Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Đề cương sáng kiến kinh nghiệm hoan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.8 KB, 22 trang )

UBND THỊ XÃ SƠN TÂY
TRƯỜNG MẦM NON SƠN ĐÔNG
----------------

Mét

biÖn
ph¸p
n©n
g
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
cao

Một số biện pháp tạo hứng thú cho
trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi
chÊt
tham gia hoạt động khámlîng
phá khoa học
Năm thực hiện: 2018 – cho
2019
Lĩnh vực:
Giáo dục
trÎmẫu giáo
Tên tác giả:
Số điện thoại:
3-4

tuæi
Trườ
ng
Mầm


non

NĂM HỌC: 2018 – 2019

Đại

Đồn

PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

g
lµm
1/19

que


v¨n
1. Cơ sở lý luận:
Sinh thời Bác Hồ kính yêu đã từng nói : häc
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Việc quan trọng nhất trong sự nghiệp trồng người là phải
chăm sóc, giáo dục các em ngay từ nhỏ để hình thành và phát
triển nhân cách một cách toàn diện. Đó chính là nhiệm vụ của
ngành Giáo dục mầm non bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo
dục quốc dân.
Chính vì thế nhiệm vụ của giáo viên mầm non là phải quan
tâm trang bị cho trẻ những tri thức khoa học và nhân cách toàn

diện để theo kịp thời đại.
Trong công tác giáo dục trẻ mầm non thì việc cho trẻ khám
phá khoa học là không thể thiếu, có tác dụng giáo dục về mọi
mặt đối với trẻ như: Ngôn ngữ, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ, thể
lực. Khám phá khoa học là phương tiện để giao tiếp và làm
quen với môi trường xung quanh, môi trường xã hội để giao lưu
và bày tỏ nguyện vọng của mình và đồng thời là công cụ của tư
duy.
Khi nói đến trẻ mầm non không ai không biết trẻ ở lứa tuổi
này rất thích tìm hiểu, khám phá môi trường xung quanh bởi thế
giới xung quanh thật bao la rộng lớn, có biết bao điều mới lạ
hấp dẫn, và còn có bao lạ lẫm khó hiểu, trẻ tò mò muốn biết,
muốn được khám phá. Khám phá khoa học mang lại nguồn biểu
tượng vô cùng phong phú, đa dạng, sinh động, đầy hấp dẫn với
trẻ thơ, từ môi trường tự nhiên như cỏ cây, hoa lá, chim
muông… đến môi trường xã hội công việc của mỗi người trong
xã hội, mối quan hệ của con người với nhau và trẻ hiểu biết về
chính bản thân mình, vì thế trẻ luôn có niềm khao khát khám
phá, tìm hiểu về chúng. Khám phá khoa học đòi hỏi trẻ phải sử
dụng tích cực các giác quan chính vì vậy sẽ phát triển ở trẻ
năng lực quan sát, khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp, nhờ
vậy khả năng cảm nhận của trẻ sẽ nhanh nhạy, chính xác,
những biểu tượng, kết quả trẻ thu nhận được trở nên cụ thể,
sinh động và hấp dẫn hơn. Qua những thí nghiệm nhỏ trẻ được
tự mình thực hiện trong độ tuổi mầm non sẽ hình thành ở trẻ
những biểu tượng về thiên nhiên chính là cơ sở khoa học sau
này của trẻ.

2/19



Vì vậy hoạt động khám phá khoa học là một trong những nội dung cơ bản
của chương trình mầm non, nó chiếm vị trí quan trọng trong việc tổ chức cho trẻ
tích cực khám phá, hình thành củng cố và phát triển những tri thức cơ bản về
tính chất, nguyên liệu của đối tượng mà mình muốn tìm hiểu nhằm thoả mãn
nhu cầu nhận thức và mở rộng cho trẻ về: cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng
tượng... Các năng lực hoạt động trí tuệ như: quan sát, phân tích, tổng hợp, so
sánh, khái quát hoá, suy luận.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc cho trẻ khám phá
khoa học và làm sao để những giờ học đó trở nên thú vị, không
khô khan với trẻ nên tôi đã chọn đề tài “ Một số biện pháp tạo
hứng thú cho trẻ 4- 5 tuổi tham gia hoạt động khám phá khoa
học” để tôi và trẻ lớp tôi cùng tham gia thí nghiệm, cùng chơi, cùng trải
nghiệm và kết quả đó các cháu thích học, tiết học vô cùng sinh động và đặc biệt
các cháu tự tìm ra, tự khám phá ra kết quả mà các cháu vừa tìm được.
2. Cơ sở thực tiễn:
Từ trước đến nay, trong trường Mầm Non vẫn dạy trẻ tìm hiểu hoặc làm
quen với đối tượng. Trong thực tế, nhiều giáo viên thường chú trọng cho trẻ tìm
hiểu bề ngoài của các đối tượng, đa số trẻ chỉ được hỏi và trả lời, ít khi cho trẻ
sờ, mó, nếm các đồ vật mà trẻ được thí nghiệm. Giáo viên ít đưa ra câu hỏi mở
khích thích sự tìm tòi, khám phá của trẻ, chính vì vậy trẻ có ít trải nghiệm, ít có
điều kiện để giải quyết vấn đề mà trẻ dự đoán.
Đối với trẻ mầm non việc cho trẻ “Khám phá khoa học” là tạo điều kiện
hình thành và phát triển ở trẻ tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, lòng nhân ái, tình
cảm yêu thương với người thân, với cuộc sống xung quanh trẻ, biết yêu quí bảo
vệ thiên nhiên, bảo vệ những truyền thống của quê hương đất nước, trân trọng
và giữ gìn sản phẩm lao động tự làm ra.
Dựa trên đặc điểm tâm lý, nhận thức của trẻ mẫu giáo nói chung, mẫu
giáo 4-5 tuổi nói riêng, các nhà tâm lý học, giáo dục học đã chứng minh rằng
quá trình khám phá khoa học được tổ chức mang tính chất khám phá, trải

nghiệm theo phương thức “Trẻ em chơi mà học,học mà chơi” là phù hợp với trẻ.
Việc sử dụng trực quan, trò chơi, đàm thoại, thí nghiệm đơn giản luôn tạo cho
trẻ sự hứng thú, kích thích tính tích cực hoạt động, phát triển tính tò mò, ham
hiểu biết, thích khám phá, tìm tòi, phát triển óc quan sát, phán đoán...Vì vậy,
việc tổ chức hoạt động cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi “Khám phá khoa học” ở lớp
theo hướng đổi mới đóng một vai trò quan trọng cần thiết đối với trẻ.
II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Mục đích: Nhằm tìm ra một số biện pháp gây hứng thú đối với trẻ mẫu
giáo 4-5 tuổi tham gia vào các hoạt động khám phá khoa học.
2. Nhiệm vụ:

3/19


Chính vì vậy nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này là tìm ra một số giải
pháp tạo hứng thú cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi tham gia hoạt động khám phá
khoa học ở trường mầm non.
III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ GIẢ THUYẾT
KHOA HỌC
1. Đối tượng:
- Đối tượng là trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi.
2. Phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài được nghiên cứu đối với đối tượng trẻ 4-5 tuổi và được áp dụng
tại Trường mầm non và được nhân rộng tại 1 số lớp mẫu giáo 4-5 tuổi trong
trường. Đề tài có thể áp dụng rộng rãi đối với trẻ 4-5 tuổi trong tất cả các trường
mầm non.
3. Giả thuyết khoa học:
Có việc tạo hứng thú cho trẻ 4-5 tuổi tham gia hoạt động khám phá khoa
học ở trường mầm non, đã làm tăng sự hứng thú cho trẻ 4-5 tuổi tham gia vào
các hoạt động khám phá khoa học

IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong đề tài này tôi đã chọn và sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
* Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Đọc, khái quát, hệ thống hóa các tài liệu liên quan đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp quan sát: Quan sát tự nhiên để xác định thực trạng về sự
hứng thú của trẻ trong các hoạt động khám phá khoa học ở trẻ 4-5 tuổi tại lớp
B1.
+Phương pháp điều tra: Khảo sát trên trẻ, thu thập và xử lý thông tin về
nội dung này.
+ Phương pháp đàm thoại: Đàm thoại với học sinh, giáo viên, phụ huynh
để bổ sung các biện pháp phù hợp.
+ Phương pháp thực hành: Lên kế hoạch, đưa nội dung nghiên cứu vào
chương trình giảng dạy thực tế của lớp mình từ đó rút ra kinh nghiệm.
+ Phương pháp tổng hợp, phân tích: Tổng hợp và phân tích kết quả đạt
được.
V. THỜI GIAN THỰC HIỆN
- Đề tài được nghiên cứu từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 4 năm 2019. Vận
dụng vào công tác giảng dạy ở lớp mẫu giáo 4 - 5 tuổi và những năm tiếp theo.

4/19


PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Tâm lý học và giáo dục học đã chứng minh rằng quá trình nhận thức của
trẻ là hình ảnh “thu nhỏ” của quá trình nhận thức loài người. Cho trẻ làm quen
với hoạt động khám phá khoa học có một tầm quan trọng trong quá trình giáo
dục trẻ mầm non. Vì thông qua việc dạy trẻ khám phá khoa học là rèn khả năng
quan sát, so sánh, phân loại, khả năng chú ý tư duy, tưởng tượng. Khám phá

khoa học nhằm củng cố hoá kiến thức, góp phần hình thành những biểu tượng
đúng đắn về các sự vật hiện tượng xung quanh, cung cấp cho trẻ những tri thức
đơn giản có hệ thống về thế giới xung quanh. Mở rộng vốn hiểu biết từ về thế
giới xung quanh và qua đó làm giàu vốn từ cho trẻ. Trẻ nhận biết phân biệt, phát
âm đúng chuẩn, đồng thời phát triển ngôn ngữ, diễn đạt rõ ràng mạch lạc.
Bên cạnh đó việc cho trẻ khám phá khoa học góp phần giúp trẻ phát triển
và hoàn thiện các quá trình tâm lý, nhận thức đặc biệt là cảm giác, tri giác, tư
duy, ngôn ngữ và chú ý. Đồng thời nó góp phần quan trọng trong việc giáo dục
tình cảm, thẫm mỹ, đạo đức cho trẻ, hình thành ở trẻ những cảm xúc tích cực và
tích luỹ những tri thức những kinh nghiệm của cuộc sống, làm cơ sở để trẻ
dễ dàng lĩnh hội nội dung giáo dục của các hoạt động vui chơi, học tập, lao
động…làm tiền đề giúp trẻ học tốt các môn học khác như: Văn học, toán, âm
nhạc, tạo hình.
Nói đến “Khám phá khoa học” nghe có vẻ cao siêu với trẻ mầm non và
nhắc đến các hoạt động khám phá khoa học chắc ai cũng nghĩ nó thật nhàm chán
và khô khan, nhưng thực ra đó là những hoạt động thật sinh động, hấp dẫn đối
với lứa tuổi của trẻ nếu ta biết lựa chọn đối tượng phù hợp với trẻ, biết vận dụng
các biện pháp khác nhau nhằm thu hút sự chú ý của trẻ.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Lớp tôi là một trong 6 lớp mẫu giáo 4- 5 tuổi của trường mầm non Sơn
Đông, chính vì vậy tôi luôn mong muốn mang lại cho các con một môi trường
giáo dục tốt nhất, giúp các con học hứng thú khi học hoạt động khám phá khoa
học.
Để thực hiện mục tiêu đó đầu năm tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng
của lớp mình tôi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn sau:
* Bước đầu khảo sát kết quả cho thấy:
Tổng số học sinh được khảo sát 45/45 cháu; Kết quả khảo sát như sau:

NỘI DUNG


KẾT QUẢ KHẢO SÁT 45 CHÁU

5/19


ST
T

Tốt

%

Chưa tốt

%

Kỹ năng quan
sát,tìm ra đặc điểm
và trả lời được tên
gọi đặc điểm của
các đối tượng khám
phá

13

29 %

32

71%


Khả năng so sánh,
2 phân loại các đối
tượng khám phá

15

33 %

30

67 %

3

Khả năng tích cực
tham gia vào hoạt
động

17%

38 %

28

62 %

4

Phát hiện cái mới lạ

và có thái độ hành
động phù hợp

14

31 %

31

69 %

1

1. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm và ủng hộ, giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường để
tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Lớp học có tương đối đầy đủ các điều kiện hỗ trợ trẻ hoạt động trải
nghiệm và được bố trí các góc hợp lý cho trẻ khám phá như: góc thiên nhiên,
góc khám phá khoa học…..
- Đa số phụ huynh quan tâm đến việc học tập của con và có nhận thức tốt
về việc cho con tham gia các hoạt động khám phá khoa học.
2. Khó khăn:
- Số lượng học sinh trong lớp là quá đông.
- Khả năng suy luận, phân tích, so sánh của trẻ chưa cao.
- Giáo viên còn gặp khó khăn khi tổ chức cho trẻ tham gia hoạt động
khám phá khoa học và chuẩn bị đồ dùng cho trẻ khám phá, trải nghiệm.
3. Nguyên nhân
- Nhận thức của trẻ không đồng đều, một số trẻ còn thụ động trong các
hoạt động.
- Học sinh của lớp thuộc diện học sinh vùng nông thôn, nên vốn hiểu biết

về môi trường tự nhiên và môi trường xã hội của cháu còn nhiều hạn chế.
- Từ kết quả như trên, tôi luôn băn khoăn suy nghĩ tìm hiểu nguyên nhân,
tham gia dự giờ một số hoạt động khám phá khoa học ở các lớp và phát hiện ra

6/19


rằng với hoạt động khám phá khoa học giáo viên chưa biết vận dụng các phương
pháp phù hợp, các hoạt động được tổ chức một cách khô khan, thiếu sự sáng tạo,
chưa linh hoạt khi vận dụng các phương pháp để gây hứng thú cho trẻ ít được
tham gia thực hành, trải nghiệm, khám phá vì vậy trẻ không tập trung chú ý,
chưa mạnh dạn trong hoạt động dẫn đến hiệu quả giảng dạy chưa cao.
- Từ thực tế trên tôi đã bàn bạc với giáo viên cùng lớp thống nhất về
phương pháp và đưa ra các biện pháp tạo hứng thú cho trẻ 4-5 tuổi tham gia hoạt
động khám phá khoa học đạt hiệu quả nhất.
- Sau đây là một số biện pháp tạo hứng thú cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi tham
gia hoạt động khám phá khoa học mà tôi muốn được chia sẻ cùng các đồng
nghiệp để các giờ học khám phá khoa học đạt hiểu quả tối ưu nhất.
III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Biện pháp 1: Cho trẻ tiếp xúc nhiều với thiên nhiên.
Giờ hoạt động ngoài trời là giờ trẻ tích luỹ thêm nhiều kiến thức về tự
nhiên: Mây, mưa , nắng… thì bầu trời thay đổi như thế nào? Thời tiết ra sao?
Hoặc trong hoạt động có mục đích “Tìm hiểu về hoa cúc mặt trời” trẻ sẽ biết
được tại sao hoa lại có tên như vậy, tôi đã tìm những bông hoa già có nhị đã kết
thành hạt màu đen và lấy cho trẻ xem để trẻ biết được cây đó lớn lên từ hạt. Sau
đó cho trẻ tìm xem những cây con lớn lên từ hạt mọc ở đâu? Nếu phát hiện ra
bồn cây có cỏ thì cho trẻ nhổ cỏ bỏ vào thùng rác. Qua hoạt động này không chỉ
cung cấp kiến thức cho trẻ mà còn giáo dục trẻ ý thức chăm sóc, bảo vệ cây.
Đặc biệt tôi tận dụng giờ chơi hoạt động ở các góc, chủ
yếu ở góc phân vai - khám phá khoa học để phát huy tính tò mò

khám phá ở trẻ. Mỗi lần tổ chức tôi lại suy nghĩ, tìm tòi ra những
hoạt động khác nhau với mục đích cung cấp kiến thức khác
nhau làm cho trẻ không chán.
Ví dụ: Hoạt động ở góc bể chơi cát- nước tháng 9 với hoạt
động có mục đích là: Vật thấm nước, vật không thấm nước. Các
góc chơi: Thả thuyền, con vật phun nước, câu cá, mò cua bắt
ốc. Nhưng tháng 10 tôi tổ chức hoạt động có mục đích khác
như: Vật chìm vật nổi, gánh nước tưới cây…
Hoạt động ở bể chơi cát sỏi: Tháng 11 hoạt cho trẻ chơi
các trò chơi sàng cát, đồ hình con vật, chơi cắp cua bỏ giỏ, ô ăn
quan, nhặt sỏi to, sỏi nhỏ xếp hình quả, hoa…Tháng tiếp theo
tôi lại tổ chức cho trẻ chơi: Xây lâu đài cát, nhặt sỏi xếp theo ý
thích.

7/19


Hoạt động chăm sóc cây: Lần đầu tổ chức sẽ cho trẻ tìm
hiểu về cây mình cần chăm sóc, sau đó cho trẻ tưới nước, nhổ
cỏ, bắt sâu, hay lau lá cây… cho cây.

Hình ảnh :Các bạn đang chăm sóc cây
Hoạt động khám phá về ngày tết nguyên đán: Tôi tổ chức cho trẻ
tìm hiểu về ngày tết nguyên đán thông qua các hoạt động như: gói bánh chưng
và trang trí cành đào cành mai. Qua đây trẻ có thể hiểu thêm về truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam.

Hình ảnh : Các bạn lớp B1 đang cùng cô gói bánh chưng và trang trí cành đào.
2. Biện pháp 2: Sử dụng linh hoạt các đồ dùng trực quan sinh động.
Đối với trẻ lứa tuổi mầm non đồ dung trực quan vô cùng quan trọng đối

với trẻ. Để tiết học đạt hiệu quả cao đòi hỏi giáo viên phải biết sử dung linh hoạt
các đồ dùng trực quan để gây sự chú ý của trẻ.
Tuân theo qui luật tự nhiên của chính bản thân đối tượng.Tận mắt nhìn
thấy các đối tượng xung quanh, điều đó có tác dụng làm chính xác những biểu
tượng đã được hình thành trong đầu óc trẻ. Đối với trẻ mẫu giáo, phạm vi hiểu
biết và học hỏi, tìm tòi rộng hơn do đó cô giáo cần tạo điều kiện cho trẻ tiếp cận
với các vật có thật để cho trẻ được hoạt động tìm tòi, khám phá và phát hiện.
Nhờ có trực quan, trẻ nhận biết đối tượng hứng thú hơn, dễ dàng hơn, chính xác
hơn, trực quan cần phải đảm bảo tính thẩm mỹ, đẹp, rõ ràng, không gây nguy
hiểm đối với trẻ... Bằng những dụng cụ trực quan thật hấp dẫn của giáo viên,

8/19


quá trình tri giác của các đối tượng sẽ làm nảy sinh tính ham hiểu biết, khám phá
và phát hiện đối tượng của trẻ. Việc lựa chọn đồ dùng trực quan phải phù hợp và
phải.
Ví dụ: Trong hoạt động khám phá về “Trường Mầm non”, cô cho trẻ hoạt
động trực tiếp nhìn vào đồ dùng đồ chơi ở sân trường cầu trượt, xích đu, hoặc đồ
chơi các góc ở trong lớp, sau đó cô dùng thủ thuật của mình để “biến” đối tượng
đã quan sát này thành một đề tài hấp dẫn, dẫn dắt trẻ từ những cái trẻ không biết
để đi đến cái trẻ sẽ biết như những đồ dùng này đến làm từ đâu? Chất liệu như
thế nào? Vì sao để ngoài trời mà không bị hỏng? Hoặc cho trẻ xem, học những
đồ dùng trẻ đã sử dụng hàng ngày ở nhà cũng như trong lớp,như: khăn lau mặt,
chén ăn cơm, bàn chải đánh răng, ly nước...Từ những vật thân thuộc trẻ sử dụng
hàng ngày, cô sẽ tạo ra một buổi hoạt động học “Khám phá khoa học” trên
những đồ dùng của trẻ, từ đó trẻ sẽ có ý thức hơn khi sử dụng đồ dùng cá nhân
của mình.
Cô có thể kích thích trẻ tự khám phá qua sách, tranh ảnh, qua xem ti
vi...cho trẻ tham quan trực tiếp hình ảnh mà giáo viên muốn truyền đạt để tạo cơ

hội cung cấp, cũng cố kinh nghiệm, làm tăng sự tò mò, hứng thú, hài lòng của
trẻ, tạo những động cơ mới để tạo cơ hội cho trẻ nắm chắc các kiến thức cơ bản,
sơ đẳng về môi trường tự nhiên, môi trường xã hội gần gũi với trẻ.
Vì vậy, việc lựa chọn dụng cụ trực quan quen thuộc rất quan trọng trước
khi tổ chức cho trẻ quan sát, cô giáo cần xác định mục tiêu, yêu cầu của hoạt
động học. Mục tiêu là cái cần phải đạt được của hoạt động, còn yêu cầu là mức
độ cần đạt được của mục tiêu. Tuỳ theo mục tiêu và yêu cầu đã xác định cùng
với tình hình thực tế của mỗi địa phương, cô giáo nên luôn chọn dụng cụ trực
quan sao cho thích hợp. Đối tượng cho trẻ quan sát có thể là vật thật, tranh ảnh,
mô hình và màn hình nhưng phải đảm bảo tính sư phạm. Tuỳ theo đặc điểm tâm
lý của trẻ trong lớp mà mình dạy, cô giáo cần xác định số lượng đối tượng quan
sát như thế nào cho phù hợp.
Ví dụ: Với hoạt động khám phá về thực vật, cô cho trẻ quan sát sự phát
triển của cây xanh là từ hạt - nảy mầm – cây non – cây trưởng thành – ra hoa kết quả - hạt, cho trẻ quan sát sự biến đổi của hoa thành quả, điều kiện sống của
cây như nước, ánh sáng, không khí, nhờ bàn tay chăm sóc của con người, phân
bón...Điều quan trọng khi sử dụng công cụ trực quan: Cô giáo nên đặt ở chỗ nào
để tất cả trẻ đều nhìn rõ và quan sát đối tượng một cách dễ dàng nhất để trẻ dễ
dàng hoạt động với đối tượng.
Ví dụ: Trong hoạt động khám phá về “Một số động vật sống trong rừng”:
cô sẽ phát cho mỗi trẻ một tranh lô tô về con vật. Sau khi cô hát hoặc đặt câu đố
liên quan đến động vật, trẻ có con vật nào cầm trên tay, trẻ sẽ đưa con vật đó ra
và tự giới thiệu tên, thức ăn, vận động, cách sinh sống của chúng. Trẻ dễ dàng
hành động và hoạt động với đối tượng.
9/19


Hình ảnh: Các con vật sống trong rừng.
Cô cũng cần cho trẻ biết sự phát triển của động vật là từ trứng - nở ra con
(Hoặc con mẹ) - con con - con trưởng thành - con mẹ…
Tuy nhiên, lưu ý là giáo viên phải hình dung trước những tình huống bất

lợi có thể xảy ra khi cho trẻ xem những trực quan thật như: Con chim, con mèo,
con gà, con vịt... Để giờ quan sát với giáo cụ trực quan thêm sinh động và gây
hứng thú nhiều hơn nếu có điều kiện, cô cho sử dụng các phim tài liệu hoặc
phóng sự ngắn về thế giới động vật có thể lấy từ trên mạng hoặc các loại băng
đĩa. Khi sử dụng các loại phim tài liệu này thì nội dung phim phải phục vụ một
chủ đề nào đó cho hợp lý đối với trẻ. Những hình ảnh diễn ra trên màn hình vi
tính có sức hấp dẫn, lôi cuốn trẻ mạnh mẽ và nhất định sẽ có sự đóng góp đáng
kể vào hiệu quả giáo dục ở mầm non. Nhưng giáo viên không nên phụ thuộc quá
nhiều vào máy vi tính, mà phải có sự chuẩn bị của mình về cách dẫn dắt bằng lời
nói cho xuyên suốt và logic. Hoặc cô sẽ tạo cho trẻ sự hứng thú trong việc cho
trẻ gieo trồng, theo dõi, chăm sóc sự phát triển của cây.
Cùng trẻ làm đất cho vào chậu cây, cho trẻ gieo hạt, tìm nơi có ánh sáng,
hướng dẫn trẻ tưới nước và cho trẻ theo dõi hàng ngày để trẻ cảm nhận sâu sắc
hơn về sự phát triển của cây, sau đó cô hướng dẫn trẻ đánh dấu theo hình ảnh để
trẻ nói lên được cảm nghĩ của mình.
Ngày nay lĩnh vực công nghệ thông tin phát triển vơí tốc độ nhanh chóng,
tôi cũng cập nhật thông tin từ internet để download hình ảnh, video clip ứng
dụng vào dạy trẻ. Trẻ được chính xác hoá các biểu tượng, hấp dẫn, cuốn hút trẻ
vào giờ hoạt động hơn. Tôi còn thiết kế các bài giảng điện tử trên chương trình
powerpoint như: ở bài dạy “Một số loại quả” tôi đã thiết kế trò chơi củng cố,
hoặc bài “Tìm hiểu về bác nông dân” tôi cho trẻ xem hình ảnh công việc của bác
có lồng nhạc. Ở giờ họat động “Trò chuyện về tết nguyên đán” tôi cho trẻ xem
hình ảnh đi chợ tết, bắn pháo hoa trên máy tính, trẻ rất thích
3. Biện pháp 3 : Cho trẻ làm thí nghiệm.
Được trực tiếp làm thí nghiệm với các vật mà mình đang học quả là một
điều thích thú đối với trẻ. Thật vậy, cứ để cho cháu được hoạt động, được trải

10/19



nghiệm, được thử - sai và cuối cùng cháu tìm ra một kết quả nào đó sẽ là một
điều lý thú đối với trẻ.
Ngày nay khoa học kỹ thuật đã có những bước tiến quan
trọng vì vậy đối với các em thiếu nhi thì việc trang bị cho mình
những kiến thức bao quát và chính xác về các lĩnh vực của tự
nhiên và con người là rất cần thiết. Không phải thí nghiệm nào
cũng là 1 phát minh tuy nhiên không có phát minh nào là không
có thí nghiệm. Những thí nghiệm nhỏ, đơn giản, dễ tiến hành
nhưng lại hiệu qủa vì đem đến cho các em những hiểu biết về
thế giới xung quanh, từng bước các em sẽ có điều kiện để suy
nghĩ, khám phá những bí ẩn của cuộc sống. Dưới đây là một số
thí nghiệm tôi đã tiến hành và kết quả thu được rất tốt, trẻ rất
hứng thú, say mê với các thí nghiệm, trải nghiệm.
Thí nghiệm 1: Dạy về không khí
Đầu tiên cô cho trẻ chơi các trò chơi nhỏ:
Trò chơi 1: “Bịt mũi”.
*Cô cho trẻ bịt mũi lại và hỏi trẻ: Khi bịt mũi lại các con có thở được
không?
- Trẻ trả lời: Dạ, không thở được.
* Vậy làm thế nào để thở được?
- Trẻ trả lời: Dạ, phải thả tay ra mới thở được.
- Cho trẻ đứng vào chỗ cô quy định, hỏi cháu: Đứng ở đây các con có thở
được không?
- Trẻ trả lời: Dạ có
*Chia trẻ ra các nhóm nhỏ và cho trẻ đứng ở các góc khác nhau.
Cô hỏi trẻ: Các con có thở được không?
- Trẻ trả lời: Dạ, thở được
*Cho trẻ đứng tự do trong lớp, hỏi trẻ: Các con có thở được không?
- Trẻ vẫn trả lời: Dạ có
- Lúc này tôi mới đặt vấn đề: Chúng ta thở được là nhờ đâu?

- Khi trẻ đưa ra các ý kiến khác nhau, cô chính xác lại: Chúng ta thở được
là nhờ có không khí.
+ Vậy không khí có ở đâu?
- Cô kết luận: Không khí có ở xung quanh chúng ta.
- Cô tiếp tục đặt tình huống: Thế không khí có bắt được không? Lúc này
có cháu nói được có cháu nói không.

11/19


- Cô hỏi tiếp: Làm thế nào để bắt được không khí? Lúc này các cháu đưa
ra rất nhiều ý kiến khác nhau: Lấy ly, lấy chai, lấy lon, lấy hộp,… để bắt không
khí.
Cô phát cho mỗi cháu một cái túi nilon và yêu cầu: “Hãy lấy và bắt không
khí vào túi” Mỗi cháu đã thực hiện một cách khác nhau: Nắm bắt không khí
xung quanh bỏ vào túi, với không khí cho vào túi…. Nhưng các cháu vẫn chưa
thấy gì trong túi.
Cô tiếp tục gợi ý: “Các con hãy làm cách nào để túi phồng to lên đi ” thì
cháu phát hiện là mình phải thổi hơi vào túi và muốn giữ hơi trong túi thì phải
xoắn hay cột túi lại.
Sau đó cô giải thích: Không khí đang ở trong túi của các con đấy!
Tiếp theo cô cho các cháu chơi với túi không khí:
Ví dụ: Lấy kéo cắt túi để thấy không khí xì ra, lấy cây nhọn đâm nhẹ sẽ
thấy hơi thoát ra.
Hỏi trẻ: Các con thấy gì không?
Cháu trả lời: Thấy mát, thầy xì xì,….
Cô chốt lại: Đó chính là không khí đang thoát ra khỏi túi bóng.
Tiết học sôi động và vui hẳn lên, các cháu biết thêm là: Không khí luôn
luôn ở bên cạnh con người, con người phải có không khí thì mới sống, mới thở
được…


Hình ảnh: Trẻ tìm hiểu về không khí.
Thí nghiệm 2: Vật chìm, vật nổi
* Mục đích.
- Giúp trẻ thỏa mãn nhu cầu tìm tòi và khám phá
- Giúp trẻ phát triển khả năng tìm tòi, sáng tạo nghiên cứu tìm ra cái mới
tích lũy các kiến thức.
- Rèn luyện khả năng phân tích, tổng hợp và đánh giá các sự vật, hiện
tượng.
* Chuẩn bị:
- Các mẫu vật thí nghiệm như xốp bitis, sỏi, miếng nhựa hình con vịt,
miếng sắt, miếng gỗ, bông hoá học, bông y tế, lá cây khô, xốp bọt biển…

12/19


Bảng thí nghiệm:
Vật thí nghiệm
Miếng
Viên sỏi Miếng gỗ
Lá cây
Quả bóng
Kết quả
xốp
khô
Vật chìm
x
Vật nổi
X
* Cách chơi: Cho trẻ chơi theo nhóm hoặc cá nhân, trẻ cho

lần lượt từng đồ vật vào chậu nước và quan sát xem vật nào
nổi, vật nào chìm sau đó ghi lại kết quả vào bảng.
Cô hỏi trẻ: Con vừa cho vật gì vào nước? Nó nổi hay chìm?
Theo con vì sao nó lại chìm (nổi)? Đố con nếu cho quả bóng
nhựa (viên sỏi) vào nước nó sẽ chìm hay nổi? vì sao?

Bé chơi thử nghiệm vật chìm – nổi
Thí nghiệm 3: Trứng chìm – Trứng nổi
Tôi cho cháu làm thí nghiệm: đổ muối vào hai ly nước, lượng nước hai ly
bằng nhau, riêng lượng muối thì khác nhau, khuấy đều sẽ thấy trứng có quả sẽ
nổi, quả chìm…
Trẻ thực hiện: bỏ trứng vào hai ly nước Ly A trứng nổi, ly B trứng chìm
Cho cháu tìm ra nguyên nhân. Thử ly nước A sao thấy mặn quá, thử ly
nước B không mặn bằng hoặc bạn đổ vào ly A bao nhiêu muỗng muối, đổ vào ly
B bao nhiêu muỗng muối….Từ đó cháu suy ra: Vì ly B ít muối nên trứng không
thể nổi lên được. Muốn trứng nổi lên phải làm gì? (Cháu thỏa thuận với nhóm là
phải thêm muối vào ly B…)
Cô hỏi trẻ: Vậy trứng ở trong nước muối có nổi được không? Trứng còn
nổi được ở đâu nữa không?
Mở rộng: nước đường, dầu ăn…., cứ như vậy cô tiếp tiếp tục gợi ý cho trẻ
khám phá.
Mỗi khi cháu khám phá ra điều gì, ta cho cháu ghi kết quả bằng kí hiệu
mà cô và cháu đã thỏa thuận để dễ kiểm tra. Khi thí nghiệm thành công, tôi thấy
trên khuôn mặt các cháu lộ rõ vẻ thích thú, phấn khởi vô cùng và có những
nhóm đã reo hò ầm ĩ. Với tiết học này tôi thấy vui và các cháu thực sự chủ động
13/19


khi làm công việc thí nghiệm. Lại thêm một lần nữa tôi đã tác động vào các cháu
tính tự tin, tự lập, tự suy nghĩ, tự tìm ra kết quả nhanh nhất để hoàn thành công

việc mình đang làm.
4. Biện pháp 4: Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động khám phá khoa
học thông qua các trò chơi.
Trẻ 4-5 tuổi tư duy của chúng chủ yếu là tư duy trực quan
hành động, trẻ tri giác dưới đồ vật, sự vật qua các hình ảnh, vật
thật và nếu tổ chức cho trẻ quan sát các sự vật dưới nhiều hình
thức khác nhau thì trẻ hứng thú học tập và tiếp thu bài tốt hơn,
bằng những kinh nghiệm của bản thân tôi thấy nếu tiết học cứ
đơn thuần cô chỉ cung cấp kiến thức cô đưa tranh ra cho trẻ
quan sát ,đàm thoại và cung cấp kiến thức cho trẻ thì hoat động
đó trẻ sẽ rất nhàm chán, không hứng thú, trẻ không tập trung,
nhưng vẫn hoạt động đó ta thay đổi hình thức dạy dưới dạng
qua các trò chơi, ca dao câu đố, hay hình thức thi đua khen
thưởng trẻ sẽ rất hứng thú. Tùy vào mỗi bài dạy tôi sẽ tổ chức
các hoạt động dưới dạng các hình thức khác nhau. Như với hoạt
động làm quen với các con vật, các loài hoa, cây xanh tôi có thể
chuẩn bị vật thật hoặc tranh ảnh. Tôi có thể tổ chức dưới dạng
trò chơi để trẻ vừa chơi vừa quan sát tri giác các sự vật, hiện
tượng một cách tốt nhất. Như vậy sẽ phát triển tính tò mò, chủ
động, khả năng tích cực hoạt động và lòng ham hiểu biết ở trẻ.
Trẻ mầm non “Chơi mà học, học mà chơi”. Sau thời gian trò
chuyện, đàm thoại với cô trẻ được hoạt động, được tham gia
vào các trò chơi hứng thú. Qua đó, trẻ không chỉ ngồi nghe cô
nói và trả lời các câu hỏi của cô mà trẻ còn có cơ hội để bộc lộ
các hiểu biết của mình thông qua các trò chơi. Ngoài ra trò chơi
còn có tác dụng củng cố, bổ sung và phát triển thêm các tri
thức mà trẻ vừa lĩnh hội, tái tạo lại biểu tượng đã học thông qua
những hoạt động thực tiễn. Do đó trò chơi củng cố trong giờ
hoạt động khám phá là rất quan trọng. Trò chơi càng phong phú
đa dạng bao nhiêu thì các tri thức trẻ lĩnh hội càng sâu sắc và

trẻ càng nhớ lâu bấy nhiêu.
Trong quá trình cho trẻ khám phá khoa học việc sử dụng trò chơi là biện
pháp hỗ trợ hữu hiệu nhất giúp trẻ tham gia vào hoạt động khám phá khoa học
một cách sinh động, thoả mái và đem lại hiệu quả cao. Đây là một trong những
mối quan hệ tốt nhất để cho trẻ tự tìm kiếm, phát hiện, khám phá những điều
mới lạ của các sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ.

14/19


Việc lựa chọn và sử dụng các trò chơi phải phù hợp với mục đích, nội
dung giáo dục đặt ra trong mỗi bài học, trong mỗi hoạt động; hoặc đến giai đoạn
thực hiện chủ đề phải phù hợp với tình hình lớp của mình và phải đảm bảo tính
phát triển. Dựa vào đặc điểm cá nhân của trẻ trong lớp mà lựa chọn trò chơi,
phân nhóm cho cháu sao cho hợp lý. Những trẻ chậm và yếu hơn các bạn trong
lớp thì cô giáo cần phân nhóm chơi và nội dung chơi sao cho phù hợp. Sau khi
trẻ đã biết rồi cô nâng dần độ khó để tạo sự tự tin cho trẻ. Trò chơi được sử dụng
rất nhiều trong quá trình cho trẻ khám phá khoa học để củng cố, bổ sung và mở
rộng những hiểu biết của trẻ về các sự vật và hiện tượng xung quanh.
Ví dụ: Trong hoạt động khám phá về “Trường mầm non”
Cô chỉ cần chọn những đồ chơi trong lớp đã có sẵn và tổ chức cho trẻ chơi
“cái túi kì lạ” từ những đồ chơi gần gũi với trẻ. Qua trò chơi, cô đã giúp trẻ tìm
hiểu thêm về tính chất, công dụng, màu sắc. Nó đặc biệt phát triển được sự phán
đoán, suy luận của trẻ. Để tổ chức tốt trò chơi, cô giáo cần làm tốt công tác
chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi phù hợp với chủ đề, đồ chơi phải an toàn, phù hợp, bố
trí thời gian chơi và không gian chơi hợp lý.
Ví dụ: Trong hoạt động khám phá về “Nghề nông” cô chuẩn bị đề tài sát
với thực tế nơi địa phương mà mình có, như cho trẻ tìm hiểu về cách trồng lúa,
ngô. Cô tổ chức cho trẻ chơi như: Xay lúa, vẽ ngô, thi đua nhóm nào đóng gói
được nhiều gạo, nhiều ngô nhất, sẽ tạo ra sự hưng phấn chơi trong trẻ rất nhiều.

Ngoài ra cô cũng cần tạo ra các tình huống mang tính hướng dẫn để kích
thích trẻ chơi một cách hứng thú, tích cực, tự do, tự nguyện, không gò bó, áp
đặt. Có như vậy trẻ mới chơi hết mình và phát huy được hết tác dụng của trò
chơi.
Ví dụ: Trong hoạt động khám phá về“Thế giới thực vật tìm hiểu về một
số loại hạt” cô tổ chức cho trẻ chơi hạt nào cây nấy, cho nhóm trẻ lên tìm và gắn
cho đúng hạt của cây, hoặc cho trẻ vừa chơi vừa so sánh giữa hạt lúa và hạt gạo,
trẻ tự tìm kiếm
và phát hiện, thông qua hoạt động này cũng giúp bản thân trẻ kiến thức khắc sâu
hơn...
Nhiệm vụ cơ bản của giáo viên trong hoạt động này là khuyến khích trẻ
sáng tạo khi sử dụng đồ chơi, biết chơi thành thạo, sử dụng đồ chơi phù hợp với
trò chơi, đặc biệt cô luôn quan sát, theo dõi trẻ chơi để ghi nhận, động viên trẻ,
giúp đỡ trẻ khi gặp khó khăn, đáp ứng nhu cầu của trẻ. Nhưng khi tổ chức một
trò chơi cô không nên quá đà vì như vậy dễ làm cho trẻ mau nản, vì không hứng
thú với trò chơi nữa...
Ngoài các biện pháp đã nêu trên cô cần tiến hành biện pháp kết hợp, nhằm
15/19


cho trẻ nắm chắc kiến thức để sử dụng đúng dụng cụ trực quan, dùng lời nói phù
hợp khi đàm thoại với cô hoặc bạn, hoặc cô cần kết hợp những bài thơ, câu đố...
thông qua trò chơi giúp trẻ tự khám phá đối tượng...Việc kết hợp giữa các biện
pháp, giải pháp làm cho giờ hoạt động khám phá khoa học của trẻ đạt hiệu quả
cao hơn.
Dưới đây là một số trò chơi tôi đã tổ chức và thu được kết
quả tốt:
+ Trò chơi 1: “ Tìm nhà cho các con vật’’
Sử dụng trong các tiết: Một số con vật nuôi trong gia đình
(gia cầm, gia súc, vật nuôi nói chung)

* Chuẩn bị: Một số con chó, con gà, con bò con lợn, nhà
của các con vật đó.
* Cách chơi: Trẻ ngồi theo theo nhóm, mỗi nhóm có các
con vật như chó, mèo, lợn, gà và nhà của chúng. Nhiệm vụ của
các bạn là phải tìm đúng nhà của các con vật như hình trước
cửa nhà của chúng. Sau khi chơi xong cô nhận xét kết quả.
* Luật chơi: Thi xem nhóm nào chọn được nhiều con vật về
đúng nhà nhất.

Hình ảnh: Trẻ chơi tìm nhà cho các con vật
+ Trò chơi 2: “Ghép hình con gà’’
Sử dụng trong tiết: Tìm hiểu về con gà.
* Chuẩn bị: Các chi tiết con vật như đầu, mình, đuôi, cánh,
nơi ở, thức ăn…2 bảng xốp nỉ, bàn để chi tiết.
* Cách chơi: Chia làm hai đội,số lượng trẻ ở mỗi đội bằng
nhau. Khi có hiệu lệnh chơi lần lượt từng trẻ ở mỗi đội chạy lên
tìm một chi tiết con vật của đội mình gắn lên bảng . Kết thúc trò
chơi đội nào ghép được nhiều chi tiết nhất là đội thắng cuộc.
* Luật chơi: . Chơi theo luật tiếp sức, đội nào ghép được
nhiều chi tiết nhất là đội thắng cuộc.

16/19


Hình ảnh : trẻ chơi trò chơi Ghép hình con gà
+ Trò chơi 3: “Trồng rau đúng luống”
Sử dụng trong giờ: Một số loại rau
* Chuẩn bị: Một số loại rau ăn lá, rau ăn củ, rau ăn quả.., 2
luống cây.
* Cách chơi: Chia trẻ làm 2 đội, nhiệm vụ của mỗi đội phải

chọn loại rau cô yêu cầu trồng đúng vào luống rau mà cô đã
quy định. Thời gian chơi là 1 bản nhạc. Đội nào trồng được
nhiều rau đúng yêu cầu hơn đội đó chiến thắng.
* Luật chơi: Chơi theo luật tiếp sức. Loaị rau trồng sai
luống sẽ không được tính.
5. Biện pháp 5: Kết hợp giữa cô giáo và phụ huynh để đạt hiệu quả
dạy trẻ cao nhất.
Để nâng cao chất lượng hoạt động khám phá khoa học của trẻ trong
trường mầm non, ngay từ đầu năm học tôi đã chủ động ghi lại các số điện thoại
của phụ huynh, gặp gỡ trao đổi với phụ huynh qua các giờ đón trả trẻ và qua
buổi họp phụ huynh để phụ huynh hiểu thêm về các hoạt động của trẻ trong
trường mầm non, tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho các con có cơ hội được
tìm tòi, trải nghiệm, khám phá khoa học ở mọi lúc, mọi nơi.
Ở lớp tôi luôn cố gắng làm tốt công tác tuyên truyền tới các bậc phụ
huynh như thông qua góc tuyên truyền của lớp, trang trí những hình ảnh của chủ
đề đang học một cách sinh động. Thường xuyên trao đổi về tình hình sức khoẻ
của trẻ, tình hình học tập của trẻ. Đặc biệt qua các buổi đón trả trẻ tôi đã trao đổi
với các bậc phụ huynh về tình hình học tập của trẻ ở lớp, về các chủ đề chủ điểm
trẻ đang học giúp phụ huynh nắm rõ từ đó có thể tạo điều kiện cho trẻ được trải
nghiệm ở nhà, củng cố thêm kiến thức .
Ví dụ: Trong hoạt động khám phá về “Tết và mùa xuân” Hôm nay tôi cho
trẻ làm thí nghiệm “ Sự nảy mầm của hạt”. Trẻ được tham gia trải nghiệm và
thực hiện công việc xong do thực nghiệm cần thời gian trẻ mới thu được kết quả
và có thể một số trẻ nghỉ, thông qua trao đổi với phụ huynh, phụ huynh nắm
được, từ đó tạo điều kiện cho trẻ được thực hiện việc gieo hạt, quan sát sự khác
17/19


biệt của cây có ánh sáng và cây đặt trong bóng tối ở nhà. Khi được cô thường
xuyên hỏi thăm về sản phẩm thì trẻ tỏ ra rất hứng thú, khi chính trẻ thực hiện và

khám phá. Nhận được kết quả giúp trẻ nhớ hơn, hiểu và kích thích trí ham học
hỏi.
Hình ảnh: Phụ huynh và học sinh mang kết quả thí nghiệm ở nhà đến lớp
Trang thiết bị đồ dùng đồ chơi ở lớp còn thiếu thốn rất nhiều nên tôi
thường vận động các bậc phụ huynh cùng tham gia sưu tầm các loại đồ dùng đã
qua sử dụng ở gia đình như: Sưu tầm các loại tranh ảnh về các con vật hoa quả,
một số danh lam thắng cảnh để ủng hộ, có bậc phụ huynh đã ủng hộ các cây
cảnh, cây hoa và một số loại cây ăn quả để trồng ở vườn trường và góc thiên
nhiên

-Hình ảnh 1: p/h và học sinh mang sản phẩm thí nghiệm ở nhà đến.
-Hình ảnh 2: Phụ huynh tặng cây hoa cho lớp.
Hàng ngày, trước khi dạy một bài tìm hiểu nào tôi thường xuyên trao đổi
với các bậc phụ huynh về bài học ngày hôm nay về nhà các bậc phụ huynh cùng
trò chuyện với trẻ về bài học hoặc có thể cung cấp cho trẻ một số kiến thức để
cho trẻ học tập tốt hơn.

IV. KẾT QUẢ SAU KHI THỰC HIỆN CÁC BIỆN PHÁP TRÊN.
Qua một thời gian triển khai áp dụng đề tài (từ tháng
9/2018 đến 1/2019) tại lớp 4 tuổi B1, tôi đã tiến hành khảo sát
trên 45 học sinh 4 tuổi và so sánh với kết quả đầu năm như sau:
STT

NỘI DUNG

Kết quả tổng hợp 45 cháu
Đầu năm
Tốt

%


Chưa
tốt

18/19

Cuối học kì I
%

Tốt

%

Chưa
tốt

%


1

2

3

4

Kỹ năng quan sát,tìm
ra đặc điểm và trả lời
được tên gọi đặc

13
điểm của các đối
tượng khám phá
Khả năng so sánh,
phân loại các đối
15
tượng khám phá
Khả năng tích cực
tham gia vào hoạt
động
Phát hiện cái mới lạ
và có thái độ hành
động phù hợp

29
%

32

71
%

33
%

30

67
%


17
%

38
%

28

62
%

14

31
%

31

69
%

28

26

29

27

62

%

17

38
%

58
%

19

42%

64
%

16

36%

60
%

18

40%

Như vậy so với trước khi thực hiện giải pháp, về phía trẻ có những thay
đổi hết sức tích cực dựa vào việc so sánh kết quả trước và sau khi thực hiện giải

pháp một thời gian.
Ngoài ra trẻ còn rất tự tin khi giao tiếp với cô với các bạn trong lớp cũng
như trong trường, tích cực đưa ra các ý kiến trao đổi khi tham gia cá hoạt động
khám phá khoa học.

PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN.
1. Kết luận.
Nhờ áp dụng các biện pháp gây hứng thú cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi tham
gia hoạt động khám phá khoa học mà việc tổ chức các hoạt động khám phá khoa
học ở lớp B1 trở nên sinh động hơn, trẻ tích cực hơn trong hoạt động, mạnh dạn
đưa ra các ý kiến của bản thân. Vì vậy các hoạt động khám phá khoa học ở lớp
tôi luôn đạt hiệu quả cao không những vậy các biện pháp này còn có thể áp dụng
đại trà cho các lớp mẫu giáo 4-5 tuổi khác.
2. Bài học kinh nghiệm rút ra khi áp dụng đề tài, sáng kiến, giải pháp
hữu ích vào thực tế.

19/19


Với những biện pháp sử dụng trong quá trình giảng dạy tôi đã rút ra một
bài học kinh nghiệm như sau:
- Cần phải đọc kỹ, nắm vững phương pháp và nội dung của bài dạy để
đưa ra yêu cầu cho phù hợp với hoạt động học của lớp mình. Linh hoạt, nhẹ
nhàng, đặt câu hỏi có sự gợi mở của cô để trẻ dễ trả lời, không nên đặt câu với
quá nhiều từ lặp đi, lặp lại, không nên dùng câu hỏi “Có”, “Không” để “ ép” trẻ
phải trả lời miễn cưỡng.
- Chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi đầy đủ, đẹp, có tính khoa học, phù hợp với đề
tài. Sử dụng hết công dụng của đồ dùng, đồ chơi, giáo cụ trực quan.
- Giáo viên phải thật sự nhiệt tình với nhiệm vụ giáo dục của mình, tận

dụng thời gian để nghiên cứu tài liệu, tham khảo sách viết về cách tổ chức các
hoạt động giáo dục trong trường mầm non và tham khảo thêm các loại sách khác
viết về đề tài khám phá khoa học...
- Luôn lấy trẻ làm trung tâm cô đóng vai trò gợi mở truyền đạt...
- Phối hợp vận động phụ huynh ủng hộ thêm các nguyên vật liệu dễ tìm.
- Phối hợp với cha mẹ để giao nhiệm vụ cụ thể để giúp trẻ hoàn thành bài
học.
- Giáo viên cần có sự hiểu biết về các lĩnh vực khám phá .
- Có sự đổi mới trong phương pháp dạy trẻ.
- Luôn tìm tòi, đầu tư thời gian nghiên cứu, sưu tầm thêm các trò chơi áp
dụng trong và ngoài tiết học, những bài thơ, đồng dao hay, các thí nghiệm đơn
giản nhưng thú vị.
- Làm tốt công tác tuyên truyền với các bậc phụ huynh .

II . Khuyến nghị.
Nhà trường tạo mọi điều kiện hỗ trợ thêm để giáo viên xây dựng góc làm thí
nghiệm, góc thiên nhiên vui chơi và học tập cho các cháu khám phá khoa học,
tạo điều kiện cho giáo viên tổ chức các buổi tham quan cho trẻ. Mua sắm một số
dụng cụ thí nghiệm đơn giản phù hợp với đối tượng trẻ.
Trên đây là một số biện pháp giúp trẻ 4-5 tuổi tích cực tham gia hoạt động
khám phá khoa học xin chia sẻ cùng các đồng nghiệp mong được sự chia sẻ của
các đồng nghiệp.

Sáng kiến này là do tôi viết

20/19


không sao chép của ai nếu sai
tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Sơn đông, Ngày….tháng …năm 2019

XÁC NHẬN CỦA HĐKH TRƯỜNG
T/M/ HỘI ĐỒNG
CHỦ TỊCH

Tác giả

Phùng Thị Hoan

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Giáo trình : Lý luận và phương pháp hướng dẫn trẻ làm quen với môi
trường xung quanh của tiễn sỹ Hoàng Thị Phượng –Nxb ĐHSP- 2008

21/19


Giáo trình: Tâm lý học trẻ em lứa tuổi Mầm Non – Nguyễn Ánh Tuyết –
Nxb ĐHSP- 2008
-

Giáo trình: Giáo dục học mầm non – Đào Thanh Âm – Nxb ĐHSP- 2007

-

Chương trình giáo dục mầm non 4-5 tuổi

22/19




×