tuân thủ điều trị, ổn định tinh thần, sức khỏe được nâng
23


lên, giảm sử dụng ma túy, an ninh, tình hình trật tự xã hội được cải thiện...Nhờ
đẩy mạnh đa dạng hóa các hoạt động tuyên truyền và các hoạt động chuyên môn
nên tình trạng lây nhiễm HIV trên địa bàn thành phố đã được ngăn ngừa hiệu
quả. Nhận thức của cộng đồng về HIV/AIDS được nâng cao, giảm bớt sự kỳ thị
của xã hội đối với người bệnh HIV/AIDS. Đây là nỗ lực lớn của thành phố trong
hoạt động can thiệp dự phòng lây nhiễm để giảm thiểu tác động của HIV/AIDS
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, ổn định đời sống cho người dân.
3.Kết Luận và đề xuất, kiện nghị:
Việc điều trị methadone chủ yếu xuất phát từ nhu cầu của bệnh nhân,số
lượng bệnh nhâ có nhu cầu điều trị methadone trên địa bàn thành phố đến nay
vẫn còn ở mức thấp do đó, các cơ sở điều trị tại thành phố khó chủ động, khó
đảm bảo chỉ tiêu điều trị đã được thủ tướg chính phủ giao.
Trong giai đoạn 2016 - 2020 tỉnh phấn đấu đạt mục tiêu phấn đấu đạt 85%
người nhiễm HIV biết tình trạng bệnh, 90% bệnh nhân bị nhiễm HIV/AIDS
được duy trì điều trị ARV và 90% bệnh nhân dùng ARV kiểm soát được tải trọng
vi rút ở mức thấp ( dưới 10000 bản sao/ml)
Để hoàn thành chỉ tiêu kéo giảm tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS trong giai
đoạn 2016 - 2020, UBND tỉnh Lạng Sơn kiến nghị bộ y tế và các cơ quan trung
ương tiếp tục hỗ trợ các chính sách, chiến lược phù hợp.Cụ thể về tư vấn xét

nghiệm HIV, cần có chính sách xem xét việc xét nghiệm HIV như xét nghiệm
thường quy để đẩy mạnh việc xét nghiệm HIV ở các bệnh viện; tạo điều kiện để
đẩy mạnh xét nghiệm
.Đối với công tác chăm sóc điều trị, cần có chủ trương đảm bảo nguồn
thuốc ARV để người dân có thể tiếp cận sau khi có kết quả HIV dương tính( thị
trường thuốc cho người tự mua, chủng loại thuốc....) đẩy nhanh việc hỗ trợ điều
trị ARV qua bảo hiểm y tế để các bệnh viện có thể thực hiện điều trị.
Bên cạnh đó cần tiếp tục có chính sách hỗ trợ nhằm khuyến khích, huy
động sức tham gia của tổ chức, doanh nghiệp cá nhân, trong nước và nước
ngoài, vào hoạt động phòng trống HIV/AIDS ban hành các quy định, hướng dẫn
24


×