Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại tại việt nam (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.13 KB, 22 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THANH TÚ

ĐỀ TÀI

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU
TƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2019


MỞ ĐẦU
1.

Lí do lựa chọn đề tài

Về mặt thực tiễn, trong bối cảnh tồn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ
của kinh tế, đa dạng hóa và mở rộng dịch vụ là xu hướng tất yếu tại các ngân
hàng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Tại Việt Nam hiện nay, các ngân hàng
thương mại không chỉ dừng lại ở việc đẩy mạnh các dịch vụ truyền thống mà
ngày càng phát triển nhiều loại hình hoạt động, trong đó nhiều ngân hàng phát
triển thành mơ hình có tính chất hỗn hợp. Các hoạt động đầu tư của ngân hàng
thương mại như góp vốn, mua cổ phần, đầu tư chứng khốn theo đó được đẩy
mạnh, trở thành hoạt động có vị trí ngày càng quan trọng bởi lợi ích kinh tế và ý


nghĩa phân tán rủi ro nhất định đối với các ngân hàng. Tuy nhiên, xuất phát từ
đặc thù của hoạt động ngân hàng nói chung và rủi ro tiềm ẩn liên quan đến vấn
đề xung đột lợi ích hàm chứa trong các hoạt động đầu tư, yêu cầu cần kiểm sốt
chặt chẽ nhóm hoạt động này đối với ngân hàng thương mại là rất cần thiết. Sự
kiểm soát này hướng đến mục tiêu không gây ảnh hưởng hoặc hạn chế thấp nhất
ảnh hưởng đến hoạt động và chức năng trung gian tiền tệ của ngân hàng thương
mại cũng như cả hệ thống, bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.
Thực tế giai đoạn vừa qua cho thấy, những bất ổn của thị trường tài chính
tồn cầu đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động của hệ thống ngân hàng tại Việt
Nam, làm bộc lộ những yếu kém nội tại. Yêu cầu tăng cường sự can thiệp và quản
lí của Nhà nước đối với hệ thống ngân hàng do đó càng được đặt ra cấp thiết.
Về mặt pháp luật, việc ban hành mới và sửa đổi Luật các Tổ chức tín dụng
(năm 1997, 2004 và 2010, 2017), cùng nhiều văn bản hướng dẫn thi hành đã thiết
lập một cơ sở pháp lí đầy đủ, chi tiết hơn trong điều chỉnh hoạt động ngân hàng
và đảm bảo an toàn hệ thống. Tuy nhiên, một số bất cập, hạn chế, chưa thống
nhất vẫn còn tồn tại trong quy định pháp luật, hay ở khía cạnh khác, quy định
chưa tạo lập được sự kiểm soát cần thiết và hiệu quả đối với hoạt động đầu tư
của ngân hàng thương mại. Những hạn chế này gây ra những hệ quả và rủi ro


nhất định trên thực tế thị trường và đặt ra yêu cầu cần thiết phải hoàn thiện nhằm
đảm bảo an tồn hệ thống ngân hàng và nền tài chính.
Về mặt nghiên cứu, mặc dù là một nội dung quan trọng trong cơ cấu hoạt
động của ngân hàng và thị trường tài chính, nhưng hiện nay nội dung pháp luật
điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại chưa thực sự được quan
tâm nghiên cứu. Các cơng trình đã được cơng bố thường tập trung vào nhóm hoạt
động truyền thống như huy động, cấp tín dụng hoặc dịch vụ thanh toán của ngân
hàng thương mại. Pháp luật về hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại chỉ
được đề cập ở từng nội dung hoạt động và chủ yếu trên giác độ kinh tế, những
phân tích chuyên sâu hoặc chuyên ngành, đặc biệt về pháp luật rất hạn chế (Điểm

qua nội dung các cơng trình này được mơ tả chi tiết tại mục 2 Phần thứ nhất của
Luận án).
Từ những lí do trên, việc nghiên cứu thấu đáo những vấn đề lí luận và thực
tiễn đối với pháp luật về hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại, từ đó xây
dựng và hồn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động này
là cấp thiết và có tính thời sự. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Hoàn
thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của Ngân hàng thương tại Việt
Nam” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ luật học của mình.
2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận án là xây dựng cơ sở lí luận về hoạt động
đầu tư và pháp luật đối với hoạt động đầu tư của NHTM, đánh giá thực trạng các
quy định pháp luật hiện hành, từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật đối với
hoạt động đầu tư của NHTM. Nghiên cứu, đánh giá của luận án nhằm đến mục
tiêu quản lí hiệu quả, đồng thời có tính định hướng đối với hoạt động đầu tư của
các NHTM hiện nay trước yêu cầu hội nhập của nền kinh tế.
Với mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án được xác
định là:
Thứ nhất, tác giả tập trung nghiên cứu và đưa ra khái niệm về hoạt động
đầu tư của NHTM, chỉ ra đặc điểm đặc thù hoạt động đầu tư của NHTM với các
hoạt động ngân hàng truyền thống và các hoạt động đầu tư khác cũng như ý nghĩa
hoạt động đầu tư đối với mơ hình NHTM.
Thứ hai, nghiên cứu và xây dựng khái niệm và xác định cấu trúc pháp luật
điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM từ đó xác định các yếu tố ảnh hưởng đến


pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của các NHTM.
Thứ ba, nghiên cứu lí luận và thực tiễn một số nội dung pháp luật điều

chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM tại Việt Nam gồm quy định về phương thức
thực hiện hoạt động đầu tư, quy định về các biện pháp bảo đảm an toàn khi
NHTM thực hiện các hoạt động đầu tư và quy định về quản lí nhà nước đối với
hoạt động đầu tư của NHTM.
Thứ tư, từ những đánh giá nội dung pháp luật thực tiễn đặt, luận án đưa ra
giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM tại Việt
Nam, và tăng cường hiệu quả. Giải pháp vừa có tính tổng thể vừa chi tiết để đảm
bảo tính khả thi.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án được xác định như sau:
-

Các quan điểm khoa học, học thuyết pháp lí của các tác giả cá nhân

và tổ chức đã công bố trong các công trình trong nước và nước ngồi.
-

Hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của

NHTM bao gồm: Luật các Tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành,
Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thương mại và các quy định quốc tế như
cam kết gia nhập WTO, Hiệp ước Basel.
-

Thực tiễn hoạt động đầu tư của một số NHTM tại Việt Nam và thị

trường thơng qua tổng hợp, phân tích số liệu báo cáo tài chính, báo cáo ngành,…
Về phạm vi nghiên cứu: Nội hàm hoạt động đầu tư của NHTM có phạm
vi rộng và hẹp theo quan điểm tiếp cận. Tuy nhiên, trong khuôn khổ hạn định
của luận án, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt

động đầu tư của NHTM từ khi ban hành Luật các TCTD số 47/2010/QH12 năm
2010 đến nay. Bên cạnh đó, tác giả xác định phạm vi nghiên cứu chỉ bao gồm
các hoạt động góp vốn, mua cổ phần, hoạt động kinh doanh chứng khoán và hoạt
động uỷ thác đầu tư. Luận án khơng nghiên cứu các hoạt động tín dụng đầu tư,
đầu tư vào tài sản cố định, và một số hoạt động đầu tư khác như kinh doanh ngoại
hối, kinh doanh vàng, đây được xác định là nội dung đã được nghiên cứu tại nhiều
cơng trình.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy


vật biện chứng và duy vật lịch sử; các quan điểm, chủ trương chính sách của
Đảng và nhà nước về hoạt động tài chính ngân hàng. Để giải quyết hiệu quả đề
tài, các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, phỏng đoán khoa học sẽ được
tác giả vận dụng một cách linh hoạt nhằm đặt được mục đích nghiên cứu từng
nội dung.
Tại phần I, phương pháp tổng hợp được sử dụng chủ yếu nhằm tạo lập
nguồn tài liệu đầy đủ cho nghiên cứu và hoàn thiện Luận án. Bên cạnh đó,
phương pháp phỏng đốn được kết hợp nhằm đưa ra kết luận và đánh giá về tình
hình nghiên cứu của đề tài.
Tại phần II, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng phù hợp với mục
tiêu nghiên cứu của từng phần:
Chương I, xác định nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về hoạt động đầu tư
của NHTM và pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM, tác giả sử dụng
chủ yếu phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh
pháp luật, đồng thời có vận dụng phỏng đốn khoa học. Các phương pháp trên
giúp cho việc xem xét hoạt động đầu tư của các NHTM, pháp luật điều chỉnh
hoạt động đầu tư của NHTM một cách đầy đủ, từ đó đánh giá khách quan, toàn
diện và xác định rõ ràng phạm vi vấn đề nghiên cứu cũng như đánh giá bước đầu
về yêu cầu, tiêu chí và mức độ điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động đầu tư

của NHTM.
Chương II, với mục tiêu nghiên cứu về trực trạng pháp luật điều chỉnh
hoạt động đầu tư của NHTM tại Việt Nam, các phương pháp phân tích, phương
pháp so sánh và phỏng đốn khoa học sẽ được tác giả tiếp tục sử dụng là phương
pháp nghiên cứu chủ đạo. Xác định các phương pháp nghiên cứu trên xuất phát
từ việc xác định rõ nội dung, mục tiêu và đặc thù nội dung cũng như đối tượng
nghiên cứu. Pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM được xem xét như một bộ
phận của pháp luật ngân hàng, trong đó mục tiêu điều chỉnh hướng đến hạn chế
rủi ro, đảm bảo an toàn hệ thống song vẫn tạo được môi trường để NHTM thực
hiện quyền tự do kinh doanh. Từ việc nhận diện đặc trưng trên, trong triển khai
nghiên cứu, áp dụng tư duy logic khoa học thơng qua việc phân tích, đánh giá
các quy định pháp luật hiện hành, đồng thời so sánh pháp luật một số quốc gia
trên thế giới để phán đốn các xu hướng, hệ quả có thể xảy ra sẽ có hiệu quả cao,
từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện quy định của pháp
luật.
Chương III, trên cơ sở các luận giải tại chương II và vấn đề lí luận tại
chương I, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đặc biệt vận dụng
phỏng đoán khoa học nhằm đưa ra các luận điểm, luận cứ và các giải pháp có


tính thực tiễn.
5.

Đóng góp mới của Luận án

- Là luận án tiến sĩ luật học nghiên cứu hệ thống và chuyên sâu các vấn đề
lí luận và thực tiễn về pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM tại Việt
Nam.
- Nghiên cứu pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM một số
nước trên thế giới, làm cơ sở vận dụng chọn lọc để đề xuất hoàn thiện bộ phận

pháp luật này tại Việt Nam.
- Đánh giá khách quan các quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt
động đầu tư của NHTM trong bối cảnh các yêu cầu đặt ra của tình hình mới.
Trên cơ sở đó, Luận án chỉ ra những bất cập cịn tồn tại, khẳng định tính tất yếu
khách quan của việc hồn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của
NHTM.
- Nghiên cứu, đề xuất các kiến nghị, giải pháp phù hợp và khả thi, khơng
chỉ trên phương diện hồn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của
NHTM mà còn nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng, phù hợp với đòi hỏi của thực
tiễn trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
6.

Ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn của đề tài nghiên cứu

Thứ nhất: hệ thống hóa vào làm rõ các vấn đề lí luận về hoạt động đầu tư của
NHTM và pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM làm cơ sở xác định yêu
cầu trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật điều chỉnh.
Thứ hai: đánh giá tương đối toàn diện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của
NHTM tại Việt Nam trong bối cảnh tình hình mới, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn thị
trường, khảo sát số liệu và trong sự so sánh với pháp luật một số quốc gia trên thế giới.
Trên có sở đó, Luận án chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong nội dung pháp luật, khẳng
định yêu cầu tất yếu của việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của
NHTM.
Thứ ba: kiến nghị sửa đổi quy định pháp luật, giải pháp phù hợp và khả thi,
khơng chỉ trên phương diện hồn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM mà
còn nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế.
Bên cạnh ý nghĩa khoa học, kết quả nghiên cứu có tính ứng dụng thực tiễn lớn,
thể hiện: (i) đóng góp căn cứ cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt



động ngân hàng nói chung và đặc biệt pháp luật về hoạt động đầu tư của các NHTM;
(ii) đóng góp vào hệ thống pháp lí để các cơ quan quản lí nhà nước quản lí và giám sát
hoạt động đầu tư của NHTM hiệu quả, đảm bảo hoạt động đầu tư của các NHTM lành
mạnh, từ đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của khách hàng.

7.

Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, Luận án triển khai theo kết cấu gồm hai phần như sau:
Phần I: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Phần II: Nội dung luận án. Phần thứ hai gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại và
vấn đề hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương
mại
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân
hàng thương mại tại Việt Nam
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt
động đầu tư của ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
PHẦN I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Đề tài “Hồn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng
thương mại tại Việt Nam” là đề tài nghiên cứu có tính mới, chưa có cơng trình
chun sâu nào nghiên cứu giải quyết nội dung này. Trong một số cơng trình,
từng khía cạnh nội dung liên quan đến hoạt động đầu tư của NHTM và pháp luật
điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM được đề cập song thiếu tính tồn diện.
Một số sách chuyên khảo, luận án và bài báo nghiên cứu đã đưa ra đánh
giá về nội dung liên quan đến hoạt động đầu tư và pháp luật điều chỉnh hoạt động
đầu tư của NHTM như: xác định nội hàm và tầm quan trọng của hoạt động đầu

tư do NHTM thực hiện, tính chất rủi ro đặt ra vấn đề cần thiết quản lí và điều
chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động này. Tiếp đó, một số bất cập trong pháp
luật điều chỉnh hoạt động đầu tư cũng được chỉ ra như vấn đề hạn chế trong quản
lí nguồn vốn, trong quản lí, tách bạch mối quan hệ và giao dịch giữa NHTM và
công ti trực thuộc, thiếu cơ chế trong quản lí hoạt động uỷ thác đầu tư, hạn chế


trong công thết lập cơ chế giám sát của cơ quan quản lí đến NHTM khi thực hiện
hoạt động đầu tư,...
Nhìn chung, nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM
đã được nghiên cứu ở mức độ nhất định, tuy nhiên khơng có tính tồn diện và
thực sự chuyên sâu. Do đó, kế thừa, tiếp tục nghiên cứu nội dung về hoạt động
đầu tư của NHTM và pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM đảm bảo
tính mới và có ý nghĩa hết sức quan trong trong hồn thiện nội dung pháp luật
này, góp phần đảm bảo an toàn thị trường tiền tệ và thị trường tài chính tại Việt
Nam.
PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU
CHỈNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại
1.1.1 Quan niệm về hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại
Đầu tư là khái niệm có nội hàm rộng. Đối với hoạt động đầu tư của NHTM
cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp tuỳ theo
mục đích nghiên cứu. Trong phạm vi luận án, “hoạt động đầu tư của NHTM được
hiểu là việc NHTM trực tiếp bỏ vốn, tài sản nhằm góp vốn thành lập doanh nghiệp,
mua bán các công cụ đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán khác
hoặc uỷ thác cho bên thứ ba thực hiện các hoạt động đầu tư nhằm tìm kiếm lợi nhuận”.

Dưới cách tiếp cận này, luận án cũng xác định giới hạn nghiên cứu về pháp

luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM bao gồm nội dung pháp luật điều về
các nhóm hoạt động cụ thể, gồm hoạt động góp vốn, mua cổ phần; hoạt động đầu
tư chứng khoán và hoạt động uỷ thác đầu tư. Các nhóm hoạt động đầu tư này của
NHTM cũng là vấn đề được quan tâm trong nghiên cứu pháp luật và thực tiễn
tại nhiều quốc gia trên thế giới và cũng là vấn đề còn tồn tại nhiều bấp cập tại
Việt Nam..


1.1.2. Đặc điểm hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại
Hoạt động đầu tư của NHTM có đặc trưng nhất định, cụ thể (i) tính chất
rủi ro; (ii) khơng phải là hoạt động ngân hàng cơ bản song có vai trò ngày càng
quan trọng trong cơ cấu hoạt động của NHTM; (iii) nguồn vốn thực hiện hoạt
động đầu tư của NHTM có tính đặc thù và thường phải đảm bảo giới hạn nhất
định; (iv) thường phải tuân thủ các giới hạn và biện pháp bảo đảm an toàn trong
quá trình thực hiện; (v) chịu sự quản lí chặt chẽ từ phía Nhà nước.
Việc xác định và nắm rõ các đặc trưng của hoạt động đầu tư do NHTM
thực hiện có ý nghĩa lớn trong đánh giá đầy đủ, tồn diện và khách quan pháp
luật điều chỉnh hoạt động này, từ đó đưa ra giải pháp hồn thiện pháp luật phù
hợp và có tính thực tiễn.
1.1.3. Phân loại hoạt động đầu tư của NHTM
Hoạt động đầu tư của NHTM dựa trên các tiêu chí khác nhau có thể phân
thành nhiều nhóm hoạt động:
Căn cứ thời hạn hoạt động, gồm hoạt động đầu tư trung và dài hạn (thành
lập công ti trực thuộc, góp vốn, mua cổ phần khác); hoạt động đầu tư ngắn hạn
(đầu tư có thời hạn dưới 01 năm); hoạt động đầu tư không xác định thời hạn.
Căn cứ theo phương thức thực hiện hoạt động đầu tư, hoạt động đầu tư
của NHTM bao gồm hoạt động góp vốn, mua cổ phần; hoạt động đầu tư chứng
khốn (khơng bao gồm chứng khốn vốn được xem xét trong góp vốn, mua cổ
phần); hoạt động uỷ thác đầu tư.
1.1.4 Vai trò hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại

- Thực hiện hoạt động đầu tư giúp NHTM có thể da dạng hố danh mục
đầu tư, góp phần tạo lập và ổn định thu nhập
- Thực hiện hoạt động đầu tư góp phần cân bằng rủi ro tín dụng của NHTM
- Hoạt động đầu tư góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động ngân hàng


1.2. Quan niệm và cấu trúc pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của
ngân hàng thương mại
1.2.1. Quan niệm về pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng
thương mại
Pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM là hệ thống các quy tắc
xử sự, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình NHTM thực hiện, sử dụng nguồn vốn, tài sản thực hiện các
hoạt động đầu tư bao gồm hoạt động góp vốn, mua cổ phần, hoạt động đầu tư
chứng khoán và hoạt động uỷ thác đầu tư.
1.2.2. Cấu trúc pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng
thương mại
Việc xác định cấu trúc pháp luật có thể dựa trên cơ sở từ các quan hệ xã
hội cơ bản phát sinh trong quá trình chủ thể thực hiện hoạt động mà pháp luật đó
điều chỉnh, đồng thời xuất phát từ đặc trưng và yêu cầu đặc thù đối với nội dung
pháp luật đó.
Trong q trình NHTM thực hiện hoạt động đầu tư sẽ phát sinh các nhóm
quan hệ xã hội giữa ba bên: NHTM (với vai trò là nhà đầu tư); chủ thể tiếp nhận
nguồn vốn đầu tư và chủ thể quản lí. Sự điều chỉnh các nhóm quan hệ này, phải
đặt trong yêu cầu đặc thù của hoạt động đầu tư do NHTM thực hiện, đó là đảm
bảo sự quản lí, giám sát của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư theo đúng định
hướng, trong phạm vi được xác lập hướng đến an toàn hệ thống, giảm thiểu rủi
ro hoạt động đối với NHTM, đồng thời đảm bảo quyền tự do kinh doanh và phát
huy được tính chủ động của NHTM.
Từ việc xem xét nội dung nhóm quan hệ và yêu cầu điều chỉnh đặc thù

của pháp luật đối với hoạt động đầu tư của NHTM, cấu trúc pháp luật điều chỉnh
hoạt động đầu tư của NHTM được xác định gồm :
(i)

Nhóm quy định pháp luật về phương thức thực hiện hoạt động đầu tư của
NHTM

(ii)

Nhóm quy định pháp luật về điều kiện và trình tự thực hiện hoạt động đầu
tư của NHTM


(iii)

Nhóm quy định pháp luật về các biện pháp nhằm đảm bảo an toàn trong
hoạt động đầu tư của NHTM

(iv)

Quy định pháp luật về quản lí nhà nước đối với hoạt động đầu tư của
NHTM
1.3. Khái quát về hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư

của ngân hàng thương mại
1.3.1. Quan niệm về hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của
ngân hàng thương mại
Hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM là việc sửa đổi, bổ
sung các quy định của pháp luật ngân hàng và lĩnh vực liên quan, điều chỉnh
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình NHTM thực hiện hoạt động đầu tư nhằm

đảm an toàn hệ thống tài chính, nền kinh tế cũng như quyền tự do kinh doanh
của ngân hàng.
1.3.2. Nguyên tắc cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt
động đầu tư của ngân hàng thương mại
Trong lĩnh vực ngân hàng, sự an toàn của hệ thống được coi là mục tiêu
rất quan trọng trong điều hành và quản lí, bởi vậy, trong hồn thiện pháp luật
điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM phải đảm bảo đồng thời và cân đối hai
nguyên tắc cơ bản: (i) nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh; (ii) nguyên
tắc bảo đảm an toàn hệ thống.
1.3.3. Tiêu chí hồn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân
hàng thương mại
- Nội dung pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM phải phù hợp với
quan điểm, đường lối, chính sách phát triển nền kinh tế của quốc gia và trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của chính quốc gia đó.
- Nội dung pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM phải dựa trên các
đặc thù của hoạt động đầu tư do NHTM thực hiện.
- Nội dung pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM phải đảm bảo tính
hợp lí, khả thi, tính tồn diện và tính thống nhất.


CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG
ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng pháp luật về phương thức thực hiện hoạt động đầu tư của
ngân hàng thương mại
2.1.1. Về hoạt động góp vốn, mua cổ phần của ngân hàng thương mại
Pháp luật ngân hàng Việt Nam đã tạo lập cơ sở pháp lí rõ ràng và ngày
càng cụ thể về hình thức và lĩnh vực thực hiện hoạt động góp vốn, mua cổ phần
của NHTM, tạo điều kiện để các NHTM thực hiện hoạt động này trên thực tế.
Tuy nhiên, quy định trong hoạt động góp vốn, mua cổ phần của NHTM vẫn cịn
tồn tại một số hạn chế cần hồn thiện.

Thứ nhất, pháp luật hiện hành chưa tạo lập được cơ chế quản lí thống nhất,
tồn diện đối với các ngân hàng mẹ và các công ti liên quan.
Thứ hai, pháp luật tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng quyền thực hiện
hoạt động góp vốn, mua cổ phần vào “lĩnh vực khác” song chưa tạo lập được cơ
chế quản lí chặt chẽ đầy đủ.
2.1.2. Về hoạt động đầu tư chứng khốn của ngân hàng thương mại
Qua nghiên cứu mơ hình ngân hàng trên thế giới và đánh giá tình hình thị
trường Việt Nam cho thấy, trong quản lí hoạt động đầu tư chứng khốn của
NHTM, việc lựa chọn mơ hình ngân hàng đa năng một phần trong phát triển và
quản lí hệ thống ngân hàng là hồn tồn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội,
thực trạng và mục tiêu phát triển thị trường tài chính – tiền tệ ở Việt Nam trong
giai đoạn trước đây và hiện nay.
Mặc dù vậy, một số hạn chế trong quy định liên quan đến việc thực hiện
hoạt động đầu tư chứng khốn của NHTM vẫn cịn tồn tại:
Thứ nhất, quy định về các loại chứng khoán NHTM được thực hiện đầu
tư chưa rõ ràng. Luật các TCTD năm 2010 sửa đổi bổ sung năm 2017 chỉ đề cập
đến quyền thực hiện mua cổ phần và việc tham gia thị trường tiền tệ của NHTM
trong đó liệt kê một số loại chứng khoán. NHNN cũng đã ban hành một số văn
bản hướng dẫn, cụ thể hoá nội dung này song vẫn chưa thống nhất và chi tiết.


Thứ hai, quy định về hạch toán kế toán chứng khoán của NHTM thiếu cụ thể
và chuẩn mực kế toán chưa theo kịp chuẩn mực quốc tế.

2.1.3. Về hoạt động uỷ thác đầu tư của ngân hàng thương mại
Nhìn chung, hiện nay pháp luật đã tạo lập được cơ sở pháp lý cơ bản cho
NHTM thực hiện hoạt động uỷ thác đầu tư. Tuy nhiên, so sánh với các quốc gia
khác, các quy định về uỷ thác đầu tư tại Việt Nam còn hạn chế, chủ yếu mới điều
chỉnh một số nội dung cơ bản liên quan đến thực hiện giao dịch, hình thức giao
dịch, chủ thể thực hiện.

2.2. Thực trạng pháp luật về điều kiện và trình tự thực hiện hoạt động
đầu tư của ngân hàng thương mại
2.2.1 Điều kiện và trình tự thực hiện góp vốn, mua cổ phần của ngân hàng
thương mại
Quy định về điều kiện thực hiện hoạt động góp vốn, mua cổ phần với
những bổ sung gần đây đã thể hiện sự cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ, tạo điều kiện
TCTD thực hiện quyền kinh doanh, tạo động lực cho chính các NHTM đảm bảo
lành mạnh chế độ tài chính nếu muốn mở rộng phạm vi hoạt động, đồng thời tạo
cơ sở pháp lí cơ quan Nhà nước thực hiện chức năng quản lí. Bên cạnh đó, một
số hạn chế vẫn cịn tồn tại:
Thứ nhất, quy định về điều kiện chưa có sự xem xét đến quy mơ của ngân
hàng, cùng với đó các điều kiện tài chính chưa thực sự được đảm bảo trên thực
tế.
Thứ hai, trong thủ tục quản lí hoạt động góp vốn, mua cổ phần chưa có sự
phối hợp và thiếu thống nhất về mặt qui định giữa NHNN với cơ quan quản lí
chuyên ngành trong lĩnh vực khác.
2.2.2. Điều kiện và trình tự thực hiện hoạt động đầu tư chứng khoán của
ngân hàng thương mại
Pháp luật hiện hành đã đặt ra điều kiện đầu tư đối với một số chứng khốn
xét về tiêu chí an tồn thấp hơn trong nhóm chứng khốn được phép, đồng thời
pháp luật cũng có những điều chỉnh kịp thời về điều kiện và giới hạn trong hoạt
động đầu tư chứng khoán nhằm phù hợp với biến động của thị trường.


Điểm hạn chế trong quy định về điều kiện và trình tự thực hiện hoạt động
đầu tư chứng khốn của NHTM thể hiện như sau:
Thứ nhất, pháp luật hiện hành khơng có quy định hướng dẫn về điều kiện
nhằm đảm bảo hoạt động quản lí nội bộ, cơ chế đầu tư hiệu quả đối với đầu tư
chứng khoán của NHTM.
Thứ hai, trong điều kiện, trình tự thực hiện hoạt động đầu tư chứng khốn,

một số thủ tục cịn rườm rà, gây phiền tối, thiếu đồng bộ và khơng ổn định trong
các qui định pháp lí.
2.2.3 Điều kiện và trình tự thực hiện hoạt động uỷ thác đầu tư
Đối với hoạt động uỷ thác đầu tư, các điều kiện hiện nay được đặt ra ở
mức cơ bản, chủ yếu khuyến khích cơ chế tự quản lí và chịu trách nhiệm trong
hoạt động của NHTM. Tuy nhiên, trước những biến động của thị trường, các
điều kiện và trình tự hiện nay chưa đủ để đảm bảo hạn chế rủi ro tài chính và các
hệ quả có thể phát sinh từ việc các chủ thể liên quan lợi dụng hoạt động uỷ thác
thực hiện giao dịch về vốn thiếu kiểm soát.
2.3. Thực trạng pháp luật về đảm bảo an toàn cho hoạt động đầu tư
của ngân hàng thương mại
2.3.1 Pháp luật về giới hạn trong vốn đầu tư đối với hoạt động đầu tư của
NHTM
Pháp luật ngân hàng Việt Nam hiện nay đã đặt ra được quy định liên quan
đến vốn, sử dụng vốn tương đối tồn diện và có tính tương đồng với nhiều quốc
gia nhằm quản lí hoạt động đầu tư của NHTM. Các quy định về tỷ lệ góp vốn
mua cổ phần của NHTM trong các doanh nghiệp, giới hạn tổng mức góp vốn,
mua cổ phần,… đã góp phần quản lí nguồn vốn của TCTD. Tuy nhiên, cùng với
ưu điểm, nội dung này vẫn bộc lộ hạn chế như các điều kiện tài chính chưa được
đảm bảo tuyệt đối về độ chính xác làm giảm hiệu quả quản lí; quy định trong
kiểm sốt hoạt động giữa hệ thống các cơng ti trực thuộc ngân hàng và ngân hàng
chưa được thiết lập chặt chẽ.


2.3.2 Trường hợp không được thực hiện hoạt động đầu tư
Các trường hợp khơng được góp vốn, mua cổ phần hiện nay được pháp
luật quy định khá chi tiết, không chỉ ở bản thân các NHTM mà còn đối với các
cơng ti con, cơng ti liên kết của chính NHTM. Các giới hạn trong hoạt động đầu
tư đã giúp loại bỏ được hình thức sở hữu chồng chéo đặc biệt sở hữu chồng chéo
giản đơn. Tuy nhiên những quy định này chỉ quản lí được ở bề nổi, cịn thực tế

nhiều doanh nghiệp lách luật bằng cách đầu tư vòng vo nhiều cấp sau đó quay
trở lại NHTM, kết quả là khơng thể xóa bỏ được các dạng thức sở hữu chồng
chéo phức tạp.
2.3.3 Quy định khác nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động đầu tư của ngân
hàng thương mại
Pháp luật đã đặt ra một số giới hạn trong hoạt động đầu tư chứng khoán
trực tiếp và uỷ thác đầu tư của các NHTM nhằm đảm bảo an toàn hơn cho nguồn
vốn sửa dụng vào hoạt động đầu tư này, tuy nhiên, xét các quy định hiện hành,
mức giới hạn trong hoạt động đầu tư chứng khoán chưa thực sự đầy đủ, chưa có
quy định điều kiện, giới hạn đối với chứng chỉ quỹ hay “giấy tờ có giá khác”.
Đối với hoạt động uỷ thác đầu tư, pháp luật đã đặt ra một số giới hạn, tuy
nhiên, các quy định hiện nay chưa tạo được cơ sở pháp lí đầy đủ cho quản lí các
giao dịch liên quan, đặc biệt thiếu các biện pháp quản lí dịng vốn đầu tư và bảo
đảm an toàn vốn.
2.4 Thực trạng quy định về quản lí nhà nước đối với hoạt động đầu tư
của ngân hàng thương mại
2.4.1 Chủ thể quản lí hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại
Tương tự như pháp luật các quốc gia, Việt Nam có cơ quan chuyên trách
thực hiện quản lí hoạt động ngân hàng là Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, các
chủ thể khác như Bộ Tài chính, Sở Kế hoạch Đầu tư, cơ quan quản lí cạnh tranh
cũng tham gia vào cơng tác quản lí tuỳ theo phương thức đầu tư mà NHTM thực
hiện. Các chủ thể quản lí nhìn chung đã thực hiện tương đối tồn diện chức năng,
nhiệm vụ của mình. Vấn đề cần xem xét trong thời gian tới đó là nâng cao tính
tự chủ của NHNN, tăng cường phối kết hợp với các cơ quan chuyên ngành khác,


đồng thời hạn chế sử dụng các công cụ quản lí bằng mệnh lệnh hành chính trong
hoạt động quản lí.
2.4.2 Biện pháp quản lí nhà nước đối với hoạt động đầu tư của ngân hàng
thương mại

Việt Nam, tương tự nhiều quốc gia trên thế giới, áp dụng đa dạng các biện
pháp quản lí nhà nước đối với NHTM nói chung và hoạt động đầu tư do NHTM
thực hiện nhằm đạt mục tiêu điều tiết. Các biện pháp này bao gồm: (i) chế độ
báo cáo và yêu cầu minh bạch thông tin; (ii) hoạt động thanh tra, giám sát và (iii)
xử lí vi phạm.
Các biện pháp quản lí linh hoạt nhìn chung đã phát huy được hiệu quả
trong điều tiết thị trường, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần xem xét
như sau:
Thứ nhất, pháp luật và thực thi pháp luật về công bố thông tin chưa rõ ràng
và chưa tạo điều kiện cho nhà đầu tư, khách hàng tiếp cận.
Thứ hai, hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng trên thực tế thừa hành
còn thiếu sự kết hợp thống nhất giữa các cơ quan thực hiện hoạt động thanh tra,
giám sát và quản lí nhà nước trong lĩnh vực tài chính.
Thứ ba, các cơ quan giám sát và thực hiện thanh tra nói chung vừa giữ
chức năng giám sát, thanh tra vừa giữ chức năng ban hành chính sách, pháp luật
nên có thể giảm hiệu quả thanh tra, giám sát.
Thứ tư, hoạt động xử phạt vi phạm chưa tạo được tính răn đe do mức xử
phạt thấp, đồng thời chưa có chế tài cụ thể đối với các tội phạm về lợi ích nhóm,
thao túng doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng.
CHƯƠNG III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU
TƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của
ngân hàng thương mại tại Việt Nam
Pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM là bộ phận pháp luật điều chỉnh
hoạt động có nhiều nét đặc thù của chủ thể kinh doanh ngân hàng trong nền kinh tế


thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam. Bởi vậy, hoàn thiện pháp
luật về hoạt động đầu tư của NHTM phải thể hiện chủ trương, định hướng phát

triển thị trường tài chính của Nhà nước, đặc biệt phải dựa trên cơ sở đánh giá điều
kiện riêng biệt đặc thù của nền kinh tế, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Để đảm
bảo định hướng hoàn thiện pháp luật trên, một số nội dung cụ thể được xác định
như sau:

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM phải phù
hợp chủ trương, định hướng phát triển thị trường tài chính của Đảng và Nhà
nước.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM cần đảm
bảo và phù hợp với mục tiêu tái cơ cấu hệ thống tài chính, tái cơ cấu các TCTD.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM cần đáp ứng
yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế và yêu cầu hội nhập đặt trong trực trạng đánh giá
tình hình tài chính Việt Nam.
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM đảm bảo mục
tiêu giảm thiểu rủi ro hoạt động, đảm bảo hài hồ lợi ích của các bên trong quan
hệ đầu tư.
3.2. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật điều
chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại tại Việt Nam
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của
ngân hàng thương mại
3.2.1.1. Hoàn thiện quy định về phương thức thực hiện hoạt động đầu tư
của ngân hàng thương mại
Thứ nhất, bổ sung quy định về “mơ hình tập đồn tài chính” nhằm quản
lí hoạt động của NHTM và hệ thống các công ti trực thuộc. Quy định mơ hình
tập đồn tài chính là xu hướng và giải pháp được áp dụng tại nhiều quốc gia và
có sở tại Việt Nam nhằm quản lí, giám sát hệ thống ngân hàng và công ti trực
thuộc.


Thứ hai, quy định rõ loại chứng khoán được phép thực hiện hoạt động mua

bán của NHTM và TCTD nói chung theo hướng liệt kê cụ thể các loại chứng
khoán mà NHTM được phép mua bán.
Thứ ba, cần đưa vào luật các TCTD nội dung quy định về hoạt động uỷ
thác của ngân hàng, theo đó xác định cụ thể các nội dung về điều kiện, trình tự
thực hiện việc thực hiện chức năng uỷ thác, phạm vi thực hiện và các quy định ,
giới hạn đảm bảo an toàn liên quan khi TCTD thực hiện hoạt động uỷ thác đầu

3.2.1.2. Hồn thiện quy định về điều kiện và trình tự thực hiện hoạt động
đầu tư của ngân hàng thương mại
Thứ nhất, kiến nghị quy định cụ thể điều kiện thực hiện hoạt động góp
vốn, mua cổ phần đối với “lĩnh vực khác”. Đề xuất, đối với hoạt động góp vốn,
mua cổ phần thông thường (dưới 11% mức sở hữu cổ phần) nên được xác định
làm hai trường hợp: (i) tỷ lệ góp vốn, nắm giữ cổ phần từ 5% đến 11% cần đáp
ứng đầy đủ các điều kiện như hoạt động, góp vốn mua cổ phần vào lĩnh vực bảo
hiểm, kiều hối, chứng khoán quy định tại khoản 4 điều 4 Thơng tư số
51/2018/TT-NHNN về hoạt động góp vốn, mua cổ phần vào doanh nghiệp khác;
(ii) tỷ lệ nắm giữ cổ phần dưới 5% của doanh nghiệp nhận vốn góp, chỉ cần đáp
ứng các điều kiện ở cơ bản thể hiện năng lực tài chính lành mạnh.
Thứ hai, cần xác định rõ yêu cầu phải được chấp thuận của các cơ quan
quản lí chuyên ngành như Cơ quan cạnh tranh, Cơ quan quản lí lĩnh vực chứng
khốn trong điều kiện và trình tự thủ tục thực hiện hoạt động thành lập, mua lại
công ti con, công ti liên kết, tạo lập sự thống nhất trong pháp luật điều chỉnh.
Thứ ba, cần bổ sung quy định về điều kiện thực hiện hoạt động đầu tư
chứng khoán, chú trọng đến các điều kiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
đầu tư. Một số điều kiện có thểm xem xét như thiết lập hệ thống kiểm soát nội
bộ, yêu cầu về nhân sự, chun mơn và hoạt động quản lí phải được thực hiện
đối với hoạt động mua bán chứng khoán, đặc biệt đối với trái phiếu doanh nghiệp.
3.2.1.3. Hoàn thiện các quy định về biện pháp nhằm đảm bảo an toàn khi
thực hiện hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại



Thứ nhất, cần thiết phải bổ sung các quy định giới hạn nghiêm ngặt hơn
về mức sở hữu cổ phần và quyền tham gia lãnh đạo của mỗi cá nhân. Cụ thể: cá
nhân không được thông qua những người được ủy quyền để mua hay khống chế
cổ phần tại ngân hàng (truy sốt nguồn gốc dịng tiền); nghiêm cấm việc các
cơng ti và tập đồn kinh tế đầu tư hoặc sở hữu ngân hàng, sau đó lại dùng ngân
hàng đó để đầu tư vốn cho các dự án của mình; định nghĩa lại người có liên quan
theo hướng hạ thấp tỷ lệ sở hữu ngân hàng phải công bố thông tin.
Thứ hai, cần đặt ra yêu cầu các NHTM nói riêng và TCTD nói chung phải
duy trì sự độc lập trong mơ hình tổ chức, hoạt động giữa NHTM và các công ti
trực thuộc.
Thứ ba, sửa đổi bổ sung quy định về kế tốn trong báo cáo tài chính của
ngân hàng liên quan đến chứng khoán đầu tư của NHTM theo hướng tiếp cận
các chuẩn mực kế toán quốc tế.
Thứ tư, bổ sung quy định giới hạn và tăng cường quản lí trong hoạt động
đầu tư chứng khốn của TCTD. Giải pháp cần xem xét gồm ban hành yêu cầu
thiết lập cơ chế quản lí rủi ro chặt chẽ đối với tất cả hoạt động mua bán các loại
chứng khoán; đặt ra yêu cầu các NHTM cần quản lí chặt chẽ, xây dựng mơ hình/
đào tạo chun sâu về phân tích, giám sát chất lượng và cơ cấu danh mục chứng
khoán.
3.2.1.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động quản lí của Nhà nước đối với
hoạt động đầu tư của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam
Thứ nhất, xây dựng cơ chế quản lí, giám sát hoạt động tài chính tập trung.
Để thực hiện nội dung này, trước hết cần xây dựng một mơ hình giám sát hợp
nhất. Tiếp đó, nghiên cứu xây dựng lộ trình và biện pháp thanh tra, giám sát cụ
thể cho hoạt động đầu tư, góp vốn của các NHTM.
Thứ hai, cần siết chặt chế tài xử lí đối với hành vi vi phạm trong hoạt động
đầu tư của NHTM nhằm tạo tính răn đe.



3.2.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu
tư của ngân hàng thương mại
Thứ nhất, tăng cường minh bạch hóa thơng tin, phát triển một môi trường
kinh doanh lành mạnh, công bằng.
Thứ hai, thực hiện các giải pháp nhằm kiểm soát và hạn chế tình trạng sở
hữu chéo giữa các TCTD.
Thứ ba, nhanh chóng hồn thiện các tỉ lệ đảm bảo an tồn mới trên cơ sở
cần tăng tốc quá trình áp dụng các tiêu chuẩn an toàn theo yêu cầu và tiêu chuẩn
quốc tế (Basel II và hướng đến Basel III) vào hoạt động kinh doanh và quản lí
tín dụng Việt Nam.
Thứ tư, đẩy mạnh tái cơ cấu các TCTD nhằm lành mạnh hóa hệ thống
ngân hàng, giảm thiểu tình trạng sở hữu chồng chéo tiềm ẩn nguy cơ, tạo tiền đề
xây dựng một số TCTD mạnh tầm cỡ khu vực và quốc tế theo mơ hình tập đồn
tài chính ngân hàng.
KẾT LUẬN CỦA LUẬN ÁN
Mức độ các ngân hàng được phép tham gia vào các hoạt động đầu tư là
nội dung rất quan trọng do tính nhạy cảm và ý nghĩa tác động của hoạt động này
đối với sự an toàn, ổn định của hệ thống ngân hàng. Ngành ngân hàng và chứng
khốn bản thân ln tồn tại một sự cạnh tranh nhằm có được lợi thế. Sự tham gia
và mức độ giới hạn tham gia của ngân hàng vào hoạt động đầu tư khơng chỉ ảnh
hưởng đến lợi ích của các ngành khác mà còn ảnh hưởng đến cấu trúc thị trường
vốn. Bởi vậy, nghiên cứu toàn diện vấn đề lí luận và thực tiễn nội dung này có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Dưới đây là một số kết luận chính liên qua đến kết
quả nghiên cứu:
Thứ nhất, việc xây dựng nội dung lí luận về hoạt động đầu tư của NHTM
và pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
việc đánh giá các quy định pháp luật trên thực tiễn, từ đó đề xuất những giải pháp
hồn thiện pháp luật đảm bảo tính khả thi, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Việc xác định nội hàm, phạm vi và mức độ điều chỉnh pháp luật, nguyên tắc và



tiêu chí hồn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM đã được làm rõ làm
cơ sở cho việc nghiên cứu trực trạng pháp luật hiện nay.
Thứ hai, bên cạnh những thành tựu đạt được, pháp luật điều chỉnh hoạt
động đầu tư của NHTM còn rất nhiều bất cập cần được sửa đổi, bổ sung. Các
hạn chế có thể kể đến như sau: Một là, quy định về phương thức thực hiện hoạt
động đầu tư còn thiếu rõ ràng trong một số hoạt động như đầu tư chứng khoán,
uỷ thác đầu tư; Hai là, quy định về điều kiện và trình tự thực hiện hoạt động đầu
tư chưa tạo được sự gắn kết với các cơ quan liên quan, điều kiện chưa thống nhất
và đầy đủ đối với các hoạt động đầu tư; Ba là, quy định về các biện pháp bảo
đảm an tồn cịn hạn chế trong kiểm soát nguồn vốn và giao dịch giữa trong hệ
thống các cơng ti có mối quan hệ sở hữu, chưa kiểm soát rủi ro đối với hoạt động
uỷ thác đầu tư; Bốn là, nội dung quy định về quản lí Nhà nước và giám sát đối
với hoạt động đầu tư của NHTM cần phải được sửa đổi do chưa tạo lập được cơ
chế phối kết hợp tốt giữa các cơ quan quản lí liên quan, thiếu quy định về cơng
khai và minh bạch cũng như chất lượng thông tin, chế tài xử lí vi phạm chưa tạo
được tính răn đe.
Thứ ba, việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM
là hết sức cần thiết. Trong quá trình hồn thiện pháp luật cần đảm bảo phù hợp
với chủ trương, định hướng phát triển thị trường tài chính của Đảng và Nhà nước,
đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế, yêu cầu hội nhập và đảm bảo các yêu
cầu về nội dung đối với việc ban hành và thực thi pháp luật. Các giải pháp hoàn
thiện pháp luật cụ thể cần được xem xét trong thời gian tới như sau: Một là, quy
định cụ thể, chi tiết các phương thức thực hiện hoạt động đầu tư của NHTM, đặc
biệt tập trung và phương thức hiện nay pháp luật còn bỏ ngỏ như uỷ thác đầu tư,
hoặc hoạt động hiện đang phát sinh nhiều rủi ro cho thị trường – hoạt động góp
vốn, mua cổ phần; Hai là, các quy định về điều kiện và trình tự, thủ tục thực hiện
hoạt động đầu tư của NHTM cần được hoàn thiện theo hướng quy định rõ ràng
các chi tiết các điều kiện, trình tự thực hiện trong từng hoạt động đầu tư, thể hiện
được sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan. Ba là, cần hoàn thiện quy định về

biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động đầu tư của NHTM thông qua quy


định chặt chẽ nguồn vốn, tổng vốn đầu tư, các giao dịch không được thực hiện
hoặc hạn chế thực hiện giữa các chủ thể có mối quan hệ sở hữu, các giới hạn
trong hoạt động đầu tư chứng khoán và uỷ thác đầu tư, tăng cường trách nhiệm
của các NHTM trong hoạt động báo cáo thông tin đặc biệt là báo cáo tài chính,…
Bốn là, các quy định về quản lí nhà nước giám sát cần sửa đổi, bổ sung theo
hướng tăng cường sự phối kết hợp giữa các chủ thể quản lí chuyên ngành và liên
quan đến hoạt động đầu tư; thực hiện hoạt động thanh tra, giám sát hiệu quả,
minh bạch, rõ ràng, hồn thiện các tiêu chí giám sát theo yêu cầu hội nhập quốc
tế.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu của luận án chỉ ra rằng: tạo điều kiện để các
NHTM nói riêng hay định chế tài chính nói chung mở rộng, đa dạng hố hoạt
động kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh là xu hướng tất yếu của thế giới.
Lựa chọn mơ hình phát triển hoạt động ngân hàng ở mỗi quốc gia phải dựa trên
định hướng phát triển cũng như trực trạng tính hình, điều kiện thực tế thị trường
ở mỗi quốc gia. Tại Việt Nam, cho phép các NHTM thực hiện các hoạt động đầu
tư đặt trong sự kiểm soát chặt chẽ là phù hợp trong giai đoạn hiện nay.



×