Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

ĐỘC TIỂU THANH KÍ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.94 KB, 8 trang )

ĐỘC TIỂU THANH KÝ- NGUYỄN DU VIẾNG AI? -
LÊ QUẾ
“Độc Tiểu Thanh ký” là bài thơ chữ Hán được thi hào Nguyễn Du sáng tác nhân đọc câu
chuyện về nàng Tiểu Thanh. Bài thơ này hiện còn tồn tại một số nghi vấn về thời gian và
địa điểm sáng tác, về niêm luật, về khoảng thời gian “tam bách dư niên” và đặc biệt là
khâu dịch thuật.

Cho đến nay qua các bản dịch kể cả bản dịch của nhóm Vũ Tam Tập đang được dạy ở
lớp 10 người đọc thấy bài thơ không được liền mạch, ý tứ cũng chưa thể hiện được rõ
ràng. Có giả thuyết cho là do các câu thơ được sưu tầm từ nhiều bài khác nhau ghép lại. Có
giả thuyết cho là do dịch thuật chưa chuẩn xác. Vậy nguyên nhân từ đâu? Trong bài này
chúng ta sẽ tìm hiểu xem thực chất bài thơ nói về điều gì?

Nhưng trước tiên chúng ta cần tìm hiểu sơ lược về cuộc đời nàng Tiểu Thanh. Tiểu
Thanh là một người có thật, một phụ nữ tài sắc đã từng sống vào cuối triều Minh ở Trung
Quốc. Sau đây là những nét chính trong cuộc đời nàng.

Nàng Tiểu Thanh tức Phùng Văn Cơ (1594 - 1612) mồ côi từ nhỏ, được một bà sư nuôi
và cho đi học, là người có nhan sắc và thông tuệ. Năm 16 tuổi, nàng lấy lẽ một công tử
cũng họ Phùng, con nhà quyền quý nhưng ngốc nghếch. Người vợ cả độc ác, hay ghen
ghét, bắt nàng ở riêng. Nàng cô đơn chỉ biết gửi lòng vào thơ, từ rồi sinh bệnh mà chết.
Trước khi chết, nàng thuê họa sĩ đến vẽ hình. Nàng bắt họa sĩ vẽ đi vẽ lại cho đến khi được
một bức họa lộng lẫy, có thần thái rất sinh động. Khi nàng chết (18 tuổi) người chồng tìm
được quyển thơ của nàng sáng tác và mấy bức chân dung đó. Người vợ cả biết chuyện đòi
đưa ra. Người chồng giấu giữ lại bức vẽ có thần thái rồi trao mấy bức vẽ nháp cùng quyển
thơ cho vợ. Bà vợ cả đốt hết. Về sau, do tình cờ, một người họ hàng nhà chồng tìm thấy
mấy tờ giấy nàng gói quà cho con gái người giúp việc, đó là bản nháp thơ của nàng, bèn
đưa khắc in và đặt tên tập thơ là “Phần dư”.

Câu chuyện về cuộc đời nàng Tiểu Thanh là tư liệu giúp chúng ta tìm hiểu bài thơ được
thuận lợi hơn.



Sau đây chúng ta sẽ bàn về cách hiểu và dịch từng chữ, từng câu sao cho đúng với tinh
thần của nguyên tác, đồng thời chỉ ra những bất ổn trong các bản dịch trước đây tiêu biểu
là bản dịch của nhóm Vũ Tam Tập hầu làm rõ vấn đề.

Tên bài thơ: Độc Tiểu Thanh ký.

Độc: ở đây có nghĩa là đọc. Tức Nguyễn Du đọc cuốn sách có tên là “Tiểu Thanh ký”.
Tuy nhiên để cho cụ thể, ta cần phân biệt hai cách hiểu tên bài thơ.

Nếu trong nội dung, Nguyễn Du tóm tắt và giới thiệu những gì ông đọc được từ cuốn
“Tiểu Thanh ký” thì gọi là “Đọc Tiểu Thanh ký”. Nhưng nếu Nguyễn Du lại nói về những
ý nghĩ, cảm tưởng khi ông đọc cuốn sách đó thì có nghĩa là “Nhân đọc Tiểu Thanh ký”.

Xét trong nội dung bài thơ ta thấy tác giả không miêu tả hay tóm tắt gì về cuộc đời nàng
Tiểu Thanh mà chỉ nói về những ý nghĩ, tâm sự của ông nhân khi đọc cuốn sách đó. Như
vậy đây thuộc khả năng thứ hai. Tên bài thơ dịch thoát ý phải là: “Nhân đọc Tiểu Thanh
ký”.

Câu 1: Tây Hồ hoa uyển tận thành khư.

Tận: là hết, là đến cùng. Chữ “tận” trong thế văn này đi với chữ “khư” là để chỉ sự biến
đổi diễn ra từ từ theo thời gian. Một số bản chép là “tẫn” tức sự tàn phá, phá phách thì e
không đúng.
Khư: là hoang phế, tàn tạ. Tận thành khư: là tất cả đã trở nên hoang phế. (Nếu là tẫn
thành khư tức bị phá phách tan hoang thì không đúng.)
Ý câu này là: Vườn hoa bên hồ Tây đã trở nên hoang phế.

Câu 2: Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.


Độc: là đơn độc, một mình (khác với nghĩa là đọc ở nhan đề bài thơ).
Điếu: là viếng. Ta đã khá quen trong các từ: điếu văn, ai điếu, phúng điếu.
Song tiền: là trước cửa sổ.
Nhất chỉ thư: là một tờ giấy, hoặc một quyển vở chép thơ.

Câu này có nghĩa là: “Một mình trước cửa sổ, viếng một tờ giấy chép thơ”. Nếu mới xem
qua thì thấy việc tác giả “viếng một tờ giấy chép thơ” có vẻ không bình thường. Nhưng
chính cái không bình thường này ẩn chứa tâm sự của tác giả. Đọc tiếp những câu sau ta sẽ
biết hóa ra Nguyễn Du quan niệm nàng Tiểu Thanh có 2 phần đời: Nhan sắc và văn
chương. Phần nhan sắc (tượng trưng bằng bức vẽ có thần thái) vốn đã được người chồng
yêu mến cho đến cả sau khi chết. Còn phần văn chương (tượng trưng bằng quyển vở chép
thơ) là bị rẻ rúng, bị đốt bỏ nên ông mới viếng. Như vậy ở câu đây tác giả chỉ “viếng thơ”
chứ không “viếng nàng”. Đây là điều độc đáo tạo nên sự đặc biệt cho bài thơ. Nó cho thấy
sự nhạy cảm đến mức tinh tế của bậc văn hào.

Tuy nhiên trong các bản dịch trước đây, người dịch lại tư duy bài thơ theo hướng
Nguyễn Du viếng nàng Tiểu Thanh. Với quan niệm đó, người dịch đã thêm chữ, đổi ý để
gò cho bản dịch phát triển theo mạch “viếng nàng”. Kết quả là bản dịch trở thành một bài
thơ khác với nguyên tác.
Chẳng hạn câu này nhóm Vũ Tam Tập dịch là: “Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc
trước cửa sổ = Viếng ai song vắng một vần thơ”. So với nguyên tác thì người dịch đã thêm
vào 2 ý: “Viếng nàng” và “đọc”. Vậy là đã thay đổi đối tượng được viếng cùng cách thức
viếng nên làm đổi ý câu thơ.

Câu 3: Chi phấn hữu thần liên tử hậu.

Chi phấn: là son phấn, phấn hương tượng trưng cho nhan sắc của người phụ nữ. Chi
phấn hữu thần: là nhan sắc có thần thái.
Liên: là thương, tiếc. Liên tử hậu: là thương tiếc cả sau khi chết. Đó là việc son phấn hay
nhan sắc (tượng trưng bằng bức vẽ có thần thái) sau khi nàng chết vẫn được người chồng

thương tiếc giữ lại. Như vậy son phấn hay nhan sắc trong câu này là đối tượng được
"thương".

Ý cả câu: “Nhan sắc có thần thái nên được thương tiếc cả sau khi chết”.
Câu này nhóm Vũ Tam Tập dịch là: “Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc
sau khi chết = Son phấn có thần chôn vẫn hận”. Dịch như thế là bất ổn. Bởi đây là một
câu thực, nó phải nói lên một sự thực chứ không thể là một suy luận, nhưng cách dịch với
2 chữ “chắc phải” đã biến câu thực thành câu luận. Son phấn từ chỗ được thương tiếc, qua
dịch thuật đã trở thành chủ thể xót xa, ân hận. Bản dịch đã đảo ngược ý câu thơ.

Câu 4: Văn chương vô mệnh lụy phần dư.

Vô mệnh: đây chỉ là cách nói để tỏ thái độ bất như ý. Ta có thể hiểu là văn chương bạc
mệnh, hẩm mệnh chứ không phải là không có mệnh. Một tác phẩm văn chương đích thực
thì cái mệnh của nó lớn lắm.

Lụy: thường được dùng trong hai trường hợp. Thứ nhất: Lụy là làm liên lụy đến ai đó,
tức làm ảnh hưởng không tốt đến người khác. Chẳng hạn, đứa con hư làm liên lụy đến cha.
Tuy nhiên đây không phải nghĩa này. Thứ hai: Lụy là tùy lụy, cầu cạnh hay nhờ vả một ai
đó giúp mình lúc khó khăn như câu ca dao: “Qua sông nên phải lụy đò. Tối trời nên phải
lụy o bán dầu”. Chữ “lụy” ở đây là theo nghĩa này, tức văn chương phải nhờ cậy đến phần
dư mới được in ra.

Phần dư: là phần thừa ra, phần còn sót lại hay phần đã bỏ đi. Với văn chương thì phần
dư được hiểu là bản nháp. Ở đây “phần dư” là tờ giấy nháp thơ nàng Tiểu Thanh dùng để
gói quà cho đứa con người giúp việc.

Câu 4 này nói: “Văn chương mệnh hẩm nên phải nhờ vào phần đã bỏ đi”. Kết hợp với
câu 3, ta thấy đây là một cặp câu nói lên 2 sự thật trái ngược nhau tạo nên một nghịch lý:
vẻ đẹp son phấn thì được thương tiếc, giữ gìn còn văn chương lại bị đốt bỏ, phải nhờ đến

bản nháp để in ra. Câu thơ toát lên sự bất như ý của tác giả trước nghịch cảnh mà cuộc đời
đối xử với văn chương.

Câu này nhóm Vũ Tam Tập dịch là: “Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở
= Văn chương không mệnh đốt còn vương”. Dịch như thế là bất ổn bởi: Nếu văn chương
không có mệnh thì dù đốt hay không cũng chẳng có gì quan trọng. Rồi việc người dịch
quan niệm “phần dư” là phần đốt dở, cháy không hết cũng không đúng. Thực ra bản chính
chép thơ đã bị đốt hết chứ không đốt dở. Hơn nữa bản dịch đã làm mất đi chữ “lụy” rất độc
đáo nên không chuyển tải được ý chính của tác giả trong câu (là: văn chương phải nhờ bản
nháp để được in ra). Kết quả là câu này bản dịch nói vu vơ chẳng đâu vào đâu.

Câu 5: Cổ kim hận sự thiên nan vấn = Xưa nay sự hận khó hỏi trời. Câu này khá đơn
giản.

Câu 6: Phong vận kỳ oan ngã tự cư.

Phong vận: là vận gió tức cái vận nhất thời như được gió mang đến một lúc chứ không
lâu dài. “Phong vận” là một từ đã quen thuộc đến mức không cần dịch. Trong đời sống nếu
ai đó phất lên một thời rồi sau đó trở lại bình thường thì gọi là: “Nhất thời phong vận”.

Kỳ: là kỳ lạ, khó hiểu mà cũng có nghĩa là lớn lắm, nghiêm trọng lắm, đặc biệt lắm.
Phong vận kỳ oan: là nỗi oan kỳ lạ nhất thời, cũng có thể hiểu là nỗi oan thời thế.

Ngã: là ta. “Ngã” với nghĩa này mặc dù đã được dùng ở “bản ngã” để chỉ bản tính, bản
chất của một người nào đó nhưng nói chung cũng còn khá lạ. Như vậy trong bài thơ chữ
Hán này chỉ có 3 chữ còn lạ gồm: “khư” là hoang phế ở câu 1, “liên” là thương ở câu 3 và
“ngã” là ta ở câu 6 này. Còn các chữ khác đều đã quen thuộc ở những mức độ khác nhau.

Cư: là ở, cư trú, sinh sống và cũng có nghĩa là mang, chịu. Ngã tự cư: là ta tự sống hay
tự chịu đựng. Đây là một cấu trúc đơn giản với nghĩa rõ ràng.


Như vậy câu 6 này nói: “Ta phải tự sống trong nỗi oan phong vận lạ kỳ”. Hoặc: “Ta
phải tự mang nỗi oan phong vận lạ kỳ”.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×