Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

sang kien kinh nghiệm lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.95 KB, 18 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong các môn học, môn toán là một trong những môn có vị trí rất quan
trọng. Các kiến thức, kỹ năng của môn toán có nhiều ứng dụng trong đời sống,
giúp học sinh nhận biết mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của
thế giới hiện thực. Một trong những nội dung toán đáp ứng được mục đích trên
đó là đơn vị đo lường. Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật
và công nghệ thông tin đã làm cho khả năng nhận thức của trẻ cũng vượt trội.
Điều đó đã đòi hỏi những nhà nghiên cứu giáo dục luôn luôn phải điều chỉnh
nội dung, phương pháp giảng dạy phù hợp với nhận thức của từng đối tượng
học sinh nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện góp phần
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho quê hương, đất nước.
Những năm gần đây ngành giáo dục luôn được đổi mới về mục tiêu, nội
dung và phương pháp cũng như hình thức tổ chức dạy học tich cực góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục. Ở bậc Tiểu học thì lớp Một là lớp được đổi mới
nâng cao rõ nhất là môn Toán, trong chương trình trước đây các em chỉ học cộng
trừ các số trong phạm vi 10, hiện nay các em được học cộng trừ trong phạm vi
100, đặc biệt là các em còn được làm quen và học dạng giải bài toán có lời văn.
Khả năng giải toán có lời văn chính là phản ánh năng lực vận dụng kiến
thức của học sinh. Học sinh hiểu về mặt nội dung kiến thức toán học vận dụng
vào giải toán kết hợp với kíên thức Tiếng Việt để giải quyết vấn đề trong toán
học. Thông qua giải toán có lời văn các em được phát triển trí tuệ, được rèn
luyện kĩ năng tổng hợp: đọc, viết, diễn đạt, trình bày, tính toán. Giải toán có lời
văn góp phần củng cố kiến thức toán, rèn luyện kỹ năng diễn đạt, tích cực góp
phần phát triển tư duy cho học sinh tiểu học. Toán có lời văn là chiếc cầu nối
giữa toán học và thực tế đời sống, giữa toán học với các môn học khác.
Trong chương trình toán Tiểu học thì “Giải toán có lời văn” là kiến thức
khó khăn nhất đối với học sinh, và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp Một.
Bởi vì đối với học sinh lớp một vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả
năng tư duy lô gic của các em còn rất hạn chế. Đối với trẻ là học sinh lớp 1,
môn toán tuy có dễ nhưng để học sinh đọc - hiểu bài toán có lời văn quả không


dễ dàng, vả lại việc viết lên một câu lời giải phù hợp với câu hỏi của bài toán
cũng là vấn đề không đơn giản. Nhiều khi với một bài toán có lời văn các em có
thể làm đúng phép tính nhưng không thể trả lời hoặc lý giải tại sao các em lại có
được phép tính như vậy. Thực tế tôi thấy một số em chưa biết tóm tắt bài toán,
chưa biết phân tích đề toán để tìm ra lối giải, chưa biết cách trình bày bài giải,
diễn đạt vụng về thiếu lôgic. Vậy làm thế nào để giúp học sinh lớp 1 giải tốt toán
có lời văn ? Đó cũng là lí do mà tôi chọn sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh
nghiệm giúp học sinh lớp 1 giải toán có lời văn”
2. Mục đích nghiên cứu:
Việc nghiên cứu để tìm ra biện pháp “Hướng dẫn học sinh lớp Một học tốt
giải toán có lời văn” nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, góp phần giải quyết
những khó khăn mà giáo viên và học sinh mắc phải trong quá trình giải toán đối


với học sinh. Giải toán có lời văn là một kĩ năng cần có của học sinh lớp 1. Để
giúp cho quá trình xuyên suốt Tiểu học, học sinh có thể giải được các bài toán
nhằm giảm bớt sự nhàm chán chỉ bởi những con số và số…Giải toán có lời văn
làm khơi dậy lòng say mê sáng tạo, năng lực tự vân động trong mỗi học sinh. Vì
vậy việc hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp Một có ý nghĩa to lớn
trong quá trình giảng dạy của người giáo viên.
Việc nghiên cứu giúp giáo viên có sự nhìn nhận đúng hơn, sâu hơn về tầm
quan trọng của việc hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn, từ đó giáo viên lựa
chọn tìm ra những biện pháp tốt hơn, phù hợp hơn đối với dặc trưng môn học để
có hiệu quả trong giảng dạy toán.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Nội dung môn toán ở Tiểu học bao gồm 4 chủ đề kiến thức lớn. Tôi đi sâu vào
trình bày phần: “ Giải toán có lời văn”. Thời gian nghiên cứu: 1 năm ( Từ giữa
học kì 2 năm học 2017 - 2018 đến giữa học kì 2 năm học 2018 - 2019 ). Đối
tượng: Học sinh lớp 1C
4. Phương pháp nghiên cứu:

* Nghiên cứu lí luận:
- Đọc các tài liệu có liên quan đến đề tài.
- Các tài liệu dạy học.
- Thế giới trong ta.
* Nghiên cứu thực tế:
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
- Trao đổi tọa đàm với đồng nghiệp.
- Phương pháp thống kê phân loại.
- Phương pháp quan sát hướng dẫn học sinh.
- Phương pháp độc lập lấy học sinh làm trung tâm.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
Giải toán có lời văn là một trong 4 mạch kiến thức cơ bản của môn Toán
1( số và ghép – Đo đại lượng – yếu tố hình học – Giải toán có lời văn).
Mục tiêu của dạy học giải toán có lời văn ở lớp 1 nhằm giúp học sinh.
- Nhận biết được thế nào là bài toán có lời văn (Cấu trúc các phần của bài
toán).
- Biết giải và trình bày bài giải các bài toán đơn bằng 1 phép tính cộng
hoặc 1 phép tính trừ. Trong đó có bài toán về “ thêm”; “ bớt” một số đơn vị.
(Viết được bài toán bao gồm: Câu lời giải, phép tính có kèm tên đơn vị và đáp
số).
- Bước đầu phát triển tư duy, rèn luyện phương pháp giải toán có khả
năng diễn đạt ( phân tích vấn đề, giải quyết vấn đề, trình bày vấn đề bằng ngôn
ngữ nói và viết…). Bám sát mục tiêu của dạy học giải toán có lời văn, nội dung
dạy học giải toán có lời văn ở lớp 1 đã bám sát trình độ chuẩn và quán triệt


những định hướng đổi mới mục tiêu dạy học giải toán ở Tiểu học. Đó là tăng
cường dạy học phương pháp giải toán nhằm giúp học sinh biết nêu bài toán từ
một tình huống cụ thể ( nêu vấn đề) biết trình bày bài giải ( trình bày vấn đề)

không sa vào những bài toán đánh đố với lời giải quá phức tạp vượt quá độ
chuẩn. Đó là tích cực rèn luyện khả năng diễn đạt cho học sinh ngay từ lớp 1.
Tăng cường kỹ năng giải toán thực hành luyện tập với những bài toán có tính
cập nhật gắn liền với thực tiễn sinh động liên quan đến môi trường sống xung
quanh các em.
Nội dung dạy học giải toán có lời văn ở lớp 1 được sắp xếp thành 2 giai
đoạn.
* Giai đoạn 1: Giai đoạn này “Chuẩn bị học giải toán có lời văn” giai
đoạn này nằm trong học kỳ 1 của lớp 1. HS được làm quen với các tình huống
của bài toán được diễn đạt qua các hình ảnh, tranh vẽ. Yêu cầu của giai đoạn này
HS chỉ cần quan sát tranh. Phân tích nội dung của tranh, rồi viết được phép tính
phù hợp ( chưa phải đòi hỏi trình bày lời giải hoàn chỉnh). Hình thức của loại bài
tập này là “ Viết phép tính thích hợp”( viết số và phép tính vào 5 ô)
* Giai đoạn 2: Giai đoạn “ Chính thức học giải toán có lời văn” giai đoạn
này học chính thức trong học kì II của lớp 1. HS được bết thế nào là một bài
toán có lời văn ( Cấu tạo bài toán gồm 2 phần: Giả thiết ( bài toán cho biết gì?)
và kết luận ( bài toán hỏi gì?). Từ đó HS biết cách giải và trình bày các bài toán
về “ Thêm” “ bớt” một số đơn vị.
Giải toán là quá trình giúp học sinh củng cố và nắm chắc khái niệm về
phép cộng, phép trừ. Mặt khác bài toán có nội dug liên quan đến đơn vị Đo đại
lượng. Xăng ti mét, giờ… cũng giúp HS thấy được các ứng dụng thực tế của đại
lượng đó.
Với tầm quan trọng như vậy. Việc dạy học giải toán có lời văn ở lớp 1 đòi
hỏi người giáo viên phải quan tâm giúp đỡ học sinh rất nhiều. Dạy học cần phải
theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học. Cần tổ chức giờ học
dưới dạng các hoạt động học tập, học sinh được phát huy tích cực, chủ động, tự
chiếm lĩnh kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Có như vậy kết quả học
tập mới được nâng cao.
2. Thực trạng của vấn đề trước khi được áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Qua thực tế giảng dạy lớp 1 nhiều năm tôi thấy:

- Phần lớn học sinh biết làm bài toán có lời văn.
- Học sinh ham học, có hứng thú học tập môn toán nói chung và “Giải bài
toán có lời văn” nói riêng.
- Học sinh bước đầu biết vận dụng bài toán có lời văn vào thực tế.
Song bên cạnh đó, qua quá trình giảng dạy tôi thấy còn không ít học sinh
còn lúng túng khi giải bài toán có lời văn. Đó là:
+ Đọc được đề bài nhưng chưa hiểu đề bài, chưa biết thế nào là tìm hiểu
bài toán có lời văn như: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì ?
+ Không hiểu các thuật ngữ toán học như: thêm, bớt, cho đi, mua về, bay
đi, chạy đến,. . . và câu hỏi: Có tất cả bao nhiêu? Còn lại bao nhiêu? . . . .


+ Không biết tóm tắt bài toán, lúng túng khi nêu câu lời giải, có khi học
sinh nêu lại hỏi của bài toán. Không hiểu thuật ngữ toán học nên không biết nên
cộng hay trừ dẫn đến nói sai, viết sai phép tính, sai đơn vị, viết sai đáp số.
Ví dụ: Khi dạy bài tập 2 trang 118
“Lúc đầu tổ em có 6 bạn, sau đó có thêm 3 bạn nữa. Hỏi tổ em có tất cả mấy
bạn?”
- Một số học sinh chỉ biết làm đúng phép tính và đáp số nhưng chưa biết
viết câu lời giải :
- Có học sinh chỉ biết viết câu lời giải, làm đúng phép tính và đáp số
nhưng chưa viết đúng tên đơn vị (danh số):
- Khi làm bài học sinh chỉ ghi câu lời giải và phép tính còn không ghi đáp số:
- Có bài thì nhìn qua tưởng đúng hết nhưng phần viết kết quả của phép tính
có ghi tên đơn vị trong dấu ngoặc, còn ở đáp số thì ghi kết quả với tên đơn vị
cũng có trong dấu ngoặc.
+ Một số ít học sinh không hiểu nội dung bài toán có lời văn dẫn đến
không làm được bài.
+ Trình bày bài làm còn chưa sạch đẹp.
+ Một số em làm đúng nhưng khi cô hỏi lại không biết trả lời. Chứng tỏ

các em chưa nắm được một cách chắc chắn cách giải bài toán có lời văn.
+ Khi về nhà học sinh lại chưa được bố mẹ quan tâm đến bài vở của con
do đi làm vất vả hoặc muốn quan tâm nhưng không biết dạy con sao cho đúng
phương pháp dẫn đến giáo viên rất vất vả khi dạy đến dạng bài toán có lời văn.
Kết quả điều tra tại lớp 1C- năm học 20117- 2018:
Bài tập số 2 (Trang 118) - Tiết 1 của bài: Giải toán có lời văn
Lúc đầu tổ em có 6 bạn, sau đó có thêm 3 bạn nữa. Hỏi tổ em có tất
cả mấy bạn?
Tổng
Giỏi
Khá
Đạt yêu cầu
Chưa đạt
số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
HS
42
12
28,5
10
23,8
11
26,2

9
21,5
Về cách trình bày:
Tổng
số HS
42

HS viết đúng
câu lời giải
SL
%
9
21,5

HS viết đúng
phép tính
SL
%
15
35,7

HS viết đúng
đáp số
SL
%
11
26,2

HS giải đúng cả
3 bước

SL
%
7
16,6

* Nguyên nhân của thực trạng :
+ Về phía học sinh:
Do học sinh mới bắt đầu làm quen với dạng toán này nên tư duy của các
em còn mang tính trực quan làchủ yếu. Mặt khác ở giai đoạn này các em
chưa đọc thông viết thạo, các em đọc còn đánh vần nên khi đọc xong bài toán
rồi nhưng các em không hiểu bài toán nói gì, thậm chí có những em đọc đi đọc


lại nhiều lần nhưng vẫn chưa hiểu bài toán. Vì vậy học sinh không làm đúng
dạng toán có lời văn cũng là điều dễ hiểu .
+ Về phía giáo viên:
Giáo viên chưa chuẩn bị tốt cho các em khi dạy những bài trước. Những
bài nhìn hình vẽ viết phép tính thích hợp, đối với những bài này hầu như học
sinh đều làm được nên giáo viên tỏ ra chủ quan, ít nhấn mạnh hoặc không chú ý
lắm mà chỉ tập trung vào dạy kĩ năng đặt tính, tính toán của học sinh mà quên
mất rằng đó là những bài toán làm bước đệm, bước khởi đầu của dạng toán có
lời văn sau này. Đối với giáo viên dạy lớp 1 khi dạy dạng bài nhìn hình vẽ viết
phép tính thích hợp, cần cho học sinh quan sát tranh tập nêu bài toán và thường
xuyên rèn cho học sinh thói quen nhìn hình vẽ nêu bài toán. Có thể tập cho
những em học sinh giỏi tập nêu câu trả lời cứ như vậy trong một khoảng thời
gian chuẩn bị như thế thì đến lúc học đến phần bài toán có lời văn học sinh sẽ
không ngỡ ngàng và các em sẽ dễ dàng tiếp thu, hiểu và giải đúng.
+ Về phía phụ huynh học sinh:
Một nguyên nhân không nhỏ có ảnh hưởng đến việc giải toán có lời văn
của học sinh là do phụ huynh thiếu quan tâm đến việc học của con em mình ở

nhà.
Trên đây là những nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng chất lượng môn
toán nói chung và giải toán có lời văn nói riêng ở lớp 1. Trước thực trạng như
vậy tôi suy nghĩ : “Phải làm gì để thay đổi thực trạng này? Và hướng dẫn các
em giải
toán có lời văn bằng cách nào?”
Qua nhiều năm dạy lớp 1, tôi đã tìm hiểu, suy nghĩ kết hợp với sự tiếp thu
những đóng góp của tổ chuyên môn, của đồng nghiệp, tôi xin đưa ra: “Một số
kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 giải toán có lời văn.” mà tôi đã thực hiện và
thấy có hiệu quả đối với lớp tôi và với khối 1 của trường.
3. Các giải pháp
3.1. Nắm chắc nội dung chương trình giải toán có lời văn:
Để dạy tốt môn Toán lớp 1 nói chung, “Giải toán có lời văn ” nói riêng,
điều đầu tiên là mỗi giáo viên phải nắm chắc nội dung chương trình, sách giáo
khoa.
a)Trong chương trình toán lớp 1 giai đoạn đầu học sinh còn đang học chữ
nên chưa thể đưa ngay “Bài toán có lời văn”. Mặc dù đến tuần 23, học sinh mới
được chính thức học cách giải “Bài toán có lời văn” song chúng ta đã ngầm
chuẩn bị từ xa cho việc làm bài này ngay từ bài: “Phép cộng trong phạm vi 3”
(Luyện tập) ở tuần 7.
*Bắt đầu từ tuần 7 cho đến tuần 16 trong hầu hết các tiết dạy về phép cộng
trong phạm vi (không quá) 10 đều có các bài tập thuộc dạng “Nhìn tranh nêu
phép tính” ở đây học sinh được làm quen với việc:
- Xem tranh vẽ.
- Nêu bài toán bằng lời.
- Nêu câu trả lời.


- Điền phép tính thích hợp (với tình huống trong tranh).
* Tiếp theo đó, kể từ tuần 17, học sinh được làm quen với việc đọc tóm tắt

rồi nêu đề toán bằng lời, sau đó nêu cách giải và tự điền số và phép tính thích
hợp vào dãy năm ô trống. Ở đây không còn tranh vẽ nữa.
* Việc ngầm chuẩn bị cho học sinh các tiền đền để giải toán có lời văn là
chuẩn bị cho học sinh cả về viết câu lời giải và phép tính. Chính vì vậy ngay sau
các bài tập “Nhìn tranh điền phép tính thích hợp vào dãy 5 ô trống” chúng ta
chịu khó đặt thêm cho các em những câu hỏi để các em trả lời miệng.
* Tiếp theo, trước khi chính thức học “Giải toán có lời văn” học sinh được
học bài nói về cấu tạo của một bài toán có lời văn (gồm hai thành phần chính là
những cái đã cho (đã biết) và những cái phải tìm (chưa biết). Vì vậy có thể giải
thích cho học sinh “Bài toán là gì?” nêu mục tiêu của tiết này là chỉ giới thiệu
cho các em hai bộ phận của một bài toán:
+ Những cái đã cho (dữ kiện)
+ Và cái phải tìm (câu hỏi)
Bài này giúp các em hiểu sâu hơn về cấu tạo của “Bài toán có lời văn”.
b) Các loại toán có lời văn trong chương trình chủ yếu là hai loại toán
“Thêm- Bớt” thỉnh thoảng có biến tấu một chút:
- Bài toán “Thêm” thành bài toán gộp, chẳng hạn: “An có 4 quả bóng,
Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng? dạng này khá phổ biến.
- Bài toán “Bớt” thành bài toán tìm số hạng, chẳng hạn: “Lớp 1A có 35
bạn, trong đó có 20 bạn nữ. Hỏi lớp 1A có bao nhiêu bạn nam?”, dạng này ít gặp
vì hơi khó (trước đây dạy ở lớp 2).
3.2. Dạy “Giải toán có lời văn” ở lớp 1:
3.2.1. Một số dạng toán có lời văn ở lớp 1:
a) Điền phép tính thích hợp: Học sinh chỉ việc nhìn tranh và trả lời câu hỏi
rồi điền phép tính.
Ví dụ như tranh minh họa bài tập 4/b (sách giáo khoa trang 69):
b) Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán:
Bài toán: Có … bạn, có thêm … bạn đang đi tới. Hỏi tất cả có bao nhiêu bạn?
Với bài này, học sinh chỉ việc nhìn tranh trả lời câu hỏi của giáo viên rồi
điền vào số vào đề bài thành bài toán có lời văn

c) Yêu cầu học sinh điền số vào tóm tắt và tìm lời giải, phép tính rồi điền
vào đáp số.
Ví dụ: Lúc đầu tổ em có 6 bạn, sau đó có thêm 3 bạn nữa. Hỏi tổ em có tất cả
mấy bạn?
Tóm tắt
Bài giải
Có :…… bạn
…………………………………
Thêm :…… bạn
………………………………..
Có tất cả :…… bạn?
Đáp số:…. bạn.
d) Điền số vào tóm tắt rồi tự tìm lời giải và giải:
Ví dụ (bài 1 trang 121/ Toán 1):
Trong vườn có 12 cây chuối, bố trồng thêm 3 cây chuối. Hỏi có tất cả bao


nhiêu cây chuối ?
Tóm tắt

:…… cây
Thêm
:…… cây
Có tất cả :…… cây ?
e) Yêu cầu học sinh tự tóm tắt và tìm cách giải:
Ví dụ như bài số 4 (trang 135):
Lớp 1A vẽ được 20 bức tranh, lớp 1B vẽ được 30 bức tranh. Hỏi cả hai lớp
vẽ được bao nhiêu bức tranh?
Nhìn chung những dạng toán trên cũng phù hợp với học sinh những cũng
có phần

gây khó khăn cho một số học sinh trung bình, học sinh yếu. Đây cũng là yêu cầu
đối với giáo viên làm sao cho học sinh hiểu được bài toán và giải được thông
qua bước phân tích đề bài sau đây.
3.2.2. Nhận biết cấu tạo bài toán có lời văn:
Tiết 84: Bài toán có lời văn. Học sinh được học với đề toán chưa hoàn thiện.
Tiếp tục sử dụng kĩ năng quan sát tranh, học sinh đã rất thành thạo ở giai đoạn 2
vậy nên hoàn thiện nốt đề bài toán là điều không khó đối với học sinh lớp tôi.
Tiếp tục tôi giảng để học sinh nắm chắc một bài toán có lời văn ở lớp 1 gồm 2
phần: phần cho biết, phần hỏi.
Gồm 4 bài toán có yêu cầu khác nhau:
* Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán:
Bài toán 1: Có …bạn, có thêm… bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn ?
Bài toán 2: Có … con, có thêm … con thỏ đang chạy tới. Hỏi có tất cả bao
nhiêu con thỏ ?
* Bài toán còn thiếu câu hỏi (cái cần tìm):
Bài toán 3: Viết tiếp câu hỏi để có bài toán.
Có 1 gà mẹ và có 7 gà con.
Hỏi ………………………………………………….?
* Bài toán còn thiếu cả số cả câu hỏi (cái đã cho và cái cần tìm)
Bài toán 4: Có … con chim đậu trên cành, có thêm….con chim bay đến.
Hỏi ………………………………………………….?
- Dạy dạng toán này tôi phải xác định làm thế nào giúp các em điền đủ được
các dữ kiện (cái đã cho và cái cần tìm) còn thiếu của bài toán và bước đầu các
em hiểu được bài toán có lời văn là phải đủ các dữ kiện; đâu là cái đã cho và đâu
là cái cần tìm.
Bước 1: GV đặt câu hỏi - HS trả lời và điền số còn thiếu vào chỗ chấm để có
bài toán. Giáo viên kết hợp dùng phấn màu ghi số còn thiếu vào bài toán mẫu
trên bảng lớp.
Bước 2: Hướng dẫn các em xác định cái đã cho và cái cần tìm. (dữ kiện và yêu
cầu bài toán). Dùng phấn màu gạch chân dữ kiện và từ quan trọng (tất cả) của

bài toán.
Sau khi hoàn thành 4 bài toán giáo viên nên cho các em đọc lại và xác


định bài 1 và bài 2 thiếu cái đã cho; bài 3 thiếu cái cần tìm; bài 4 thiếu cả cái đã
cho và cái cần tìm. Qua đó giúp các em hiều được đây là dạng toán có lời văn
phải có đủ dữ kiện.
3.2.3. Quy trình giải toán có lời văn:
Gồm các bước:
- Tìm hiểu bài toán.
- Tóm tắt bài toán.
- Tìm đường lối (cách) giải bài toán
- Trình bày bài giải (gồm 3 phần: câu lời giải, phép tính, đáp số).
- Kiểm tra lại bài giải
Ví dụ 1: Dạy bài: Giải bài toán có lời văn
Bài 1 trang 117: An có 4 quả bóng, Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy
quả bóng ?
Bước 1: Tìm hiểu bài
Tôi yêu cầu học sinh:
- Quan sát tranh minh hoạ trong SGK
- Đọc bài toán.
- Đặt câu hỏi tìm hiểu bài:
+ Bài toán cho biết gì? (An có 4 quả bóng)
+ Bài toán còn cho biết gì nữa? (Bình có 3 quả bóng)
+ Bài toán yêu cầu tìm gì? (Cả hai bạn có mấy quả bóng?)
Tôi gạch chân dữ kiện, yêu cầu của bài toán.
Bước 2: Tóm tắt bài toán.
Tôi hướng dẫn để học sinh hoàn thiện tóm tắt của bài toán. Lúc này học sinh
chỉ cần dựa vào bài toán cho biết gì và bài toán hỏi gì là đã hoàn thiện tóm tắt.
An có

: 4 quả bóng.
Bình có
: 3 quả bóng.
Cả hai bạn có: . . . quả bóng ?
- Yêu cầu học sinh đọc lại tóm tắt.
Bước 3: Tìm đường lối (cách) giải bài toán
a) Hướng dẫn học sinh viết lời giải:
Tôi hỏi học sinh: Dựa vào đâu ta viết được lời giải của bài toán ?
Học sinh: Dựa vào câu hỏi của bài toán
Tôi nhấn mạnh cho học sinh: Bài toán hỏi cái gì thì trả lời ngay các đó.
Tôi có thể hướng dẫn các em viết câu lời giải theo một số cách sau:
Cách 1: Hướng dẫn cho HS chọn cách viết câu lời giải gần với câu hỏi nhất đó là:
- Đọc kĩ câu hỏi.
- Bỏ chữ Hỏi đầu câu hỏi.
- Thay chữ mấy bằng chữ số.
- Thêm vào cuối câu chữ là và dấu hai chấm
Để có câu lời giải: “Cả hai bạn có số quả bóng là:”
Cách 2: Đưa từ “quả bóng” ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ “Hỏi” và


thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có “Số quả bóng hai bạn có tất cả là”
Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của câu tóm tắt coi đó là “từ khoá” của câu lời
giải rồi thêm thắt chút ít. Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt “ Cả hai bạn có :
….quả bóng ?”. Học sinh viết câu lời giải: “Cả hai bạn có là:”
Cách 4: Sau khi học sinh tính xong: 4 + 3 = 7 (quả bóng). Giáo viên chỉ vào 7
rồi hỏi: “ 7 quả bóng này là của ai? ” (số bóng của hai bạn có tất cả). Từ câu trả
lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: “Số bóng của hai
bạn có tất cả là”…
Vậy là có rất nhiều câu lời giải khác nhau, yêu cầu học sinh chọn câu lời giải
thích hợp nhất, không nên bắt học sinh nhất nhất phải viết theo lời giải theo một

kiểu.
b) Hướng dẫn học sinh viết phép tính:
Tôi nêu tiếp: “Muốn biết cả hai bạn có mấy quả bóng ta làm phép tính gì? (tính
cộng); Mấy cộng với mấy? (4 + 3 = 7) hoặc 4 cộng 3 bằng mấy? (4 + 3 = 7);
Tiếp tục tôi gợi ý để học sinh nêu tiếp “ 7 này là 7 quả bóng” nên ta viết “quả
bóng” vào dấu ngoặc đơn: 4 + 3 = 7 (quả bóng).
Lưu ý bài toán hỏi cái gì thì ghi tên đơn vị cái đó (Ví dụ: hỏi cả hai bạn có
mấy quả bóng ? Tên đơn vị (quả bóng) hoặc hỏi có tất cả bao nhiêu con vịt ?
Tên đơn vị (con vịt)….
c) Hướng dẫn học sinh viết đáp số:
Tôi cho học sinh biết: đáp số viết kết quả của phép tính, danh số không cần viết
trong ngoặc đơn
Bước 4: Trình bày bài giải:
Bài giải
Cả hai bạn có số quả bóng là:
4 + 3 = 7 (quả bóng)
Đáp số: 7 quả bóng
Bước 5: Kiểm tra lại bài giải
Sau khi học sinh làm bài xong yêu cầu các em kiểm tra lại bài xem đã
đúng chưa (có thể quan sát tranh lại để kiểm tra)
Ví dụ 2: Bài tập 2 (trang 169- Toán 1)
Bài toán : Một thanh gỗ dài 97 cm, bố em cưa bớt đi 2 cm. Hỏi thanh gỗ còn lại
dài bao nhiêu xăng-ti- mét?
* Thực hiện theo 4 bước hướng dẫn giải bài toán có lời văn trên như sau:
Bước 1: Tìm hiểu đề bài
- Cho học sinh đọc đề nhiều lần để xác định dạng bài tập.
* Đối với học sinh khá, giỏi có thể hỏi:
Bài toán cho biết gì? (Một thanh gỗ dài 97 cm, bố em cưa bớt 2 cm).
Bài toán hỏi gì? Hay bài toán yêu cầu gì? (Thanh gỗ còn lại dài bao nhiêu xăngti-mét ?)
* Đối với học sinh yếu có thể hỏi:

+ Thanh gỗ dài bao nhiêu xăng-ti-mét? (97cm)
+ Bố em cưa bớt bao nhiêu xăng-ti-mét? (2cm)
+ Bài toán hỏi gì? (Thanh gỗ còn lại dài bao nhiêu xăng- ti- mét?)


Bước 2: Tóm tắt bài toán
(Có thể hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng lời, bằng sơ đồ đoạn thẳng hoặc bằng
hình vẽ)
Tóm tắt
Thanh gỗ : 97 cm
Cưa bớt : 2 cm
Còn lại
: … cm?
Bước 3: Hướng dẫn cách giải và tìm lời giải:
- Đối với học sinh khá giỏi:
+ Bài toán hỏi gì? (Thanh gỗ còn lại dài bao nhiêu xăng- ti- mét?)
+ Muốn biết thanh gỗ còn lại dài bao nhiêu ta làm thế nào? (lấy: 97 - 2 = 95
(cm)
- Đối với học sinh yếu cần hỏi :
+ Bài toán cho ta biết những gì? (Một thanh gỗ dài 97 cm, bố em cưa bớt 2 cm)
+ Bài toán hỏi gì? (Thanh gỗ còn lại dài bao nhiêu xăng- ti- mét?)
+ Muốn biết thanh gỗ còn lại dài bao nhiêu ta làm phép tính gì ? (phép tính trừ)
+ Vì sao? (vì có từ “còn lại”)
+ Gọi học sinh nêu phép tính trừ? (97 - 2 = 95 (cm)
- Tìm lời giải cho bài toán là dựa vào câu hỏi: Hỏi thanh gỗ còn lại dài bao
nhiêu xăng- ti- mét? Chúng sẽ bỏ đi tiếng “hỏi” và “bao nhiêu xăng –ti- mét”
thêm từ “là” thì ta được lời giải như sau: “Thanh gỗ còn lại dài số xăng ti mét
là:”
Bước 4: Trình bày bài giải
Bài giải

Thanh gỗ còn lại dài số xăng ti mét là:
97 - 2 = 95 (cm)
Đáp số: 95 cm.
Bước 5: Kiểm tra lại bài giải
*Đối với giải bài toán theo tóm tắt:
Tôi cho học sinh đọc tóm tắt đề toán, nhìn tóm tắt nêu đề toán, phân tích
đề và giải bài toán như trên.
3.3. Sử dụng tốt các phương pháp dạy học trong dạy giải toán có lời văn:
a. Phương pháp trực quan: Giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt
động trực tiếp trên các hiện tượng, sự vật cụ thể để dựa vào đó nắm bắt được
kiến thức, kĩ năng của môn Toán.
b. Phương pháp thực hành luyện tập: là phương pháp dạy học liên quan
đến hoạt động thực hành luyện tập các kiến thức, kĩ năng của môn học, chiếm
50% tổng thời gian dạy học Toán. Vì vậy phương pháp này được thường xuyên
sử dụng trong dạy học Toán nói chung và dạy giải toán có lời văn nói riêng. Cụ
thể cho học sinh luyện tập ở: + Làm trên bảng lớp
+ Làm trên bảng con của học sinh.
+ Luyện tập Toán trong vở .
+ Làm trong phiếu học tập.


c. Phương pháp gợi mở vấn đáp: là phương pháp sử dụng một hệ thống các câu
hỏi để hướng dẫn học sinh suy nghĩ, lần lượt trả lời từng câu hỏi, từng bước dần
đến cách trình bày bài toán có lời văn.
d. Phương pháp giảng giải minh hoạ: Phương pháp này dùng lời nói để giải
thích, kết hợp với các phương tiện trực quan để hỗ trợ cho việc giải thích.
đ. phương pháp tổ chức trò chơi học tập:
Đối với học sinh lớp 1 các em vừa chuyển sang một môi trường mới được
học tất cả các môn học, trong khi đó ở Mầm non các em chủ yếu là được vui
chơi. Cho nên khi tiếp thu kiến thức mới các em chưa hứng thú, say mê, dễ

nhàm chán. Vì vậy tổ chức trò chơi học tập trong các môn học nói chung và môn
Toán nói riêng là rất cần thiết, bỡi vì sau khi học sinh đã nỗ lực tự giác giải
quyết các nhiệm vụ của bài học, nếu giáo viên chuyển sang một hình thức tổ
chức học tập mới (trò chơi học tập) thì các em được chuyển từ trạng thái “căng
thẳng” sang một trạng thái ‘hưng phấn” sẽ phù hợp với độ tuổi các em hơn. Để
tổ chức trò chơi học tập mang lại kết quả thì giáo viên cần biết tổ chức trò chơi
vào lúc nào trong mỗi tiết dạy, thiết kế trò chơi phải đảm bảo những yêu cầu gì,
cách tổ chức trò chơi ra sao, chuẩn bị các đồ dùng, thiết bị phục vụ cho trò chơi
để đạt được hiệu quả và đem lại sự hứng thú say mê học tập cho học sinh.
e. Tổ chức cho học sinh học nhóm cộng tác:
Trước khi giải một bài toán có lời văn giáo viên có thể cho học sinh tự
suy nghĩ tìm ra cách giải bài toán sau đó có thể thảo luận trong nhóm xem cách
giải đã chính xác chưa, có cần sự giúp đỡ của bạn không, rồi mới trình bày bài
giải.
3.4. Sử dụng hợp lý, có hiệu quả đồ dùng dạy học, đặc biệt là đồ dùng
trực quan:
- Dạy giải toán có lời văn giáo viên cho học sinh quan sát đồ dùng trực
quan đem lại hứng thú cho học sinh. Lớp học thoải mái, vui vẻ, giờ học đạt hiệu
quả cao. Học sinh ham thích học toán.
- Học sinh được học tập qua ứng dụng công nghệ thông tin bằng hình ảnh
được trình chiếu một cách sinh động tạo sự hứng thú cho các em tập trung hơn.
Tuy nhiên giáo viên không nên lạm dụng quá vào việc dạy học.
3.5. Tích cực, kiên trì và chủ động, sáng tạo đổi mới phương pháp dạy học.
- Chuẩn bị bài trước khi lên lớp rất quan trọng nên việc xây dựng mục tiêu
bài học cũng như sắp xếp, tổ chức các hoạt động dạy - học cần được coi trọng.
- Ngoài ra giáo viên cần mạnh dạn trao đổi những vấn đề khó, những vấn
đề mới với ban giám hiệu, đồng nghiệp để được tư vấn.
- Trong giảng dạy có nhiều học sinh nhận thức chậm. Giáo viên phải kiên
trì, không nên khắt khe mà nên tạo điều kiện cho các em được tham gia vào các
hoạt động học tập, được chia sẻ để tự tin hơn…

- Giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá học sinh
thường xuyên trao đổi với giáo viên trong tổ, tổ chức các chuyên đề, sinh hoạt
chuyên môn mới, chia sẻ, giải quyết kịp thời các khó khăn.
- Tăng cường khảo sát chất lượng học sinh ngay tại các giờ học, buổi học,


tuần học.
- Chấm bài thường xuyên, có thể nhận xét trực tiếp hoặc ghi nhận xét vào
vở học sinh, động viên học sinh kịp thời.
3.6. Cách đánh giá học sinh:
Cách đánh giá trong dạy học Toán cần phải đánh giá toàn bộ kiến thức kĩ
năng cơ bản của học sinh. Giáo viên cần đổi mới cách đánh giá nhằm thúc đẩy
quá trình dạy học cá nhân. Đồng thời động viên, khuyến khích động viên học
sinh chăm học, tự tin hứng thú trong học tập, khi đánh giá giáo viên cần lưu ý
đánh giá cần đảm bảo tính khách quan công bằng, đánh giá học sinh theo quy
định, theo hướng động viên có sự chú ý tới sự phát triển của mỗi học sinh, phối
hợp các hình thức kiểm tra đánh giá để đánh giá đúng việc nắm kiến thức và kĩ
năng trình bày, diễn đạt của học sinh. Ngoài việc giáo viên đánh giá, giáo viên
cần tổ chức cho học sinh tự đánh giá mình và đánh giá bạn.
Ví dụ: khi dạy bài tập 2 (trang 169- Toán 1)
Bài toán: Một thanh gỗ dài 97 cm, bố em cưa bớt đi 2 cm. Hỏi thanh gỗ còn lại
dài bao nhiêu xăng-ti- mét?
Sau khi học sinh làm xong bài tập 2 ở sách giáo khoa, giáo viên cho học
sinh đổi vở để các em đánh giá nhận xét lẫn nhau. Bằng cách khác giáo viên
cho học sinh tự đánh giá bài của mình thông qua việc huy động kết quả và chữa
bài của giáo viên trước lớp.
3.7. Dự giờ thăm lớp:
Khi dạy giải toán có lời văn tôi hay đi dự giờ và khảo sát học sinh, sau đó
tôi cùng đồng nghiệp nghiên cứu bài làm trên giấy của học sinh, phân tích tiết
dạy tìm ra và cùng nhau phân tích nguyên nhân học sinh mắc sai lầm hoặc

không nắm được bài để rút ra kinh nghiệm nâng cao chất lượng cho học sinh.
3.8. Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh:
- Thường xuyên liên hệ trao đổi thông tin đa chiều giữa gia đình với nhà
trường để quan tâm, giúp đỡ và có biện pháp kịp thời giúp học sinh học không bị
sa sút.
- Phối hợp với gia đình và người đỡ đầu của học sinh, có những thông tin
trao đổi kịp thời để giáo dục học sinh về những kiến thức môn toán mà các em
chưa đạt được, tư vấn phương pháp dạy và kiểm soát học sinh.
- Khi giao bài về nhà dạng giải toán có lời văn tôi thấy các em còn lúng
túng, tôi đã mời cha mẹ học sinh đến cùng dự giờ xem con học bài, cùng giáo
viên giúp đỡ học sinh trong thời gian đầu mới học giải toán có lời văn. Muốn
học sinh thực hiện tốt các yêu cầu trước hết mỗi bậc cha mẹ, thầy cô phải trở
thành tấm gương về nghị lực trong mắt trẻ.
4. Kết quả đạt được:
So với thời gian đầu lớp tôi có nhiều em còn làm sai, chưa biết trình bày
câu lời giải, chưa làm đúng phép tính, đáp số thì sau khi áp dụng “Một số kinh
nghiệm giúp học sinh lớp 1 giải toán có lời văn” vào việc dạy toán có lời văn tôi
thấy đa số các em đã nắm được trình tự các bước để giải bài toán có lời văn. Đến
cuối năm học 2018- 2019, tôi ra đề cho học sinh làm bài như sau:


Minh có 10 cái kẹo, bố cho Minh thêm 10 cái kẹo nữa. Hỏi Minh có tất cả
bao nhiêu cái kẹo ?
Lớp tôi đạt kết quả như sau:
Tổng
Giỏi
Khá
Đạt yêu cầu
Chưa đạt
số

SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
HS
42
20
47,6
15
35,7
7
16,7
0
0
Về cách trình bày:
Tổng số HS
42 em
Bài khảo sát
đầu Bài tập
số 2 (Trang
118)

HS viết đúng HS viết đúng HS viết đúng
câu lời giải
phép tính
đáp số


HS giải đúng
cả 3 bước

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

10

23,8

15

35,7

5


11,9

12

28,6

III. PHẦN KẾT LUẬN
1. Kết luận:
Việc hình thành kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 là một việc
hết sức quan trọng. Nó tạo nền móng để học sinh giải toán ở các lớp trên với bài
toán có nhiều lời giải, nhiều phép tính. Đó là con đường tốt nhất để trẻ chiếm
lĩnh những thao tác trí tuệ nhằm phát triển chính bản thân mình .
Qua việc nghiên cứu và áp dụng một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1
giải toán có lời văn, tôi thấy học sinh học tập tích cực, sôi nổi hơn. Học sinh
nắm bài một cách chủ động và bền vững hơn. Tôi thấy học sinh biết giải và trình
bày bài giải bài toán có lời văn có một phép cộng hoặc một phép trừ thành thạo
và đạt kết quả khá cao.
Sáng kiến này được áp dụng tại trường Tiểu học Ngọc Trạo- Bỉm Sơn.
Đối tượng áp dụng là các lớp khối 1, đặc biệt là học sinh lớp 1C.
Nếu biết vận dụng linh hoạt thì “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1
giải toán có lời văn” có thể áp dụng tất các lớp ở khối 1 trong các trường tiểu
học và có thể áp dụng một phần đối với học sinh lớp trên của bậc tiểu học.
2. Kiến nghị, đề xuất:
Để nâng cao hơn nữa chất lượng dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp
1, tôi có một số kiến nghị sau:
- Cần có thêm tài liệu tham khảo, nâng cao cho giáo viên và học sinh để bổ
sung phương pháp dạy, đáp ứng nhu cầu dạy– học.
- Tổ chức nhiều hơn nữa các buổi sinh hoạt chuyên môn để học hỏi kinh
nghiệm của các đồng nghiệp.
- Duy trì tốt việc thao giảng, thăm lớp, dự giờ giáo viên trong trường.

- Các cấp lãnh đạo thường xuyên, quan tâm hơn nữa tới giáo viên và học


sinh, tạo mọi điều kiện để các em có thể thực hiện tốt quyền được học hành.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ mà bản thân tôi đúc rút được qua
quá trình giảng dạy. Tuy nhiên do thời gian và năng lực có hạn chắc hẳn sẽ có
những thiếu sót.
Rất mong sự góp ý kiến của bạn bè đồng nghiệp, ban giám hiệu nhà
trường và của các cấp quản lý để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện
hơn và có hiệu quả thiết thực hơn trong công tác giảng dạy.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Ngọc Trạo, ngày tháng năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác
Người viết

Nguyễn Thị Uyên


MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài:..............................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu:........................................................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:....................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu:..................................................................................2
II. PHẦN NỘI DUNG.........................................................................................2
1. Cơ sở lí luận:.....................................................................................................2

2. Thực trạng của vấn đề trước khi được áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:..................3
Kết quả điều tra tại lớp 1C- năm học 20117- 2018:..............................................4
3. Các giải pháp.....................................................................................................5
3.1. Nắm chắc nội dung chương trình giải toán có lời văn:..................................5
3.2. Dạy “Giải toán có lời văn” ở lớp 1:................................................................6
3.2.1. Một số dạng toán có lời văn ở lớp 1:...........................................................6
3.2.2. Nhận biết cấu tạo bài toán có lời văn:.........................................................7
3.2.3. Quy trình giải toán có lời văn:.....................................................................8
3.4. Sử dụng hợp lý, có hiệu quả đồ dùng dạy học, đặc biệt là đồ dùng trực quan:
.............................................................................................................................11
3.5. Tích cực, kiên trì và chủ động, sáng tạo đổi mới phương pháp dạy học.
3.6. Cách đánh giá học sinh:................................................................................12
3.7. Dự giờ thăm lớp:..........................................................................................12
3.8. Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh:..................................................12
4. Kết quả đạt được:............................................................................................12
III. PHẦN KẾT LUẬN.....................................................................................13
1. Kết luận:..........................................................................................................13
2. Kiến nghị, đề xuất:..........................................................................................13



SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD & ĐT THỊ XÃ BỈM SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP 1 HỌC
TỐT GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN


Người thực hiện: Nguyễn Thị Uyên
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Ngọc Trạo
SKKN thuộc lĩnh vực ( môn): Toán

BỈM SƠN NĂM 2019


PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THỊ XÃ BỈM SƠN

TRƯỜNG TIỂU HỌC NGỌC TRẠO

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP 1
HỌC TỐT GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN

Người thực hiện: Nguyễn Thị Uyên
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Ngọc Trạo
SKKN thuộc lĩnh vực ( môn): Toán

BỈM SƠN NĂM 2019



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×