Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của Singapore – Liên hệ với pháp luật bảo vệ môi trường của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (976.63 KB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ NHÀN

CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA SINGAPORE - LIÊN HỆ VỚI
PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ NHÀN

CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA SINGAPORE - LIÊN HỆ VỚI
PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 8380101.06

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS.GVC NGUYỄN LAN NGUYÊN

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Nhàn

i


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: SỰ CẦN THIẾT XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ MỘT SỐ ĐIỀU ƯỚC QUAN
TRỌNG VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ............................................. 6
1.1.

Sự cần thiết xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ........... 6


1.1.1. Khái niệm môi trường ........................................................................... 6
1.1.2. Thực trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường trên thế giới và ở Việt Nam............ 7
1.2.

Một số điều ước quốc tế quan trọng về bảo vệ môi trường .......... 15

1.2.1. Các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường. ...................................... 15
1.2.2. Nội dung các điều ước quốc tế về môi trường .................................... 17
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 37
Chương 2: PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỞNG CỦA SINGAPORE
VÀ CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG CỦA SINGAPORE ................................................ 38
2.1.

Pháp luật bảo vệ môi trường của Singapore .................................. 38

2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật bảo vệ môi
trường ở Singapore .............................................................................. 38
2.1.2. Hệ thống văn bản pháp luật bảo vệ môi trường ở Singapore ............. 39
2.2.

Các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
của Singapore .................................................................................... 46

2.2.1. Trách nhiệm hình sự............................................................................ 46
2.2.2. Trách nhiệm hành chính ...................................................................... 49
2.2.3. Trách nhiệm dân sự ............................................................................. 51
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 52


ii


Chương 3: CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT
NAM TRONG LĨNH VỰC NÀY..................................................... 53
3.1.

Các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
của Việt Nam ..................................................................................... 53

3.1.1. Hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường của Việt Nam ........... 53
3.1.2. Trách nhiệm cụ thể trong từng lĩnh vực pháp luật bảo vệ môi
trường của Việt Nam ........................................................................... 62
3.2.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong
lĩnh vực xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường .................... 89

3.2.1. Hoàn thiện hệ thống các biện pháp xử lý hình sự ............................... 89
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống các biện pháp xử lý hành chính ......................... 90
3.2.3. Hoàn thiện hệ thống các biện pháp xử lý dân sự ................................ 91
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 94
KẾT LUẬN .................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 96

iii



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hiện nay, môi trường là vấn đề nóng của toàn nhân loại, chúng ta thấy
rằng khí hậu ngày nay khắc nghiệt và khó dự báo hơn. Mưa rào, lũ quét thất
thường, suy thoát đất, nước, suy giảm nguồn tài nguyên rừng, ô nhiễm môi
trường xảy ra trên diện rộng. đó là vấn đề về môi trường mà toàn nhân loại
đang phải đối mặt. Con người đã tác động đến môi trường, khai thác đến mức
cạn kiệt các nguồn tài nguyên, thải nhiều chất độc làm cho môi trường không
còn khả năng tự phân hủy. Thiên nhiên ban tặng cho con người nhiều thứ như
vậy mà không biết giữ gìn và bảo vệ nó, để giờ đây, khi môi trường đang dần
bị xuống cấp, xuất hiện nhiều loại “bệnh lạ” hơn con người mới nhận thức
được tầm quan trọng của môi trường.
Singapore đất nước có biểu tượng sư tử, mình cá (Merlion), ai cũng có
thể biết đó là đất nước phát triển kinh tế, xã hội trong mấy thập niên qua với
tốc độ phát triển nhanh nhất Đông Nam Á, vì thế, người ta ví đất nước này là
một trong những con Rồng của khu vực. Bên cạnh việc nổi trội về phát triển
kinh tế, xã hội. thì nói đến Singapore người ta còn nhắc đến nó như là một
trong những thành phố xanh, thành phố sạch nhất thế giới. Để có được điều
này Chính phủ của Singapore đã đặc biệt coi trọng việc bảo vệ môi trường
sinh thái, coi đây là nhiệm vụ chiến lược trong chính sách phát triển kinh tế,
xã hội và xây dựng hệ thống pháp luật về môi trường. Từ đó thực hiện nhiều
biện pháp pháp lý bằng luật, lệ có thể kể đến các đạo luật liên quan đến môi
trường và những biện pháp thi hành các chế tài dân sự, hành chính và tăng
cường áp dụng các biện pháp hình sự đối với các vi phạm pháp luật về môi
trường. Và thực tế đã chứng minh được sự hiệu quả trong công tác bảo vệ môi
trường tại Singapore.

1



Nước ta, trong những năm gần đây vấn đề bảo vệ môi trường đặc biệt
được quan tâm, bằng việc hàng loạt các chính sách, pháp luật về môi trường
được ban hành. Và việc thực thi cũng đã đạt được kết quả nhất định, bên cạnh
những kết quả đạt được thì còn những hạn chế chưa khắc phục được, đặc biệt
là vấn đề về các chế tài xử lý vi phạm ô nhiễm môi trường vẫn còn chưa đủ
sức răn đe cho việc gây ô nhiễm môi trường.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tôi đã chọn đề tài “Các biện pháp
xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của Singapore - Liên hệ với
pháp luật bảo vệ môi trường của Việt Nam” làm công trình nghiên cứu luận
văn thạc sĩ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận về các biện pháp xử lý
vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường của Singapore, liên hệ với pháp luật về
bảo vệ môi trường của Việt Nam để từ đó thấy được những ưu điểm và hạn
chế và đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt
Nam về chế định này.
Để đạt được mục tiêu tổng quát trên, luận văn tập trung vào việc làm rõ
một số vấn đề sau: Những vấn đề chung về hệ thống pháp luật Bảo vệ môi
trường của Singapore và của Việt Nam; Các chế tài xử lý vi phạm pháp luật
bảo vệ môi trường của Sigapore; Các chế tài xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ
môi trường theo pháp luật hiện hành của Việt Nam. Những hạn chế của các
chế định trên; Căn cứ những ưu điểm và kết quả mà các chế định của
Singapore đã đạt được trong thời gian vừa qua đưa ra một số kiến nghị hoàn
thiện hệ thống các chế tài xử lý vi phạm ô nhiễm môi trường tại Việt Nam.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên
quan đến các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của

2



Singapore liên hệ với pháp luật Việt Nam. So với những khóa luận, Luận văn
trước đây, Luận văn sẽ có một số điểm mới sau đây.
- Nghiên cứu về mặt lý luận về các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật
bảo vệ môi trường của Singapore.
- Nghiên cứu về mặt lý luận về các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật
bảo vệ môi trường của Việt Nam
- Từ đó đưa ra được những lý luận về các mặt còn hạn chế của pháp
luật bảo vệ môi trường của Việt Nam và đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện
hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường tại Việt Nam.
- Luận văn được bảo vệ thành công sẽ là tài liệu có giá trị tham khảo
cho việc hoàn thiện các quy định của Pháp Luật bảo vệ môi trường của Việt
Nam. Kết quả nghiên cứu của khóa luận còn cung cấp thêm một nguồn tài
liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy về pháp luật bảo vệ môi trường
tại Việt Nam.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận về các
biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của Singapore, liên
hệ với pháp luật bảo vệ môi trường của Việt Nam, từ đó có những phân tích
về ưu điểm và hạn chế và đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện pháp luật bảo
vệ môi trường Việt Nam.
5. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ một Luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu,
làm rõ một số vấn đề lý luận về các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường hiện hành của Singapore, liên hệ với pháp luật bảo vệ môi
trường hiện hành của Việt Nam. Những vấn đề khác liên quan đến đề tài này
sẽ được tiếp tục nghiên cứu khi có điều kiện.

3



6. Tổng quan tài liệu
Vấn đề về bảo vệ môi trường tại Việt Nam đang là vấn đề được cộng
đồng quan tâm, vì vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn
đề này và gần đây nhất. Năm 2017, có Luận văn Thạc sĩ Luật học của học
viên cao học Luật, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội đề tài “pháp luật về
bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay” của học viên Đào Thị
Thùy Dung, người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đào Trí Úc. Tuy nhiên, đi sâu
vào việc nghiên cứu toàn diện, quy mô về các biện pháp xử lý vi phạm pháp
luật bảo vệ môi trường tại Việt Nam thì gần đây chưa có đề tài nghiên cứu
nào. Năm 2003 có Luận văn Thạc sĩ Luật học của học viên Nguyễn Thị Thu
Thủy, học viên cao học Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, người hướng
dẫn khoa học: TS Hoàng Thị Kim Quế đề tài “pháp luật xử phạt hành chính
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường” nhưng mới chỉ dừng lại biện pháp xử phạt
hành chính đối với các vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Còn đối với
Pháp luật về bảo vệ môi trường của Singapore gần đây trên trang
Vietnamnet.vn có đăng bài “Bảo vệ môi trường bằng “kỳ luật thép ở
Singapore” đăng ngày 23/8/2013 tuy nhiên, cũng chỉ dừng lại với mức là một
bài báo đăng. Do đó việc nghiên cứu đề tài của tôi không trùng với bất cứ
công trình nghiên cứu nào đã công bố.
7. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu
7.1. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo.
Luận văn được kết cấu gồm 3 chương sau:
Chương 1. Sự cần thiết xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
và một số Điều ước quốc tế quan trọng về bảo vệ môi trường.
Chương 2. Pháp luật bảo vệ môi trường của Singapore và các biện pháp
xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường của Singapore.

4



Chương 3. Các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
của Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong
lĩnh vực này.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp, bao gồm phương pháp
Logic, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích
tổng hợp để nghiên cứu cơ sở lý luận khoa học, hoàn thiện hệ thống lý luận
pháp lý. Các phương pháp sử dụng 1 cách linh hoạt để đảm bảo hiệu quả và
tính thuyết phục của việc nghiên cứu.

5


Chương 1
SỰ CẦN THIẾT XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG VÀ MỘT SỐ ĐIỀU ƯỚC QUAN
TRỌNG VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
1.1. Sự cần thiết xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
1.1.1. Khái niệm môi trường
Vấn đề môi trường sống của con người trên trái đất đã và đang bị ô
nhiễm là một vấn đề cấp bách đối với bất kì quốc gia nào. Vì nó gây ra những
hiện tượng biến đổi khí hậu dẫn đến những thảm họa thiên tai khủng khiếp. Ở
Việt Nam sự ô nhiễm môi trường là vấn đề đáng báo động. Đây là một hiện
tượng xấu, nhiều tác hại, cần phải nhanh chóng khắc phục.
Xung quanh khái niệm môi trường, hiện nay có rất nhiều quan điểm
khác nhau của các nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu ở trong nước và trên
thế giới. Mỗi quan điểm đều cố gắng diễn đạt để đưa ra những lập luận hợp lý
có sức thuyết phục ở các mức độ khác nhau.

Hiểu theo nghĩa rộng, hiện nay môi trường là tất cả các yếu tố tự nhiên
và xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người, như tài nguyên
thiên nhiên, đất, nước, không khí, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội…
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố tự nhiên như vật lý, hóa học,
sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng chịu sự tác động của con
người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi, sông, biển cả, không khí, động, thực vật, đất,
nước…Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà cửa,
trồng cây, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản cần
thiết cho sản suất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải, cung cấp
cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú.
Hiểu theo nghĩa hẹp, môi trường không bao gồm tài nguyên thiên

6


nhiên, mà chỉ có các nhân tố tự nhiên và xã hội trực tiếp liên quan tới chất
lượng cuộc sống của con người. Ví dụ: môi trường của học sinh gồm nhà
trường với thầy giáo, bạn bè, nội quy của trường, lớp học sân chơi, phòng thí
nghiệm, vườn trường, tổ chức xã hội như Đoàn, Đội….
Theo pháp luật Việt Nam: Môi trường là “hệ thống các yếu tố vật
chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của
con người và sinh vật” (Khoản 1, Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm
2014). Theo quan điểm này thì khái niệm môi trường đề cập nhiều hơn về góc
độ môi trường tự nhiên có ảnh tới đời sống con người.
Như vậy, khái niệm môi trường tuy theo góc độ tiếp cận thì được hiểu
theo nhiều nghĩa khác nhau. Tuy nhiên tựu chung lại các quan điểm trên đều
có các nội dung của môi trường là:
- Nêu rõ bản chất bao quanh của môi trường đối với cơ thể sống.
- Môi trường có ảnh hưởng và tác động tới các cơ thể sống, tới sản xuất
tới tồn tại và phát triển của xã hội.

- Các mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành môi trường và quan hệ
giữa sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Cấu trúc của môi trường và các yếu tố cấu thành môi trường.
1.1.2. Thực trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường trên thế giới và ở Việt Nam
* Trên Thế giới
Môi trường đã và đang là vấn đề được nhiều quốc gia cũng như hầu hết
người sống trên trái đất của chúng ta quan tâm. Tuy nhiên tình trạng ô nhiễm
môi trường vẫn đang hoành hành khắp các nơi trên hành tinh của chúng ta.
Sau công cuộc cách mạng công nghiệp nền kinh tế thế giới như được thay
da đổi thịt với tốc độ tăng trưởng kinh tế thần kì của nhiều nước. Nhưng mọi vấn
đề đều luôn có mặt trái của nó. Con người đã phá hỏng sự cân bằng của trái đất.
Nguyên nhân nào làm cho môi trường sinh thái bị ô nhiễm và bị tán

7


phá. Thực trạng của vấn đề này và một số giải pháp dưới con mắt của triết học
cho vấn đề thực sự đang rất nóng này.
Trên hành tinh Xanh của chúng ta, ở đâu cũng dễ dàng nhận thấy dấu
hiệu của sự ô nhiễm môi trường: từ những biến đổi khí hậu khiến thời tiết trở
nên khắc nghiệt bất thường, những cơn mưa axit phá hủy các công trình kiến
trúc có giá trị, gây tổn thương hệ sinh thái, đến sự suy giảm tầng ozon khiến
tăng cường bức xạ tia cự tím…
Chúng ta phải đối mặt với 3 vấn đề phổ biến đó là sự nóng lên của trái
đất, sự ô nhiễm biển và đại dương cùng với sự hoang mạc hóa.
Nhiệt độ trung bình của Trái đất hiện nay nóng hơn gần 40 độ so với
nhiệt độ trong kỷ băng hà gần nhất, khoảng 13.000 năm trước. Tuy nhiên
trong vòng 100 năm qua, nhiệt độ trung bình bề mặt Trái đất tăng khoảng 0,60,7 độ C và dự báo sẽ tăng 1,4-5,8 độ trong 100 năm tới [44].
Hiện tượng ấm lên toàn cầu có những tác động sâu sắc đến môi trường
và xã hội. Một trong những hệ quả tất yếu của sự gia tăng nhiệt độ của trái đất

là sự gia tăng mực nước biển, gia tăng cường độ các cơn bão và hiện tượng
thời tiết cực đoan, suy giảm tầng ozon, thay đổi ngành công nghiệp, và làm
suy giảm oxy trong Đại dương.
Tốc độ ấm lên toàn cầu ở thế kỷ XXI nhanh hơn so với sự thích ứng
của các loài sinh vật, vì vậy một số loài có khả năng tuyệt chủng.
Biển và Đại dương đang ngày đêm kêu cứu vì ô nhiễm môi trường trầm
trọng. Hàng năm, khoảng 50 triệu tấn chất thải rắn đổ ra biển gồm đất, cát, rác
thải, phế liệu xây dựng, chất phóng xạ…Bên cạnh đó, rò rỉ dầu, sự cố tràn dầu
của các tàu thuyền thường chiếm 50% nguồn ô nhiễm trên biển [44].
Thông qua những con số biết nói sau đay, ta có thể thấy được phần nào
hậu quả của sự ô nhiễm:
- 1.000.000 chim biển, 100.000 thú biển và rựa biển bị chết do bị
vướng hay nghẹt thở bởi các loại rác plastic [44].

8


- 30-50% lượng CO2 thải ra từ quá trình đốt các nhiên liệu hóa thạch
bị đại dương hấp thụ, việc thay đổi nhiệt độ sẽ làm ảnh hưởng đến khả
năng hấp thụ CO2 của các phiêu sinh thực vật và sau đó làm ảnh hưởng
đến hệ sinh thái [44].
- 60% các rạn san hô đang bị đe dọa bởi việc ô nhiễm [44].
- 60% bờ biển Thái Bình Dương và 35% bờ biển Đại Tây Dương đang
bị xói mòn với tốc độ 1m/năm [44].
Nếu con người cũng xem biển cả là một bãi rác khổng lồ có thể chứa
đủ thứ chất thải, môi trường đại dương sẽ còn bị hủy hoại trầm trọng hơn nữa
chứ không chỉ như tình trạng hiện nay.
Mỗi năm, sa mạc Sahara tiến dần về phái Nam với tốc độ 45 Km/năm.
Cao nguyên Madagasca – nơi được xem là kho báu về đa dạng sinh học
nhưng giờ đay 7% đất đai là đất cằn đồi trọc. Tại Kazakhstan, kể từ năm

1980, 50% diện tích đất trồng trọt đã bị bỏ hoang vì quá cằn trong tiến trình
hoang mạc hóa [44].
Đa dạng sinh thái bị suy giảm, đất đai trở nên bạc màu không thể canh
tác là hai ảnh hưởng chủ yếu của quá trình hoang mạc hóa. Tình trạng này
đang đe dọa cuốc sống của gần 1 tỉ người trên Trái Đất. Châu Phi có thể chỉ
nuôi được 25% dân số vào năm 2025 nếu tốc độ hoang mạc hóa ở lục địa đen
tiếp tục như hiện nay [44].
Những dấu hiệu cảnh báo về hiện tượng ô nhiễm môi trường toàn cầu
xuất hiện ngày càng nhiều ở mọi nơi trên toàn thế giới. Chúng ta đều hiểu
rằng, một khi ô nhiễm môi trường xảy ra, chính loài người chúng ta cùng
những sinh vật vô tội khác trên Trái đất sẽ là đối tượng chịu ảnh hưởng đầu
tiên – những ảnh hưởng tiêu cực tác động đến sự sống hôm nay và mai sau.
* Ở Việt Nam
Trong những năm qua, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng

9


trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, nhưng tình
trạng ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước đã và đang ngày
càng trở nên nghiêm trọng ở Việt Nam. Nguồn nước ở một số nơi bị ô nhiễm,
nhất là trong các khu đô thị, xung quanh các KCN, làng nghề. Tại các lưu vực
sông, ô nhiễm và suy thoái chất lượng tập trung ở vùng trung lưu và hạ lưu,
nhiều nơi ô nhiễm nghiêm trọng, như ở lưu vực sông Nhuệ - Đáy, Sông Cầu,
hệ thống sông Đồng Nai. Trong đó phổ biến là ô nhiễm hữu cơ tại các lưu vực
sông như sông Ngũ Huyện Khê (Bắc Ninh), Sông Nhuệ đoạn chạy qua Hà
Nội, Sông Sài Gòn đoạn chạy qua Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh…, Ô
nhiễm chất dinh dưỡng, kim loại nặng trong nước dưới đất tại vùng Đồng
bằng Bắc Bộ như: Khu vực Hà Đông, Hoài Đức (Hà Nội), Ý Yên, Trực Ninh
(Nam Định), thành phố Thái Bình,…

Đối với môi trường không khí, tại các điểm nút giao thông, các công
trình khu vực xây dựng, ô nhiễm không khí có dấu hiệu gia tăng, nhất là trong
các khu đô thị lớn. Tại thành phố Hồ Chí Minh, nồng đọ chất ô nhiễm trong
không khí khu vực ven đường giao thông, trong đó chủ yếu là CO tăng 1,44
lần và bụi PM10 tăng 1,07 lần. Còn tại Hà Nội, nếu không có giải pháp nào
thì nồng độ phát thải bụi mỗi năm có thể đạt 200mg/m3 vào năm 2020, gấp 10
lần mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới [41].
Cùng với ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí thì ô nhiễm đất đai đang
trở nên đáng báo động. Nhất là trong những năm gần đây, do nền kinh tế nước
ta phát triển đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhiều đô thị và thành phố
được hình thành thì tình hình ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng. Nước thải từ
các nhà máy và khu dân cư đô thị làm ô nhiễm nguồn nước, nước bị ô nhiễm
thì đất cũng bị ô nhiễm nặng nề - môi trường đất ngày càng ô nhiễm. Tại các
vùng ven các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh hoặc các vùng
tập trung các hoạt động sản xuất công nghiệp, khai khoáng như Thái Nguyên,

10


Đồng Nai, ô nhiễm đất do chất thải từ các hoạt động công nghiệp, xây dựng,
sinh hoạt thể hiện rõ nhất, hàm lượng kim loại nặng trong đất có xu hướng gia
tăng. Và theo dự báo của các cơ quan nghiên cứu thì mức độ ô nhiễm môi
trường đất vào năm 2020 sẽ tăng lên từ 2-3 lần so với hiện tại và các chỉ số ô
nhiễm sẽ tịnh tiến với tốc độ phát triển công nghiệp và đô thị hóa. Nếu không
có những giải pháp chính sách quản lý thì chất lượng môi trường đất của Việt
Nam sẽ bị suy giảm đến mức báo động và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe
của công đồng.
Tại các khu vực khai thác khoáng sản, hoạt động khai thác khoáng sản
đã và đang gây nhiều tác động xấu đến môi trường xung quanh như thải đất
đá và nước thải mỏ, phát tán bụi thải, quạng xí ngấm xuống nguồn nước hoặc

phát tán ra môi trường; làm thay đổi hệ sinh thái rừng, suy thoái và ô nhiễm
đất nông nghiệp. Ngoài ra, hiện nay nhiều tổ chức, cá nhân chưa thực hiện
hoặc chưa thực hiện tốt nghĩa vụ cải tạo, phục hồi môi trường sau khi đóng
cửa mỏ, giảm hiệu quả sử dụng đất, đặc biệt tại khu vực tập trung nhiều mỏ
khai thác khoáng sản, và hậu quả của ô nhiễm môi trường từ hoạt động khai
thác khoáng sản đã quá rõ ràng.
Về đa dạng sinh học, thế giới thừa nhận Việt Nam là một trong những
nước có tính đa dạng sinh học và nhóm cao nhất thế giới với những kiểu hệ
sinh thái tự nhiên, nguồn gen phong phú và đặc hữu. Tuy nhiên, đa dạng sinh
học nước ta đang bị suy giảm nhanh, tốc độ tuyệt chủng các loài cao. Trong 4
thập kỷ qua, theo ước tính sơ bộ đã có 200 loài chim bị tuyệt chủng và 120
loài thú bị diệt vong. Trong thời gian từ 2011-2015, đã phát hiện và xử lý
3.823 vụ vi phạm pháp luật về quản lý động vật hoang dã với 58.869 các thể
động vật hoang dã và 3.078 cá thể thuộc loài nguy cấp, quý, hiếm được phát
hiện Quá trình phát triển kinh tế - xã hội, quá trình công nghiệp hóa, đô thị
hóa đã tạo ra những thành quả cho đất nước trong công cuộc xóa đói, giảm

11


nghèo, vươn lên thành quốc gia có thu nhập trung bình nhưng cũng đã tạo ra
không ít áp lực đối với môi trường tự nhiên, đa dạng sinh học, không gian
sinh tồn của các loài bị thu hẹp, chất lượng môi trường sống bị thay đổi do tác
động của các hoạt động khai thác, đánh bắt, do phát triển hệ thống cơ sở hạ
tầng như đường giao thông, thủy điện, khu đô thị…
Bên cạnh đó, vấn đề môi trường tại các khu vực đô thị, nông thôn và
các làng nghề cũng đang ở mức báo động. những năm gần đây, dân số ở các
đô thị tăng nhanh tạo ra sức ép về nhà ở, nước sinh hoạt, năng lượng, dịch vụ
y tế và song song với nó là lượng chất thải (nước, rác thải) tăng, giảm diện
tích cây xanh, diện tích mặt nước, tăng mật độ giao thông và lượng khí thải,

bụi chì do đó cũng tăng theo. Kết quả quan trắc môi trường không khí đô thị
do cơ quan bảo vệ môi trường thực hiện cho thấy, hầu hết các đô thị Việt
Nam đều bị ô nhiễm không khí trầm trọng, nhất là ô nhiễm bụi, ô nhiễm khí
SO2, CO, NO… và tiếng ồn.
Vấn đề thu gom, xử lý rác thải, đặc biệt là rác thải rắn công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp ở các đô thị cũng ngày càng khó khăn. Ước tính, mỗi năm
toàn quốc thải ra khoảng 13 triệu tấn rác, trong đó khu vực đô thị là 7 triệu
tấn/năm, chiếm 55,8%, tuy nhiên, chỉ có khoảng 60-70% chất thải rắn được
thu gom và xử lý. Việc thu gom và xử lý chất thải đô thị được thực hiện chủ
yếu bằng phương pháp chôn lấp, mới chỉ có 16/63 tỉnh, thành phố có bãi chôn
lấp được thiết kế xây dựng hợp vệ sinh, nhưng hầu hết đều chưa đồng bộ, nên
vẫn gây ô nhiễm môi trường đất, ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm không khí
khu vực lân cận. Về hệ thống cống thoát nước thải tại các khu đô thị cũng
không đúng tiêu chuẩn, không có bất kỳ một hệ thống xử lý nước thải tập
trung. Nước thải không được xử lý trước khi đổ vào hệ thống thoát nước cung
và đổ vào các dòng sông, nên gây ô nhiễm môi trường rất trầm trọng [41].
Nếu khu vực đô thị đang đối mặt với thách thức về ô nhiễm không khí,

12


ứ đọng rác thải công nghiệp thì ở nông thôn lại đang đối mặt với vấn đề ô
nhiễm môi trường, nhà vệ sinh hoặc ô nhiễm nguồn nước do chất thải từ các
làng nghề, ô nhiễm môi trường đất do sử dụng quá nhiều thuốc bảo vệ thực vật
và phân hóa học. Theo thống kê, mỗi năm ở khu vực nông thôn phát sinh hàng
chục triệu tấn rác thải sinh hoạt, trong đó có khoảng 80% khối lượng rác thải,
nước thải sinh hoạt và vỏ bao thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu – loại rác thải
nguy hại chưa được thu gom, xử lý hợp vệ sinh mà xả trực tiếp ra môi trường…
làm cho nguồn nước, không khí nông thôn bị ô nhiễm trầm trọng. Việc lạm dụng
phân bón hóa học, thuốc kích thích tăng trưởng, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ

sâu không tuân thủ quy trình kỹ thuật, không đảm bảo thời gian cách ly làm phát
sinh và gia tăng các khí CH4, H2S, NH3 gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là tại
các khu vực chuyên canh nông nghiệp sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật
không đúng quy trình kỹ thuật như Đông Anh (Hà Nội), Hiệp Hòa (Bắc Giang),
Yên Định (Thanh Hóa), Tây Nguyên (Đức Trọng, thành phố Đà Lạt). Theo đó,
nhiều bệnh dịch đã lây lan nhanh chóng, gây thiệt hại lớn về kinh tế và đe dọa
nghiêm trọng đến sức khỏe của nhân dân [41].
Bên cạnh đó, tình trạng thoái hóa đất đang diễn ra trên diện rộng ở
nhiều vùng nông thôn Việt Nam, ví dụ như rửa trôi, xói mòn, hoàng hóa, phèn
hóa, mặn hóa, khô hạn, ngập úng, lũ quét và xót lở đất. Ngoài ra, môi trường
ở các làng nghề nông thôn nước ta hiện nay cũng đang đối mặt với nạn ô
nhiễm nghiêm trọng. Với hơn 5.000 làng nghề, hoạt động sản xuất nghề nông
thôn bên cạnh những tác động tích cực là tạo việc làm cho hơn chục triệu lao
động thì mức độ ô nhiễm và tỷ lệ người mắc bệnh ở đây cũng có xu hướng
ngày càng tăng, tuổi thọ của người dân cũng giảm và thấp hơn 10 năm so với
tuổi thọ trung bình toàn quốc. Nhiều làng nghề chưa xử lý được vấn đề rác và
nước thải, gây mất mỹ quan và gây ô nhiễm môi trường sinh thái nông thôn.
Thậm chí, nhiều địa phương xảy ra hiện tượng tận dụng các ao hồ, vũng trũng

13


để đổ rác thải, hình thành các hố chôn lấp rác tự phát, không đảm bảo quy
trình kỹ thuật, làm ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm.
Theo kết quả khảo sát của Viện khoa học và Công nghệ Môi trường
(Đại học Bách khoa Hà Nội) và Bộ Khoa học và Công nghệ cho thấy, 100%
mẫu nước thải ở các làng nghề đều cho thông số ô nhiễm vượt tiêu chuẩn cho
phép. Riêng Hà Nội khảo sát tại 40 xã cho kết quả khoảng 60% số xã bị ô
nhiễm nặng từ các hoạt động sản xuất [41].
Bên cạnh những vấn đề môi trường nêu trên là sự xuất hiện ngày càng

nhiều xung đột về môi trường. Trong thời gian qua, các vụ xung đột môi
trường ở nước ta ngày càng nhiều, tập trung vào một số lĩnh vực, địa bàn, đối
tượng chủ yếu như: xung đột trong tiếp cận, khai thác và sử dụng các nguồn
tài nguyên thiên nhiên như: đất đai, nguồn nước, rừng…đồng thời chất thải
của quá trình sản xuất, tiêu dùng ngày càng có xu hướng gia tăng và có những
tác động tiêu cực đến đời sống người và an ninh trật tự xã hội.
Ngoài ra, quá trình đô thị hóa diễn ra rất nhanh, đồng thời với dòng
người từ nông thôn đổ về các đô thị, trong khi đó việc quy hoạch, phát triển
cơ sở hạ tầng không theo kịp đã làm nảy sinh xung đột, mâu thuẫn trong công
đồng, khu dân cư ngày càng nhiều, có khi gay gắt. Vấn đề giải quyết nạn
thiếu nước sạch vào mùa hè, nạn úng lụt vào mùa mưa, nước thải, chất thải
rắn, độc hại ở đô thị không được xử lý làm ô nhiễm môi trường; việc lấn
chiếm vỉa hè, ao hồ, kênh rạch, nơi cộng cộng, không gian chung để xây
dựng, cơi nới nhà cửa, làm nơi buôn bán, dịch vụ… trở thành những vấn đề
bức xúc ở các thành phố lớn, các khu đô thị.
Những xung đột môi trường diễn ra trong quá trình phát triển các Khu
công nghiệp. Ở nhiều nơi, các nhà máy được xây dựng, hoạt động từ trước khi
đô thị phát triển. Đến nay, khu dân cư, nhà ở của dân được xây dựng xung
quạnh nhà máy, nhiều nhà máy đã cũ nát, công nghệ lạc hậu, từ đó nảy sinh

14


xung đột do chất thải, nước thải, ô nhiễm môi trường không khí, nước, tiếng
ồn, Khu công nghiệp, Khu chế xuất chưa coi trọng đúng mức công tác bảo vệ
môi trường cho nên vẫn ảnh hưởng xấu, gây ô nhiễm môi trường cho các khu
vực xung quanh. Gần đây, một số vụ việc ô nhiễm môi trường liên quan đến
các dự án công nghiệp ở một số tỉnh đã đe dọa xung đột môi trường.
Qua nghiên cứu thực trạng môi trường Thế giới và của Việt Nam, cho
thấy vấn đề môi trường ngày nay ngày trở nên khó giải quyết, và cần sự chung

tay, góp sức của tất cả các Quốc gia trên thế giới. Tuy vậy, do sự khác biệt về địa
lý, phong tục tập quán, ý thức hệ… mà mỗi Quốc gia có cách hiểu cũng như xử
lý khác nhau về vấn đề môi trường. Vì vậy, các Quốc gia đều nhận thấy được sự
cần thiết phải ký kết các Điều ước Quốc tế về bảo vệ môi trường, để có cái nhìn
chung, thống nhất về vấn đề môi trường, trên cơ sở đó các Quốc gia ban hành
các quy định pháp luật trong các lĩnh vực nhằm thực thi Điều ước Quốc tế bảo
vệ môi trường hiệu quả.
1.2. Một số điều ước quốc tế quan trọng về bảo vệ môi trường
1.2.1. Các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường.
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo,
quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống,
sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên. Môi trường toàn
cầu đang có chiều hướng ngày càng xấu đi và có ảnh hưởng nhất định đến sự
tồn vong của con người. Con người đang đứng trước những thách thức về môi
trường toàn cầu. Từ thập kỷ 70-80 của thế kỷ XX đến nay, nhận thức của con
người trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên đã thay đổi sâu sắc. Hậu
quả của các vụ ô nhiễm môi trường trên thế giới đã buộc nhân loại phải nhận
thức lại về môi trường quan hệ giữa môi trường và sự phát triển, giữa môi
trường và con người. Việc đối mặt với tình trạng nghèo đói hơn, thiếu ăn,
bệnh tật, thất học và sự tiếp tục suy giảm của hệ sinh thái và các vấn đề môi

15


trường khác cho thấy cách duy nhất để đảm bảo cho nhận loại được an toàn
hơn, phồn thịnh hơn là phải cân bằng môi trường và phát triển. Sự thay đổi
nhận thức này được phản ánh trong quá trình hình thành và phát triển luật
quốc tế về môi trường. Luật môi trường quốc tế là tổng hợp các nguyên tắc và
quy phạm, điều chỉnh các quan hệ quốc tế giữa các chủ thể luật quốc tế, phát
sinh trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, vì lợi ích của

mỗi quốc gia, khu vực và cộng đồng quốc tế.
Sự hình thành nhanh chóng của khung pháp luật quốc tế về môi trường
thông qua một loạt các điều ước quốc tế đa phương về các lĩnh vực bảo vệ,
phát triển bền vững môi trường đã cho thấy rõ bước phát triển quan trọng của
ngành luật này trong hệ thống luật quốc tế hiện dại. các điều ước quốc tế này
rất quan trong trong việc bảo vệ môi trường quốc tế như bảo vệ môi trường tự
nhiên của chính quốc gia thành viên. Trong xu thế chung, Việt Nam cũng đã
nhận thức được tầm quan trọng này. Việt Nam đã tham gia rất nhiều các điều
ước quốc tế về bảo vệ môi trường, cụ thể như:
- Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế đặc
biệt như là nơi cư trú của các loài chim nước (RAMSAR), 1971.
- Nghị định thư bổ sung công ước về các vùng ngập nước có tầm quan
trọng, đặc biệt như là nơi cư trú của các loài chim nước, Paris, 1982.
- Công ước liên quan đến Bảo vệ các di sản văn hóa và tự nhiên.
- Công ước về buôn bán quốc tế về các giống loài động thực vật có
nguy cơ bị đe dọa 1973.
- Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển MAPOL.
- Công ước của Liên Hợp Quốc về sự biến đổi môi trường.
- Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982.
- Cam kết quốc tế về phổ biến và sử dụng thuốc diệt côn trùng, FAO, 1985.
- Công ước Viên về bảo vệ tầng Ô-Zôn, 1985.

16


- Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng O-Zôn, 1987.
- Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển quan biên giới chất thải độc
hại và việc loại bỏ chúng.
- Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, 1992.
- Công ước về Đa dạng sinh học, 1992.

- Công ước về thông báo sớm sự cố hạt nhân, IAEA, 1985.
- Công ước về trợ giúp trong trường hợp sự cố hạt nhân hoặc cấp cứu
phóng xạ, 1986, IAEA.
Theo nội dung và đối tương điều chỉnh, các điều ước quốc tế trên có thể
phân thành các nhóm về bảo vệ khí quyển và khí hậu, bảo vệ rừng, bảo vệ đa
dạng sinh học, bảo vệ tài nguyên nước, bảo vệ môi trường biển.
1.2.2. Nội dung các điều ước quốc tế về môi trường
1.2.2.1. Các điều quốc tế về bảo vệ môi trường biển
Thống kê của chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) cho
biết, các nguồn ô nhiễm biển đến từ các nguồn: đất liền (50%), rò rỉ tự nhiên
(11%), phóng xạ nguyên tử (13%), hoạt động của tàu thuyền (18%) và tai
nạn tàu bè trên biển (6%). Ước tính mỗi năm có khoảng 2,4 triệu tấn dầu đổ
ra biển. Vì vậy, đến nay, đã có nhiều bộ luật quốc tế và quốc gia đang được
nghiên cứu và thực thi để bảo vệ và giữ gìn môi trường biển – lá phổi xanh
của trái đất.
Các nguồn gây ô nhiễm biển trong hoạt động hàng hải, thủy sản, du
lịch, dầu khí và các hoạt động thương mại khác liên quan đến việc sử dụng tài
nguyên biển hiện nay rất đa dạng và phức tạp: ô nhiễm do hóa chất lỏng, chở
xô trên tàu, ô nhiễm do các loại hàng nguy hiểm (chất nổ, chất phóng xạ, chất
cháy, chất độc,...) vận chuyển bằng tàu; ô nhiễm do rác thải; ô nhiễm do nước
thải; ô nhiễm không khí (chất làm suy giảm tầng Ô-Zôn, ô xít lưu huỳnh, ô xít
các-bon, hơi của hợp chất hữu cơ vận chuyển trên tàu, việc đốt các loại chất

17


thải trên tàu); ô nhiễm do sơn chống hà sử dụng cho thân tàu; ô nhiễm do các
vật liệu độc hại dùng để đóng tàu (amiang, kim loại nặng, hóa chất); ô nhiễm
do sự di chuyển của các loại thủy sinh vật thông qua nước dằn tàu; các bệnh
truyền nhiễm lan truyền qua con đường hàng hải; ô nhiễm do hoạt động phá

dỡ tàu cũ; ô nhiễm do hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trên biển.
Rõ ràng nguồn gây ô nhiễm trên biển từ các hoạt động nói trên là rất
lớn, với sự phát triển rất nhanh của các phương tiện vận tải biển trong những
năm qua (Việt Nam hiện nay có trên 1.600 tàu biển, trọng tải 6,2 triệu tấn,
đứng thứ 31 trên thế giới). Các nguồn gây ô nhiễm này thực sự đã trở thành
nguy cơ vô cùng to lớn đối với môi trường biển, tác động nghiêm trọng đến
hệ sinh thái biển, hủy hoại các nguồn tài nguyên biển, gây nguy hiểm cho sức
khỏe con người và góp phần không nhỏ vào biến đổi khí hậu toàn cầu.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ môi trường biển, tổ
chức Hàng hải quốc tế IMO đã thông một số công ước liên quan đến bảo vệ
môi trường, ngăn ngừa ô nhiễm như: Công ước quốc tế về kiểm soát hệ thống
chống độc hại của tàu năm 2001 (Công ước AFS 2001) và Công ước quốc tế
về kiểm soát, quản lý nước dằn và cặn nước dằn năm 2004 (Công ước BWM
2004), công ước quốc tế về an toàn và tái chế tàu cũ thân thiện môi trường
(Công ước Hồng Kông 2009),...
Việc tham gia và thực hiện các điều ước quốc tế bảo vệ môi trường
biển có ý nghĩa rất quan trọng đối với Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn
thiện khung chính sách, pháp luật nhằm bảo vệ hiệu quả môi trường biển, góp
phần thúc đẩy và xây dựng ý thức pháp luật về Bảo vệ môi trường biển. Mặt
khác, việc tham gia bảo vệ hiệu quả môi trường biển, góp phần thúc đẩy và xây
dưng ý thức pháp luật bảo vệ môi trường biển. Mặt khác việc tham gia và thực
hiện nghiêm túc các điều ước quốc tế này sẽ khẳng định vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế, đây cũng là thế mạnh của Việt Nam để thu hút đầu tư, mở

18


rộng hợp tác quốc tế nhằm phát triển kinh tế, xã hội, cải thiện đời sống dân cư,
thực hiện mục tiêu phát triển bền vững mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra.
* Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển – UNCLOS 1982

Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 (gọi tắt là Công ước
Luật biển 1982 – UNCLOS 1982) được thông qua tại thành phố Môn – tê –
gô – bay của Gia – mai – ca vào ngày 16/11/1994 và hiện nay có 161 thành
viên tham gia, trong đó có các nước ven Biển đông là Việt Nam, Trung Quốc,
Malaixia, Indonexia, Singapore, Brunay. Vấn đề ô nhiễm môi trường biển
hiện đang là một trong những mối quan tâm hàng đầu của toàn thể cộng đồng
thế giới. Chiếm diện tích khoảng 3/4 bề mặt trái đất, biển và đại dương có tầm
quan trọng to lớn đối với sự tồn vong của loài người. Ô nhiễm môi trường
biển không chỉ gắn kết với các hoạt động của con người – có thể trực tiếp làm
ô nhiễm môi trường biển hoặc cũng có thể gián tiếp gây ra các hiện tượng tự
nhiên làm ô nhiễm môi trường biển. Vì lý do trên, khai thác tài nguyên luôn
luôn phải đi đôi với vấn đề bảo vệ môi trường, nếu khai thác mà không chú
trọng đến môi trường thì tài nguyên nhanh cạn kiệt và kéo theo hàng loạt các
vấn đề về môi trường như suy thoái, ô nhiễm…, không đảm bảo phát triển
bền vững. chính vì vậy, những vấn đề quan trọng nêu trên, Công ước Luật
biển 1982 cũng đặc biệt chú trọng đến việc khai thác tài nguyên thiên nhiên,
bảo vệ và giữ gìn môi trường biển.
Công ước Luật biển 1982 không chỉ quy định nghĩa vụ của các nước
trong việc bảo vệ môi trường biển trong phần quy định về các vùng biển như
bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật của biển cả hay bảo vệ môi trường và sự
sống của con người ở vùng, mà còn riêng phần XII quy định việc bảo vệ và gìn
giữ môi trường biển, gồm có 11 mục và 46 điều khoản (từ điều 192 đến 237).
Việc tham gia công ước này tạo cơ sở pháp lý giúp chúng ta bảo vệ và gìn giữ
môi trường biển của Việt Nam nói riêng, đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế
để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển nói chung.

19


Việc Công ước xác lập các vùng kinh tế 200 hải lý với mục đích bảo vệ

những lợi ích kinh tế của các nước ven bờ có ý nghĩa to lớn. Xuất phát từ đó,
Công ước ấn định chia các chủ quyền để thăm dò, khai thác và bảo tồn những
tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và phi sinh vật ở đáy, trong lòng đất và trong
nước và để quản lý những tài nguyên đó cho các quốc gia ven bờ.
Quốc gia ven bờ trong vùng kinh tế có thể thực hiện quyền về:
1. Xây dựng và sử dụng các đảo, các hệ thống và công trình nhân tạo;
2. Nghiên cứu khoa học biển;
3. Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, đồng thời ở vùng kinh tế tất cả
các quốc gia khác được quyền tự do hàng hải, hàng không, đặt dây cáp và
đường ống dẫn dưới nước và các quyền tự do khác phù hợp với những điều
khoản của công ước. Quốc gia ven bờ có quyền trong vùng kinh tế của mình
xác định sản lượng cho phép đánh bắt tài nguyên sinh vật (điều 61). Bằng con
đường hợp tác với các tổ chức khu vực và quốc tế, quốc gia ven bờ đảm bảo
các biện pháp về bảo vệ và quản lý tài nguyên sinh vật, để chúng không bị
hiểm họa khai thác thái quá. Trong điều kiện có đủ dự trữ tài nguyên sinh vật,
quốc gia ven bờ có thể cho phép các quốc gia khác được sử dụng vùng kinh tế
của mình với điều kiện họ tuân thủ những yêu cầu cần thiết (điều 62, 69, 70).
Công ước bao hàm những điều khoản điều chỉnh việc khai thác một số tài
nguyên sinh vật ở vùng kinh tế.
Đối với vấn đề khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Điều 193 Công ước Luật biển 1982 quy định: “các quốc gia có quyền
thuộc chủ quyền khai thác các tài nguyên thiên nhiên của mình theo chính
sách về môi trường và theo đúng nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển
của mình”. Và Điều 140 của Công ước quy định về công bằng trong quản lý
khai thác và phân chia tài nguyên vùng: “các hoạt động trong Vùng được tiến
hành là vì lợi ích của toàn thể loài người, không phụ thuộc vào vị trí địa lý

20



×