Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam qua thực tiễn tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.15 KB, 122 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

Lấ TUN PHONG

CHứC NĂNG GIáM SáT Và PHảN BIệN Xã HộI
CủA MặT TRậN Tổ QUốC VIệT NAM
QUA THựC TIễN TỉNH NAM ĐịNH

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2018


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

Lấ TUN PHONG

CHứC NĂNG GIáM SáT Và PHảN BIệN Xã HộI
CủA MặT TRậN Tổ QUốC VIệT NAM
QUA THựC TIễN TỉNH NAM ĐịNH
Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s Nh nc v phỏp lut
Mó s: 8380101.01

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. PHM TH DUYấN THO

H NI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Tuấn Phong


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài, tác giả đã nhận được sự
giúp đỡ quý báu của các tập thể và cá nhân. Trước hết, tác giả xin chân thành
cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, các giảng viên Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của TS. Phạm Thị Duyên Thảo
trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện của lãnh đạo,
Ban thường trực Ủy ban mặt trận Tổ quốc tỉnh Nam Định; lãnh đạo, Ban
thường trực Ủy ban mặt trận Tổ quốc các huyện, thành phố thuộc tỉnh Nam
Định; lãnh đạo và chuyên viên các phòng, ban Cơ quan Ủy ban mặt trận Tổ
quốc tỉnh Nam Định đã giúp đỡ, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành đề tài này.
Hà Nội, ngày… tháng 9 năm 2018
Tác giả Luận văn


Lê Tuấn Phong


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.........................................................................................................3
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn...........................................................................................3
Tôi xin chân thành cảm ơn!...................................................................3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Trong thời đại hiện nay, đối với bất kỳ quốc gia nào, bất kỳ chế độ nào,
giám sát và phản biện xã hội cũng là một yêu cầu tất yếu, khách quan; nó là
một trong những bộ phận cấu thành hệ thống kiểm soát quyền lực; là điều
kiện không thể thiếu trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền và thực
thi dân chủ.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức
đan xen. Trong bối cảnh đó, yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng và hoàn

thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân càng trở nên cấp bách. Do vậy, nhất thiết phải có cơ chế giám sát,
phản biện của nhân dân đối với các chủ trương, đường lối của Đảng; chính
sách, pháp luật, sự điều hành của Nhà nước.
Tuy nhiên, thực tế ở nước ta hiện nay, hoạt động giám sát chủ yếu được
thực hiện bởi các cơ quan quyền lực Nhà nước là Quốc hội, Hội đồng nhân
dân các cấp; hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng và hoạt động thanh tra
của chính quyền mà chưa đề cao vai trò, vị trí của hoạt động giám sát, phản
biện xã hội của nhân dân.
Với vai trò, nhiệm vụ đoàn kết, tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam có vai trò rất to lớn trong công tác giám sát và phản biện xã hội; đồng
thời, thông qua các hoạt động giám sát, phản biện xã hội sẽ góp phần nâng
cao vai trò, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc xây
dựng, củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc; phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.
Được sự lãnh đạo của Tỉnh ủy; sự hướng dẫn, chỉ đạo của Ủy ban

1


Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và sự phối hợp của Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân tỉnh; trên cơ sở nhiệm vụ chính trị của mình, Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc tỉnh Nam Định đã tổ chức triển khai các hoạt động giám
sát, phản biện xã hội và đạt được một số kết quả đáng ghi nhận.
Tuy vậy, trong thực tiễn quá trình triển khai, thực hiện, công tác giám
sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc tại tỉnh Nam Định vẫn còn có
nhiều vấn đề đang được đặt ra và cần được giải quyết.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết trên, tôi chọn vấn đề:“Chức năng
giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam qua thực tiễn

tỉnh Nam Định” làm Đề tài luận văn thạc sỹ để nghiên cứu sâu hơn về lý
luận và thực tiễn; từ đó đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc trên địa
bàn tỉnh Nam Định.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu tổng quát
Chất lượng, hiệu quả công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc trên địa bàn tỉnh Nam Định được nâng cao; góp phần vào nhiệm vụ
chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và công tác giám sát, phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc trên phạm vi cả nước.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Nghiên cứu cơ sở khoa học, lý luận, chính trị, pháp lý; từ đó đánh giá tính
cấp thiết của công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Nghiên cứu thực trạng công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tại tỉnh Nam Định hiện nay. Đánh giá những mặt đã đạt
được và những mặt còn tồn tại, hạn chế.
Đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám
sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc trên địa bàn tỉnh Nam Định.

2


3. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, chức năng giám sát, phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc là một trong những vấn đề được các nhà khoa học, các nhà
nghiên cứu quan tâm, nghiên cứu dưới nhiều góc độ như: triết học, chính trị
học, xã hội học, luật học…; trong đó có một số công trình tiêu biểu như:
- Nguyễn Thọ Ánh (2010), “Thực hiện chức năng giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”, Luận án tiến sĩ chính trị học,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định

giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là nhiệm vụ cấp
bách trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước
ta; tác giả trình bày về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ
thống chính trị; hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam; thực trạng, những vấn đề đặt ra và giải pháp nâng cao chất lượng
giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Nguyễn Thị Phương (2013), “Nhận thức về chức năng, nhiệm vụ của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới”, Tạp chí Mặt trận số
121+122. Nội dung tác giả hướng tới việc nghiên cứu xác định rõ hơn chức
năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tìm ra những giải pháp khắc
phục tình trạng trùng lặp, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ của tổ chức trong
hệ thống chính trị và hành chính hóa các tổ chức quần chúng, góp phần đổi
mới hệ thống chính trị của đất nước trong giai đoạn mới.
- Nguyễn Thị Thủy (2013), “Các điều kiện bảo đảm cho hoạt động
giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận đạt hiệu quả”, Tạp chí Mặt trận số
121+122. Bài viết đề cập việc hướng việc triển khai giám sát và phản biện xã
hội cần đảm bảo các điều kiện như: nâng cao nhận thức vị trí, vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trong giám sát và phản biện, xây dựng và hoàn thiện
cơ chế pháp lý, nâng cao chất lượng và đổi mới tổ chức của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam các cấp.

3


- Nguyễn Thanh Bình (2014), “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với công tác
giám sát và tham gia giải quyết khiếu nại tố cáo trong thời kỳ đổi mới”, Tạp
chí Mặt trận số 123. Tác giả đã nêu lên vai trò giám sát của Mặt trận đối việc
giải quyết khiếu nại tố cáo quy định còn chung chung và chỉ ra những nguyên
nhân chính hạn chế vài trò giám sát xã hội của Mặt trận trong lĩnh vực này.
- Hà Ngọc Thảnh (2014), “Phát huy trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam và các đoàn thể nhận dân trong giám sát hoạt động của các đại
biểu dân cử”, Tạp chí Mặt trận số 129+130. Bài viết nêu trách nhiệm của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trong việc giám sát hoạt động của các đại biểu dân cử;
thể hiện một số vấn đề chủ yếu như: giám sát đại biểu dân cử theo nhiệm vụ
chính trị, chức danh, lời hứa trước cử trị, bảo đảm và quyền lợi chính đáng
của nhân dân.. từ đó, đưa ra yêu cầu đối Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
việc giám sát hoạt động của các đại biểu dân cử.
- Đỗ Phương (2014), “Lại bàn về giám sát và phản biện”, Tạp chí Mặt
trận số 133. Bài viết đề cập vị trí và vai trò giám sát trong xã hội hiện nay còn
nhiều hạn chế, để phát huy vai trò giám sát và phản biện cần những thay đổi
cơ chế và tổ chức quản lý.
- Trần Ngọc Nhẫn (2014), “Vai trò mặt trận tổ quốc Việt Nam trong xây
dựng chính sách, pháp luật và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật”,
Tạp chí Mặt trận số 129+130. Bài viết nêu tầm quan trọng vai trò giám sát
Mặt trận trong hệ thống chính trị; nhưng đối với việc xây dựng chính sách,
phát luật thì quy định văn bản hạn chế, nếu có chỉ mang tính hình thức. Hiện
nay, có một số quy định mới triển khai chậm, chưa hướng dẫn cụ thể dẫn đến
khó khăn trong việc thực hiện; vì vậy Quốc hội cần nghiên cứu để sớm có quy
định về cơ chế cụ thể đóng góp ý kiến các Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội trong quá trình xây dựng chính sách pháp luật và thực hiện
chức năng giám sát Mặt trận.
-…

4


4. Tính mới và những đóng góp của Đề tài
Các công trình nghiên cứu và các bài viết nêu trên đã làm rõ về cơ sở,
thực tiễn việc thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam; đồng thời nêu ra các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu

quả công tác.
Tuy nhiên, đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể về
công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc trên địa bàn tỉnh
Nam Định; do vậy, tôi chọn đề tài:“Chức năng giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam qua thực tiễn tỉnh Nam Định” với mong
muốn đánh giá khái quát, toàn diện về chức năng giám sát, phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc tại tỉnh Nam Định; từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao
chất lượng, hiệu quả của công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc trên địa bàn tỉnh Nam Định nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung.
5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Tỉnh Nam Định
- Thời gian: Từ năm 2013 đến năm 2017
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
6.1. Cơ sở lý luận
Vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân chủ và kiểm soát quyền lực; quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về
thực thi quyền lực của nhân dân, về vai trò của nhân dân, về vai trò của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc giám sát hoạt động của
Đảng và Nhà nước; thực hiện phản biện xã hội trong quá trình xây dựng đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

5


6.2. Phương pháp nghiên cứu
6.2.1. Phương pháp luận: Vận dụng những nguyên tắc, phương pháp
luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

6.2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích: Để đánh giá, bình luận các quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách,
pháp luật của Nhà nước và đánh giá thực trạng.
- So sánh: Để so sánh giữa lý luận và thực tiễn thực hiện.
- Điều tra xã hội học: Để nắm bắt tình hình thực trạng.
- Tổng hợp: Để đánh giá nhằm rút ra những kết luận và đề xuất các giải pháp.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn gồm 3 chương, 12 tiết.

6


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm của giám sát và phản biện xã hội
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm giám sát xã hội
Khái niệm “giám sát” hiện nay được sử dụng rất phổ biến trong các
ngành khoa học như: xã hội học, chính trị học, luật học, hành chính học… và
trong các văn bản của Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên khái niệm giám sát và nội
hàm của nó được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 1999, Hoàng Phê chủ biên: “giám sát là
theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều đã quy định không” [44].
Trong Từ điển Hán – Việt, Đào Duy Anh chủ biên thì “giám sát là xem
xét và đàn hạch” [1].
Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên định nghĩa: “giám
sát là theo dõi, kiểm tra việc thực hiên nhiệm vụ” [69].
Từ điển Luật học định nghĩa giám sát là:
Sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động, thường

xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để
buộc và hướng dẫn hoạt động của đối tượng chịu giám sát đi đúng quỹ
đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ
trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh [53].
Từ điển Quản lý xã hội định nghĩa: “giám sát là kiểm tra; theo dõi
nhằm mục đích kiểm tra việc chấp hành luận, nghị quyết, quyết định
quản lý…” [20].
Theo Từ điển giải thích từ ngữ hành chính:
Giám sát là sự theo dõi, quan sát hành động mang tính chủ
động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện

7


pháp tích cực để buộc các đối tượng chịu giám sát đi đúng quỹ đạo,
quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ
trước, đảm bảo cho luật pháp được tuân thủ nghiêm chỉnh.
Trong cuốn “Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội X của
Đảng Cộng Sản Việt Nam” định nghĩa:
Giám sát là theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá
nhân, tổ chức, cộng đồng người đối với cá nhân, tổ chức, cộng đồng
người khác trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội, trong việc
thực hiến Hiến pháp, pháp luật, đường lối, quan điểm của Đảng,
chính sách của Nhà nước, các quyền lợi, nghĩa vụ của công dân, của
các tổ chức chính trị xã hội và kiến nghị phát huy ưu điểm, thành
tựu, xử lý đối với cá nhân, tổ chức có những hành vi sai trái [19].
Tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ “giám sát” khác nhau
nhưng đều có chung một số đặc điểm sau:
- Giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định thực hiện việc theo dõi,
xem xét, kiểm tra và đưa ra nhận định về một hoạt động đã được thực hiện;

hoạt động đó đúng hay sai quy định.
- Hoạt động giám sát mang tính chủ động (có mục đích, nội dung, quy
chuẩn…) và diễn ra thường xuyên, liên tục.
- Luôn luôn có một đối tượng giám sát cụ thể.
Như vậy, có thể hiểu “Giám sát là sự quan sát, theo dõi, nhận định,
phân tích, đánh giá hành vi, hoạt động của đối tượng được giám sát có đúng
với những quy định được đặt ra hay không; từ đó có những tác động tích cực
để đối tượng được giám sát thực hiện đúng quy định”.
Trong đời sống chính trị cần phân biệt biệt khái niệm “giám sát” và
khái niệm “thanh tra”.
Nghị quyết số 164-CP ngày 31/8/1970 của Hội đồng chính phủ về tăng
cường công tác thanh tra và chấn chỉnh hệ thống thanh tra Nhà nước, định nghĩa:

8


Thanh tra là một trong công tác quan trọng của công tác quản
lý, nó có mục đích giúp cơ quan lãnh đạo vừa kiểm tra sự đúng đắn
của bản thân sự lãnh đạo của mình và kiểm tra sự chấp hành của cơ
quan quyền lực thuộc thẩm quyền nhầm tìm ra những biền pháp chỉ
đạo, cách quản lý tốt nhất, đảm bảo cho những chủ trương của
Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước được thực thi đầy đủ
có hiệu lực.
Theo đó, thanh tra được phân biệt với giám sát ở một số điểm:
- Thanh tra là công cụ hỗ trợ hoạt động quản lý nhà nước của hệ thống
cơ quan quản lý hành chính, là công cụ kiểm tra của hệ thống hành pháp.
- Đối tượng của thanh tra là cơ quan, tổ chức chịu trách nhiệm chấp
hành, thực hiện quyền lực hành pháp.
- Chủ thể thanh tra có quyền đưa ra các chế tài cần thiết đối với đối tượng
vi phạm như: đình chỉ hoạt động, chuyển vụ việc sang cơ quan điều tra…

Căn cứ vào chủ thể thực hiện giám sát, có thể chia thành 2 loại giám sát
là: Giám sát mang tính quyền lực Nhà nước và giám sát xã hội.
Giám sát xã hội là hoạt động giám sát không mang tính quyền lực Nhà
nước, được thực hiện bởi các chủ thể xã hội (ngoài Nhà nước); các chủ thể
giám sát xã hội không có quyền thay đổi các chính sách, quy định; kết quả
hoạt động giám sát xã hội được sử dụng làm cơ sở để chủ thể quyền lực Nhà
nước điều chỉnh các chính sách, quy định.
Giám sát xã hội là hoạt động giám sát có sự tham gia rộng rãi của toàn
xã hội thông qua các tổ chức, đoàn thể nhân dân.
Khác với hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp,
hoạt động kiểm tra Đảng và thanh tra Nhà nước là hoạt động giám sát chuyên
nghiệp có sự phân công và quy trình, phương pháp cụ thể mang tính quyền
lực; phương pháp giám sát xã hội được thực hiện trực tiếp bởi mỗi công dân

9


hoặc thông qua các tổ chức, đoàn thể nhân dân (tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp…).
Giám sát xã hội là sự bổ sung quan trọng, khách quan cho các hình thức
giám sát mang tính quyền lực; tạo sự cân bằng giúp hệ thống chính trị ổn
định, hoạt động hiệu quả, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.
Từ những phân tích nêu trên, có thể định nghĩa: Giám sát xã hội là
hình thức giám sát của các chủ thể ngoài nhà nước đối với tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước nhằm đảm bảo và phát huy dân chủ.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của phản biện xã hội
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “phản biện là sự xem xét, đánh giá chất
lượng một công trình khoa học trước hội đồng chấm thi nghiệm thu đề tài”,
hay là “đánh giá chất lượng một công trình khoa học khi công trình được đưa
ra bảo vệ để lấy học vị trước hội đồng chấm thi” [69].

Theo Quyết định số 22/2002/QĐ-TTg ngày 30/01/2002 của Thủ tướng
Chính phủ về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp
các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, khái niệm phản biện được hiểu là
“hoạt động cung cấp các thông tin, tư liệu cùng các ý kiến phân tích, đánh
giá tính khả thi và các kiến nghị về sự phù hợp của nội dung đề án đối với
các mục tiêu và các điều kiện ràng buộc ban đầu hoặc thực trạng đặt ra”
[57].
Trong cuốn “Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội X của
Đảng Cộng Sản Việt Nam”, phản biện được giải thích là: “nhận xét, đánh giá,
bình luận, thẩm định công trình khoa học, dự án, đề án trong các lĩnh vực
khác nhau” [19].
Từ những khái niệm trên, có thể rút ra: “Phản biện là hoạt động của cá
nhân hoặc tổ chức nhằm thẩm định, đánh giá chất lượng hay giá trị khoa học

10


của một sản phẩm khoa học của cá nhân hoặc tổ chức khác”.
Phản biện là mối quan hệ tương tác giữa chủ thể phản biện và đối tượng
phản biện. Chủ thể phản biện là các cá nhân, tổ chức được trao quyền hạn
hoặc có các quyền, lợi ích liên quan. Đối tượng phản biện là các sản phẩm
khoa học (các công trình, công trình nghiên cứu, phát minh, sáng chế, đề án,
dự án, luận văn, luận án, đề tài khoa học…).
Chủ thể phản biện có trách nhiệm đánh giá, nhận xét về đối tượng phản
biện; đồng thời phải đưa ra những cơ sở khoa học và lý lẽ để luận chứng cho
việc đánh giá, nhận xét, xác định giá trị của đối tượng phản biện.
Hiện nay, chưa có một khái niệm chính thức và thống nhất về phản biện
xã hội; có nhiều quan điểm khác nhau khi xây dựng khái niệm phản biện xã
hội trên cơ sở nội hàm của khái niệm phản biện.
Theo TS. Trần Đăng Tuấn:

Phản biện xã hội là đưa ra các lập luận, phân tích nhằm
phát hiện, chứng minh, khẳng định, bổ sung hoặc bác bỏ một
vấn đề (phương án, dự án) xã hội đã được hình thành và công bố
trước đó [63].
Tác giả Nguyễn Thọ Ánh định nghĩa:
Phản biện xã hội là hoạt động của một chủ thể xã hội dùng
các luận chứng khoa học để nhận xét, đánh giá, nêu quan điểm để
cơ quan có thẩm quyền xem xét khi ban hành các quyết sách
chính trị [2].
Tác giả Lê Quốc Hùng nêu khái niệm:
Phản biện xã hội là hoạt động phân tích, lập luận, đánh giá
trên cơ sở khoa học và thực tiễn xã hội về tính hợp lý, tính đúng đắn
đối với các chủ trương, các quyết định của lực lượng lãnh đạo và
quản lý xã hội. Phản biện xã hội được thực hiện bởi nhiều chủ thể
khác nhau: cá nhân, tập thể, các tầng lớp xã hội, các tổ chức xã hội,

11


các giới, các hội [31].
Theo tác giả Nguyễn Trọng Bình:
Phản biện xã hội là sự phân tích, đánh giá có tính chất xã hội
một cách khách quan, khoa học, có tính xây dựng về một chủ
trương, chính sách nào đó đang được chuẩn bị thi hành [13].
Trong cuốn “Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội X của
Đảng Cộng Sản Việt Nam”, nêu khái niệm:
Phản biện xã hội là sự phản biện nói chung nhưng có quy mô
và lực lượng rộng rãi hơn của xã hội, của nhân dân và các nhà khoa
học về nội dung, phương hướng, chủ trương, chính sách, giải pháp
phát triển kinh tế - xã hội, khoa học – công nghệ, giáo dục, y tế, môi

trường, trật tự an ninh chung toàn xã hội của Đảng, Nhà nước và các
tổ chức liên quan [19].
Từ những khái niệm, quan niệm trên về phản biện xã hội, có thể thấy
chúng đều đề cập tới một số đặc điểm chung:
- Bản chất của phản biện xã hội cũng giống như các hình thức phản biện
khác là quá trình xem xét, phân tích, lập luận để đánh giá tính hợp lý, đúng đắn.
- Chủ thể của phản biện xã hội là các lực lượng xã hội ngoài Nhà nước.
- Đối tượng phản biện là các chủ trương, chính sách của các cơ quan
Đảng, Nhà nước.
- Mục đích của phản biện xã hội nhằm làm cho các chủ trương, chính
sách đúng đắn hơn, phù hợp hơn với đời sống xã hội, đáp ứng lợi ích chung
của xã hội.
Phản biện xã hội phải đảm bảo tính khách quan, khoa học; phân định
tính đúng đắn, tính khả thi, tính phù hợp của các chủ trương, chính sách, đề
án, dự án liên quan đến đời sống xã hội.
Phản biện xã hội được thực hiện ở nhiều cấp độ: góp ý kiến, bình luận,

12


nhận xét, tư vấn, kiến nghị…
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa: Phản biện xã hội là hoạt
động của một chủ thể xã hội sử dụng các luận chứng khoa học để nhận xét,
đánh giá về các chủ trương, chính sách, quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Qua đó, có thể phân biệt phản biện xã hội với một số hoạt động tương
tự khác như: tranh biện, phản biện khoa học, dư luận xã hội…
- Tranh biện: là hoạt động của các chủ thể sử dụng lý lẽ để bảo vệ quan
điểm của mình hoặc bác bỏ quan điểm của chủ thể khác về một vấn đề nào đó.
Trong hoạt động chính trị, tranh biện là hình thức phản biện của các lực
lượng chính trị diễn ra trong hoạt động nghị trường khi thảo luận và quyết

định các chính sách công.
- Phản biện khoa học: là hình thức phản biện trong hoạt động nghiên cứu
khoa học; đối tượng phản biện của phản biện khoa học là các sản phẩm khoa
học (phát minh, sáng chế, sáng kiến, đề án…); chủ thể của phản biện khoa học
là các cá nhân, tổ chức được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chỉ định.
Phản biện xã hội là một phản biện khoa học, bởi lẽ nó sử dụng những
cơ sở khoa học và lý lẽ để luận chứng cho việc đánh giá, nhận xét; một phản
biện khoa học muốn trở thành phản biện xã hội thì đối tượng phản biện phải
là các chủ trương, chính sách của các cơ quan Đảng, Nhà nước.
- Dư luận xã hội: là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất đánh giá,
bình luận của một nhóm xã hội hay của toàn xã hội đối với những vấn đề thu
hút được sự quan tâm của nhiều người, có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi
ích của nhóm xã hội đó hay của toàn xã hội.
Dư luận xã hội khác với phản biện xã hội ở chỗ nó chỉ đơn thuần phản
ánh thái độ (đồng tính, phản đối…) của xã hội đối với các vấn đề. Tuy nhiên,
xét về khía cạnh nào đó, dư luận xã hội thể hiện tính hợp lý, khả quan, đúng
đắn của một chủ trương, chính sách, quyết định của Nhà nước; do vậy, nó là
một trong những cơ sở quan trọng làm luận chứng cho phản biện xã hội.

13


Sự phân biệt trên chỉ mang tính tương đối, vì trong quá trình phản biện
xã hội, chủ thể phản biện phải sử dụng các kết quả tranh biện, phản biện khoa
học và dư luận xã hội để làm luận chứng cho những quan điểm, nhận xét của
mình đối với vấn đề cần phản biện. Nói cách khác, phản biện xã hội là hình
thức phản biện tổng hợp trên cơ sở những luận chứng khoa học và thực tiễn
đời sống xã hội.
1.1.3. Mối quan hệ giữa giám sát và phản biện xã hội
Giám sát và phản biện xã hội có mỗi quan hệ mật thiết với nhau trong

việc kiểm soát quyền lực, hướng tới mục tiêu thực thi dân chủ.
Phản biện xã hội được sử dụng để nhận xét, đánh giá, nêu quan điểm về
nội dung, tác động và tính khả thi đối với đời sống xã hội của một chủ trương,
chính sách, quyết định trước khi ban hành. Còn giám sát xã hội sử dụng để theo
dõi, kiểm tra, phát hiện và kiến nghị về những điểm không đúng đắn, không phù
hợp của chủ trương, chính sách, quyết định trong qua trình triển khai thực hiện.
Như vậy, phản biện xã hội là phản biện về nội dung và giám sát xã hội là giám
sát quá trình thực hiện của các chủ trương, chính sách, quyết định.
Trong thực tế triển khai thực hiện công tác giám sát và phản biện xã
hội, có trường hợp phản biện xã hội là một công đoạn trong hoạt động giám
sát xã hội hoặc giám sát xã hội trở thành một công đoạn trong hoạt động phản
biện xã hội.
Với vai trò và tác dụng to lớn trong việc hoạch định, ban hành và triển
khai, thực hiện các chủ trương, chính sách, quyết định; giám sát và phản biện
xã hội là một yêu cầu tất yếu và khách quan, là công cụ hữu hiệu để kiểm soát
quyền lực và thực thi dân chủ của nhân dân.
1.2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và chức năng giám sát, phản biện
xã hội
1.2.1. Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và

14


Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo. Trải qua các thời kỳ cách mạng với
những hình thức tên gọi khác nhau, Mặt trận không ngừng lớn mạnh và đóng
góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc và cùng với Đảng, Nhà nước hợp
thành những trụ cột cơ bản trong hệ thống chính trị nước ta.
Sau khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời (03/2/1930) trong nội dung
chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập

Đảng chỉ ra sự cần thiết xây dựng một Mặt trận Dân tộc thống nhất nhằm
đoàn kết các tầng lớp trong xã hội, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội, các cá nhân... phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh
của khối đại đoàn kết dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu chung, xây dựng một xã
hội hòa bình, tự do và hạnh phúc.
Ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng Sản Việt
Nam đã chỉ thị thành lập Hội Phản để Đồng minh, đây là hình thức đầu tiên
của Mặt trận Dân tộc thống nhất, một hình thức liên minh chính trị của giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và các lực lượng yêu nước khác. Và từ
đó đến nay, trong lịch sử cách mạng Việt Nam chưa bao giờ vắng bóng tổ
chức Mặt trận. Khi Đảng chưa giành được chính quyền, Mặt trận đã tổ chức
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng; vận động, giác ngộ, tập hợp nhân
dân, đồng thời thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ của chính quyền ở vùng
giải phóng. Sau khi Đảng giành được chính quyền, Mặt trận trở thành thành
viên của hệ thống chính trị. Mặt trận cùng với Đảng, Nhà nước là công cụ thực
hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý điều hành của Nhà nước, Mặt trận đã vận động các tầng lớp nhân dân
đoàn kết chiến đấu bảo vệ đất nước. Hiện nay, trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội, vị trí của Mặt trận ngày càng được xác định rõ hơn trong các chủ
trương, đường lối, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng; được thể hiện rõ trong Hiến
pháp, trong các văn bản luật, đặc biệt là Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và

15


quan trọng hơn là sự thừa nhận, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân.
Trong các văn kiện quan trọng của Đảng ngày càng tiếp tục khẳng định
vị trí quan trọng của Mặt trận trong hệ thống chính trị. Cụ thể như Chỉ thị 17
ngày 18/4/1983 của Ban Bí thư (khóa V); Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII; Đại hội lần thứ X…

Như vậy, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do chính nhân dân, chính
lịch sử xác định và thừa nhận. Pháp luật khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam "là một bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam". Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là một bộ phận của hệ
thống chính trị có chức năng, nhiệm vụ riêng và tồn tại, hoạt động trong mối
liên hệ với các bộ phận khác của hệ thống chính trị. Vị trí, vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam còn do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, đòi
hỏi phải xây dựng khối đại đoàn kết các lực lượng tiến bộ của dân tộc, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Địa vị pháp lý của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn do đặc điểm, cấu
trúc của hệ thống chính trị Việt Nam quy định, hệ thống đó không tổ chức vận
hành theo hình thức đa nguyên, đa đảng mà Đảng Cộng Sản Việt Nam là
người lãnh đạo.
Vì vậy, cả về góc độ pháp lý, cả về góc độ lịch sử và hoạt động thực
tiễn đều khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận không thể
thiếu được của hệ thống chính trị nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vai trò của Mặt trận Tổ quốc không chỉ tự Mặt trận xây dựng, khẳng
định mà còn do chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận. Từ khi đất nước
thống nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò rất quan trọng việc củng cố
và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định "Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại

16


đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [68].
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 2015 quy định:
Kế thừa vai trò lịch sử của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt

Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập, lãnh đạo, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh
chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các
giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài [52].
Là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện rộng lớn, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò củng cố và tăng cường và củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân, góp phần tạo nên sự đồng thuận xã hội trong toàn dân, thắt
chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, động viên nhân dân
phát huy quyền làm chủ, hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước,
các cuộc vận động cách mạng, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Đảng, Nhà nước quy định
trong các văn bản quy phạm pháp luật như: Tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước; Thực hiện giám sát và phản biện xã hội; Hiệp thương lựa chọn, giới
thiệu người ứng cử Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp
và tham gia công tác bầu cử theo quy định của Pháp luật về bầu cử Đại biểu
Quốc hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân; Ra lời kêu gọi nhân dân hưởng ứng
chủ trương của Đảng, Pháp luật của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
đối với những sự kiện quan trọng khi cần thiết...
Hiện nay trước yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ phát triển đòi hỏi phải
củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy quyền làm chủ của

17


nhân dân. Do vậy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội càng quan trọng. Nâng cao vai trò, tác dụng của Mặt trận trong hệ thống

chính trị và đời sống xã hội là một yêu cầu của công cuộc đổi mới xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được quy định
cụ thể trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam:
1. Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực
hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội;
2. Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ,
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước;
3. Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
nhân dân;
4. Tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước;
5. Thực hiện giám sát và phản biện xã hội;
6. Tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân
để phản ánh, kiến nghị với Đảng, Nhà nước;
7. Thực hiện hoạt động đối ngoại nhân dân [52].
Hiến pháp năm 2013 xác định:
1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị,
liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng
lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,

18


thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản

biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối
ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội
cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội được
thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng
các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất
hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của
Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức
xã hội khác hoạt động [50].
Hiến pháp năm 2013 đã có nhiều quy định mới liên quan đến quyền và
trách nhiệm cũng như chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Hiến pháp đã hiến định chức năng giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam; hiến định được chức năng Mặt trận đại diện, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân; về các tổ chức thành
viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ghi rõ 5 tổ chức chính trị xã hội
(Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam)
và các tổ chức thành viên khác của Mặt trận có trách nhiệm thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của tổ chức mình, đồng thời phối hợp và thống nhất hành
động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Điều này khẳng định Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là một thể thống nhất, bao gồm Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức thành viên. Theo đó chức năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là

19



tập hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa, tăng cường đồng thuận trong xã hội; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước;
giám sát, phản biện xã hội.
Tương ứng với những chức năng cơ bản trên, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam có những nhóm nhiệm vụ cơ bản như: tuyên truyền, vận động nhân dân
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của nhân dân; thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã
hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giám sát và phản biện xã hội; tập
hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng
và Nhà nước; thực hiện và mở rộng hoạt động đối ngoại nhân dân.
1.2.3. Chức năng giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam
1.2.3.1. Khái niệm, đặc điểm giám sát của Mặt trận Tổ quốc
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc đối với chính quyền lần đầu
tiên được đề cập trong Nghị quyết của Đại hội Đại biểu Thanh niên cứu quốc
toàn xứ Bắc kỳ tháng 11/1945: “Mặt trận Việt Minh, Thanh niên cứu quốc hội
có nhiệm vụ ủng hộ Chính phủ và Bộ Thanh niên. Sự ủng hộ đó phải thiết
thực (bằng việc làm không phải bằng lời nói suông), sáng suốt (thấy cái hay
cái dở) và tích cực (giám sát và đề nghị)”.
Tuy nhiên, quyền giám sát của Mặt trận chính thức ghi nhân tại điều 9
Hiến pháp năm 1992: “Mặt trận giám sát hoạt động cơ quan Nhà nước, đại
biểu dân cử và cán bộ viên chức Nhà nước” [48], nhân dân có quyền giám sát
trực tiếp hoặc gián tiếp cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, đảng viên
(thông qua Mặt trận và các đoàn thể để thực hiện).
Sau Hiến pháp năm 1992, các văn bản pháp luật ngày càng quy định cụ
thể hơn về chức năng giám sát của Mặt trận, đặc biệt là Luật Mặt trận Tổ quốc

20



×